THƯ MỤC ĐỊA CHÍ GIA LAI
Mô tả Số lần tải Tải về
TM Địa chí GL T.3 136
TM Địa chí GL T.1 171
TM Địa chí GL T.2 102
Ý kiến - Góp ý
      

Tra cứu từ điển
 
Liên kết website
Giới thiệu sách online
Văn bản pháp quy
Nhạc phố núi
Ảnh Tây Nguyên
Thống kê truy cập
Tổng số truy cập: 2,422,595
Hôm nay: 153
Đang xem: 58
Thư mục toàn văn chuyên đề: "Kỷ niệm 70 năm Chiến thắng Điện Biên Phủ (7/5/1954 - 7/5/2024) (15/05/2024)

 Lêi nãi ®Çu

            Cuộc tiến công chiến lược Đông Xuân 1953 - 1954 mà đỉnh cao là chiến dịch Điện Biên Phủ là chiến thắng to lớn nhất của quân và dân ta trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược và can thiệp Mỹ (1945 - 1954). Chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ đã như một Bạch Đằng, một Chi Lăng, một Đống Đa của dân tộc ta trong thế kỷ XX và đi vào lịch sử thế giới như một chiến công chói lọi đột phá thành trì của hệ thống nô dịch thuộc địa của chủ nghĩa đế quốc. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhận xét: “Điện Biên Phủ như là một cái mốc chói lọi bằng vàng của lịch sử. Nó ghi rõ nơi chủ nghĩa thực dân lăn xuống dốc và tan rã, đồng thời phong trào giải phóng dân tộc khắp thế giới đang lên cao tới thắng lợi hoàn toàn…”. Còn Đại tướng Võ Nguyên Giáp đã khẳng định: “Điện Biên Phủ là trận đánh tiêu diệt và bắt sống quân viễn chinh xâm lược lớn nhất, gọn nhất của quân đội ta, dân tộc ta và của phong trào giải phóng dân tộc trong thế kỷ XX”. Chính vì vậy, Điện Biên Phủ mãi mãi là biểu tượng sáng ngời của con người Việt Nam quật cường, bất khuất, thông minh sáng tạo, là niềm tin của các dân tộc đấu tranh thoát ách áp bức, bóc lột, vươn tới độc lập, tự do.

            Nhân kỷ niệm 70 năm Chiến thắng Điện Biên Phủ (07/5/1954 - 07/5/2024), Thư viện tỉnh Gia Lai biên soạn và phát hành Thư mục toàn văn chuyên đề: “Kỷ niệm 70 năm Chiến thắng Điện Biên Phủ (07/5/1954 - 07/5/2024)”.

            Nội dung gồm có 3 phần chính:

            Phần I. Chiến dịch Điện Biên Phủ - những bản hùng ca

          Phần II. Một số bài viết của Chủ tịch Hồ Chí Minh và các đồng chí lãnh đạo Đảng, Nhà nước, Quân đội về chiến thắng Điện Biên Phủ

            Phần III. Một số anh hùng tiêu biểu được tuyên dương trong chiến dịch Điện Biên Phủ

Các bài viết đưa vào tập Thư mục toàn văn chuyên đề: “Kỷ niệm 70 năm Chiến thắng Điện Biên Phủ (07/5/1954 - 07/5/2024)” được chúng tôi chọn lọc từ các sách lưu trữ trong Thư viện tỉnh Gia Lai. Trên mỗi bài trích, chúng tôi đều có mô tả về hình thức của tài liệu.

Bạn đọc muốn tìm hiểu thêm từ tài liệu gốc, xin vui lòng liên hệ với Thư viện chúng tôi để được phục vụ. Bạn đọc cũng có thể truy cập  vào trang Website: “thuvientinhgialai.vn” để đọc tài liệu về “Kỷ niệm 70 năm Chiến thắng Điện Biên Phủ (07/5/1954 - 07/5/2024)”, trong mục “Thư mục chuyên đề”. 

Trong quá trình biên soạn, chúng tôi đã hết sức cố gắng, nhưng chắc chắn không tránh được sai sót xảy ra. Thư viện tỉnh Gia Lai mong nhận được ý kiến của bạn đọc cho “Thư mục toàn văn chuyên đề” ngày càng có chất lượng, phục vụ tốt nhu cầu đọc của bạn đọc.                                                                                                                        

                                  THƯ VIỆN TỈNH GIA LAI 

 

 PHẦN I 

CHIẾN DỊCH ĐIỆN BIÊN PHỦ - NHỮNG BẢN HÙNG CA

 CAO PHA. Công tác quân báo trong chiến dịch Điện Biên Phủ / Cao Pha // Sách 60 năm chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ bản hùng ca thế kỷ XX. - H. : Văn hóa - Thông tin, 2013. - Tr. 111-118

Cuộc tiến công chiến lược Đông Xuân 1953-1954, mà đỉnh cao là chiến dịch Điện Biên Phủ là một trong những cột mốc bằng vàng của lịch sử dân tộc ta trong thời đại Hồ Chí Minh.

Đã nửa thế kỷ trôi qua, mỗi khi nhớ lại những ngày gian khổ song oanh liệt ấy, lòng tôi lại bồi hồi, xúc động. Những tình cảm năm xưa trỗi dậy thôi thúc tôi, kéo tôi trở lại không khí của năm nào đánh giặc. Nhân kỷ niệm 50 năm chiến thắng, tôi xin kể đôi chuyện về công tác quân báo trong Đông Xuân năm ấy, chủ yếu là trong chiến dịch Điện Biên Phủ.

Sau thắng lợi liên tiếp của quân và dân ta ở Biên giới, Hoà Bình, Tây Bắc, Thượng Lào, một thế trận mới hình thành trên miền Bắc Đông Dương bất lợi cho Pháp và kể cả cho Mỹ: đồng bằng Bắc Bộ, "cái then cửa" của vùng Đông Nam Á trong chiến lược "ngăn chặn cộng sản" ở khu vực này, đã hở sườn và bị vu hồi từ phía tây. Trước tình hình đó, đầu tháng 5-1953, Chính phủ Pháp cử tướng Nava sang Đông Dương để cứu vãn tình thế nhằm biến bại thành thắng, giành một thắng lợi quyết định. Báo chí Pháp và phương Tây tuyên truyền ầm ĩ về tin này. Vậy Nava là ai? Kế hoạch của y là như thế nào? Quân báo ta phải trả lời hai điểm này. Tìm hiểu về Nava thì không khó. Báo chí công khai đã cho biết y là viên tướng tham mưu trẻ đã từng phụ trách công tác tình báo, có tài năng, nhưng chưa từng ở Đông Dương bao giờ như viên tướng tiền nhiệm Xalăng, một sĩ quan ở thuộc địa lâu năm, nói tiếng Việt Nam rất thạo, được mệnh danh là "Con cáo khôn ngoan". Còn kế hoạch Nava không phải dễ dàng gì mà tìm hiểu ngay được. Trải qua một quá trình điều tra, nghiên cứu, chắt lọc tin tức mới gỡ dần cái bí ẩn của kế hoạch đó.

Gần bốn tháng, sau khi Nava nhậm chức, theo nhiều nguồn tin phối hợp, trung tuần tháng 9-1953, chúng tôi đã nắm được những điểm cơ bản của kế hoạch Nava, phục vụ kịp thời cho Bộ Tổng tham mưu hoạch định kế hoạch Đông Xuân 1953-1954 đệ trình Tổng Quân ủy Trung ương, báo cáo Bộ Chính trị vào hạ tuần tháng 9-1953. Trong hội nghị này, Bác Hồ đã diễn đạt một cách kỳ diệu tư tưởng chỉ đạo tác chiến cho Đông Xuân sắp đến bằng cách nắm chặt bàn tay rồi xòe ra và nói: Địch tập trung lực lượng lại để giữ đồng bằng Bắc Bộ, ta bắt nó phân tán ra các hướng để tiêu diệt. Năm ngón tay Bác xòe ra ngẫu nhiên trùng hợp với năm đòn tiến công của ta ở các hướng Tây Bắc, Trung Lào, Hạ Lào - Đông Campuchia, Tây Nguyên, ở vùng sau lưng địch.

Sau hội nghị, chúng tôi tổ chức theo dõi địch trên các hướng đã quyết định, trước mắt, chuẩn bị đánh Lai Châu. Đồng chí Mạc Lâm lên trại tù binh ở Tuyên Quang, tập trung các sĩ quan địch bắt được ở chiến dịch Tây Bắc (1952), tổ chức một cuộc "hội thảo" về cách đánh Lai Châu, đối phó của địch và dự kiến đường rút chạy của chúng. Một sĩ quan tù binh đã từng ở Điện Biên thông thạo về Tây Bắc, Thượng Lào, có nhiều ý kiến giá trị về chiến dịch cũng như về chiến thuật. Đồng chí Nguyễn Việt, Trưởng phòng Trinh sát của Cục Quân báo, được giao nhiệm vụ cùng một đơn vị trinh sát của Bộ chuẩn bị đi Lai Châu.

Ngày 19-11-1953, anh Văn phổ biến Nghị quyết của Bộ Chính trị về kế hoạch Đông Xuân 1953-1954 và giao nhiệm vụ cho các đại đoàn. Đang họp, ngày 20-11-1953, ta được tin địch cho sáu tiểu đoàn nhảy dù xuống Điện Biên Phủ. Chỉ huy là tướng Gin, chỉ huy tập đoàn cứ điểm Nà Sản trước đây. Cơ quan quân báo hết sức bất ngờ về tin này. Ngay tức khắc có điện thoại của anh Hoàng Văn Thái và tiếp theo đó của anh Văn, chỉ thị yêu cầu làm rõ: Địch nhảy dù xuống Điện Biên Phủ với mục đích gì? Có phải vì đã phát hiện được Đại đoàn 316 đang hành quân lên đánh Lai Châu? Chúng nhảy dù xuống để yểm trợ hay đi đón quân ở Lai Châu rút về? Chúng có đóng lại không? Hay chúng sẽ rút? Nếu chúng đóng lại thì dùng bao nhiêu lực lượng và sẽ bố trí thế nào? Chỉ thị yêu cầu chúng tôi phải trả lời trong thời gian ngắn nhất. Nhưng có hai câu hóc búa phải trả lời ngay: Địch có rút không? Chúng bố trí như thế nào?

Trước hết, chúng tôi điện ngay cho bộ phận trinh sát đi chuẩn bị Lai Châu phải đi ngay về phía Điện Biên Phủ, phối hợp với các đơn vị tại chỗ bám sát và điều tra tình hình địch, hằng ngày báo cáo về Cục; đồng thời tăng cường lực lượng trinh sát kỹ thuật theo dõi liên tục địch ở Điện Biên Phủ và Lai Châu, Thượng Lào vì được tin có cánh quân từ Lào tiến về hướng Điện Biên Phủ.

Một khó khăn mới xuất hiện. Trên bản đồ Bắc Bộ chỉ vẻn vẹn có một chấm đen với ba chữ "Điện Biên Phủ". Trước tình hình đó, đồng chí Hùng Châu, một cán bộ giỏi ở Ban hỏi cung, đi gấp lên trại tù binh cùng với Mạc Lâm hỏi ngay viên sĩ quan đã ở Điện Biên Phủ trước đó về địa hình và dự kiến khả năng bố trí của địch. Vài ngày sau, chúng tôi nhận được báo cáo và một sơ đồ về Điện Biên Phủ với nhận xét về giá trị đặc biệt quan trọng của dải đồi phía đông sông Nậm Rốm. Nếu tổ chức phòng ngự ở đây, nhất thiết phải chiếm các mỏm đồi cao này; còn ở phía tây là cánh đồng rộng, rồi xa hơn nữa là dải núi không có giá trị chiến thuật trực tiếp quan trọng trong phòng ngự. Anh Văn nhận được báo cáo này rất thích thú, khen anh em hỏi cung và nhắc nhở "bồi dưỡng" cho sĩ quan tù binh đó.

Tôi được chỉ thị không xuống Khu 3 nữa, phải ở lại tổ chức theo dõi và nắm địch ở Lai Châu, Điện Biên Phủ và Thượng Lào. Ngày 26-11-1953, tôi và bộ phận quân báo đi theo anh Thái lên Điện Biên Phủ bằng xe vận tải môlôtôva. Đây là lần thứ hai tôi được đi ô tô ra trận. Đường xóc, chúng tôi như bị "rang cà phê" mệt lử, nhưng phấn khởi. Đi qua Nà sản, chúng tôi dừng lại để nghiên cứu tận mắt tập đoàn cứ điểm mà tôi ôm hận cách đây một năm trong chiến dịch Tây Bắc. Lần đầu tiên ấy, chúng tôi vấp phải cách phòng ngự này, không điều tra kỹ đặc điểm của hệ thống bố trí phòng ngự đó nên khi bộ đội ta tiến công đã bị thương vong nặng.

Đang nghiên cứu Nà Sản thì anh Văn điện cho biết tin địch đốt khói ở Điện Biên Phủ và chỉ thị cho tôi phải theo dõi sát tình hình, e chúng rút. Tôi hiểu rõ mối quan tâm của đồng chí Tổng Tư lệnh. Vì lúc này ta đang có kế hoạch điều Đại đoàn 308 chủ lực lên đây và tùy tình hình sẽ điều tiếp các đơn vị khác. Chúng tôi hành quân đến sở Chỉ huy lâm thời, cách Tuần Giáo 15km trên đường vào Điện Biên Phủ. Ở đây, Bộ Tham mưu đã triển khai công tác, vừa phục vụ cho tiêu diệt địch ở Lai Châu đang rút, vừa nắm tình hình ở Điện Biên Phủ. Đối với tôi, công tác điều tra và nắm địch ở Điện Biên Phủ là trọng tâm số 1. Hai đội trinh sát của Bộ, do anh Nguyễn Việt, anh Phan Huy và anh Nguyễn Ngọc Bảo chỉ huy, phối hợp với trinh sát Đại đoàn 316 và bộ phận đi trước của đơn vị trinh sát Đại đoàn 308, lần lượt tiếp theo sau là các đơn vị của Đại đoàn 312 và Đại đoàn 304, đã hình thành một mạng trinh sát mặt đất khá chặt chẽ ở Mường Thanh và Hồng Cúm. Bộ phận trinh sát kỹ thuật bám sát địch suốt ngày đêm. Kết hợp chặt chẽ giữa trinh sát mặt đất và trinh sát kỹ thuật, chúng tôi biết: Ngày 3-12, địch đã đưa thêm ba tiểu đoàn lên Điện Biên Phủ, thành lập "Binh đoàn hành quân Tây Bắc" do Đờ Cát chỉ huy. Đến cuối tháng 12, địch lại tăng thêm ba tiểu đoàn nữa. Như vậy, hơn một tháng sau, lực lượng địch ở Điện Biên Phủ đã lên đến 12 tiểu đoàn và các binh chủng khác với tổng quân số là 12.000. Quyết tâm của địch chiếm đóng Điện Biên Phủ đã rõ ràng và Điện Biên Phủ cũng từng bước đã trở thành trung tâm của kế hoạch Nava. Y đã xòe ngón tay cái ở đây và ngón tay khác ở Xê Nô (Trung Lào) trước cuộc tiến công của ta và bạn ở hướng này (21-12). Diễn biến tình hình nói trên đã đủ cơ sở để Bộ Chính trị hạ quyết tâm tiêu diệt tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ, trận đánh then chốt nhất của Đông Xuân 1953-1954, Điện Biên Phủ đã trở thành "một hội chiến" ngoài dự kiến của ta cũng như của địch. Cuộc hội chiến không hẹn mà gặp. Ta thì lo địch chạy, còn địch lo ta không dám đánh. Cuộc đấu trí đến đây đã bước vào giai đoạn quyết liệt.

Đang lúc chuẩn bị để họp bộ phận tham mưu đi trước bàn về kế hoạch tác chiến do anh Thái triệu tập thì hai đồng chí trinh sát mang một thùng chiến lợi phẩm mới lấy được ở Mường Thanh đến gặp tôi báo cáo: "Đơn vị chúng em tiềm nhập trinh sát ban đêm ở Mường Thanh thu được một tập bản đồ về Điện Biên Phủ và một gói quà Nôen của địch mới thả dù xuống hôm kia. Bản đồ xin nộp lên Bộ còn gói quà xin biếu thủ trưởng, kèm theo biên lai ghi rõ gửi từ Hà Nội". Chúng tôi ôm nhau cười ran. Anh em trinh sát là thế, vui nhộn, hơi ngang tàng, tự do một chút nhưng rất gan dạ, mưu trí và tình cảm. Trong thùng chiến lợi phẩm, quý nhất là những tấm bản đồ. Lần đầu tiên đánh hiệp đồng binh chủng nếu không có bản đồ chính xác với tỷ lệ thích hợp thì không thể chỉ huy tác chiến hiệp đồng được. Anh Thái biết được tin này rất vui và chỉ thị cho mang ngay về Cục Đồ bản để in hàng loạt phát cho các đơn vị. Chiến sĩ trinh sát Trần Phận, người lấy được tập bản đồ, được thưởng Huân chương Chiến công hạng Ba ngay tại trận. Có lẽ đây là tấm huân chương đầu tiên ở Điện Biên Phủ.

Cuộc họp bộ phận tham mưu đi trước, ngày 29-12-1953, có Mai Gia Sinh - cố vấn Trung Quốc, anh Đỗ Đức Kiên - Cục phó Cục Tác chiến, tôi và một số cán bộ khác tham dự, do anh Thái chủ trì.

Tất cả những ý kiến đều thống nhất nhận xét: trọng tâm phòng ngự của địch là phía đông, công sự tương đối kiên cố, còn phía tây và tây bắc đang còn sơ hở, do đó thống nhất cách đánh thọc sâu từ ngoài vào tung thâm địch theo phương châm "đánh nhanh, giải quyết nhanh".

Sau cuộc họp, tôi tranh thủ xuống sát Điện Biên Phủ để quan sát trận địa, giúp anh em quân báo điều tra thêm về địch. Từ đài quan sát của ta, tôi thấy được gần như toàn cảnh bố trí của địch ở phía đông. Đúng như lời khai của sĩ quan địch trước đây, địch chiếm hết các mỏm đồi A, C, D... Qua ống nhòm, tôi thấy rõ địch đang củng cố công sự trên các mỏm đồi, đất còn đỏ. Anh em trinh sát nói đùa: Đờ Cát đang bày "các mâm xôi", "các đĩa bít tết" đó.

Sau khi trao đổi với anh em cần theo dõi tình hình các đơn vị mới tăng cường cuối tháng 12, tôi về Sở Chỉ huy đôn đốc làm sa bàn để kịp phục vụ Đảng ủy chiến dịch dự kiến họp sau khi anh Văn lên vào đầu tháng 1-1954.

Ngày 14-1-1954, Bộ Chỉ huy chiến dịch triệu tập hội nghị cán bộ cấp trung đoàn trở lên phổ biến kế hoạch tác chiến. Bộ Tham mưu chiến dịch báo cáo kế hoạch với phương châm "đánh nhanh, giải quyết nhanh", hướng tây - tây bắc lên chủ yếu, hướng bắc là thứ yếu, hướng đông là hướng phối hợp; dự kiến ngày 20-1 nổ súng. Chỉ huy các hướng bổ sung tình hình địch và nhất trí cao với kế hoạch đã trình bày. Không khí phấn khởi và lạc quan, mặc dầu có phân vân vì e không kịp kéo pháo vào trận địa. Anh Văn kết luận hội nghị và lưu ý từ nay đến khi nổ súng cần chú ý theo dõi tình hình địch và đôn đốc việc kéo pháo, quyết định lùi giờ nổ súng vào ngày 25-1.

Sau hội nghị, cơ quan quân báo chiến dịch triển khai nắm địch rất khẩn trương. Anh Nghĩa được phân công theo dõi chung các hướng tác chiến toàn chiến trường, tôi lo điều tra và nắm địch ở Điện Biên Phủ, lực lượng quân báo tham gia chiến dịch này khá mạnh, gồm nhiều cán bộ và chiến sĩ có bề dày kinh nghiệm.

Hằng ngày, anh Văn nhắc chúng tôi phải cảnh giác, chú ý theo dõi địch ở hướng tây - tây bắc. Tôi thấy anh suy nghĩ nhiều về hướng chủ yếu này của đơn vị anh Vương Thừa Vũ và của anh Lê Trọng Tấn ở hướng bắc. Anh thường gọi tôi lên báo cáo và trao đổi về địch, đặc biệt chú ý đến vấn đề công sự của chúng. Có thể nói, chúng tôi nắm khá chắc về lực lượng, về tiếp tế hậu cần, về hoạt động tuần tiễu, lùng sục, ngay cả về thương vong hằng ngày của địch. Một hôm, anh Hiếu, Bí thư của anh Văn, gặp tôi cho biết anh Văn dạo này suy nghĩ nhiều lắm, ít ngủ hơn trước, phàn nàn có nhiều cán bộ không thông cảm với anh em công binh, anh em kéo pháo, không chịu giúp đỡ anh em khắc phục khó khăn mà chỉ nặng quy về tư tưởng...

Gần đến ngày nổ súng, vào ngày 23-1, anh Văn gọi tôi lên và chỉ thị:

"Cao Pha xuống đi theo Đại đoàn 312. Đơn vị này tiến công từ phía bắc, phải diệt một số cứ điểm dọc sân bay rồi phát triển vào tung thâm. Tôi thấy hướng này đánh sâu như vậy sẽ gặp nhiều khó khăn, do đó cậu cần đi cùng đơn vị để nắm tình hình, kịp thời khai thác tin tức, hỏi cung tù binh, một mặt giúp anh Tấn, mặt khác kịp thời báo cáo cho Bộ". Anh lại dặn thêm: "Trận này sẽ gay go ác liệt đấy, không giản đơn đâu". Tôi phấn khởi nhận lệnh và hứa sẽ hoàn thành tốt nhiệm vụ.

