Tộc người Jrai có dân số đông nhất so với các dân tộc bản địa khác ở Tây Nguyên (ước có hơn 400.000 người) tập trung đông nhất ở tỉnh Gia Lai khoảng 80% dân số so với các dân tộc thiểu số bản địa khác. Họ tập trung chủ yếu dọc theo con sông Ba, nơi con sông bắt nguồn từ dãy núi Trường sơn, thuộc huyện Kbang, An Khê, khu vực người Bahnar, chảy qua Ayun Pa, Krông Pa thuộc khu vực người Jrai. Đây là khu vực có nhiều đồi núi hiểm trở và có nhiều thác ghềnh nước chảy xiết vào mùa mưa và hiền hoà vào mùa khô, người Jrai sống chủ yếu và tập trung ở hai bờ sông này, con sông còn có tên theo tiếng địa phương là Krông Pa, Ia Pa… có lẽ vì sống ở vùng có nhiều ghềnh thác như vậy mà người Jrai được đặt cái tên là Jrai vì trong tiếng Jrai “Jrai” có nghĩa là ghềnh thác.
Nhìn chung, người Jrai sống tập trung chủ yếu ở lưu vực con sông Ba (pa) thuộc tỉnh Gia Lai và có số dân đông nhất so với các dân tộc thiểu số anh em khác ở Tây Nguyên, họ có khá nhiều nét văn hoá độc đáo cũng như tập quán, tập tục trong đó có tục cấm lấy cùng họ, một tập tục lâu đời của tộc người Jrai.
Người Jrai có quan niệm vạn vật hữu linh (đa thần), tuy nhiên mấy năm gần đây những quan niệm như vậy cũng đã ít dần, một số buôn làng thậm chí cũng không còn quan niệm này nữa (có khá nhiều nguyên nhân mà trong bài viết này không đề cập tới).
Ảnh sưu tầm
Cũng như các dân tộc anh em khác ở Tây Nguyên người Jrai theo chế độ Mẫu hệ (con gái cưới chồng, trai ở rể) với tập quán này đã đặt ra cho người Tây Nguyên nói chung và người Jrai nói riêng có nhiều nét văn hoá khá độc đáo, đi kèm với nó là những tục lệ (luật tục) nhằm bảo đảm và duy trì sự tồn tại và phát triển của một xã hội Mẫu hệ.
Cũng như các dân tộc khác việc “dựng vợ gả chồng” hay “dựng chồng gả vợ” là một lệ đương nhiên để duy trì nòi giống, tuy nhiên ở người Tây Nguyên nói chung và tộc người Jrai nói riêng việc kết hôn còn mang nhiều ý nghĩa, yếu tố xã hội như không lấy người cùng họ, yếu tố kinh tế (tài sản) “môn đăng hộ đối” và hơn hết là yếu tố “liên minh” dòng họ…
Đi sâu vào nghiên cứu xã hội tộc người Jrai chúng ta có thể nhận thấy cộng đồng xã hội tộc người Jrai sống quy tụ thành làng, đó là đơn vị nhỏ nhất về mặt đơn vị hành chính và lớn nhất gồm nhiều làng hợp lại (Tring), qua đó có thể thấy xã hội người Jrai ít nhiều cũng đã có sự hình thành các tầng lớp người được phân chia như sau: Lớp trên là người có địa vị xã hội bao gồm các già làng, thầy cúng, thầy xử phạt (pô phạt K’đi Pô lan, ia..) và không thể không nhắc đến tầng lớp nhà giàu (Pô T’roong), tầng lớp thứ hai là tầng lớp “trung lưu”, đủ ăn và cuối cùng là tầng lớp nhà nghèo…đối với người giàu thường có địa vị trong làng, nhưng nếu họ không có địa vị đó thì tiếng nói của họ cũng rất có giá trị trong cộng đồng “miệng nhà giàu có gang có thép” vì vậy việc gả vợ dựng chồng những tầng lớp thấp, nghèo luôn có xu hướng được lấy người nhà giàu, mà những gia đình giàu có thường là chỗ dựa về tinh thần, cũng như vật chất để xử thắng các vụ phạt vạ đối với gia đình nghèo nhưng có cùng họ, điều này thể hiện tính cố kết cộng đồng dòng họ khá cao ở vùng Tây Nguyên và nhắc ta đến một vấn đề như đã nói trên là: việc dựng vợ gả chồng còn mang yếu tố liên minh dòng họ trong tầng lớp giàu có…(họ thường thắng trong các vụ xử phạt..) như đã nói ở trên tộc người Jrai theo chế độ Mẫu hệ đó là: con gái sinh ra đều lấy họ mẹ, gái cưới chồng, trai ở rể tất cả của cải, tài sản, con cái thuộc về nhà gái, người phụ nữ trong gia đình tộc người Jrai có một vị trí khá cao trong các vấn đề về quan hệ xã hội ví như sau khi cúng người phụ nữ được uống rượu trước, được chú ý khi bày tỏ quan niệm.v.v.. được quyết định những vấn đề tài sản. Cũng như vậy người Jrai tin rằng những người cùng họ đều có nguồn gốc sinh ra từ một người mẹ từ xa xưa, không phải ngẫu nhiên mà những người cùng họ khi gặp nhau họ đều tự nhận là họ hàng (thông qua họ) và đương nhiên “đã cùng một mẹ” thì việc lấy nhau là điều cấm kỵ, nghiêm cấm tuyệt đối. Một câu hỏi đặt ra là nếu họ lấy nhau thì điều gì sẽ xảy ra và xử lý (phạt vạ) thế nào?:
Ngày xưa, điều này được người dân nghiêm túc thực hiện triệt để, không có trường hợp cùng họ lấy nhau. Người viết bài cũng đã gặp một trường hợp hy hữu như vậy, trước hết họ cho rằng việc lấy nhau trong cùng một họ sẽ làm ông bà, tổ tiên, thần linh nổi giận, biểu hiện của sự nổi giận ấy là: cháy nhà (cháy làng), hạn hán, mất mùa, dịch bệnh, lũ lụt, lở đất… chính vì suy nghĩ ấy nên nếu có những sự kiện trên thì họ tin rằng trong làng có chuyện “loạn luân”. Vì vậy, khi bắt được họ sẽ xử rất nặng, họ coi những người vi phạm điều cấm kỵ ấy là loài súc vật và phải cúng để tạ lỗi với thần linh, lễ vật để tạ lỗi thuộc về một trong hai người ai có lỗi nhiều hơn… (những vụ xử phạt như thế, người vi phạm phải chịu chi phí ăn uống cho hội đồng già làng, cho người xử phạt, xử càng lâu (2 – 3 ngày) thì tốn kém càng lớn.