Buổi chiều hôm đó, tôi cùng anh Mạc Lâm đi xuống sở Chỉ huy Đại đoàn 312 đóng gần Bản Kéo, dọc đường, thấy anh em vẫn còn khẩn trương kéo pháo vào vị trí tập kết. Đến nơi, nghe báo cáo xong, anh Tấn ân cần hỏi ngay: "Xuống đây, cậu đã tìm được hầm hố gì chưa, nếu không thì ở ngay đây với mình". Anh chu đáo quá khiến tôi rất xúc động. Nhớ lại hồi ở chiến trường Tây Bắc trước đây, anh đã dìu dắt tôi trong chiến đấu và giới thiệu tôi vào Đảng. Tôi gắn bó mật thiết với anh và coi anh như người anh ruột.

Cả ngày 24-1, tôi tranh thủ nắm lại tình hình địch và nghiên cứu cụ thể kế hoạch tác chiến của đại đoàn. Đến gần trưa 26-1, anh Tấn vui vẻ cho tôi biết: "Đại tướng ra lệnh đình chỉ tiến công và kéo pháo ra". Nghe nói, tôi sững sờ, nhưng rồi cũng gật gù. Sau đó ít phút, tôi nhận được điện thoại của anh Nghĩa báo về sở Chỉ huy gấp. Về đến nơi, tôi được biết, do tình hình địch tăng cường phòng ngự bên phía tây và sự triển khai của các trận địa pháo chưa được tốt, Đảng ủy chiến dịch họp, thảo luận kỹ, đã quyết định thay đổi phương châm "đánh nhanh giải quyết nhanh" bằng phương châm "đánh chắc tiến chắc".

Đến đây, tôi mới rõ nỗi băn khoăn suốt 10 ngày qua của anh Văn. Rõ ràng, anh nghĩ rất kỹ và chín với tinh thần trách nhiệm rất cao, dũng cảm, quyết tâm thay đổi cách đánh hoàn toàn chính xác và đã được Bộ Chính trị, Bác Hồ phê duyệt.

Lại nhớ cách đó bốn năm, trong chiến dịch Biên giới 1950, Trung ương Đảng đã quyết định đánh Cao Bằng để mở màn chiến dịch. Là Trưởng ban Quân báo của mặt trận, tôi đưa Đại tướng lên đài quan sát và nghiên cứu trận địa địch. Trên đường về, đêm đó, ngủ tại một bản gần thị xã, tôi thấy anh đi đi lại lại, suy nghĩ lung lắm và nói với chúng tôi băn khoăn của mình: "Ở đây, địch đóng một trung đoàn trong công sự vững chắc. Bộ đội ta tuy được trang bị và được học tập tốt hơn trước, nhưng đánh vào một cứ điểm mạnh như vậy chưa thật chắc thắng". Ý kiến này được thảo luận trong Đảng ủy và bàn bạc với cố vấn Trung Quốc, được Bác Hồ phê duyệt tại chỗ, ta chọn hướng tiến công chủ yếu là Đông Khê và đã giành thắng lợi to lớn.

Sau này, gặp lại anh Tấn, ôn lại lịch sử kháng chiến trước đây, anh tâm sự với tôi: "Ở Điện Biên Phủ mà không thay đổi phương châm tác chiến, cũng như ở Biên giới không thay đổi mục tiêu tiến công, thì chắc rằng cuộc kháng chiến chống Pháp không thể kết thúc giữa năm 1954 được đâu". Rồi anh cười khà khà...

Sau khi tướng Nava đã xòe không những một bàn tay mà cả hai bàn tay rồi, ta giáng một đòn quyết định vào Điện Biên Phủ, bắt đầu từ ngày 13-3-1954.

17 giờ 30 phút ngày 7-5, đồng chí Lê Trọng Tấn báo cáo về Bộ Chỉ huy đã bắt được Đờ Cát và toàn bộ cơ quan tham mưu địch.

Tôi cùng anh Hùng Châu, Mạc Lâm, Mạnh Thái... lên "trò chuyện" hơn là hỏi cung các sĩ quan cao cấp Pháp bị bắt. Tất cả rất ủ rũ về thất bại nặng nề vừa qua, nhưng cũng hy vọng về kết quả của Hội nghị Giơnevơ. Chúng tôi hỏi cảm tưởng tướng Đờ Cát về Điện Biên Phủ và có mong đợi sự chi viện về không quân của Mỹ không? Ông ta trả lời với giọng nói trầm quý phái: Các ông có hiểu không, Điện Biên Phủ phiên âm ra tiếng Pháp là Devienfou, nghĩa là tôi trở thành "thằng điên".

Chúng tôi cười phá lên vì trước khi Đờ Cát đầu hàng, bộ phận trinh sát kỹ thuật đã thu được câu chuyện trao đổi bằng vô tuyến điện thoại giữa Cônhi (Chỉ huy chiến trường Bắc Bộ) với Đờ Cát như sau:

- Cônhi: Tiens bien! (Giữ vững cho tốt!).

- Đờ Cát: Fou (Điên!)

Kế hoạch Nava dự kiến giành thắng lợi trong vòng 18 tháng, nhưng đã bị phá sản ngay từ đầu và thất bại hoàn toàn chưa đầy một năm.

HỒNG CƯ. Đòn chiến lược thứ năm / Hồng Cư // Sách 60 năm chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ bản hùng ca thế kỷ XX. - H. : Văn hóa - Thông tin, 2013. - Tr. 159-164

            Trong chiến dịch Điện Biên Phủ, Đại đoàn 308 lúc đầu được giao nhiệm vụ đánh vào trung tâm Mường Thanh. Khi Đại tướng, Tổng Tư lệnh kiêm Chỉ huy trưởng mặt trận quyết định thay đổi phương châm tác chiến thì đại đoàn được lệnh cấp tốc tiến quân hướng về Luông Prabăng (Kinh đô nước Lào) nhằm đánh lạc hướng phán đoán của địch, thu hút không quân của chúng, tạo điều kiện cho quân ta kéo pháo ra và xúc tiến mọi việc chuẩn bị để thực hiện phương châm "đánh chắc tiến chắc".

Đây là một nhiệm vụ vô cùng khó khăn: chiến trường chưa được chuẩn bị, tình hình địch chưa cụ thể, khó nhất là không có bảo đảm hậu cần. Nhận lệnh, Đại đoàn trưởng Vương Thừa Vũ không ngần ngại, chỉ xin chỉ thị về quy mô sử dụng lực lượng. Đại tướng chỉ thị: "Toàn quyền quyết định, từ một tiểu đoàn đến toàn đại đoàn. Hậu cần tự giải quyết. Đúng ba giờ chiều nay xuất phát". Lúc nhận lệnh là 14 giờ 30 phút ngày 26-1-1954.

Đại đoàn trưởng Vương Thừa Vũ là một con người "quân lệnh như sơn". Toàn đại đoàn chia làm hai cánh quân lập tức lên đường, tiến quân thần tốc, gặp địch là đánh, tự giải quyết hậu cần, sau hơn mười ngày giải phóng hoàn toàn lưu vực sông Nậm Hu, tiến sát Luông Prabăng; được lệnh trở về, lại thần tốc quay lại, kịp tham gia đợt đầu cuộc đại tấn công tiêu diệt tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ.

Lúc đó tôi là Phó Chính ủy trung đoàn, được phân công cùng với Trung đoàn phó Ngô Ngọc Dương nắm tiểu đoàn đi đầu của Trung đoàn 36 tiến về phía Mường Ngòi. Tôi rất thích cùng đi với Ngọc Dương, người anh hùng trận Cẩm Lý, nổi tiếng toàn trung đoàn về chuyện vật nhau cắn mũi tên Đồn trưởng Mulay.

Trung đoàn trưởng Hồng Sơn và Chính ủy Chu Thanh Hương dẫn hai tiểu đoàn đi tiếp theo. Trung đoàn 88 do Trung đoàn trưởng Nam Hà chỉ huy còn bận tham gia kéo pháo của mặt trận, sẽ tiến sau theo hướng chúng tôi. Riêng Trung đoàn 102, do Trung đoàn trưởng Hùng Sinh chỉ huy, được tăng cường hỏa lực phòng không và cối 102 ly, hình thành một cánh quân tiến về hướng Mường Khoa. Đại đoàn phó Cao Văn Khánh và sở Chỉ huy nhẹ đại đoàn đi theo cánh quân 102.

Ngày 29-1-1954, Trung đoàn 102 nhận được điện của Bộ: "Quân địch bỏ phòng tuyến Nậm Hu, rút chạy", bèn chuyển sang truy kích. Ngày 31-1-1954, đuổi kịp quân địch ở Mường Khoa đang tháo chạy về Mường Sài. Tiểu đoàn 18 vượt lên chặn địch, tạo điều kiện cho toàn trung đoàn tiến công tiêu diệt gần hai tiểu đoàn địch, trong đó có tiểu đoàn lê dương 2/4REI.

Tiểu đoàn 89 đi đầu cánh quân Trung đoàn 36, do Tiểu đoàn trưởng Nguyễn Liệu, Chính trị viên Trần Giang, Tiểu đoàn phó Dương Thế Minh, Chính trị viên phó Phương Nam chỉ huy. Mỗi người chỉ kịp mang theo hai cân gạo, địch tình, địa hình chưa biết, trong tay chỉ có một bản đồ tỷ lệ 1/100.000.

Qua nhiều đèo dốc, những cánh rừng đại ngàn, những con suối nước nóng réo sôi, trưa 29-1-1954, tiểu đoàn tạm dừng chân bên dãy nương đồi nở đầy hoa thuốc phiện, bỗng nghe tiếng súng nổ. Đơn vị phía sau bắt được hai tên phỉ dẫn lên. Chúng khai thuộc một toán phỉ được phái lên quấy rối làm chậm bước tiến của quân ta. Chúng nổ súng nhằm vào hai người đi ngựa là tôi và Ngọc Dương. Chúng tôi nhận định: địch biết ta tiến quân sẽ tăng cường phòng ngự hoặc rút chạy, cần tiến nhanh hơn nữa. Chiều 30-1-1954, Tiểu đoàn 89 đến bản Huổi Sen, cách Mường Ngòi 4km, dừng lại chuẩn bị. Bỗng một toán khá đông người mặc áo vàng chạy xộc vào giữa đội hình tiểu đoàn. Ta bắt sống 20 tên ngụy, diệt một số tên chống cự. Chúng khai thuộc một vị trí lẻ bên hướng 102 tấn công rút chạy. Chúng tôi phán đoán: Mường Ngòi có thể cũng đã rút. Ngọc Dương ra lệnh tiến quân ngay mặc dù bộ đội chưa kịp ăn và trời đã tối. Tới nơi thấy đồn đã cháy rụi, ánh lửa leo lét. Ngọc Dương ra lệnh truy kích ngay trong đêm.

Chỉ mới nghe: "Địch rút chạy! Truy kích", thế là mọi người vắt chân lên cổ quên cả đói mệt, tỉnh táo hẳn lên, hăng hái chạy thâu đêm. Kinh nghiệm truy kích sầm Nưa năm 1953 được nhanh chóng phổ biến; ai có sức khỏe cứ vượt lên trước, gặp địch là đánh, gặp bạn là phối hợp, cán bộ nắm được bộ phận nào chỉ huy bộ phận ấy, chiến sĩ gặp bộ phận nào tự động ghép vào cùng chiến đấu.

Sáng 31-1-1954, Đại đội 395 do Đại đội trưởng Nguyễn Đức Lộc (tức Lộc khàn) chỉ huy, cùng một tổ quân báo tới bờ sông Nậm Hu. Sông không rộng nhưng sâu, nước khá lạnh. Nhìn quanh núi đồi hoang vắng. Tổ quân báo tìm được mấy người dân. Biết "Koong tháp paxasôn" Việt đuổi "xấc" Tây, một ông già và mấy người trai trẻ kéo ra bốn chiếc thuyền độc mộc giấu trong lau lách. Thuyền chỉ đủ chở vũ khí nặng và bộ phận phái đi trước. Chiến sĩ Đại đội 395 lấy vải nhựa làm phao, qua sông là chạy. Ngày 1-2-1954, đuổi kịp địch. Phát hiện khoảng một tiểu đoàn ngụy đang dừng chân trên mấy quả đồi ven đường, Đại đội trưởng Lộc tổ chức tấn công ngay. Suốt ngày 1-2-1954, Đại đội 395 đánh liên tục mười trận, diệt và bắt hơn trăm địch.

Ngày 2-2-1954, Tiểu đoàn 89 tiến vào thung lũng Nậm Bạc. Trước mắt hiện ra một cánh đồng rộng, lúa đã gặt, một dòng sông nhỏ uốn khúc, những rặng dừa xanh bên những mái nhà sàn san sát. Giữa thung lũng là đồn Nậm Bạc, có sân bay nhỏ. Quan sát thấy địch đang nhốn nháo, Tiểu đoàn trưởng Nguyễn Liệu ra lệnh nhanh chóng đánh chiếm mục tiêu. Quân địch tháo chạy, bỏ lại nhiều quân trang quân dụng, kho lương thực, vũ khí và cả một bữa cơm mới dọn chưa kịp ăn.

Bộ đội dừng lại ngoài bản, mỗi người được phát một bơ gạo thổi cơm. Trung đoàn phó Ngọc Dương ra lệnh thay quân, đưa Đại đội 339 vượt lên đi đầu thay cho 396 đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ. Đại đội 339 hành quân ngay do Tiểu đoàn trưởng Nguyễn Liệu và Chính trị viên phó Phương Nam chỉ huy, Chính trị viên Trần Giang và Tiểu đoàn phó Dương Thế Minh cho bộ đội tạm nghỉ, bắt liên lạc với cơ sở kháng chiến Pathét Lào vay gạo. Tôi căn dặn cán bộ phải trực tiếp tổ chức cho bộ đội ăn uống, xoa bóp, ngâm chân nước nóng, giữ nghiêm kỷ luật vùng mới giải phóng; làm việc với bạn nêu cao tinh thần quốc tế vô sản.

Hôm đó là 30 Tết. Bộ đội hành quân chuyện trò rôm rả. Toàn chuyện quê nhà. Ăn xôi Lào nhớ bánh chưng Việt. Rồi chuyện đánh đuổi giặc mấy ngày qua. Thật là "chân sắt, mắt ngựa, bụng thần tiên". Đến ngã ba Nậm Ngà gặp con suối. Ngọc Dương ra lệnh cho nghỉ đón giao thừa, không ngờ sáng hôm sau mồng 1 Tết, nơi đây diễn ra một trận "tao ngộ chiến".

Sáng sớm, tôi và Ngọc Dương vừa ra suối đánh răng thì nghe chiến sĩ cảnh giới hô to: "Có địch!" rồi nổ súng. Một đám đông người đeo ba lô, súng cầm tay từ đỉnh đồi đi xộc vào đội hình Đại đội 399 còn ngái ngủ. Súng nổ loạn xạ. cả hai bên đều bất ngờ. Đại đội trưởng Nguyễn Hữu Hành chỉ huy bộ đội xông ngược lên đỉnh đồi chiếm điểm cao. Tôi và Ngọc Dương nắm được tiểu đội súng cối trực tiếp bắn yểm hộ. Càng đánh thốc lên càng thấy địch đông. Sau giây lát bàng hoàng, địch chống cự lại bằng đại liên và ĐKZ. Tiểu đoàn phó Dương Thế Minh và Chính trị viên Trần Giang đã kịp thời đem quân đến chi viện, đánh bọc sườn địch. Nghe tiếng cối 82 ly, tiếng súng máy nổ ran, tôi biết là đội hình tiểu đoàn đã lên hết. Nghe tiếng Chính trị viên phó Phương Nam hét: "Đoạt ĐKZ của địch mà bắn vào đội hình chúng!". Ba lô, cờ, súng ngổn ngang. Địch bị thương, bị chết và ra hàng khá nhiều. Xem lá cờ của chúng, biết đây là tiểu đoàn ngụy Thái từ Mường Sài kéo về Nậm Ngà, đến đây thì chạm phải ta và bị tiêu diệt.

Trận đánh kết thúc, toàn thể Ban Chỉ huy Trung đoàn 36 gặp lại nhau, các tiểu đoàn 80, 84 đã lên kịp. Trung đoàn trưởng Hồng Sơn nói: "89 đánh khá đấy!" rồi giao nhiệm vụ cho Tiểu đoàn 89 ở lại thu dọn chiến trường và củng cố, Tiểu đoàn 80 và 84 vượt lên trước.

Đến đây thì Trung đoàn trưởng Hồng Sơn trực tiếp chỉ huy bộ đội, tôi và Ngọc Dương ở lại dự họp Liên chi ủy Tiểu đoàn 89. Tôi kiểm tra việc chấp hành chính sách thương binh, liệt sĩ, tù hàng binh, chiến lợi phẩm, nhắc nhở việc bình công, phát triển Đảng trong chiến đấu. Trận này thắng to nhưng ta cũng có thương vong. Ta giải phóng được hơn 100 PMT (đồng bào bị địch bắt làm tù binh đưa đi làm phu khuân vác). Có chuyện ngộ nghĩnh là giữa chiến trường Lào, có người trong đám PMT gọi to: "Anh Dương Thế Minh!". Rồi vồn vã chạy tới như người quen. Hỏi ra thì đó là người bán cà phê ở Thái Nguyên đi xuống Vĩnh Phúc lấy hàng bị địch càn quét bắt được, đem sang tận Lào vác đạn chúng. Số PMT này sau khi thẩm tra, nhiều người được bổ sung vào quân số tiểu đoàn. Tôi giao công việc cho Phó Chủ nhiệm Chính trị Lê Đăng Dần rồi cùng với Ngọc Dương lên ngựa đuổi theo đội hình trung đoàn. Sông Nậm Hu càng xuôi càng đẹp, nhưng chúng tôi không thể ngắm cảnh, phải đi theo lộ tiêu. Đến gần Pắc Xương thì gặp một cáng thương. Dừng lại thăm hỏi thì đó là Chính trị viên phó Tiểu đoàn 80 Đinh Mộng Tiên. Tiên kể: Đang thế thắng, địch rút chạy, sợ gì! Nhưng hành quân chậm vì vướng mìn. Anh Hồng Sơn phải cử một trung đội sang sông tìm đường khác rồi cho toàn thể bộ đội vượt sông sang bờ bên kia đi cho nhanh. Đến gần đồn Pắc Xương, Đại đội trưởng Ninh lên trinh sát vấp phải mìn hy sinh. Đinh Mộng Tiên bị thương vào mông. Từ đó, trung đoàn gọi Tiên là "Tiện Mông".

Quân địch ở Pắc Xương cũng rút chạy nhưng chúng bị một đơn vị Pathét Lào và Tiểu đoàn 920 quân tình nguyện Việt Nam chặn đánh. Đến đây, gần Luông Prabăng, gặp được bộ đội Pathét Lào và quân tình nguyện Việt Nam thật là hạnh phúc.

Đến Pắc Hu, dòng Nậm Hu chảy vào con sông mẹ: đó là sông Mê Kông. Ngã ba sông rộng, hai bờ rừng núi trùng điệp, nước sông xanh ngắt, gần bờ màu lục sẫm, gió núi thổi rào rạt. Tôi và Ngọc Dương vượt sông bằng thuyền, hai con ngựa bơi theo phì phò trong nước lạnh. Sang sông, đi vào con đường có vết chân voi và những bãi phân voi to bằng vành khăn lớn. Gặp đội hình trung đoàn biết tin đang chuẩn bị đánh đồn Bản Na là tiền đồn phía tây của Luông Prabăng do một đại đội lê dương và một trung đội ngụy chiếm giữ.

Trận Bản Na thắng nhanh. Chỉ với súng cối và đại liên yểm hộ, Tiểu đoàn 80 đã tiêu diệt một bộ phận địch, số còn lại tháo chạy về Luông Prabăng. Trinh sát từ Luông Prabăng về báo cáo: Địch tăng viện quân nhảy dù và máy bay vận tải ầm ĩ suốt ngày đêm.

Ngày 13-2-1954, Trung đoàn 36 nhận được điện khen của Bộ Chỉ huy mặt trận và được lệnh ngừng tiến công, cấp tốc quay trở về ngay Điện Biên Phủ.

Trước khi bước vào Đông Xuân 1953-1954, để phân tán lực lượng cơ động địch tập trung tại đồng bằng Bắc Bộ, Bộ Chính trị đã quyết định mở ba hướng tiến công: Tây Bắc, Trung - Hạ Lào, Tây Nguyên; hướng phối hợp là trung du và đồng bằng Bắc Bộ. Như vậy sẽ hình thành bốn mũi tiến công chiến lược. Vì thay đổi phương thức đánh ở Điện Biên Phủ, ta đã đưa một cánh quân đánh sang Thượng Lào, buộc quân Pháp phải tiếp tục phân tán lực lượng đối phó, thành lập thêm hai tập đoàn cứ điểm nhỏ ở Luông Prabăng và Mường Sài. Cuộc lật cánh của Đại đoàn 308 sang Thượng Lào được coi là đòn tiến công chiến lược thứ năm của ta trong Đông Xuân 1953-1954.

NGUYỄN VĂN TY. Mở cửa đồn độc lập / Nguyễn Văn Ty; Hoàng Hà thể hiện // Sách 60 năm chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ bản hùng ca thế kỷ XX. - H. : Văn hóa - Thông tin, 2013. - Tr. 239-249

Vào khoảng giữa năm 1953, Đại đội Tô Văn chúng tôi lại về luyện quân tại một vùng thuộc tỉnh Thái Nguyên. Đã từ lâu, cứ sau mỗi chiến dịch đánh nhau về, là Đại đoàn 308 lại kéo về đóng quân ở đây. Cho nên nhân dân trong vùng, đối với chúng tôi cũng như bà con, cha mẹ mình ở chính quê hương vậy.

Chỉnh quân xong, tôi được đại đội điều từ tổ liên lạc xuống làm Tiểu đội trưởng tiểu đội bộc phá. Quyết định đó làm tôi phấn khởi không tả xiết. Các đồng chí cũng đã biết tiêu chuẩn chọn bộc phá viên: phải dũng cảm và nhất là có phẩm chất chính trị tốt. Được cấp trên tin cậy như vậy, tôi không phấn chấn sao được!

Mùa chỉnh quân năm ấy để lại trong lòng chúng tôi nhiều ấn tượng rất sâu sắc và đã nâng cao trình độ giác ngộ của từng người lên trông thấy. Cho nên, khi bắt tay vào học quân sự thì xuất hiện một không khí hào hứng, sôi nổi chưa từng có. Tuy ngày nào Hencát cũng mò đến, sà xuống bãi tập đùa dai, nhưng chẳng ai lấy thế làm điều sợ sệt, vả chăng cái gì mãi rồi chẳng quen? Thế nhưng, để bảo đảm an toàn, cấp trên cũng lệnh cho các đơn vị phải học tập nhiều về ban đêm.

Lần đầu tiên, chúng tôi học cách đánh lô cốt boongke. Đi tập thì chớ, bước chân về nhà là tán dóc, đoán già đoán non, cứ như "tham mưu trưởng con" cả với nhau: Lần này thì lính Cụ Hồ được về đồng bằng rồi, có bỏ vào cối mà giã cũng không chệch! "Lính" ta ở rừng ở rú bảy, tám năm rồi, anh em phần lớn đều quê ở đồng bằng và trung du cả, ai chẳng mong có dịp may, tụt tạt đảo qua nhà thăm bu nó tý!

Lòng vả chẳng khác gì lòng sung. Bụng dạ tôi cũng thế. Tôi lại vừa nhận được thư nhà ở Bắc Giang, nói bà cụ ốm rất nặng không biết có qua khỏi không. Ban ngày tập tành vui anh em chẳng nói làm gì, đêm về thanh vắng một mình, nằm vắt tay lên trán lại nóng ruột nóng gan thương mẹ. Chà! Giá lần này nhổ hệ thống bốt vùng tôi lại được cấp trên giao cho Đại đội Tô Văn!

... Thu Đông 1953. Mùa hanh heo, mùa khô ráo, mùa hoạt động quân sự, mùa phản công trên khắp các chiến trường của quân ta đã đến. Mọi công việc chuẩn bị cho chiến dịch đã bắt đầu, nhộn nhịp suốt ngày. Ngoài đạn dược ra, còn thấy quản lý đi lĩnh về hàng thùng mắm kem, thuốc lào, muối... Cái trò "lính" cựu đã ăn cơm nắm vài ba chiến dịch, đều tinh ranh hết chỗ nói. Cứ xem cung cách mua sắm ấy là anh em đã đoán trúng thóp: không phải trung du trung diếc gì đâu, mà lại: "Phía tây, đằng sau... quay!... Đi đều... bước! Đến lúc hành quân, càng ngày càng thấy luồn sâu vào rừng, càng phải thắt thêm gạo, có đêm phải mang nhiều bù ít ba mươi kilôgam trên vai, thì cái mộng "đồng bằng" còn vương vấn chút nào cũng đều tan như khói thuốc lào. Thế là... hết tơ tưởng!

Gay cho tôi, lần đầu phụ trách một tiểu đội chưa biết mô tê gì, đã phải làm cái việc khó khăn: động viên, giáo dục, giải quyết thắc mắc. Tự mình giải quyết cho mình thì được, nhưng còn anh em? Đêm nào hành quân, tôi cũng tranh lấy phần nặng, dìu người yếu, cõng người ốm, vượt lên, vòng xuống, quyết không để một ai rớt lại. Ban ngày thì đi tỷ tê, tâm sự với từng người. Dần dần rồi mọi việc cũng đâu vào đó. Đúng lúc nhất là những bức thư từ hậu phương báo tin thắng lợi cải cách ruộng đất thỉnh thoảng lại lên. Cứ một chiến sĩ nhận được tin nhà được chia ruộng là cả đại đội lại vui như Tết. Cho đến khi được phổ biến ý nghĩa tối quan trọng của chiến dịch "Trần Đình" thì không khí lại càng hừng hực như lửa cháy, chỉ muốn được đi đánh nhau ngay.

Nhưng đơn vị tôi vừa nhận một nhiệm vụ chuẩn bị gấp rút khác: mở đường cho cơ giới chở đạn dược, lương thực và kéo pháo vào mặt trận.

Công việc làm toàn vào ban đêm. Dù thế, tàu bay địch cũng vẫn quấy rầy, đêm nào, chúng cũng ầm ầm ì ì suốt, thả đèn dù, bom bươm bướm, bom nổ chậm, bắn phá bừa bãi... Chúng nó đi, chúng tôi lại đốt đuốc lom dom đủ sáng tiếp tục đào, cuốc... Chơi cái trò ú tim như thế suốt đêm kể cũng khó chịu và mất rất nhiều thì giờ, nhưng đường của chúng ta vẫn ngày càng vươn tới, không gì ngăn cản nổi. Đường mở đến đâu, ô tô lại lò dò theo chân vào tới đó. Sướng nhất là khi thấy pháo ta ngất ngưởng đi đến.

- Anh em ơi! Xe có con! Xe có con!

Ấy thế là dân công, bộ đội ùa ra mặt đường, nhảy chân sáo lên mà hò hết, rồi sờ, mó, hoa chân múa tay, ai nói nấy nghe, còi bóp inh tai cũng mặc.

... Công việc mở đường ngày càng gấp rút, thì cuốc xẻng cũng ngày càng thiếu, tôi bàn:

- Lính cách mạng gặp khó khăn thì cũng phải khắc phục, không có cái kiểu bàn lùi. Tiểu đội ta có hai xẻng, một cuốc. Cậu Tuệ, cậu Nho và tôi khỏe, ta khoét hàm ếch. Mai, ba cậu nữa vào rừng chặt cây vạt nhỏ, đứng trên xỉa xuống, đánh dập từng mảnh đất một. Còn lại cậu nào thì đi gánh đất san đường. Cứ thế mà làm, chẳng còn lo thiếu cái dùng, phải đứng chơi không.

Từ đó, mức công việc của tiểu đội tôi cứ lên vùn vụt như diều được gió. Có đêm đổ đầu người đến trên 5 mét khối. Nghe tin, đồng chí Sung, Đại đội trưởng dẫn cán bộ đến nghiên cứu rút kinh nghiệm Tiểu đội 3. Và rồi trung đội nào cũng làm được như vậy. Khó khăn này chưa qua, đã trồi lên khó khăn khác. Gạo ở hậu phương chở lên kìn kìn nhưng vẫn tiếp tế không kịp vì mặt trận ngày càng mở rộng. Trước ăn tám lạng, nay rút xuống chỉ còn có bốn, mà gạo nếp nấu không nở như gạo tẻ. Mỗi người mỗi bữa được nắm xôi nhỉnh hơn cái trứng vịt, gió thổi cũng bay. Thế mà lại làm công việc đào đất, cắt gỗ! Đói ơi là đói. Tiểu đội tôi có cậu Đàm mới mười bảy, đang tuổi ăn tuổi ngủ, đói không chợp mắt được, nằm khóc thút thít như con nít. Thế nhưng đến giờ ra đường, lại tươi rói, lại đào, lại cuốc chẳng chịu kém ai.

Đại đội trưởng Sung bảo:

- Có thực mới vực được đạo. Tinh thần anh em rất tốt, nhưng mình là cán bộ, ta phải biết nuôi quân. Nay mai chiến đấu, không có sức khỏe đánh sao được!

Thế là chi bộ đề ra chủ trương cải thiện sinh hoạt. Tiểu đội tôi có "tay" Cợt là "chuyên gia" đào củ mài. Mình rúc rừng lớ ngớ, chưa biết đầu xuôi đuôi ngược gì, chứ Cợt ấy à, cậu ta chỉ đào một loáng là đã thấy đội về một rổ củ đầy có ngọn. Cợt truyền hết "phép" cho anh em, nên chỉ mấy ngày sau, chúng tôi anh nào đào cũng thạo, chả thua "thầy" mấy nả. Nhờ thế, ngày nhiều bù ngày ít, tiểu đội cũng được đến vài chục cân ghế với cơm, ăn cứ là no căng rốn.

No cơm rồi, giờ mới tính đến chuyện thuốc lào. Cậu Nho, cậu Tuệ và cả cậu Đàm nữa, toàn là những "tay" nghiện loại "A hoa". Mà thuốc lào lúc đó thì quý hơn vàng. Nghe nói có người đòi đổi cái nhẫn vàng lấy nửa bánh mà không được. Sáng ra, chẳng có cái gì "hít", anh em ta ngáp dài ngáp ngắn, ruồi bậu không buồn xua, bí quá làm liều, vò cả lá khô ra hút. Cũng may, tôi lại gặp mấy người quen trong huyện đi dân công xé cho nửa bánh. Quân ta xúm vào, rít liền mấy điếu thông, say sùi cả bọt mép. Thu thu vén vén vào, cái gì cũng đã có, đời lính lại tươi ra tươi. Năng suất làm đường ngày càng cao.

Sau đó, đại đội tôi còn làm một số việc chuẩn bị khác cho đến khi nhận lệnh đánh đồn.

Vị trí Độc Lập này án ngữ con đường từ Lai Châu xuống Điện Biên, gồm hai mỏm đồi cao vài trăm mét, mỏm A và mỏm B. Địch ở đó có chừng bốn, năm đại đội toàn Âu - Phi. Ngoài bộ binh, chúng còn có đại đội súng cối 120 ly. Tất cả đều ở dưới hầm sâu có nắp dày. Lô cốt cũng xây dựng kiểu mới, thấp lè tè. Xung quanh đồn chi chít những dây thép gai, pháo sáng và hàng vạn quả mìn. Những chỗ quân ta có thể triển khai đội hình khi tác chiến, chúng đều "căn" sẵn, có động là pháo binh ở khu trung tâm Mường Thanh và Hồng Cúm lập tức nã về.

Trung đoàn tôi dừng lại làm công tác chuẩn bị chiến đấu trong một khu rừng rậm cách Độc Lập khoảng 2,5km. Trước hết, phải lo ngay chuyện đào hầm. Để có thể đối phó với các đợt oanh tạc và bắn phá của cả máy bay và pháo địch, hầm phải đào sâu đến ba mét, khoét hàm ếch, có nắp dày. Dạo ấy, tàu bay vận tải địch rất "chịu khó" tiếp tế dù cho ta. Anh em đi nhặt về làm trần, hầm nào hầm ấy cứ trắng toát như buồng mổ quân y. Ăn, ngủ... và mọi công việc chuẩn bị đều làm dưới hầm. Trung đội tôi chuẩn bị tất cả 48 quả bộc phá ống.

Trung đội trưởng Sắc bảo:

- Trên chỉ có loại bộc phá khối 20 cân trở lên phát cho ta. Cần phải giã thật nhỏ ra, lèn cho chặt mới bảo đảm. Việc gói bộc phá này, trung đội giao cho các đồng chí khá.

Tôi cũng có tên trong số mười anh em được trung đội trưởng chỉ định. Cả ngày hôm đó, thỉnh thoảng pháo binh địch lại nã tới. Có công sự chắc chắn, chả ai việc gì cả. Chúng tôi hì hục làm suốt ngày, chiều đến, mồm anh nào anh nấy đắng ngắt, chẳng thiết gì ăn uống, mệt bã người. Đã thế, dụng cụ lại rất thiếu. Tre nứa thì chẳng hiếm gì ngoài rừng, ống và lạt anh em tự túc được, nhưng khi lắp dây cháy chậm thì chẳng tìm đâu ra kìm. Bí quá tôi nói:

- Các đồng chí xê ra, để tôi cắn cho.

Ấy là dặn phòng xa vậy thôi, chứ cái kỹ thuật lấy răng cắn thay kìm hồi học ở nhà, thỉnh thoảng tôi vẫn làm.

Trung đội trưởng Sắc bảo: "Đốt thử xem!". Thử hai cái thấy dây cháy chậm và nụ xòe hoạt động rất tốt.

Gói xong, anh em đi đào ngay công sự cho bộc phá. Ở mặt trận, tính mạng con người rất quý đã đành, còn "tính mạng" của bộc phá cũng không thể xem thường được.

Tối đến, đồng chí Sắc dẫn xuống tiểu đội tôi một tân binh, mặt còn non choẹt.

- Đây là đồng chí Á, bắt đầu từ bây giờ thuộc quân số Tiểu đội 3.

Hai mắt Á cứ mở thao láo lúc nhìn trung đội trưởng, lúc nhìn tôi.

Tôi siết chặt tay Á:

- Đồng chí tập tành được đến đâu rồi?

Á nói:

- Học chưa đâu vào đâu cả thì được lệnh đi bổ sung...

Á đang nói thỉnh thoảng dừng lại dỏng tai như tai thỏ, khi có tiếng đại bác nổ trong khu trú quân.

Tôi liền công tác tư tưởng luôn:

            - Đừng sợ. Rồi quen hết. Mai mình sẽ dạy lại cậu động tác đánh bộc phá. Tiểu đội ta, anh nào cũng có quyết tâm thư đốt nổ 100% gửi lên đại đội rồi đó...

Hai mắt Á vẫn cứ thô lố nhìn tôi nói. Cái trán anh chàng càng như dô ra thêm, trông gan góc lạ. Tôi nghĩ bụng: "Chẳng phải tay xoàng đâu. Cũng đáo để ra phết đấy! Chỉ cần qua một lớp "vỡ lòng" lần này là cậu ta sẽ trở thành bộc phá viên cừ cho mà xem".

Sáng sau, tôi dẫn Á ra tập luôn. Cậu ta tiếp thu rất nhanh. Bảo đến đâu làm được ngay đến đấy. Càng tập càng say. Sau đó, ngày nào dù bận đến mấy tôi cũng cố thu xếp được mấy tiếng "quần" cho cậu ta thành thục. Đến hôm đi đánh nhau thì động tác của Á đã bảo đảm. Tôi mừng lắm.

Ngay từ tối hôm mới đến, bộ đội đã được lệnh đi đào giao thông hào từ vị trí trú quân đến tận chân đồn. Đây là những ngày rất căng thẳng. Pháo 105 ly, 155 ly, cối 120 ly bắn cứ như đổ đạn đi vẫn chẳng làm gì được ta. Giao thông hào ngày càng vươn dài ra mãi như một lưỡi dao nhọn chỉ chờ cơ hội là chọc thẳng vào cổ chúng. Đêm ta đào, ngày địch ra lấp. Đêm sau ta lại đào và bố trí những tổ chiến sĩ bắn giỏi ở lại. Chúng ra lấp, anh em "nẻ" chết mấy thằng. Chúng hoảng, rút vào đồn không dám ra nữa. Về phía ta, lác đác cũng có đồng chí bị thương. Nhưng chẳng ai xao xuyến. Á cũng vậy, sau vài lần "tráng miệng" đại bác, cậu ta càng rắn rỏi ra tuồng.

Những trận đánh mở màn đã bắt đầu.

Đêm hôm trước, ta diệt Him Lam, một vị trí án ngữ con đường từ Tuần Giáo vào. Thế là, Điện Biên Phủ có hai cánh cửa, một cái đã bị mở toang. Đêm hôm sau, chúng tôi được lệnh mở nốt "cánh cửa" còn lại: Tiêu diệt đồn Độc Lập. Đại đội tôi nhận nhiệm vụ đánh thẳng lên lô cốt trên mỏm A. Theo quân báo, từ chân đồi lên đó có cả thảy sáu hàng rào. Trong trung đội, tiểu đội tôi sẽ đánh sau cùng, và chiếm giữ lô cốt đầu cầu.

Chúng tôi xuất kích lúc nhập nhoạng tối. Vừa ra khỏi vị trí trú quân thì máy bay ập đến bắn phá xuống đó. May mà bộ đội đã ra hết.

Mưa vẫn rả rích. Trời tối om om như đêm 30 Tết. Giao thông hào úng nước, bùn nhầy nhụa sục đến bắp chân. Chúng tôi cứ lò dò men theo vách hào mà đi. Có tiếng ríu ríu rồi loẹt xoẹt trên đầu. Hình như địch đã phán đoán được hành động của quân ta. Pháo binh của chúng dồn dập bắn xuống dọc hai bờ giao thông hào trục. Bộ đội ta được lệnh đi cách xa nhau để hạn chế thương vong. Lại có tiếng nổ rầm rầm ngay trong giao thông hào phía sau. Một chiến sĩ hy sinh ngay vì bộc phá trúng đạn nổ tung. Tôi cố vượt lên đầu, đứng ở ngách hào chờ cho tiểu đội mình vượt qua. Không! Anh em đều tỏ ra rất bình tĩnh. Cả Á nữa, cậu ta bậm chặt môi, ghì lấy bộc phá, lầm lầm lỳ lỳ. Tôi mừng lắm, rỉ tai từng người:

- Cứ bình tĩnh! Nhớ quyết tâm đấy! Đốt cho kêu, mừng bà con nông dân mình được ruộng.

11 giờ đêm, ta nổ súng. Pháo binh ta, từ những vị trí bí mật nào không rõ, dõng dạc dội ầm ầm lên phía trước. Từng cột lửa dựng lên trên đồn Độc Lập. Bộ đội sướng quá, reo ầm lên. Hồng Cúm, Mường Thanh đáp trả liền. Bấy giờ thì chịu, không thể nào phân biệt được đâu là pháo ta, đâu là pháo địch.

Hai tiểu đội đã lên đánh. Mỗi lần bộc phá nổ liên tục, giòn giã, tôi lại lấy đó nhắc nhở, khuyến khích tiểu đội mình. Pháo địch vẫn nã dồn dập dọc giao thông hào. Có quãng trúng đạn, sụt lở, trước ngập đầu người, nay nông choèn choèn. Mưa ngày càng nặng hạt. Chẳng đợi nhắc, anh em cởi áo mưa quấn cho bộc phá.

Phía trước, Tiểu đội 2 đã đánh đến quả thứ tám. Tôi vẫn nghển lên theo dõi ánh chớp, chợt phát hiện thấy hình như họ đánh chệch sang trái. Cái trò bộc phá là thế, sau một quả đánh chệch thì những quả sau cũng lạc hướng theo, mà đã thế thì không thể nào mở hết rào.

Chẳng kịp suy nghĩ, tôi chen bừa, chạy lên chỗ đồng chí Sắc:

- Báo cáo trung đội trưởng: Tiểu đội 2 đánh chệch hướng rồi!

Đồng chí bảo tôi lên ngay trên đó, tự tay đánh một quả lấy lại hướng.

Chạy được mấy bước thì gặp dốc dựng đứng, trơn tuột như bôi mỡ, tôi rút cuốc, đánh bậc mới lên được.

Quả nhiên, chệch hướng ghê quá! May, không thì mở đến sáng cũng chưa xong. Tôi đưa tiểu đội mình lên đánh tiếp. Mười một quả đều nổ giòn giã, ánh chớp chập đúng hướng lô cốt. Đến lượt Á đánh, tôi lại lên theo, định dặn thêm "Cứ bình tĩnh giật nụ xòa, thấy xì lửa hãy chạy" nhưng xem dáng điệu cậu ta rất ung dung, tự tin, nên lại thôi. Quả thứ 12 tiếp tục nổ.

Tiểu đội tôi đã đánh hết. Nhìn lên hàng rào vẫn còn chi chít. Đạn thẳng từ trên lô cốt vẫn chiu chíu bên tai không lúc nào ngớt. Chỉ còn khoảng ba giờ nữa là sáng bảnh! Rõ ràng không phải là sáu hàng rào, mà là một bãi rào liên miên chăng suốt từ chân đồi lên đến lô cốt.

Bộc phá hết... Rào còn... Kế hoạch định nửa tiếng, nay ba giờ chưa xong... Trung đội mất liên lạc với đại đội... Làm thế nào bây giờ.

Tôi quay xuống được mấy bước thì giẫm phải một đồng chí nằm oằn oại dưới đất.

- Ai đấy?

Tôi nhận ra Khải, thông hiệu của đại đội, thằng bạn nối khố của tôi từ hồi hai đứa cùng ở trong tổ liên lạc. Khi tôi xuống trung đội, mỗi đứa một công tác, nhưng ngày nào hai đứa cũng tìm cách gặp nhau được một lần, tỷ tê hết chuyện vui đến chuyện buồn. Khải là một chiến sĩ rất dũng cảm. Trong trận Tô Vũ, Khải trúng đạn gãy răng, liền giơ tay bịt chặt chỗ môi rách, tiếp tục thổi kèn cho bộ đội xung phong. Bây giờ Khải chỉ còn thoi thóp thở. Khải bị mảnh đại bác, thủng bụng, ruột xổ ra ngoài. Khải rên rỉ, chỉ phều phào được mấy tiếng:

- Ty ơi!... Tao chết mất...

Tôi đưa tay vuốt mắt cho người bạn thân yêu nhất đời, đặt Khải nằm ngay ngắn rồi lảo đảo đứng dậy. Chợt nảy ra một ý nghĩ, tôi chạy vụt đến chỗ đồng chí Sắc, đề nghị trung đội cho anh em đi tìm bộc phá của thương binh.

Được tất cả ba quả. Giật nổ quả đầu, nhìn lại hai quả kia thì thấy kíp đã rơi từ bao giờ!

Tôi bụng bảo dạ:

- Đút lựu đạn vào, thay kíp mà giật...

Nhưng nghĩ lại lo:

- Lựu đạn nổ có mảnh mà dây cháy chậm lại rất ngắn...

Nhìn lên sườn dốc, tôi tính toán. "Không sao, địa hình này chỉ cần chạy được một đoạn ngắn xuống chỗ thấp là an toàn rồi".

Nghĩ đoạn, tôi làm ngay. Quả thứ hai và thứ ba đều nổ. Nhưng rào vẫn còn chi chít. Ít nhất cũng còn 20 mét nữa! Tôi lại hò anh em đi tìm bộc phá lần nữa. Nhưng sờ soạng mãi cũng chẳng còn đâu ra lấy một quả.