Khi có sự việc xảy ra việc đầu tiên là mời hai bên gia đình cùng già làng, người phạt vạ và hai “phạm nhân” ra xét hỏi, phân định đúng sai, người ta hỏi rất kỹ về thời gian, không gian, ai trước ai sau… trong khi đó hai gia đình có người vi phạm phải làm thịt bò hoặc heo để mời cơm già làng, thầy cúng những người được mời đến xử.. cuộc “điều tra xét hỏi” này được xử công khai trước tất cả mọi người trong làng. Thầy xử phạt sẽ đọc lại luật tục cho mọi người nghe những quy định của luật tục và những điều cấm kỵ của luật tục trong hôn nhân. Trong khi đó, người làng bắt một con heo hoặc bò của một trong hai người phạm lỗi làm thịt đây là thịt dùng để phục vụ người xử phạt. sau khi hội đồng già làng ra phán quyết việc xử phạt thì lúc đó mới bắt heo hoặc bò để cúng thần linh…
Việc cúng bái này khá cầu kỳ và nhiều công đoạn như cúng tạ tội với thần linh, cúng xả xui, cúng kết thúc.v.v.. nhưng đặc biệt là cúng cho hai kẻ phạm tội phải quỳ trước dân làng sau đó là lễ “đâm đùi” (Tlăo Pha) và hai kẻ “phạm tội” phải ăn đồ cúng trong một cái máng heo và không được bốc ăn mà phải cúi xuống ăn…(ngụ ý rằng chúng chỉ là súc vật) và mọi việc về sau hai kẻ phạm tội này có thể vẫn sống với nhau nhưng bị cả làng khinh rẻ, mọi hoạt động trong làng hai người này không được tham gia.
Theo các cụ già làng kể lại thì ngày xưa phải làm như vậy thì thần linh mới chấp nhận, ngày nay tục lệ này tuy vẫn còn những cách làm không như ngày xưa như không lấy dao đâm vào đùi mà chỉ lấy một cái cây chấm vào máu của con vật được hiến tế rồi chấm lên đùi của người phạm tội. Còn việc ăn trong máng thay vì phải cúi xuống ăn thì người phạm tội chỉ cần dùng tay bốc ăn. Theo già làng, trước đây người ta dùng máng heo rửa sạch rồi cho thức ăn vào máng thì hiện nay chỉ cần chặt một đoạn ống tre rồi chẻ đôi ra làm máng.
Như vậy, so với ngày xưa việc cấm kỵ lấy cùng một họ bị coi là loạn luân đã bỏ đi rất nhiều những yếu tố phản cảm, các chuỗi hành động xử phạt chỉ mang tính tượng trưng, mặc dù vậy luật lệ này vẫn còn duy trì đến ngày nay, chúng ta ít thấy có cặp vợ chồng nào cùng họ và có lẽ vì những phân tích trên ở vùng Tây Nguyên đặc biệt là vùng tộc người Jrai phía Nam có tục “nối dây” khá phổ biến trong đó có việc khi người vợ mất chỉ có thể lấy chị, em hoặc cháu của vợ. Tuy nhiên, đối với tộc người Jrai ở Chư Pah việc lấy cháu của vợ lại là một việc tối kỵ.
Tóm lại, phong tục của người Jrai ở Gia Lai tuy cùng là một dân tộc nhưng mỗi vùng có những tập quán khác nhau tuỳ vào các “nhóm tộc” ấy, tuỳ vào quan niệm của từng vùng…
Vì vậy, việc nghiên cứu về tộc người Jrai ở Gia Lai là vô cùng khó khăn do tính không đồng nhất về quan niệm cũng như tập quán của từng nhóm Jrai do đó tập tục “lấy chồng, gả vợ” cũng rất khác nhau về hình thức, cách thức tổ chức cũng như tục “nối dây” nhưng có một điểm chung nhất là nghiêm cấm lấy cùng một họ.
Cho đến nay tục này tuy không còn nữa nhưng việc lấy cùng họ vẫn rất được coi trọng và người Jrai vẫn thực hiện nó như một ý thức bắt buộc phải thực hiện./.
Nay Kỳ Hiệp