Đồng chí Sắc đồng ý và giục tôi vượt ngay ra phía sau tìm cho được đại đội trưởng. Chạy được một quãng thì vừa gặp Đại đội trưởng Sung cũng đang nháo lên đi tìm Trung đội 3.

Tôi báo cáo tình hình vắn tắt.

Đại đội trưởng hỏi:

- Đồng chí có kéo không?

- Báo cáo, có!

- Thế thì lên cắt đi.

Cách đó, tôi cũng đã có nghĩ đến. Lần đánh đồn P.S, chính tôi đã làm như vậy. Hôm ấy, đơn vị đang truy kích địch gấp. Vị trí P.S án ngữ đường tiến quân. Theo kế hoạch đại đội, tôi làm mũi chủ công. Bố trí xong đã lâu mà mũi phụ vẫn chưa đến. Họ đi lạc đường. Trong khi chờ lệnh nổ súng, sẵn kéo và được đại đội đồng ý, tôi cứ tỷ mẩn cắt... cắt mãi... cắt đến tận lô cốt địch vẫn chưa biết. Chúng tôi đánh thốc vào, thì ra thằng địch đang rút. Nhưng chúng chưa tẩu thoát được hết. Đơn vị bắt được một số tù binh.

... Thế nhưng tình hình ở đây thì lại khác. Địch trong đồn Độc Lập cố sống cố chết kháng cự. Lại nữa, đã hơn ba giờ, cắt rì rì, rà rà cho được thì cũng sáng bảnh ra rồi còn gì, tàu bay của chúng đâu chịu để ta yên, bộ đội sẽ thương vong to.

Tôi nói:

- Đề nghị anh cho tôi đi tìm tiểu đoàn xin bộc phá dự bị.

Đồng chí Sung nhăn nhó:   

- Đại đội cũng vừa mất liên lạc với tiểu đoàn...

Tôi quả quyết:

- Anh cứ cho tôi ra thế nào tôi cũng quyết tìm cho được tiểu đoàn...

Tôi nhảy vọt lên mặt giao thông hào chạy cho nhanh. Lúc chiều vừa vào đây, thế mà bây giờ không còn nhận ra phương hướng nữa, hào bị bắn sạt từng quãng dài, có quãng bị lấp hẳn. Tôi đang chạy chợt bị một bàn tay túm lấy cổ chân, tiếp theo là tiếng đồng chí Trung đội trưởng Trung đội 1 gầm lên:

- Muốn chết à? Cậu nào đấy? Xuống hào ngay!

Chẳng tiện trả lời, tôi giật bừa, chạy miết. Cuối cùng, rồi cũng tìm được tiểu đoàn trưởng. Lập tức, anh giao cho tôi một tiểu đội bộc phá dự bị.

Tôi nói:

- Gấp lắm rồi, không đi hào được nữa đâu. Các đồng chí cứ theo tôi chạy, thấy tôi nằm thì phải nằm ngay.

Cứ chạy, nằm, nằm, chạy như vậy, lát sau, chúng tôi đã đến gần đột phá khẩu. Tôi nghe có tiếng nổ rất gần phía sau nhưng nhìn lại vẫn thấy anh em chạy theo.

Đại đội trưởng Sung và Trung đội trưởng Sắc lệnh cho tôi tiếp tục đánh ngay. Tôi bỗng thấy mặt mày xây xẩm, bật ho lên rồi nôn toàn máu tươi.

- Bỏ mẹ rồi, mình bị thương lúc này thì thật chết!

Tôi giơ tay vuốt mặt cùng mình mẩy. Không! Không phải bị thương! Chỉ là do sức ép thôi, không việc gì!

Đến bộc phá viên thứ sáu, tôi thấy đồng chí này giật nụ xòe cứ run bắn lên. Nhìn kỹ vào tay đồng chí đó, tôi suýt bật kêu lên. Bàn tay ròng ròng những máu. Đồng chí bị thương nặng lúc chạy lên đồn địch nhưng vẫn cắn răng chịu đau, không nói gì cả.

Còn cách lô cốt khoảng 5 mét thì địch bắt đầu ném lựu đạn ra. Trung đội có mấy khẩu trung liên thì vừa tắc vừa hỏng cả. Đồng chí Sắc cho nhặt lựu đạn giao cho chúng tôi. Tôi trườn lên ném luôn sáu quả vào lỗ châu mai yểm hộ cho bộc phá lên. Đến quả thứ chín, tôi giao đống lựu đạn cho hai chiến sĩ rồi dùng súng trường bắn vào lỗ châu mai. Phía sau, hai đồng chí ném lớ ngớ thế nào, một quả lựu đạn rơi độp ngay trước mặt tôi, tôi chỉ kịp hắt lên được một thước, nó đã nổ tung. Tôi tối sầm cả mặt mũi, chẳng còn thấy gì nữa cả. Nhưng chỉ giây phút sau, định thần được, tôi gọi anh em tiếp tục lên đánh. Hai mi mắt nặng như chì, phải lấy tay vành ra mới quan sát được. Lô cốt kia rồi, chỉ cần một quả nữa thôi...

Khi quả bộc phá cuối cùng nổ vang thì tôi đã quá kiệt sức, ngất đi nhưng cũng còn kịp nghe tiếng hô xung phong của xung kích. Trận đó, trong tiểu đội tôi, các cậu Nho, Đàm, Tuệ, Cợt, Á... đều lập được công. Riêng tôi được tặng thưởng Huân chương Quân công hạng Ba.

Thế là cả hai cánh cửa của tập đoàn cứ điểm đã bị mở toang. Bộ đội ào ạt xông lên. Tin quân ta hoàn toàn giải phóng Điện Biên Phủ đến khi tôi vẫn còn đang nằm điều trị tại quân y tiền phương...

ĐẠI ĐỒNG. Cứ điểm thứ ba / Đại Đồng // Sách 60 năm chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ bản hùng ca thế kỷ XX. - H. : Văn hóa - Thông tin, 2013. - Tr. 250-261               

Phân khu bắc Điện Biên Phủ gồm ba trung tâm đề kháng: Him Lam, Độc Lập và Bản Kéo. Theo đánh giá của địch, đó là bức lũy thép che chở phía bắc khu trung tâm Mường Thanh.

Trong liền hai đêm 13 và 14-3-1954, mở màn trận tấn công tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ, Him Lam rồi Độc Lập lần lượt bị quân ta tiêu diệt. Chỉ còn lại Bản Kéo như một cái chân què đứng chênh vênh ở góc phía tây. Số phận của nó thực sự đã được quyết định. Quân ta đang đào chiến hào, đánh một cái thòng lọng, chờ giờ phút thắt vào cổ nó.

Sau ngày quân ta làm chủ vị trí Độc Lập, tôi nhận được lệnh lên đồn giúp đồng chí Lê Đôi, cán bộ địch vận, giải quyết vấn đề binh lính địch chết và bị thương.

Dưới làn sương mờ buổi sớm, tôi đi men trên mặt con hào xuất kích. Con hào bị đại bác, súng cối địch bắn vỡ nát. Từng quãng, từng quãng, đất lở lấp gần kín lòng hào. Cái cửa mở còn in lại dấu vết của những đợt xung phong ác liệt. Hàng rào dây thép gai đứt tung, đất nhão nhoét, đen sạm thuốc súng và loang lổ từng vũng máu. Một chiếc giày vải còn giữ lại trong lòng nó bàn chân người chiến sĩ anh dũng, nằm sâu trong mớ dây thép gai bùng nhùng. Gần đây, một chiếc mũ nan rách bươm úp vào đuôi một ống bộc phá không nổ. Chính ở chỗ này, trong những phút quyết định đã có hàng chục đồng chí của tôi ngã xuống, hiến dâng đời mình cho thắng lợi.

Đồng chí cán bộ địch vận ra đón, cho tôi biết: trung đoàn yêu cầu nội trong hôm nay phải thu nhặt hết thương binh của địch, băng bó, cho ăn uống... và chuyển dần chúng về tuyến sau. Ngoài ra còn phải tranh thủ chôn cất những xác chết.

- Chúng ta có bao nhiêu người?

- Có ai đâu, ngoài tôi, đồng chí và một cậu y tá.

- Sao không xin thêm người giúp?

- Người ở đâu ra? Sau một cuộc chiến đấu lớn, trung đoàn có biết bao nhiêu việc phải làm? Còn xin người ở đội phòng ngự thì mình đã xin rồi đấy. Kế hoạch bố trí của họ sít sao lắm. Một đại đội phải phân ra chiếm lĩnh cứ điểm một tiểu đoàn. Cố gắng lắm mới bớt cho mình được một y tá. Họ dặn: hễ nổ súng là phải trả ngay. Riêng chúng mình cũng cần phải kiếm một công sự tốt, một ít vũ khí, chuẩn bị đánh phòng ngự đi. Kẻ địch chưa phải đã từ bỏ ý định chiếm lại vị trí này đâu.

Khối lượng công việc nhiều quá, tôi bàn với đồng chí Đôi cố "moi" ở đâu cho ra lấy vài tay giúp sức. Đồng chí Đôi nảy ra một sáng kiến:

            - Hay là ta lấy thương binh nhẹ của địch đi làm việc này?

Đúng! Nhưng, hầu hết thương binh nhẹ của địch, loại có thể làm được việc đều đã được đưa về trạm tù binh. Chúng tôi chỉ còn kiếm được hai người lính da đen, một là hàng binh, một bị thương nhẹ ở trán.

Trước khi bắt tay vào việc, chúng tôi cần củng cố chỗ đứng đã. Đồng chí Đôi và tôi khuân một khẩu trung liên, nửa hòm lựu đạn chiến lợi phẩm vào một vị trí chiến đấu thuận lợi. Chỗ vũ khí đó giúp chúng tôi đối phó với địch nếu chúng phản kích.

Xong, đồng chí Đôi, tôi và đồng chí y tá đưa hai người lính da đen đi làm việc.

Khu đồn rộng mênh mông. Nhiều chỗ bị đại bác ta bắn sập. Chúng tôi phải len lỏi vượt qua những ngách hào hẹp, những đống xác địch chưa kịp chôn cất để sục vào từng căn hầm tối om tìm kiếm những tên bị thương nằm sâu trong ấy. Tất cả còn lại ngót hai chục, đều bị thương nặng. Có đến năm sáu tên bị thương từ mươi hôm trước, trong các cuộc đụng chạm với đội trinh sát của ta. Vì không được cứu chữa tử tế nên vết thương đã lúc nhúc dòi bọ, mùi hôi thối bốc lên nồng nặc cả gian hầm.

Đồng chí y tá đang băng cho một tên thì có tiếng máy bay địch rú lên như bò bị chọc tiết, tiếp đó là tiếng hai quả bom nổ rất gần. Căn hầm bị lắc mạnh, xà ngang kêu răng rắc. Tên thương binh địch hoảng hốt ôm chầm lấy người cứu chữa mình, làm máu mủ, dòi bọ sang đầy mặt. Đồng chí y tá quay đi, lấy khăn chùi, lẩm bẩm:

- Hừ, lại bom! Trả ơn người cứu chữa thương binh của chúng mày thế à?

Băng bó và cho thương binh địch ăn uống xong, chúng tôi khiêng chúng tập trung vào một chỗ, nói chuyện về chính sách khoan hồng và lòng nhân đạo của quân đội ta, khuyên chúng yên tâm, chờ đến tối sẽ được chuyển về trạm quân y cứu chữa chu đáo. Có tên tỏ lòng biết ơn, có tên chắp tay làm dấu cầu Chúa.

Gần hai giờ chiều, mới làm xong công việc. Đồng chí Đôi ra máy điện thoại báo cáo về Ban Chính trị trung đoàn. Tôi ngồi làm danh sách thương binh địch, chuẩn bị nộp lên ban địch vận cấp trên. Hai người lính da đen nhóm bếp rán khoai tây, dọn bữa ăn trưa.

Lúc vừa ăn, tôi chú ý tìm hiểu họ. Xem sổ lính, tôi được biết người hàng binh tên là Môhamét, cai nhì, còn tên lính bị thương là Mêđien, binh nhì. Cả hai đều quê ở Angiêri, trước khi vào lính làm công nhân khuân vác. Môhamét có vẻ hiểu biết chính trị. Trong trận chiến đấu vừa qua, anh toàn bắn lên trời. Khi bộ đội ta vào đồn, Môhamét xin hàng ngay và xung phong làm nhiệm vụ chỉ đường cho bộ đội ta chiến đấu. Còn Mêđien thì có vẻ ngộc nghệch. Hắn mới bị bắt ra lính. Hắn không hiểu gì về cuộc chiến đấu chính nghĩa của nhân dân Việt Nam. Hắn đã chống cự lại bộ đội ta theo đúng lệnh của tên thiếu úy Pháp cho đến lúc tên này bị giết. Vì thế, lúc đầu, hắn chắc mẩm là sẽ bị giết, như bọn sĩ quan vẫn tuyên truyền. Nhưng sau khi bị bắt, trước thái độ đối xử của bộ đội ta, hắn đã dần dần hiểu ra được ít nhiều.

Một tràng bom nổ ở đầu đồn phía bắc. Máy bay địch bị cao xạ pháo ta bắn đuổi, vội vã vút lên cao rồi cút mất. Một người nhảy bổ từ ngoài cửa hầm vào. Tôi nhận ra đồng chí Lê Đôi.

- Bom bỏ có thiệt hại gì không? Địch tấn công à?

- Không. Có việc quan trọng đấy.

- Đồng chí chính ủy trung đoàn vừa gọi điện thoại lệnh cho chúng tôi phải thu xếp để đêm nay trao trả một đợt thương binh cho địch ở đồn Bản Kéo. Một mặt, cấp trên sẽ dùng điện đài báo cho bọn chỉ huy địch ở Mường Thanh biết, đòi chúng cử đại diện ở đồn Bản Kéo sáng mai ra tiếp nhận. Một mặt, chúng tôi ở đây phải viết một bức thư báo tin cho bọn chỉ huy đồn Bản Kéo. Kèm theo thư này là bức tối hậu thư hạ lệnh cho đồn Bản Kéo phải đầu hàng trước 17 giờ ngày mai - ngày 17-3. Chúng tôi phải chọn trong số thương binh nhẹ của địch lấy một binh nhì để làm việc mang thư đi ngay chiều nay.

Đồng chí Đôi giải thích thêm: theo tin quân báo, sau khi Him Lam và Độc Lập bị tiêu diệt, bọn địch ở đồn Bản Kéo hết sức hoang mang. Biểu hiện rõ nhất là trước việc quân ta đào hào bao vây, chúng không dám chống cự. Không một đứa nào dám thò ra khỏi công sự để lấy nước ăn tại con suối ngay dưới chân đồn. Trước tình hình đó, ta trao trả tù binh bị thương cho chúng nhằm mấy mục đích như sau:

Một là, để chúng thấy cụ thể chính sách nhân đạo của ta đối với tù binh. Khi tù binh bị thương rơi vào tay ta, ta tận tình chăm sóc cứu chữa, không hành hạ, sát hại và sẵn sàng trao trả cho chúng như ta đã thường làm ở Thất Khê, Thái Nguyên.

Hai là, qua miệng tù binh được thả về, địch ở Bản Kéo này, nhất là số ngụy binh người Thái có thể thấy rõ nếu cứ theo bọn chỉ huy, ngoan cố chống lại ta thì sẽ phải chịu những đòn sấm sét như thế nào, nhưng nếu biết hạ súng đầu hàng sớm, thì sẽ được khoan hồng. Do đó, họ rất có thể sẽ nổi dậy làm một cuộc phản chiến để chạy về phía ta.

Nội dung của bức tối hậu thư cũng bao hàm mấy điểm trên. Còn việc đào hào, tích cực tổ chức bao vây của chúng ta là để sẵn sàng thực hiện biện pháp cuối cùng nếu chúng cố tình không chịu nhận ra lẽ phải, không chịu nghe những điều ta đã nêu trong tối hậu thư.

Lúc này, tôi mới hiểu ra vì sao đồn Bản Kéo chỉ ở cách cứ điểm Độc Lập chưa đầy nghìn mét, trong tầm trọng liên 12 ly 7, ĐKZ mà không thấy chúng bắn sang một phát đạn nào.

Chúng tôi bàn nhau cách chấp hành mệnh lệnh. Hai người nhất trí sẽ chọn Mêđien làm việc đưa thư.

Chúng tôi không sử dụng Môhamét vì anh là hàng binh. Trong số thương binh được trả, có tên đã trông thấy Môhamét dẫn đường cho bộ đội ta chiến đấu. Đó là một mặt. Mặt thứ hai là vấn đề cảnh giác. Trung đoàn đã chỉ thị phải chọn một tên lính. Dù sao, Môhamét đã làm cai. Anh ta đã đi lại trong đồn, có thể biết qua sự bố trí của đại đội phòng ngự. Nếu anh ta bị chúng tra khảo mà không giữ vững được tinh thần? Còn Mêđien, chỉ là lính trơn, là tù binh.

Quyết định của chúng tôi được Ban Chính trị trung đoàn chuẩn y. Tôi tưởng giao nhiệm vụ cho Mêđien sẽ dễ dàng. Nhưng không ngờ, Mêđien từ chối. Anh ta khẩn khoản nói:

- Trước đây, tôi chưa hiểu gì về Quân đội nhân dân Việt Nam. Tôi sợ bị ngược đãi nên tôi đã chống cự. Nhưng nay tôi đã rõ: con đường sống của tôi là đi về trại tù binh. Vác đạn, tải thương, lao công, gì tôi làm cũng được. Tôi không muốn về với bọn Pháp một giờ nào nữa.

Tôi giải thích đi, giải thích lại rằng đây là một việc cần thiết, là một việc cùng chống kẻ thù chung là đế quốc Pháp. Còn Mêđien vào Bản Kéo cứ khai là tù binh bị bắt buộc làm việc này, bọn sĩ quan sẽ không xử tội. Khi bộ đội ta đánh vào, anh hãy tránh vào một hầm trú ẩn nào đó rồi chờ lúc ra hàng. Tôi nói thêm: nếu Mêđien tích cực làm công việc này có kết quả, đồn Bản Kéo ra hàng, thì khi trở lại với quân đội Việt Nam, anh ta sẽ được khen thưởng...

Giữa lúc chúng tôi đang trao nhiệm vụ cho Mêđien thì Môhamét tới. Biết chuyện, Môhamét suy nghĩ một lúc rồi ngập ngừng đề nghị:

- Nếu các ông tin tôi thì để tôi đi thay cho Mêđien. Tất nhiên bản thân tôi cũng không mong trở lại với cái quân đội bẩn thỉu ấy.

Vì những lý do đã nói ở trên, chúng tôi không thể để Môhamét đi được. Tôi bảo Môhamét động viên bạn. Cuối cùng Mêđien nghiêm trang đáp:

- Vâng. Tôi xin phục tùng mệnh lệnh. Cho phép tôi được hứa: Tôi sẽ không bao giờ nhằm súng bắn vào các ông nữa.

Tôi nhìn Mêđien, tỏ ý tin lời anh ta nói. Tôi bảo Môhamét chuẩn bị bữa ăn chiều thật sang cho Mêđien.

5 giờ chiều, ngớt máy bay, tôi cho Mêđien ra đi. Đồng chí Đôi giao cho anh ta hai tập truyền đơn địch vận. Tập nhỏ Mêđien sẽ giao cùng với hai bức thư cho tên chỉ huy đồn Bản Kéo. Tập thứ hai, nhiều hơn, Mêđien giấu ở trong người, tìm lúc thuận tiện sẽ phát riêng cho binh lính trong đồn.

Cửa chắn mở ra, Mêđien xin được phép bắt tay tôi tỏ cảm tình lưu luyến. Môhamét ôm hôn, từ biệt bạn. Mêđien thong thả xuống đồn, đầu quấn khăn trắng, tay cầm một lá cờ trắng làm hiệu. Tôi chăm chắm theo dõi cái dấu trắng ấp bập bềnh trong làn sương chiều cho đến khi nó lấp sau quả đồi con, cạnh đồn Bản Kéo. Sau lưng tôi, Môhamét buông một tiếng thở dài.

Màn đêm trùm xuống. Cứ điểm Độc Lập vụt náo nhiệt hẳn lên. Các chiến sĩ một tiểu đoàn chủ lực ập vào đầy đồn, làm nốt công việc thu dọn chiến trường.

Chúng tôi nhận được một trung đội bộ đội tải thương đến cáng thương binh địch đi trả. Vì một cán bộ tham mưu nào đó đã sơ suất không phổ biến cho anh em mang theo vũ khí, nên họ chỉ đến tay không. Đồng chí trung đội trưởng hỏi tôi:

- Nếu gặp địch phục kích thì sao?

Câu hỏi rất có lý. Nếu việc đó xảy ra thì ai chịu trách nhiệm trước tính mạng của mấy chục chiến sĩ? Nhưng, mệnh lệnh cần chấp hành ngay. Chúng tôi liền hội ý chớp nhoáng tìm cách giải quyết. Không thể quay về xin lực lượng, cũng không thể mượn người của đơn vị trên đồn, chúng tôi đành nhặt tạm một số vũ khí chiến lợi phẩm còn dùng được, trang bị cho anh em. Mấy đảng viên phân công nhau; tôi đi đầu, dẫn đường, cùng với đồng chí trung đội trưởng và một tổ chiến đấu. Nếu gặp địch thì sẽ đánh chặn chúng, bảo vệ cho đại bộ phận đằng sau rút lui. Đồng chí Đôi đi sau cùng với anh em. Giải thích cho thương binh địch xong, chúng tôi cho cáng họ đi.

Trong đêm tối mờ mịt, tôi cứ chiếu thẳng hướng đồn Bản Kéo đưa anh em qua những mặt ruộng phẳng, những quả đồi lởm chởm, mắt mở căng nhìn những địa hình che khuất, tay nắm chặt khẩu cácbin, sẵn sàng nhả đạn.

Vượt qua đường chiến hào của đơn vị bao vây, không gặp một ai, chúng tôi tiến thẳng đến gần chân đồn. Để bảo đảm an toàn cho bộ phận phía sau, tôi cùng đồng chí trung đội trưởng tiến lên trước, bí mật sục sạo vào những chỗ khả nghi. Một tiếng động nhỏ phát ra từ con suối trước mặt. Hai chúng tôi trườn xuống, ném thử một hòn đất. Một con chim bay vút ra. Im lặng. Không có gì hết. Phải chăng bọn địch ở Bản Kéo đã mất hết tinh thần chống cự?

Cảnh giới xong, chúng tôi đưa đại bộ phận lên. Anh em chọn một khoảnh đất phẳng, khuất gió, đặt những cáng thương binh địch vào đấy, đắp chăn ấm cho chúng. Tôi đi đến từng cáng thương, thì thào giải thích một lần nữa ý định trả chúng về đồn Bản Kéo, khuyên chúng im lặng, chờ đợi sẽ có người của chúng ra nhận.

Quay về đồn, tôi thấy Môhamét đang ngồi với cậu y tá, chuẩn bị sẵn bữa ăn tối, chờ tôi. Tạm xong công việc, tôi cho cậu y tá trở lại đơn vị cũ, rồi lăn ra đánh một giấc.

Sớm hôm sau, thức dậy, tôi ra cửa hầm xem tình hình. Thương binh địch nằm trên cáng đang ngồi nhỏm dậy, ồm ồm trò chuyện, trao đổi với nhau.

Trời sáng dần. Vẫn không thấy trong đồn Bản Kéo có động tĩnh gì. Thương binh địch nằm giữa hai trận tuyến chừng đang hoang mang lo sợ. Có kẻ tụt ra khỏi cáng, cố lê từng bước về phía đồn Bản Kéo. Ngược lại, có người bò về phía chúng ta.

Trong đầu óc tôi vụt bừng lên những ý nghĩ... Bọn địch có thể bỏ mặc thương binh của chúng nằm trơ ở đây. Số phận họ sẽ ra sao nếu xảy ra một cuộc chiến đấu? Trách nhiệm chấp hành chính sách tù binh của Đảng giao cho, tôi sẽ không làm tròn.

Không kịp nghĩ gì hơn, tôi hội ý với đồng chí Đôi rồi đi ngay ra chỗ thương binh địch. Một chiến sĩ điện thoại trẻ tuổi xung phong đi cùng. Tôi giao cho đồng chí ấy khẩu cácbin để tự vệ còn mình thì thủ hai quả lựu đạn vào túi quần. Đến phút cuối cùng, tôi quyết định kéo cả Môhamét đi theo. Anh ta xách một xô nước và một bì bánh.

Trông thấy tôi đến, thương binh địch mừng rỡ reo lên. Những kẻ đang lê về phía đồn Bản Kéo cũng quay trở lại. Tôi giải thích cho họ:

- Quân đội Việt Nam không bỏ mặc các anh đâu. Nếu bọn chỉ huy các anh trốn tránh trách nhiệm; chúng tôi sẽ đưa các anh về trạm quân y cứu chữa đến khi lành mạnh.

Tôi cùng Môhamét cho từng thương binh uống nước, ăn bánh. Họ đều tỏ lời cảm ơn.

Giữa lúc đó, tôi nhìn thấy một toán địch lố nhố hành quân ra khỏi đồn Bản Kéo. Chúng đi đâu? Đến lấy thương binh hay mở cuộc tấn công? Sao không thấy có cờ trắng như quy định?

Dù thế nào tôi cũng không thể rút khỏi chỗ này! Để đề phòng bất trắc, tôi bảo đồng chí liên lạc đưa Môhamét lui về nấp trong lòng con suối đằng sau. Tôi dặn trước:

- Nếu chúng nổ súng, cứ mặc tôi đối phó, đồng chí dẫn Môhamét rút nhanh về đồn Độc Lập, yêu cầu đơn vị trên ấy bắn xuống tiêu diệt địch.

Hai người đi khỏi. Tôi rút sẵn chốt một quả lựu đạn, thủ trong túi, đứng giữa những cáng thương, chờ đợi. Nếu chúng trở mặt thì với hai quả lựu đạn và khẩu súng ngắn tôi cũng có thể mở một đợt tấn công cuối cùng...

Bọn địch tiến đến gần. Một số mang băng ca. Viên sĩ quan đi đầu mang băng tay hồng thập tự. Tôi hô:

- Đứng lại!

Chúng làm theo. Riêng viên sĩ quan bước lên thêm mấy bước, giơ tay chào, nói:

- Chúng tôi tới nhận những người bị thương.

Tôi hô to mấy khẩu hiệu nghi binh, rồi bảo hắn:

- Đã lệnh cho đại đội bố trí quanh đây không bắn vào các anh. Các anh có thể tiến lên làm nhiệm vụ.

Viên sĩ quan bước tới trước mặt tôi, giơ tay ra. Nhưng hai tay tôi mắc giữ lựu đạn trong túi quần, tôi khẽ lắc đầu:

- Vào việc đi. Các anh đã nhận được thư của chúng tôi rồi chứ?

- Vâng. Chúng tôi đã nhận được.

- Các anh nghĩ như thế nào về bức thư thứ hai, bức tối hậu thư?

Tôi nói chưa dứt lời thì có tiếng đạn cối nổ ở phía đồn Bản Kéo.

Quan lính địch cuống cả lên. Viên sĩ quan hấp tấp đề nghị:

- Xin các ông ngừng bắn!

- Được!

Tôi gọi đồng chí liên lạc báo cho trên đồn Độc Lập biết, đề nghị tiểu đoàn trên đó tạm ngừng bắn trong lúc trả thương binh. Trên đồn trả lời: trung đoàn đã cho lệnh thôi bắn. Tôi báo cho viên sĩ quan biết lệnh ấy và nhân thể tôi nói thêm:

- Đó, Điện Biên Phủ đã bị bao vây chặt. Hai trường bay Gia Lâm và Cát Bi bị tấn công phá hủy hàng sáu, bảy chục chiếc máy bay. Nếu không sớm ra hàng, các anh sẽ bị tiêu diệt.

Viên sĩ quan ủ rũ đáp:

- Chúng tôi hiểu. Nhưng đại úy đồn trưởng chưa dám quyết định. Chắc các ông cũng biết: Không đánh mà hàng, gia đình chúng tôi ở bên Pháp sẽ bị trừng phạt như thế nào. Ông xem...

Hắn đưa cho tôi xem thẻ sĩ quan. Tôi rút một tay trong túi ra cầm lấy, liếc mắt xem: Tên: Vécgađe; cấp bậc trung úy... Trong thẻ có gài một tấm ảnh 6x9 in hình một thiếu phụ Pháp bế đứa bé khoảng hai tuổi. Vécgađe thở dài:

- Tôi người Pari. Tôi cũng muốn sống để trở về với những người trong ảnh. Ôi! Chiến tranh!...

Tôi quay sang nói chuyện với số binh lính Thái đang chuyển thương binh lên cáng về tình hình Điện Biên Phủ bị bao vây, về chính sách khoan hồng của Chính phủ đối với ngụy binh, về quê hương Tây Bắc của họ đang đổi mới. Vécgađe nhún vai, không can thiệp. Chỉ có tên đội trưởng trừng mắt hạ lệnh cho lính: "Làm đi". Tôi trừng mắt nhìn hắn:

- Cả anh nữa, cũng nghe đây. Đồn Bản Kéo sắp sửa bị tiêu diệt. Muốn khỏi chết, các anh hãy sớm rủ nhau bỏ đồn, chạy về phía Quân đội nhân dân Việt Nam. Các anh sẽ được tự do, trở về quê hương, trở về với gia đình.

Thời gian ngắn ngủi, tôi chỉ nói được với họ những điều thiết thực nhất. Cuối cùng tôi dặn:

- Cứ hướng đồn Độc Lập mà chạy. Sẽ có đại bác bắn yểm hộ cho các anh.

Những người lính Thái tỏ ý hết sức chú ý lắng nghe. Họ không dám bắt chuyện nhưng mắt họ như muốn nói: "Chúng tôi đã hiểu"...

Khi binh lính đã chuẩn bị cáng xong, viên trung úy Vécgađe kiểm lại danh sách và làm giấy biên nhận. Hắn chào tôi, ra về. Tôi nói to:

- Chúc tất cả các anh chóng bình phục và sớm tìm được con đường sống.

Một số thương binh địch đáp lời:

- Xin cảm ơn quân đội Việt Nam.

Chúng tôi quay về chỗ con suối. Đồng chí liên lạc trẻ tuổi vẫn cầm ngang khẩu cácbin đứng đợi. Bên cạnh là Môhamét, nét mặt tươi cười, chạy lại chúc mừng tôi.

Chúng tôi phấn khởi về đồn Độc Lập như những người chiến thắng. Tại đây, tôi chia tay Môhamét. Anh ta khẩn khoản:

- Nếu có thể được, xin ông đề nghị với cấp trên cho tôi được đi theo quân đội Việt Nam để đánh lại thực dân Pháp như nhiều bạn Angiêri của tôi đã và đang làm.

Ba giờ sau. Trong đồn Bản Kéo nổ ra một cuộc binh biến. Lính Thái rủ nhau kéo lên hầm tên quan ba đồn trưởng, đòi thỏa mãn yêu sách:

1. Phát hết khẩu phần lương thực.

2. Giải tán về quê hương làm ăn.

Lũ sĩ quan chẹn cửa hầm, quát:

- Về vị trí, chờ lệnh!

Lính Thái hô ầm lên:

- Không đánh thuê nữa! Giải tán! Đi thôi anh em!...

264 binh lính, trong đó có một viên trung úy người Thái phá hủy mấy khẩu 12 ly 7, ĐKZ, rồi mang toàn bộ vũ khí nhẹ chạy sang hàng ngũ Quân đội nhân dân Việt Nam, y như điều hẹn trong bức tối hậu thư.

Viên quan ba đồn trưởng ra lệnh bắn đuổi theo. Đã có chuẩn bị, những quả đạn đại bác 105 ly và súng cối 82 ly của ta lập tức giọt vào đồn, làm cho những tên còn lại hoảng lên, bỏ chạy tán loạn về Mường Thanh, còn trơ mấy viên sĩ quan. Cuối cùng, bọn này cũng vội vàng chuồn nốt. Đại bác địch từ Mường Thanh vội vã bắn ra, nhưng những người lính Thái phản chiến đã an toàn trở về với chúng ta.

Buổi tối hôm ấy, tôi đến trạm đón tiếp hàng binh. Một vài người lính Thái trông thấy tôi, reo lên:

- Chào anh ạ. Chúng em đã làm theo đúng lời các anh dặn.

Tôi hỏi họ về Mêđien. Một người cai cho biết.

- Mêđien đã bị giải về Mường Thanh từ sáng hôm nay. Vì có một tên đội Pháp tố cáo anh ta phân phát truyền đơn cho binh lính.

Tôi hình dung lại khuôn mặt chất phác của Mêđien và thầm lo cho số phận của anh.

Đồn Bản Kéo ra hàng. Quân ta lấy được một trung tâm đề kháng mà không tốn một giọt máu.

Năm mươi ngày sau. Quân ta hoàn toàn chiến thắng ở Điện Biên Phủ.

Đơn vị tôi nhận lệnh cấp tốc trẩy xuôi, mở chiến trường mới. Trên đường hành quân, chúng tôi gặp một trạm tù binh. Bọn chúng đang xách càmèn tập hợp, chờ nhận khẩu phần súp thịt bò, nét mặt hoan hỉ, miệng bô bô chuyện trò rầm rĩ. Một người lính da đen cao lớn, tay đeo băng đỏ đứng ngoài hàng làm nhiệm vụ chỉ huy. Động tác, khẩu lệnh dứt khoát, thái độ đường hoàng. Một tù binh đã lĩnh xong khẩu phần của mình lại lộn xuống xếp hàng, toan lĩnh chuyến nữa. Người lính da đen chỉ huy kiên quyết đuổi ra. Xong việc, anh ta quay về phía bộ đội chúng tôi đang hành quân. Chợt nhận ra khuôn mặt quen quen, tôi vui vẻ gọi to:

- Mêđien!

Anh lính da đen ngơ ngác tìm kiếm giây lát rồi reo một tiếng đồng thời chạy băng băng từ bãi cỏ lên mặt đường. Anh ta quờ cả hai bàn tay sù sì mập mạp nắm lấy tay tôi:

- Môngsiơ... Camarát... (Thưa ông… Thưa đồng chí)

Chúng tôi nhắc tới những từ: Độc Lập - Bản Kéo - Việt Nam - Angiêri và Điện Biên Phủ.

Đơn vị hành quân qua hết, tôi chia tay Mêđien. Mêđien đứng tại chỗ, rướn người lên, giơ cao tay vẫy cho đến khi tôi đi khuất sau một khuỷu đường.

Chắc chắn người lính Angiêri ấy từ nay không khom lưng nữa.

LÊ TRỌNG TẤN. Đường vào sở chỉ huy Đờ Cát / Lê Trọng Tấn // Sách 60 năm chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ bản hùng ca thế kỷ XX. - H. : Văn hóa - Thông tin, 2013. - Tr. 319-328

Trong đợt 3, nhiệm vụ của Bộ Chỉ huy mặt trận trao cho Đại đoàn 312 chúng tôi là tiêu diệt các cứ điểm 505A, 505B. Đây là hai trong số những cứ điểm cuối cùng nằm trước cầu Mường Thanh dẫn tới Sở Chỉ huy của tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ. Những cứ điểm này đều ở trên địa hình bằng phẳng. Chúng tôi biết nhiệm vụ của đại đoàn sẽ không dừng lại ở đây. Và trên đường vào sở Chỉ huy của Đờ Cát những trận đánh chắc sẽ diễn ra quyết liệt.

Để bảo đảm cho Trung đoàn 209 hoàn thành nhiệm vụ, chúng tôi huy động lực lượng cơ quan thành lập các đơn vị vận tải, đặt tên là đội "Vinh Quang", làm nhiệm vụ chuyên chở lương thực, đạn dược lên tuyến lửa và đưa thương binh về phía sau.

Bộ Tư lệnh đại đoàn theo dõi kết quả đánh lấn của từng đêm. Ban ngày, chúng tôi cùng anh em cán bộ rà soát lại kế hoạch tiến công tới từng mũi. Anh Quang Trung xuống Trung đoàn 209 cùng Trung đoàn trưởng Hoàng Cầm kiểm tra và trực tiếp tổ chức tiến công cứ điểm 505B.

Vị trí 505B nằm cạnh đường số 41 về phía tay trái, bên tay phải là vị trí 105A. Tiếp đó là hàng loạt vị trí nối liền nhau: 506, 507, 508, 509 chạy tới cầu Mường Thanh.

Tiểu đoàn 166 được trao nhiệm vụ đánh cứ điểm 505B. Đúng như dự đoán, trận đánh diễn ra hết sức ác liệt. 20 giờ 30 phút, Trung đoàn 209 chiếm được cửa mở sau nhiều lần phải dừng lại để củng cố. 20 giờ 45 phút, quân ta vào được cứ điểm địch, chia làm hai mũi phát triển. Nhưng đây là trung đội cuối cùng của đại đội chủ công. Bộ đội ta lọt giữa vùng hỏa lực dày đặc của địch. Phía nào cũng có súng bắn tới. Dũng cảm và mưu trí, anh em chia nhau diệt từng hỏa điểm địch. Một số khẩu tiểu liên bắn nhiều bị tắc. Các chiến sĩ phải dùng lựu đạn để đánh từng ổ đề kháng.

21 giờ 27 phút, tiểu đoàn quyết định đưa thê đội 2 vào chiến đấu. Từ cứ điểm 508 ở phía trong, địch tung bộ binh và xe tăng ra phản kích. Trong khi thê đội 2 chưa lên kịp, bộ đội ở trong cứ điểm vẫn giữ vững trận địa, tự động đánh địch. ĐKZ của ta bắn đứt xích chiếc xe tăng. Các chiến sĩ bám sát từng ngách hào, chiến đấu bằng lựu đạn.

Đường vào 505B vừa nhỏ hẹp, vừa trơn. Pháo địch bắn chặn không ngớt. Pháo của ta cũng bắn vào 507, trận địa pháo địch và trên các đường địch di chuyển để yểm hộ cho thê đội 2. Hai trung đội tăng viện của ta cuối cùng vẫn lọt được vào trong cứ điểm địch. Có thêm lực lượng tăng viện, 4 giờ 20 phút, Tiểu đoàn 166, Trung đoàn 209 đã tiêu diệt xong 505B.

Trung đoàn trưởng Hoàng cầm ra lệnh cho Tiểu đoàn 166, Tiểu đoàn 154 nhanh chóng cải tạo công sự, chuẩn bị tiến công 507, 509.

Khoảng cách từ đây đến hầm của tướng Đờ Cát chỉ còn 500 mét theo đường chim bay. Từ vị trí 505B, Tiểu đoàn 166 đào một hào giao thông xuyên qua ba lớp rào thép gai, cách lô cốt đầu tiên của vị trí 507 mười lăm mét. Bên hướng phụ, Tiểu đoàn 115 cũng đã cắt hai hàng rào và đào hào thẳng vào một lô cốt địch ở phía tây bắc.

Từ trận địa của 505B, quân ta dùng súng trường, tiểu liên bắn tỉa địch ở 506. ĐKZ và cối 120 bắn sập một số hầm và lô cốt địch.

Ngày 5-5, máy bay Pháp tiếp tục thả dù quân tăng viện xuống ngay tập đoàn cứ điểm. Buổi trưa, anh em ta ở 505B bắt sống 5 tên lính Pháp và lính ngụy nhảy dù xuống đúng vị trí. Địch từ Hồng Cúm, các cứ điểm 704 và A1 bắn ra ác liệt, nhưng trận địa của ta trên 505B vẫn như một mũi dao sắc nhọn chĩa về phía hầm của Đờ Cát.

Tiểu đoàn 542 được giao nhiệm vụ chỉ huy tiến công 506. Đường dây điện thoại bị đứt. Máy bộ đàm cũng bị hỏng. Cán bộ tác chiến phải xuống từng đơn vị trực tiếp truyền đạt mệnh lệnh. Sau hai phút pháo chế áp bắn vào 506, Tiểu đoàn trưởng Thiết Cương ra lệnh cho đơn vị xung phong. Mười lăm phút sau, bộ đội ta vượt qua cửa mở, nhưng lực lượng chỉ còn hơn một trung đội. Theo đúng kế hoạch, số anh em đã lọt vào đồn địch, chia làm hai cánh chia cắt 506. Nhưng khi hai mũi gặp nhau thì lực lượng chỉ còn hơn một tiểu đội. Địch dùng lựu đạn từ các ngách hào ném ra tới tấp. Chiến sĩ của ta đã chộp lựu đạn đánh trả quyết liệt. Lúc này địch tập trung vào hầm cố thủ. Không có thuốc nổ đánh hầm ngầm, anh em tạm dừng chờ lực lượng tăng viện.

Biết phía trước gặp khó khăn, Tiểu đoàn trưởng Thiết Cương tập hợp lực lượng vượt qua cửa mở tiến về phía bộ đội ta đang tạm thời dừng lại. 23 giờ 23 phút, anh vào đến nơi. Tiểu đoàn trưởng điểm lại lực lượng tăng viện và lực lượng đã có từ trước, thấy chỉ có 13 người, kể cả mình. Anh quyết định chia thành ba mũi, mỗi mũi do một cán bộ phụ trách, riêng anh chỉ huy một mũi. Quân địch trong cứ điểm tưởng đã đánh bật phần lớn quân ta ra khỏi 506, liền tổ chức phản kích. Bọn địch ở 509 cũng đồng thời tràn sang. Cuộc chiến đấu với lực lượng rất chênh lệch diễn ra quyết liệt. Sau một giờ chiến đấu, Tiểu đoàn trưởng Thiết Cương chỉ còn 5 chiến sĩ, và mỗi người, hai quả lựu đạn.

Nắm được tình hình này, Trung đoàn trưởng Hoàng Cầm lập tức tổ chức một số nhân viên của trung đoàn bộ và tiểu đoàn bộ thành một lực lượng tăng viện cho 506. Địch bắn rất rát vào khu cửa mở. Trời gần sáng, địch xông ra phản kích quyết đẩy ta ra khỏi cứ điểm 506. Tiểu đoàn trưởng Thiết Cương chỉ huy 5 chiến sĩ ném một loạt lựu đạn. Đợt xung phong của địch tạm dừng. Nhưng mỗi người chỉ còn một quả lựu đạn. Vừa may lúc đó lực lượng tăng viện đã đến.

Có thêm lực lượng, Tiểu đoàn trưởng Thiết Cương chỉ huy đánh lui đợt xung phong thứ hai của địch. Đúng 8 giờ sáng, quân ta chiếm hoàn toàn sở chỉ huy địch ở 506, bắt sống 30 lính dù thuộc tiểu đoàn số 6, trong đó có viên quan tư chỉ huy 506, và một viên quan ba từ C2 chạy sang. Ngay sau đó, bộ phận Tiểu đoàn 542 tổ chức trận địa phòng ngự trên vị trí 506 vừa đánh chiếm, chuẩn bị tiến công cứ điểm 509.

Địch dùng pháo, máy bay oanh tạc dữ dội xuống 506. Vì ta và địch ở gần nhau, nên địch dùng bom lửa. Anh em dùng đất dập tắt ngọn lửa bén vào người, quyết không rời trận địa.

Như vậy, là cùng với Đại đoàn 308 ở hướng tây, Đại đoàn 312 ở hướng đông đã hoàn thành nhiệm vụ tiêu diệt một số vị trí bảo vệ Sở Chỉ huy địch.

Lúc này, trong sở chỉ huy của địch có cuộc tranh luận gay gắt về việc thực hiện kế hoạch rút lui khỏi Điện Biên Phủ. Sau này, khi bắt sống tướng Đờ Cát, chúng ta biết đó là kế hoạch "Chim biển" với mục đích tránh cho quân viễn chinh Pháp một sự đầu hàng nhục nhã. Ba tiểu đoàn dự bị chiến lược cuối cùng của bộ chỉ huy quân viễn chinh Pháp được Nava ném vào kế hoạch này. Một trong ba tiểu đoàn sẽ được thả xuống Điện Biên Phủ phối hợp cùng lực lượng của tập đoàn cứ điểm phá vây. Từ Lào sẽ có từ bốn đến năm tiểu đoàn bộ binh cùng với hai tiểu đoàn dù mới được ném xuống, tạo thành một hành lang an toàn trong vùng thung lũng Nậm Nưa, Mường Nhạ, Nậm Hợp đón quân ở Điện Biên Phủ chạy sang Lào.

Ngày 4-5, lúc Đờ Cát được thông báo về kế hoạch "Chim biển" cũng là lúc "con nhím" Điện Biên Phủ chỉ còn 20 cứ điểm trên một diện tích hẹp. Đợt tiến công thứ ba của quân ta đã làm những người chỉ huy tập đoàn cứ điểm thấy số phận của nó đã được định đoạt.

Nắm được những dấu hiệu chuẩn bị rút lui của địch, Bộ Chỉ huy mặt trận đã lệnh cho Đại đoàn 308 kiểm soát chặt chẽ các con đường đi sang hướng tây. Ở phía nam, Đại đoàn 304 (thiếu) được lệnh phái một đơn vị bí mật bố trí tại bản Ty bịt chặt con đường rút chạy của địch sang Lào.

Đại đoàn 312 chúng tôi nhận được lệnh bám thật sát địch để đón thời cơ tổng công kích, đồng thời đề phòng địch tháo chạy.

Đêm 6-5, thời gian nổ súng của toàn mặt trận được ấn định là 20 giờ 30 phút, lấy tiếng nổ của khối bộc phá 1.000 kilôgam trên đồi Al làm hiệu lệnh tiến công.

Trên đồi Al, khối thuốc nổ lớn tuy đánh cách hầm ngầm gần ba chục mét vẫn tiêu diệt một số quân địch và làm cho chúng choáng váng. Nhưng quân địch vẫn ngoan cố chống cự. Trận đánh của Trung đoàn 174 kết thúc vào 4 giờ 30 phút sáng ngày 7-5.

Trên đồi C2, cuộc chiến đấu của Trung đoàn 98 cũng diễn ra quyết liệt. Trung đoàn trưởng Vũ Lăng đã phải sử dụng lực lượng đội dự bị. Bộ Tư lệnh Đại đoàn 316 quyết định đưa Tiểu đoàn dự bị của Đại đoàn vào chiến đấu, và lệnh cho Trung đoàn 174 đã tiêu diệt xong A1 dùng hỏa lực ngăn chặn không cho địch tăng viện lên C2. Bộ Chỉ huy chiến dịch quyết định cho lựu pháo bắn 200 viên vào C2 chi viện Tiểu đoàn dự bị của Đại đoàn 316 hoàn thành nhiệm vụ.

9 giờ 30 phút, quân ta làm chủ C2. Sáu đại đội thuộc tiểu đoàn dù lê dương số 2 và tiểu đoàn dù ngụy số 5 gồm hơn 600 tên tập trung về đây đã bị diệt và bắt sống. Trung đoàn 714 cũng đánh chiếm, làm chủ A3.

Toàn bộ dãy điểm cao phía đông tập đoàn cứ điểm đã bị tiêu diệt, ở phía tây, Trung đoàn Thủ đô Đại đoàn 308 cũng tiêu diệt cứ điểm 510. Trận địa tiến công của trung đoàn chỉ còn cách hầm của Đờ Cát 300 mét. Điều kiện để chuyển sang tổng công kích đã chín muồi.

Sáng ngày 7-5 có những dấu hiệu về địch đáng chú ý. Một số máy bay tiếp tế của địch bay lên Điện Biên Phủ không thả dù và quay về. Lác đác ở một số cứ điểm có nhiều tiếng nổ: địch đang phá vũ khí. Một số địch vứt súng đạn xuống sông Nậm Rôm.

Bộ Chỉ huy mặt trận ra lệnh cho bộ đội sẵn sàng.

Tôi ra lệnh cho Trung đoàn 141 lúc này đang ở phía sau chuẩn bị, và cho cán bộ tác chiến, quân lực, hậu cần xuống các trung đoàn 165 vào 209.

Ở hướng Trung đoàn 165, địch dùng bom lửa đánh đúng vị trí 506, nhưng trận địa ta vẫn giữ vững. Hướng Trung đoàn 209 có khó khăn. Trời đã sáng nhưng đơn vị đánh vào 507 vẫn chưa mở được cửa đột phá. Hỏa lực yểm hộ đã bắn đỏ cả nòng. Bộc phá đã đánh hàng chục quả nhưng vẫn chưa phá xong hàng rào.

Suốt đêm theo dõi, hướng 209 lúc thì báo cáo còn một hàng rào, lúc khác lại báo tin hàng rào còn nguyên. Bộ Tư lệnh đại đoàn gần như cả đêm không ngủ. Bốn giờ sáng, anh Quang Trung nói:

- Anh ở nhà chuẩn bị cho 141 tham gia tổng công kích. Tôi phải xuống 209 xem sao!

Anh Quang Trung xuống đến nơi thì cả Trung đoàn trưởng Hoàng Cầm và Trung đoàn phó Thăng Bình đều ra trận địa 507.

Trời sáng mới rõ, suốt đêm trước, bộ đội ta đã đánh bộc phá vào hàng rào bùng nhùng. Bộc phá nổ, hàng rào bị hất tung lên rồi lại xẹp xuống. Hoàng cầm lập tức cho điều ĐKZ75 lên tổ chức hỏa lực yểm hộ. Thăng Bình cho thu nhặt bao tải và ván đặt lên trên hàng rào bùng nhùng. Trung đội trưởng Trần Can cho anh em lấy chăn phủ lên trên hàng rào. Quân ta chỉ còn cách hầm Đờ Cát khoảng 300 mét. Địch bắn ra ác liệt.

Sau khi được hỏa lực yểm hộ, quân ta xung phong. Trần Can dẫn đầu đội hình trung đội vượt qua hàng rào bùng nhùng nhưng do vận động cao nên một số anh em bị sát thương.

Hoàng Cầm lên quan sát thấy có thể chuyển vị trí mở cửa đột phá sang chỗ khác. Hoàng Cầm xin ý kiến anh Quang Trung. Được sự đồng ý của đại đoàn, Trung đoàn 209 đã mở xong cửa mở. Trần Can vọt tiến qua cửa mở, nửa chừng bị thương. Ba đồng chí đi cùng thì một bị thương, hai hy sinh. Đúng lúc đó, có lệnh tiểu đoàn: "Đại đội trưởng, đại đội phó đều bị thương nặng, Trung đoàn chỉ định Trần Can lên thay". Địch dùng lựu đạn đánh ra, anh em nhặt ném trả. Cuộc chiến đấu giằng co bên cửa mở diễn ra đến quá trưa.

Chỉ huy trưởng mặt trận Võ Nguyên Giáp gọi điện thoại thẳng cho Hoàng Cầm động viên Trung đoàn 209 cố gắng chấn chỉnh lại lực lượng tiến công tiêu diệt bằng được 507. Tôi thống nhất với các anh Quang Trung và Hoàng Cầm: 14 giờ sẽ cho pháo bắn.

15 giờ, Đại đội 360, do Đại đội trưởng Tạ Quốc Luật chỉ huy, phối hợp cùng sáu chiến sĩ còn lại của Đại đội 366, đột phá thắng lợi 507 và đánh chiếm toàn bộ cứ điểm.

Thấy cờ trắng lác đác xuất hiện, Hoàng Cầm gọi điện xin cho trung đoàn xuất kích. Tôi hỏi kỹ lại tình hình 507 và các vị trí 508, 509. Hoàng Cầm nhận định: địch hoang mang lắm rồi, xin cho cả trung đoàn đánh.

Tôi cân nhắc vì suốt đêm hôm qua cả Bộ Tư lệnh đại đoàn không ngủ vì những báo cáo của 209.

Tôi hỏi:

- Hiện nay anh ở đâu?

- Báo cáo: tôi đang ở đồi D.

- Thăng Bình đâu?

- Ở dưới 507.

Vừa lúc đó một cán bộ ghé tai tôi nói nhỏ: "Anh Quang Trung bị bom vùi lúc 10 giờ. Anh em đang moi hầm để cứu".

Tôi cố nén xúc động dặn Hoàng cầm:

- Cẩn thận, trận cuối cùng dễ sượng lắm đấy!

Hoàng Cầm quả quyết:

- "Ăn" đấy anh ạ! Địa hình ở đây bằng phẳng. Còn quân của nó thì hoang mang lắm rồi, anh cứ cho xuất kích toàn trung đoàn.

Tôi bảo:

- Để báo cáo Đại tướng, xin ít pháo cho chắc tay.

Một lát sau, pháo binh các cỡ của Bộ Chỉ huy mặt trận bắn dồn dập vào khu trung tâm.

Cũng lúc đó, tôi được Đại tướng Võ Nguyên Giáp thông báo: "Tất cả các đơn vị đã được lệnh tổng công kích". Tôi ra lệnh cho Trung đoàn 141 tiến sau đội hình Trung đoàn 209. Lúc này Trung đoàn phó Thăng Bình đã cho Đại đội 306 phát triển sang 508, 509. Tôi ra lệnh cho Hoàng Cầm bám sát địch, thọc thẳng vào Mường Thanh.

Đại đội 360 đã như một mũi tên lao đến cầu sắt bắc qua sông Nậm Rốm. Tiếng hô "Bắt sống Đờ Cát!" đã cổ vũ anh em xông lên. Khẩu đại liên bốn nòng của địch lồng lộn bắn sang. Đạn cối nổ trên mặt cầu. Tạ Quốc Luật chỉ huy tổ đi đầu ném thủ pháo sang bên kia cầu. Một quả bom địch ném xuống mặt đường.

Tổ đi đầu dừng lại trước ngã ba. Vừa lúc đó có tên cai dõng chạy qua. Anh em hỏi hầm Đờ Cát. Tên cai dõng chỉ vào ụ cao to xung quanh có bốn xe tăng đang bắn loạn xạ. Luật cho đánh thủ pháo đứt xích một xe tăng. Một chiếc khác bốc cháy. Hai chiếc còn lại bỏ chạy. Luật ra lệnh đánh hầm. Vinh và Nhỏ phân công nhau: Nhỏ bịt một cửa hầm, Vinh tiến vào cửa hầm chính. Theo một hiệu lệnh chung, Vinh và Nhỏ ném hai quả thủ pháo. Khói vừa tan thì một sĩ quan trong bộ tham mưu của Đờ Cát ra giơ tay xin hàng. Đại đội trưởng Tạ Quốc Luật xuống hầm cùng hai chiến sĩ Vinh và Nhỏ bắt sống toàn bộ bộ chỉ huy tập đoàn cứ điểm, trong đó có thiếu tướng Đờ Cát. Đó là lúc Đờ Cát vừa ra lệnh đầu hàng và qua làn sóng điện từ biệt vợ con. Câu đầu tiên Đờ Cát nói với Tạ Quốc Luật là: "Xin đừng bắn tôi!".

Nhận được báo cáo của Trung đoàn 209 đã bắt được tướng Đờ Cát lúc 17 giờ 30 phút, tôi ra lệnh giải ngay Đờ Cát và toàn bộ Bộ Tham mưu lên sở Chỉ huy đại đoàn. Tôi hỏi Hoàng Cầm:

- Anh Quang Trung thế nào?

- Báo cáo, anh em đã bới được rồi. Không việc gì. Anh ấy đã hút thuốc lá.

            Tôi nhẹ hẳn người, hỏi tiếp:

- Anh đã trông thấy Đờ Cát chưa?

- Báo cáo thấy rồi.

- Ăn mặc thế nào?

- Báo cáo anh, Đờ Cát mặc quần áo màu vàng nhạt, đội calô đỏ, đeo quân hàm cấp tướng.

- Quân hàm nó thế nào mà anh biết là cấp tướng?

- Có sao anh ạ!

- Được rồi, thế ai giải nó đi đấy?

- Anh Thăng Bình đã đánh xe jeep đi rồi ạ!

- Xe nào, ai lái?

- Báo cáo, anh Thăng Bình dùng xe chiến lợi phẩm và bắt một tù binh da đen lái.

Một lát sau, anh em dẫn Đờ Cát vào. Tôi và anh Trần Độ so ảnh. Đúng là Đờ Cát, tuy có xanh và gầy hơn so với lúc còn đeo lon đại tá. Nhìn cái mũ ca lô đỏ, tôi lại nhớ tới câu nói của Đờ Cát khi thấy quân ta chưa đánh Điện Biên: "Tôi sẽ đội cái mũ đỏ này để Việt Minh dễ nhận rõ mục tiêu!".

Tôi gọi điện báo cáo Đại tướng Võ Nguyên Giáp: "Tướng Đờ Cát hiện đang ở trước mặt tôi. Đã so ảnh của Bộ Chỉ huy chiến dịch gửi xuống. Xác định đúng là tướng Đờ Cát và toàn bộ bộ tham mưu".

Tối hôm nay, không gian Điện Biên Phủ im lặng khác thường. Ngoài trời, một luồng gió mát làm dịu những dây thần kinh căng thẳng. Trời có trăng. Tôi cứ nhìn mãi vầng trăng non thấp thoáng trong đám mây mỏng xốp như bông. Anh Độ bảo tôi: "Nhìn kìa anh Tấn!". Tôi nhìn cả thung lũng Điện Biên rực rỡ trong ánh đuốc. Đoàn tù binh đang nối đuôi nhau đi ra khỏi Mường Thanh. Các chiến sĩ ta chốt trên các ngả, súng lắp lưỡi lê, vẫn mũ nan chân đất trong bộ quần áo còn dính bùn đang chỉ đường cho đám tù binh đi ra theo loa phóng thanh.

Sau chiến thắng, Bộ Chỉ huy chiến dịch quyết định duyệt binh vào ngày 13-5, tức đúng một tuần lễ sau ngày địch ở Điện Biên Phủ đầu hàng, để mừng chiến thắng và trao cờ "Quyết chiến Quyết thắng" của Bác Hồ cho Đại đoàn 312. Thường vụ Đảng ủy họp triển khai công tác chuẩn bị và quyết định để đồng chí Đàm Quang Trung thay mặt đại đoàn nhận cờ.

Đàm Quang Trung, người chiến sĩ Việt Nam Tuyên truyền giải phóng quân mười năm về trước, mũ nồi, chân đất, dưới lá cờ đỏ sao vàng, tuyên thệ, nay là đại đoàn phó một đại đoàn đã đánh Him Lam mở đầu chiến dịch Điện Biên Phủ và kết thúc chiến dịch bằng trận đánh bắt sống tướng Đờ Cát. Hình ảnh Đàm Quang Trung được cử để nhận cờ vừa cụ thể lại vừa tượng trưng cho sự lớn mạnh của quân đội ta.

Tôi giục Đàm Quang Trung cắt tóc, cạo râu và chọn bộ quân phục mới nhất để chuẩn bị đi nhận cờ của Bác.

TRẦN CƯ. Chiều chiến thắng diệu kỳ / Trần Cư // Sách 60 năm chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ bản hùng ca thế kỷ XX. - H. : Văn hóa - Thông tin, 2013. - Tr. 329-336           

Ngày mồng 5-5-1954, tôi được lệnh xuống đơn vị để dự cuộc tổng công kích. Sướng quá! Được lời như cởi tấm lòng, bao công việc của tòa soạn ở mặt trận tôi xếp lại hết, xách túi dết vù đi luôn.

Đường lầy lội quá! Nhưng cánh đồng Mường Phăng nở rộ hoa nghệ như một tấm thảm sặc sỡ khổng lồ, tiếc thay bị thủng lỗ chỗ vì nhiều vệt hố bom. Cảnh đẹp đấy, nhưng tôi không còn thì giờ để ngắm nữa. Vừa lội tôi vừa phác lại tình hình để định ra một kế hoạch làm việc. Tôi được biết, sau ba ngày tác chiến đợt ba, Bộ Chỉ huy mặt trận quyết định hoàn thành nhiệm vụ đợt tấn công này, để chuẩn bị điều kiện chuyển sang tổng công kích. Như vậy là:

- Ở phía đông, Đại đoàn "Biên Hòa" (316) sẽ tiêu diệt nốt những điểm cao cuối cùng của khu phòng ngự then chốt: A1 và C2 (mấy hôm trước, đã chiếm Cl). Đại đoàn "Bến Tre" (312) sẽ tiêu diệt các cứ điểm 506, 507 nằm dưới chân của ngọn đồi phía đông (mấy hôm trước, đã "làm" gọn các cứ điểm 505A, 505B).

- Ở phía tây, Đại đoàn "Việt Bắc" (308) sẽ tấn công vào "con mắt" của tập đoàn cứ điểm địch, rồi thọc vào sở chỉ huy của Đờ Cát (mấy hôm trước, đã chiếm xong 311A, 311B).

- Ở phía nam, Đại đoàn "Nam Định" (304) được lệnh kiềm chế pháo địch và cho một đơn vị chốt ở bản Na Trang, bịt kín con đường sang Lào.

Nếu ta chia bản đồ lòng chảo Điện Biên Phủ ra làm nhiều ô để tính tọa độ, thì cho đến lúc ấy, cả tập đoàn cứ điểm của Đờ Cát đã bị kẹp chặt vào hai gọng kìm thép, dồn vào cái ô vuông cuối cùng, mỗi bề trên dưới một kilômét, chen chúc chừng một vạn quân, ngột ngạt. Nếu ta tấn công mạnh và thắng lợi, địch sẽ rối loạn. Vậy các đơn vị phải chuẩn bị sẵn sàng thời cơ đến là chuyển ngay sang tổng công kích, tiêu diệt toàn bộ quân địch. Phải bao vây chặt, không để một tên nào chạy thoát.

Trước khi đi, tôi còn được biết là trong bản mệnh lệnh tác chiến gửi cho các đơn vị có quy định là: Đúng 20 giờ 30 phút tối ngày 6-5, toàn mặt trận sẽ nổ súng... Hiệu lệnh tấn công cho toàn thể là tiếng nổ của khối bộc phá 1.000 kilôgam đã bí mật chôn chặt trong ruột đồi Al.

Tôi vừa đi, vừa bị ám ảnh bởi cái hiệu lệnh kỳ lạ ấy. Nghe nói công binh đã mất bao công phu gian khổ đào hầm và đi lấy thuốc bom của máy bay rơi mới đủ cho một khối thuốc nổ lớn như vậy. Lại còn dặn: Trước phút chập điện nổ, toàn thể chiến sĩ gần đấy phải quay lưng lại, tay bịt tai, mồm há ra đề phòng bị sức ép quá mạnh làm thổ huyết. Ghê quá! Lại còn nghe kể: Nhỡ ra nó không nổ vì lý do trục trặc, thì làm thế nào? Thì trong hội nghị chi bộ của đơn vị đánh trận này đã có hai đồng chí đảng viên xung phong nhận vác mỗi người 20 kilôgam bộc phá lao vào làm nổ khối thuốc 1.000 kilôgam trong hầm ngầm, nếu công binh không thành công!

Tất cả những câu chuyện ấy vừa ám ảnh, vừa thúc giục tôi đi làm nhanh. Nhưng đường lầy lội quá. Từ khi mở đợt tấn công thứ ba, vẫn mưa nhiều. Phần lớn các trận địa chiến hào trên cánh đồng đều ngập nước. Suốt mấy hôm nay, anh em chiến sĩ sống bì bõm giữa bùn nước, cực kỳ gian khổ và căng thẳng. Có những đoạn chiến hào, tôi phải lội bùn, nước đến ngang thắt lưng. Dép cao su của tôi tụt đứt hết quai, đành phải buộc dây vắt lên cổ. Tôi tính đường đất này mà mò xuống "Biên Hòa" thì còn xơi. Phải đến ngay "Bến Tre", nơi gần nhất, để đêm mai mồng 6, còn được nghe tiếng nổ "long trời lở đất", hiệu lệnh tổng công kích chứ!

Ở Sở Chỉ huy "Bến Tre", anh Mạc Ninh cho người dẫn tôi ra đồi E, để từ đó theo dõi trận đánh, rất tiện.

Đồi E này trước đây là trận địa của địch, nay thành trận địa của ta, chính khẩu đội sơn pháo của Phùng Văn Khầu đã đặt pháo ngay trên điểm cao này, chúc nòng bắn thẳng, nã vào khu trung tâm Mường Thanh. Tối hôm ấy, tôi nằm ở đồi E chờ tiếng nổ hiệu lệnh tấn công của toàn thể mặt trận. Anh em cho biết cách đấy hai hôm, bom địch vừa dội xuống đây, làm sập hầm, một cán bộ tiểu đoàn bị lấp, hy sinh.

Đêm hôm ấy, chúng tôi ngồi chờ. Nhưng đến 20 giờ 30 phút chẳng thấy có tiếng nổ nào "long trời lở đất" cả! Chỉ nghe vẳng một tiếng nổ nặng nề từ phía nam vọng lại, đâu phải là hiệu lệnh mình chờ! Chắc là tiếng bom nổ chậm của địch?

Một lát sau đó, thì được tin: bộc phá đã nổ đúng giờ và quân ta đã tấn công vào đồi A1 và đến tảng sáng thì địch đã đầu hàng.

Sáng mồng 7-5, tôi lên đỉnh đồi E, nhìn về phía nam. Trời bắt đầu tạnh. Đứng đây nhìn rõ con đường 41 chạy từ phía bắc qua chân đồi rồi xuôi xuống phía nam đến chân ngọn đồi Cl, C2 và Al. Tin cuối cùng sáng nay cho biết: ở phía tây, một trung đoàn của Đại đoàn 308 đã chọc thủng "con mắt" của tập đoàn cứ điểm địch là Nà Noọng và chỉ còn cách sở Chỉ huy hơn 300 mét, và Đại đoàn 308 với ba cứ điểm mới chiếm là 311A, 311B và 310 (tức Nà Noọng), đã chĩa ba mũi dao nhọn vào sườn Đờ Cát.

Tôi mượn ống nhòm nhìn về phía các cứ điểm gần nhất ở phía nam đồi E. Trước mắt tôi, ngay từ phía nam, dưới chân đồi E, trải ra giữa bên trái là con đường 41, bên phải là con sông Nậm Rốm, một loạt cứ điểm 505A, 505B, 506, 507, 508 mà Đại đoàn "Bến Tre" phụ trách tiêu diệt. Các cứ điểm trên đã bị đánh chiếm nhanh chóng giòn giã từ hôm trước. Chỉ còn lại 507, 508.

Quãng 10 giờ sáng mồng 7-5, có tin trinh sát báo về: Nhìn thấy những đám bọt trắng nổi trên dòng sông Nậm Rốm. Có lẽ địch ném súng ống và dụng cụ chiến đấu xuống sông. Còn theo dõi đài địch thì nghe thấy chúng chào nhau: Adieu (vĩnh biệt). Lại nghe thấy đài địch ở Mường Thanh yêu cầu Hà Nội là không thả dù mang vũ khí nữa chỉ thả dù lương thực. Thế là thế nào? Ở khu trung tâm của địch thỉnh thoảng lại có những tiếng nổ... Địch có âm mưu gì? Hình như chúng đang rối loạn?

Bộ Chỉ huy "Bến Tre" báo cáo lên Bộ Chỉ huy mặt trận, đề nghị cho tiêu diệt 507.

Bộ Chỉ huy mặt trận, căn cứ vào những triệu chứng rối loạn của địch mà trinh sát các nơi báo về, đồng ý cho "Bến Tre" đánh 507 ngay ban ngày. 12 giờ, nổ súng. 13 giờ, tiêu diệt xong 507. Địch ở 508, ngay bên cạnh, bắt đầu rối loạn. Bộ Chỉ huy "Bến Tre" hạ lệnh cho Trung đoàn Hòn Gai thừa thắng tấn công ngay cứ điểm 508, và nếu có cơ hội, thì đánh thốc luôn vào phía trong.

14 giờ, Trung đoàn Hòn Gai tiến đánh 508. Thế như chẻ tre. Nhiều toán địch kéo cờ trắng ra hàng. Thế là cứ điểm cuối cùng của tuyến phòng ngự ngay sát tả ngạn sông Nậm Rốm bị tan vỡ.

Thời cơ tổng công kích đã đến rồi chăng? Quả nhiên, đúng 15 giờ, nhận được lệnh sau đây của Bộ Chỉ huy mặt trận:

"Địch đã đến lúc tan rã! Không cần đợi trời tối, phải lập tức mở cuộc tổng công kích vào Mường Thanh. Lệnh cho các đơn vị phía đông ("Bến Tre") đánh thẳng vào khu trung tâm. Đơn vị phía tây ("Việt Bắc") giáp công sang, cùng tiến vào sở chỉ huy của địch. Phải bao vây thật chặt, đánh thật mạnh, không cho một tên địch nào chạy thoát, kể cả Đờ Cát".

Trung đoàn Hòn Gai (của "Bến Tre") thừa thắng từ 508 vượt cầu Mường Thanh trên sông Nậm Rốm (vì 508 ở ngay sát bên bờ trái) tiến sang bờ phải đánh thốc vào sở chỉ huy của Đờ Cát.

Đến 17 giờ 30 phút, thì được tin đã bắt sống được Đờ Cát với toàn thể bộ tham mưu của địch.

Tôi vội lao vào Mường Thanh.

Tôi phải len ngược dòng quân địch ùn ùn kéo ra hàng như nước chảy. Nhìn dòng cờ trắng của địch lũ lượt kéo ra, các chiến sĩ cũng như tôi cảm thấy ngây ngất, bàng hoàng, chỉ biết reo to lên: "A!. A!. A!. Địch đầu hàng rồi!... Ôi!... Bắt sống Đờ Cát rồi! A! A! A-a-a!...".

Tôi muốn hát lên một bài gì mà không hát được! Quốc ca ư? Hay Quốc tế ca? Sao không nghĩ ra được là bài gì mà hát! Chỉ hét to, và chạy và thở. Tôi đã thấy Đờ Cát đi trong một đám đông sĩ quan, tên thì đầu trần, tên thì mặc soóc, tên cúi đầu... Đấy là toàn thể bộ tham mưu của hắn. Đờ Cát đội lệch cái mũ calô đỏ như máu, tay chống can. Theo sau Đờ Cát có một tên lính người da đen cao lớn, đeo một cái balô căng phồng. Đó là tên lính hầu của hắn. Bọn chúng đi theo mấy chiến sĩ ta áp giải về sở Chỉ huy Đại đoàn "Bến Tre".

Tôi muốn chụp cho chúng một bức ảnh ngay tại đây, nhưng tiếc quá không có máy ảnh. Tôi cũng muốn đi theo bọn chúng về sở Chỉ huy đại đoàn để dự cuộc lấy khẩu cung. Nhưng tôi lại muốn vào sở chỉ huy của Đờ Cát để nhìn tận mắt cái quang cảnh sở chỉ huy vào phút cuối cùng lịch sử này, nhất là ngắm xem lá cờ "Quyết chiến Quyết thắng" của ta đã cắm trên nóc hầm hay chưa? Tôi vội tính: Chắc đêm nay, chúng còn ở sở Chỉ huy đại đoàn. Tôi phóng vào Mường Thanh, rồi về ngay, cũng kịp chán.

Tôi vượt cầu Mường Thanh không khó lắm, mặc dù một số ván cầu bị đạn bắn gãy tan.

Mường Thanh hiện ra một cảnh hỗn độn ngổn ngang ụ súng, cứ điểm lởm chởm, dọc theo hai bên con đường lớn, nơi thì xe tải cháy dở, nơi thì mấy cỗ pháo ngã gục, nơi thì nghi ngút khói. Dù trắng, dù xanh rơi khắp chốn, trắng xóa như những tờ giấy khổng lồ ném tung tóe từ trên cao xuống, nay bị ướt nằm dúm dó bên những công sự lở loét, nham nhở. Tôi chưa biết đi hướng nào.

Tôi hỏi đường về phía hầm Đờ Cát.

Trên trời cao xanh biếc, có đến ba, bốn chiếc máy bay vận tải vẫn thả dù xuống trông giống như một con cá lớn thong thả bơi lượn quanh vùng Mường Thanh, đằng sau tuôn ra một đám trứng lấm tấm trắng. Đám trứng trắng cứ loãng dần, nở to dần ra, rồi bỗng biến thành những cái dù trắng lơ lửng bay trên không, trông rất đẹp. Bóng chiều đã ngả xuống ngọn Pú Tà Cọ, chiếu sáng về mỏm núi Pú Hồng Mèo, vừa đẹp vừa hùng tráng. Tôi vừa ngước lên ngắm hàng mấy chục cái dù bay lơ lửng trên cao, vừa cúi xuống lần theo những quãng đường khô, tránh những chỗ lội mà đi. Bỗng tôi nghe thấy đằng sau có tiếng gì như một vật nặng rơi rất nhanh: phật... phật...! Phật! Vút!... Tôi ngoảnh lại thì ... vút, ... vút... pình. Một cái hòm gỗ rất to, vuông, rơi xuống làm bẹp một căn hầm, với cái dù từ từ thong thả rơi phủ bên cạnh. Thì ra cái dù mang những hòm vuông rất lớn không biết đựng súng đạn hay lương thực của địch, đã hạ xuống hết độ cao lơ lửng, không còn sức gió đổ nữa, bị rơi nhanh và thẳng xuống đất, mảnh dù quất vào không khí nghe phật phật, phật, rất... rợn...! Nó mà rơi trúng đầu thì có mà tan ra như vỏ trứng! Tôi vừa đi vừa phải nhìn trước, nhìn sau, nhìn hai bên, xem dù rơi chỗ nào để liệu mà tránh. Lại thêm trời mưa mới tạnh, đường còn trơn, phải nghếch mắt coi chừng dù, thì lại bước phải chỗ trơn là ngã oạch... và dù nó lại đợi lúc ấy vừa kịp phật phật phật lao xuống! May mà chỉ cách độ dăm mét. Tôi cứ phải luồn lách trông chừng mà đi như thế. Rồi cũng tìm tới được cửa hầm Đờ Cát. Cũng may mà tôi không nhảy tránh sang hai bên đường, vì ở đó... đều có mìn! Dọc đường gặp Lê Minh, cán bộ tuyên huấn của cục đi công tác ở đơn vị. Hai chúng tôi kéo nhau đến hầm Đờ Cát (có lẽ chúng tôi là hai người làm báo đầu tiên vào hầm Đờ Cát ngay khi quân địch vừa đầu hàng).

Hầm Đờ Cát lúc ấy trông thật kỳ dị. Cửa hầm thụt sâu xuống, xếp đầy bao cát, trên nóc là những mái thép uốn cong thành vòm và dập thành những đường gân con cho thêm cứng và cũng được phủ gần hết bằng những bao cát. Đặc biệt, lởm chởm rất nhiều cần ăngten, như một con nhím khổng lồ đang xù lông tua tủa. Một đường hầm rộng ở giữa, hai bên chia ra từng căn hầm nhỏ có màn che. Đó là những bộ phận tham mưu, chính trị, hậu cần, v.v. của Đờ Cát. Nhìn qua màn, thấy giấy má xé vãi tung tóe. Có căn hầm còn những đống tàn tro giấy vừa mới đốt còn âm ấm. Ở cuối là hầm chỉ huy của Đờ Cát, khá rộng, vách lót gỗ và căng vải. Trên một cái bàn rộng phủ vải, bừa bãi những giấy tờ rơi vãi trắng xóa mặt đất. Tôi thấy đôi chỗ vách có lót cả những bức hoành phi câu đối chúng cướp của nhà dân đem về. Đèn vẫn thắp sáng. Một mùi hôi như mùi quần áo thoang thoảng lẫn mùi khói thuốc lá và mùi mốc.

Tôi rẽ sang một ngách hầm, thì thấy một căn hầm nữa nhỏ hơn. Có bàn thờ, có ảnh Chúa có thánh giá và trên bàn lăn lóc mấy cái cốc tráng men sứ trắng - đây là hầm làm lễ rửa tội của tuyên úy trong quân đội Pháp (aumonier). Rất tiếc là không có máy ảnh hay máy quay phim để ghi những cảnh đáng nhớ ấy.

Tôi và Lê Minh đi sục quanh một lúc, rồi ngồi nghỉ.

Trời đã sắp tối.

Nhớ tới những công việc khẩn cấp túi bụi của tòa soạn trong những ngày sắp tới và ngay ngày mai phải có bài, tôi băn khoăn tự đặt mấy câu hỏi:

- Còn bọn ở Hồng Cúm thế nào? Chúng đã hàng chưa? Sao máy bay cứ còn thả dù, hay là tiếp tế cho bọn chúng? Có nên lao xuống Hồng Cúm nữa không? Có kịp không? Phương tiện đi lại chỉ có đôi chân không và đôi dép lốp đã đứt quai!

Lúc này, cần phải biết tình hình chung và chủ trương mới thế nào. Tốt nhất là quay về sở Chỉ huy của "Bến Tre" là gần nhất, ắt biết.

Tôi bèn phóng ra khỏi hầm Đờ Cát, vượt qua cầu Mường Thanh, rẽ trái ngược lên đường 41, lại lần theo đường chiến hào mà về.

Đến Sở Chỉ huy "Bến Tre", thì đã tối hẳn. Nhưng một không khí chiến thắng nhộn nhịp kỳ lạ râm ran khắp khu rừng. Hỏi Đờ Cát đâu thì được biết ta vừa áp giải hắn lên Bộ Chỉ huy mặt trận rồi. Đuổi theo cũng không kịp.

Lại được tin ở Hồng Cúm, địch định chạy trốn sang Lào, Đại đoàn "Nam Định" đang đốt đuốc truy kích gấp.

Ăn qua loa xong bữa cơm, tôi tranh thủ thắp ngọn đèn hộp lên, giở sổ tay ghi lại những điều tai nghe mắt thấy. Rồi bắt đầu viết bài báo chiến thắng đầu tiên: Ở Mường Thanh, địch ra hàng như nước chảy.

Bên ngoài, hình như ở khắp các nẻo rừng, vọng vào tiếng đạn nổ vang trời như pháo Tết, rồi pháo sáng, bắn vọt lên trời như pháo hoa lẫn tiếng hò reo, và lửa đốt bập bùng, nhảy nhót.

Tôi phải cố tập trung vào viết cho xong bài, nhưng đến giữa bài thì nghe thấy tiếng đồng chí giữ máy nói báo tin:

- Ở Hồng Cúm, Đại đoàn "Nam Định" đã bắt sống toàn bộ quân địch, 1.200 tên, gồm cả tên đại tá chỉ huy và toàn thể bộ tham mưu của hắn.

Thế là tiếng reo hò, vỗ tay lại vang lên ầm ầm. Gần nửa đêm lại nghe thấy đồng chí phụ trách địch vận chạy về.

- Hàng binh ra nhiều quá! Hàng chục nghìn tên! Có lệnh phải lo cho chúng nó ăn, chúng nó ngủ. Lấy đâu ra nồi thổi cơm cho hàng nghìn tên một lúc bây giờ?...

- Thương binh của ta, phải chuyển nhanh đi. Còn thương binh của nó nằm ở trong hầm Mường Thanh... phải lôi lên mặt đất!...

- Búi xờm xờm! Long tóc gáy!

- Lệnh bảo đi kiếm thùng dầu, thùng xăng cũ về, bắt chúng nó ra cọ sạch mà nấu cơm, nấu nước thì mới đủ. Thế thì có đến hàng nghìn thùng!

Búi xờm xờm! Vắt chân lên cổ mà chạy hơn lúc đánh nhau đấy!

Suốt đêm ngày 7-5 lịch sử ấy tôi cố ngồi viết cho xong bài báo...

 

PHẦN II 

        MỘT SỐ BÀI VIẾT CỦA CHỦ TỊCH HỒ CHÍ MINH VÀ CÁC ĐỒNG CHÍ LÃNH ĐẠO ĐẢNG, NHÀ NƯỚC, QUÂN ĐỘI VỀ CHIẾN THẮNG ĐIỆN BIÊN PHỦ 

CHIẾN SĨ. Nhân ngày kỷ niệm chiến thắng Điện Biên Phủ / Chiến Sĩ // Sách Điện Biên Phủ qua những trang tư liệu. - H.: Quân đội nhân dân, 2014. - Tr. 231-235 

            Điện Biên Phủ như là một cái mốc chói lọi bằng vàng của lịch sử. Nó ghi rõ nơi chủ nghĩa thực dân lăn xuống dốc và tan rã, đồng thời phong trào giải phóng dân tộc khắp thế giới đang lên cao đến thắng lợi hoàn toàn.

            Nhân dịp kỷ niệm lần thứ mười chiến thắng Điện Biên Phủ, thiên hạ đang dự đoán sẽ có một Điện Biên Phủ mới ở miền Nam Việt Nam. Người Pháp nói nhiều về điều đó, vì họ có nhiều kinh nghiệm! Họ nói: "Mỹ đang thua ở miền Nam Việt Nam và đang đi đến một Điện Biên Phủ" (AFP, 16-4-1964).

            Năm 1954, trước ngày quân ta chiến thắng Điện Biên Phủ độ một tháng, bọn đầu sỏ thực dân Pháp vẫn ba hoa rằng "Pháp chắc sẽ thắng". Hiện nay ở miền Nam, bọn Mỹ và tay sai đã sa lầy, nhưng chúng cũng ba hoa rằng chúng sẽ không thua. Kế hoạch 18 tháng của Pháp (Nava) đã thất bại. Kế hoạch 18 tháng của Mỹ (Taylo) cũng phá sản rồi. Khi bắt đầu cuộc kháng chiến, Pháp mạnh, ta yếu. Nhưng ta càng đánh càng mạnh. Kết quả ta đã thắng, Pháp đã thua. Ngày nay ở miền Nam, Mỹ và bọn Việt gian đang ra sức cựa quậy. Nhưng đồng bào miền Nam càng đánh càng thắng và sẽ thắng hoàn toàn. Đó là những kinh nghiệm lịch sử giống nhau.

            - Giữa năm 1961, tổng Giôn (hồi đó là phó tổng thống Mỹ) đã ca tụng Diệm là "người cha của dân tộc, dũng cảm và tinh anh!". Cuối năm 1963 cũng chính bọn Giôn lại cho Diệm là một tên độc tài thối nát và bất lực, đã cho giết chết Diệm và đưa Dương Văn Minh lên. Mồ Diệm cỏ chưa mọc, thì chúng đã hạ Dương xuống và đưa Khánh thay vào. Chúng lại ca tụng Khánh "một lãnh tụ tài năng lỗi lạc!”..

            Mới được Mỹ cất nhắc, bọn Khánh - Hoàn đã cắn xé nhau kịch liệt. Báo chí Mỹ đã nói nội bộ Chính phủ Khánh rất lục đục (Nữu Ước: thời báo, 6-4-1964). Và "sự chia rẽ ngày càng phát triển. Tiếng đồn đảo chính lại ầm ĩ. Tình hình càng lộn xộn và sa lầy" (Nữu Ứớc luận đàm, 9-4-1964).

            Đế quốc Mỹ và lũ bù nhìn đang sa lầy trong hầm tối. Tháng 12-1962, mồ ma tổng Ken đã nói: "Cuộc chiến tranh chống du kích gặp rất nhiều khó khăn. Cần 10 hoặc 11 tên lính chính quy để chống lại một người du kích. Vì vậy Mỹ chưa thấy đoạn cuối cùng của đường hầm".

            Đường hầm đó sẽ dẫn chúng đến chỗ diệt vong. Dư luận Mỹ và thế giới đều nói như vậy:

            "Thay đổi một chế độ thối nát bằng những tên tướng cướp để chiến tranh. Mỹ nhất định sẽ thất bại" (báo Mỹ Người chiến sĩ, 10-2-1964). "Vì sự tan rã về chính trị và tinh thần đã phát triển một cách thảm hại ở Sài Gòn" (Nữu Ước luận đàm, 6-8-1964).

            Các báo tư sản Anh, như tờ Thông tin hàng ngày (4-3-1964) thì viết: "Mỹ đang đứng trước một thất bại rõ ràng và nhục nhã". Các báo tư sản Pháp, như tờ Rạng đông (12-3-1964) cũng viết: "Mỹ đã gần thất bại hơn người ta tưởng...".

            - Để hòng cứu vãn tình hình tuyệt vọng đó, hôm 21-2-1964 tổng Giôn đe dọa "Bắc tiến". Hồi tháng 3, Mặt-nạ (Mắc Namara)  (Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ) sang Sài Gòn hứa "tổng viện trợ" cho bọn Khánh - Hoàn. Bọn này thì hứa với Mỹ "tổng động viên" để đẩy mạnh chiến tranh, đồng thời chúng đi cầu cứu với bọn Phumi ở Lào và bọn Tưởng Giới Thạch ở Đài Loan! Đến tháng 4, Định-rút (Đin Raxcơ) (Bộ trưởng Ngoại giao Mỹ) cũng khẩn khoản yêu cầu bảy nước khác trong "Khối Đông Nam Á" giúp vào cuộc chiến tranh "bẩn thỉu thối tha và tuyệt vọng" ở miền Nam Việt- Nam. Nhưng Pháp đã cự tuyệt và Thủ tướng Pháp đã nói: "Không thể nào có thắng lợi quân sự ở miền Nam Việt Nam". Ngoại trưởng Pakixtan thì nói Chính phủ Đại Hồi không đồng ý với việc "Bắc tiến". Còn năm nước nữa thì chỉ hứa một cách miễn cưỡng.

            Sau khi tổng Giôn ba hoa "Bắc tiến", thì Liên Xô, Trung Quốc và các nước anh em khác đập lại ngay và đòi Mỹ phải rút khỏi miền Nam, việc của miền Nam phải do nhân dân miền Nam tự quyết định lấy.

            Nhân dân và Chính phủ ta thì nghiêm khắc cảnh cáo đế quốc Mỹ và bè lũ Khánh - Hoàn rằng: nếu chúng điên cuồng mà xâm phạm đến miền Bắc thì chúng sẽ bị chôn vùi.

            Chợt thấy mình hớ hênh lỡ miệng, hôm 15-3-1964, tổng Giôn đã thề hết thành hoàng thổ công rằng y tuyệt đối không có âm mưu "Bắc tiến".

            - Cuộc chiến tranh xâm lược do đế quốc Mỹ gây ra, chẳng những làm thiệt hại đến đồng bào miền Nam ta, mà cũng làm cho nhân dân Hoa Kỳ thiệt người hại của. Bởi vậy, không những đồng bào ta mà nhân dân Hoa Kỳ cũng chống đế quốc Mỹ.

            Từ tháng 4-1962 hơn 60 vị nhân sĩ Mỹ nổi tiếng do giáo sư Pôlinh dẫn đầu, đã kịch liệt phản đối cuộc chiến tranh xâm lược ở miền Nam Việt Nam. Kế đến 15.000 lãnh tụ các tôn giáo ở Mỹ, nhiều đoàn thể công nhân, phụ nữ và thanh niên Mỹ đã thông qua nghị quyết hoặc tổ chức biểu tình chống chiến tranh.

            Tháng 4 vừa rồi, các sinh viên Trường đại học Hêvơpho đã gửi thuốc men ủng hộ Mặt trận giải phóng miền Nam. Hôm 25-4, 87 sinh viên ở 12 trường đại học Mỹ đã tuyên bố:

            "Nếu phải đi lính, họ kiên quyết không sang miền Nam Việt Nam, vì cuộc chiến tranh ở đó là nhằm đàn áp phong trào đấu tranh cho độc lập dân tộc".

            Thậm chí trong tầng lớp thống trị Mỹ cũng có người kịch liệt chống chiến tranh ở miền Nam, như các thượng nghị sĩ Moxơ, Gruninh, Gioócđan... Ông Moxơ tuyên bố: "Chiến tranh ở Nam Việt là phi pháp... Chính phủ Mỹ lừa bịp nhân dân rằng chiến tranh đó là vì tự do... Sự thật đó là cuộc chiến tranh của Mỹ tiến hành bởi một chính phủ bù nhìn do Mỹ nặn ra... Đó là một trang lịch sử nhục nhã cho nước Mỹ... Phải chấm dứt việc đẩy thanh niên Mỹ đi chết ở Nam Việt một cách vô lý... và bàn tay của Chính phủ Mỹ đã vấy máu... Nhân dân Mỹ chống cuộc chiến tranh đó. Nếu có cuộc trưng cầu dân ý, thì cứ năm người Mỹ sẽ có bốn người bỏ phiếu chống cuộc chiến tranh đó của Mỹ...".

            Nhân dân miền Nam biết ơn những người Mỹ tiến bộ; đồng thời ra sức giáng vào đầu đế quốc Mỹ và lũ bù nhìn những vố thật đau.

            Tờ báo tư sản Tây Đức Nhân dân (27-3-1964) viết: "Mỹ chỉ có một khả năng là ủng hộ một chế độ độc tài quân phiệt... và việc đó chắc chắn sẽ đưa đến một Điện Biên Phủ”.

            Thật vậy! Lịch sử trong vài mươi năm nay đã chứng tỏ rằng: lũ đế quốc thực dân dù có binh hùng tướng mạnh đến mấy, chung quy cũng thất bại. Đế quốc Mỹ đã thất bại ở Trung Quốc, ở Triều Tiên, ở Cuba, thực dân Pháp đã thất bại ở Việt Nam và ở Angiêri. Ở miền Nam, đế quốc Mỹ nhất định cũng sẽ thất bại. Ông u Than (Tổng thư ký Hội Liên hợp quốc) nói rất đúng: "Biện pháp quân sự đã không giải quyết được vấn đề Việt Nam hồi năm 1954. Không có lẽ gì biện pháp quân sự lại đưa đến kết quả mười năm sau" (các báo phương Tây ngày 29-4-1964).

            Dù cuộc kháng chiến phải lâu dài, gian khổ, song nhân dân miền Nam nhất định sẽ giành được thắng lợi cuối cùng. Thắng lợi vì có chính nghĩa. Thắng lợi vì triệu người một lòng, đoàn kết chặt chẽ trong Mặt trận giải phóng miền Nam, kiên quyết chiến đấu vì độc lập tự do, vì thống nhất Tổ quốc. Thắng lợi vì có các nước anh em trong phe xã hội chủ nghĩa ủng hộ và được nhân dân yêu chuộng hòa bình và công lý trên thế giới (kể cả nhân dân Mỹ) đồng tình.

            Vì vậy, dù lúc đầu chỉ có những vũ khí thô sơ, đồng bào miền Nam càng đánh càng mạnh, càng mạnh càng thắng.

            Hãy lấy năm 1963 làm ví dụ:

            Bắt đầu từ tháng 1-1963, nhân dân miền Nam thắng to ở Ấp Bắc. Rồi liên tiếp thu được nhiều thắng lợi suốt cả năm và kết thúc năm ngoái bằng trận tiêu diệt tiểu đoàn "Cọp đen" (hôm 31-12-1963). Trong cả năm đó, nhân dân miền Nam:

            - Đã tiêu diệt hơn 80.000 binh sĩ địch (trong số đó có độ 1.000 tên Mỹ),

            - Đã bắn rơi và bắn hỏng hơn 690 chiếc máy bay (phần nhiều là máy bay lên thẳng),

            - Đánh đắm 120 tàu quân sự lớn và nhỏ,

            - Phá hủy 32 đầu xe lửa và 343 toa,

            - Lấy được của địch hơn 10.000 súng các loại.

            Với tinh thần quyết chiến, quyết thắng của Điện Biên Phủ, từ nay về sau nhân dân miền Nam chắc sẽ thắng lợi hơn nữa. Muốn tránh một thất bại như ở Điện Biên Phủ và muốn khỏi mất thể diện, thì đế quốc Mỹ chỉ có một cách là chấm dứt ngay cuộc chiến tranh xâm lược, rút ngay quân đội Mỹ ra khỏi miền Nam Việt Nam, để nhân dân miền Nam Việt Nam tự giải quyết lấy vấn đề nội bộ của mình và thi hành nghiêm chỉnh Hiệp định Giơnevơ năm 1954 về Việt Nam, Campuchia và Lào.

Đ.X. Mẩu chuyện về Điện Biên Phủ / Đ.X // Sách Điện Biên Phủ qua những trang tư liệu. - H.: Quân đội nhân dân, 2014. - Tr. 239-245

I. "NÓI LÁO TRÊN TRỜI DƯỚI ĐẤT NGHE"

            Những mẩu chuyện anh dũng của quân và dân ta các báo đã kể nhiều. Đây tôi chỉ kể vài mẩu chuyện không anh dũng của địch. Trước hết là bọn Chính phủ phản động Pháp rất thạo nghề nói láo. Vài thí dụ:

            - Tháng 5 năm 1947, Bộ trưởng quốc phòng là Cốt Phôrê nói: "Quân đội Pháp chiếm đóng tất cả các thành thị và đường giao thông. Vậy ở Đông Dương không có vấn đề quân sự nữa".

            - Tháng 3 năm 1949, Cốt Phôrê lại nói: "Tôi sẽ làm tròn phận sự, tôi sẽ không để chiến tranh tê liệt".

            - Tháng 10 năm 1950 - Sau khi Pháp thất bại ở Biên Giới, Bộ trưởng quốc phòng mới là Plêven nói: "Từ nay, Pháp sẽ bắt ép quân đội Việt Minh rời xa căn cứ của họ, Pháp sẽ chọn những mặt trận có lợi cho mình để trả thù cho những binh sĩ Pháp đã hy sinh ở Cao Bằng và Lạng Sơn".

            - Tháng 11 năm 1950, Bộ trưởng "Khối liên minh Pháp", là Lơtuốcnô nói: "Pháp rút lui khỏi biên giới để tập trung thêm quân dự bị. Đồng thời để bắt ép Việt Minh phải kéo dài đường giao thông của họ, do đó mà làm cho địch yếu thêm".

            - Tháng 12 năm 1951, Plêven lại nói: "Kế hoạch của Pháp hiện nay sẽ đưa đến thắng lợi trong 15 hoặc 18 tháng".

            - Tháng 10 năm 1953, Thủ tướng Lanien nói: "Kế hoạch Nava sẽ tăng cường bộ đội cơ động Pháp, sẽ bình định xong đồng bằng Bắc Bộ và sẽ chủ động trong những cuộc tiến công lớn... Lực lượng Pháp ngày càng tăng, về bộ đội cũng như về vũ trang".

            - Tháng 2 năm 1954, khi sang Đông Dương, Plêven nói: "Tôi sang đây để giúp Nava chuẩn bị kế hoạch tiến công". Khi trở về Pháp, Plêven nói: "Tướng Nava đoán chắc rằng chiến dịch Điện Biên Phủ sẽ không đưa lại kết quả gì cho Việt Minh".

            Thắng lợi của ta ở Điên Biên Phủ đã chứng tỏ rằng: Bọn chúng chủ quan và nói láo mất mùa.

II. NỘI BỘ PHÁP LỦNG CỦNG

            Khi thất bại, thì bọn chính trị Pháp đổ lỗi cho bọn quân sự. Bọn quân sự cãi lại.

            Ngày 29 tháng 4, tờ báo tư sản Pháp Người xem xét đăng những ý kiến của một số lãnh tụ quân sự Pháp, tóm tắt như sau:

            - Khi đã phải rút khỏi Lai Châu và Nà sản, mà Pháp lại đưa gần 2 vạn quân Pháp vào thung lũng Điện Biên, đó là một tội ác chính trị... Đến mùa mưa, thì quân đội Pháp hoặc chết đuối hết, hoặc là đầu hàng.

            - Hầu hết những tiểu đoàn tinh nhuệ Pháp đã đưa đến Điện Biên Phủ. Những cuộc đánh nhau ở đồng bằng, nhất là trên đường số 5, ngày thêm dữ dội. Điều đó làm cho Pháp rất lo ngại... Các lãnh tụ quân sự Pháp đều cho rằng Bắc Bộ như đã mất rồi. Ở Sài Gòn người ta bắt đầu lo sợ.

            - Quân đội Bảo Đại không được 5 vạn người có sức chiến đấu. Phần đông chỉ chờ dịp để chuồn. Quân đội kháng chiến, dù là bộ đội địa phương, cũng không kém quân đội Pháp.

            - Mặc dầu những thất bại ở Hòa Bình và Điện Biên Phủ, tinh thần sĩ quan Pháp vẫn khá vững. Nhưng khi họ hiểu rằng họ phải hy sinh cho lợi ích của Mỹ và của Bảo Đại (tên vua cỏ mà cả quân đội Pháp đều khinh rẻ) - thì họ rất tức tối.

            - Máy bay Mỹ dội đạn lửa khắp xung quanh Điện Biên Phủ không làm núng quân đội kháng chiến, mà chỉ tàn phá những làng mạc đông dân. Sự can thiệp của Mỹ đối với ảnh hưởng chính trị thì rất tai hại, đối với kết quả quân sự thì không ăn thua.

            - Nói tóm lại: Các lãnh tụ quân sự đều nhất trí rằng Pháp không thể giữ Bắc Bộ nữa. Và nếu thất bại ở Điện Biên Phủ thì tình hình Pháp sẽ càng khó khăn.

            Trên đây là ý kiến của một nhóm lãnh tụ quân sự Pháp.

            Nhưng chúng ta chớ vì những ý kiến ấy mà chủ quan khinh địch.

III. PHÁP VỠ ĐẦU, MỸ CÀNG MÉO MẶT

            Điện Biên Phủ là một thất bại đau đớn cho thực dân Pháp, càng là một thất bại nhục nhã cho bọn can thiệp Mỹ. Vì Mỹ đã định ra kế hoạch Nava, đã giúp tiền bạc và vũ khí để thực hiện kế hoạch ấy.

            Hồi tháng 10-1953, các báo tư sản Pháp đã viết: Chính phủ Pháp vâng lệnh Mỹ mà kéo dài chiến tranh. Mỹ xuất tiền, Pháp thì xuất xương máu. Binh sĩ Pháp đã thành một đội quân đánh giặc thuê (Báo Thế giới).

            Mỹ sợ Pháp đàm phán và bắt ép Pháp bơi theo cuộc chiến tranh thất vọng (Báo Chiến đấu).

            Trong trận Điện Biên Phủ, Bộ trưởng Ngoại giao Mỹ đã nói: Mỹ sẽ hết sức giúp cho Pháp giành lấy thắng lợi,

            Tổng thống Mỹ đã viết thư khuyến khích bộ đội Pháp ở Điện Biên Phủ. Đến khi Pháp thất bại, Tổng thống Mỹ lại gửi điện vuốt đuôi: "Tôi tỏ lòng kính trọng quân đội Pháp anh dũng... Thất bại tạm thời cũng không thể làm giảm bớt lịch sử vẻ vang của quân đội Pháp".

            Tháng 2-1954, đoàn đại biểu Quốc hội Mỹ sang xem xét Đông Dương. Khi trở về Mỹ, họ báo cáo rằng:

            "Về quân sự, 8 năm nay Việt Minh đã giành được nhiều thắng lợi. 18 tháng nay, Pháp dùng chiến thuật tiến công, nhưng không có kết quả, dù quân Pháp có 50 vạn người chống lại 30 vạn người của quân Việt Minh. Dù sao, Mỹ cũng cần tiếp tục giúp Pháp, nếu không thì Pháp không thể chiến tranh nữa".

            Thế là Mỹ dần dần trở nên kẻ địch chính của quân đội và nhân dân ta.

IV. TRỜI ĐẤT VIỆT KHÔNG DUNG GIẶC PHÁP

            Địch cậy rằng chúng đã đưa phần lớn quân đội tinh nhuệ đến Điện Biên Phủ, cho nên chúng rất chắc ăn.

            Hôm 21-1, bọn chỉ huy Pháp thách: "Võ Nguyên Giáp có giỏi thì đến đánh Điện Biên Phủ".

            9-3, Nava nói: "Việt Minh sẽ bị đánh tan ở Điện Biên Phủ".

            13-3, ta tấn công đợt 1, Pháp thất bại. Nhưng hôm 15-3, Nava và Cônhi vẫn múa mép: "Chắc rằng Pháp sẽ thắng".

            Bọn chỉ huy Pháp huênh hoang như vậy, nhưng tinh thần binh sĩ Pháp thì thế nào?

            Ngay hôm sau ta tấn công đợt 1, tên quan năm chỉ huy pháo binh địch tự tử; tên quan năm tham mưu trưởng bị đuổi về Hà Nội.

            Báo Thế giới (22-4) viết: "Quân nhảy dù Pháp chẳng còn tinh thần gì mà nói... Mặt người nào cũng tái mét. Họ viết "Di chúc" để lại. Dốc hết cốc rượu cuối cùng, họ bắt tay nhau, im lặng không nói một lời, bước lên máy bay. Rồi họ phó mặc trời. Họ biết rằng nếu nhảy sai một chút, thì may phúc lắm là trọn đời làm tù binh của Việt Minh".

            Báo ấy viết tiếp: "Một quan năm chỉ huy đội máy bay mặt mày hốc hác, nói một cách mỉa mai: "Chúng ta có nhiều máy bay; chứng cớ là ngày nào Việt Minh cũng bắn rơi mấy chiếc. Phi công thì người nào cũng mệt nhừ. Chính tôi đây, hôm nay tôi đã bay suốt 17 tiếng đồng hồ. Nếu tôi phải bay một lần nữa, thì tôi không đảm bảo máy bay của tôi sẽ ra sao!".

            Báo ấy viết thêm: "Tính đến 22-4, Bộ tư lệnh Pháp nhận đã mất 23 chiếc máy bay. Kỳ thật đã mất 55 chiếc ở Điện Biên Phủ".

            Địch thả dù viện binh và tiếp tế xuống Điện Biên Phủ, phần lớn dù đã lọt vào tay ta. Như: ngày 4-5, chúng thả 234 dù, thì 222 chiếc bị ta tóm được.

            Tối 4-5, chúng thả 280 dù, thì 200 chiếc bị ta tóm được.

            Hôm 5-5, chúng thả 759 dù thì 337 chiếc bị ta tóm được.

V. QUAN BINH PHÁP KHÔNG THƯƠNG THƯƠNG BINH PHÁP

            Hôm 3-5, Tổng chỉ huy địch ở Điện Biên Phủ là Đờ Cát dõng dạc tuyên bố: "Chúng tôi quyết giữ Điện Biên Phủ cho đến người cuối cùng! Chúng tôi quyết không chịu hàng!".

            Nhưng 4 hôm sau, đến trận cuối cùng, cờ đỏ sao vàng của ta tung bay đến đâu thì cờ trắng xin hàng của địch lô nhô đến đó. Cả quan lẫn lính địch kéo nhau từng đàn ra hàng. Năm chiến sĩ ta là các đồng chí Luật, Lam, Hiên và hai đồng chí nữa đánh thốc vào bộ tư lệnh địch. Tướng Đờ Cát với 4 tên quan năm, 6 tên quan tư và 10 tên sĩ quan nữa giơ tay xin hàng.

            Thế là ta đã toàn thắng trong chiến dịch Điện Biên Phủ

            Ta tiêu diệt và bắt sống hơn 16.000 binh sĩ Pháp, trong đó có độ 1.000 thương binh. Khắp thế giới đều biết chính sách nhân đạo của ta đối với thương binh (và tù binh) địch. Nhưng chính bọn chỉ huy địch đã đối với thương binh Pháp thế nào? Hãng thông tấn U.P Mỹ (7-5) viết: "Hơn 1.000 thương binh quằn quại dưới hầm tối đen và ngạt thở, bên cạnh sở chỉ huy Pháp... Đến phút cuối cùng, tướng Đờ Cát đã ra lệnh cho súng lớn bắn vào sở chỉ huy...".

VI. TỪ BIÊN GIỚI ĐẾN ĐIỆN BIÊN PHỦ

            Tháng 10-1950, trong trận giải phóng biên giới, ta tiêu diệt và bắt sống hơn 4.500 địch, trong đó có 3 tên quan năm. Trận ấy đã làm cho cả nước Pháp xôn xao. Các báo Pháp đã nói: "Đó là thất bại to nhất trong lịch sử thực dân Pháp".

            Tiếp đến những trận Hòa Bình, phủ Nho Quan, vân vân, Pháp cũng thất bại.

            Đến Điện Biên Phủ thì làm cho cả thế giới xôn xao. Bạn ta và nhân dân cả châu Á thì vui mừng. Phe đế quốc, nhất là Pháp - Mỹ thì ngơ ngác. Một mặt vì từ trước chúng tuyên truyền quá huênh hoang. (Cuối tháng 4, Tổng thống Mỹ còn múa mồm nói: Pháp chắc thắng lợi ở Điện Biên Phủ - Eisenhower predicts Điên Biên Phủ victory) - Mặt khác, chúng thất bại cũng nặng thật: mất 25 tiểu đoàn tinh nhuệ nhất, gần 20 tên quan năm và một tên thiếu tướng...

            Báo chí phản động Pháp - Mỹ đã phải nhận rằng: "Điện Biên Phủ là cuộc thất bại to nhất từ ngày Pháp đầu hàng Đức (1940). Quân viễn chinh Pháp đã bị chặt mất đầu".

            Tin Điện Biên Phủ thất bại về đến Pháp đúng vào ngày cả nước Pháp đang tưng bừng sắm sửa ăn mừng "thắng" Đức (1945). Thành thử cuộc ăn mừng cụt hứng mà hóa ra cuộc truy điệu.

            Ảnh hưởng của Điện Biên Phủ: Hiện nay, kiều dân Pháp ở Hà Nội, Hải Phòng, vân vân, đều chuẩn bị cuốn gói chuồn. Các nhà tư bản Pháp ở vùng tạm bị chiếm thì rút lui vốn liếng có trật tự, một đồng bạc Mỹ trước kia đổi 34 đồng Đông Dương, nay đổi 100 đồng. Tinh thần binh sĩ Pháp rất chán nản. Ngụy binh rất hoang mang, đã có những nhóm vác súng chạy theo ta. Thực dân Pháp thì trách Mỹ không hết sức, không kịp thời cứu vãn. Đế quốc Mỹ thì trách Pháp hèn hạ, bất tài. Nội bộ Chính phủ Pháp lục đục, tên này đổ lỗi cho tên kia. Bại tướng Nava bị cách chức. Tên tướng Êly sang thay...

            Càng thất bại thì địch càng hung dữ, càng gần thắng lợi thì ta càng gặp nhiều khó khăn. Thật vậy, hiện nay ở Hội nghị Giơnevơ, ngoài mồm thì địch nói muốn thương lượng, nhưng sự thật thì chúng đang gấp rút điều binh khiển tướng để tiếp tục chiến tranh.

            Để tranh lấy thắng lợi mới, chúng ta phải ra sức vượt khó khăn mới; quân, dân và cán bộ ta, mỗi người phải ra sức thi đua làm tròn nhiệm vụ, tuyệt đối chớ khinh địch, chớ chủ quan. Nhiều Điện Biên Phủ khác đang chờ đợi chúng ta.

 

L.T. Điện Biên Phủ / L.T // Sách Điện Biên Phủ qua những trang tư liệu. - H.: Quân đội nhân dân, 2014. - Tr. 246-247

 

            Ba chữ Điện Biên Phủ đã làm cho tiếng tăm dân tộc Việt Nam ta lừng lẫy khắp năm châu.

            Cuối năm 1946, thực dân Pháp hòng đặt ách nô lệ lên vai nhân dân ta một lần nữa. Chúng cố gây ra chiến tranh.

            Trước tình hình ấy, nhân dân ta chỉ có thể chọn một con đường: Hoặc nhượng bộ cho địch để rồi làm thân trâu ngựa; đó là con đường dễ dàng, như lăn xuống dốc. Hoặc quyết tâm kháng chiến để giữ lấy độc lập, tự do; con đường này rất gian khổ, như trèo núi cao. Nhân dân ta đã chọn con đường khó và quyết tâm kháng chiến.

            Đánh giặc, trước hết phải có vũ khí, mà vũ khí đầu tiên của ta là gậy tầm vông. Ta dùng gậy tầm vông để chống lại máy bay, xe tăng, đại bác và tàu chiến của Pháp, Mỹ. Chúng ta đều nhớ rằng ngay trong thời kỳ kháng chiến, đế quốc Mỹ đã ra sức giúp thực dân Pháp để kéo dài chiến tranh.

            Mặc dù thiếu thốn mọi bề, khó khăn đủ thứ, nhưng toàn thể đồng bào ta từ Bắc đến Nam đã tin tưởng nghe theo lời kêu gọi của Đảng và Chính phủ, đoàn kết một lòng, kháng chiến cứu nước.

            Đảng nói: "Kháng chiến phải trường kỳ, gian khổ, song nhất định thắng lợi". Kết quả là lời nói của Đảng đã thực hiện, nhân dân ta đã thắng, thực dân Pháp đã thua.

            Từ ngày 19-12-1946 đến 7-5-1954, bộ đội và du kích ta đã đánh quân địch chết và bị thương hơn 466.000 binh sĩ.

            Trong chiến dịch Điện Biên Phủ, bộ đội ta đã tiêu diệt hoặc bắt làm tù binh 16.200 tên địch, trong số đó có một thiếu tướng, 16 quan năm, 353 tên từ quan một đến quan tư và 1.396 hạ sĩ quan.

            Lần đầu tiên trong lịch sử thế giới, một đế quốc hùng mạnh đã bị nhân dân một nước thuộc địa đánh cho tan tành tả tơi, và phải cút về nước.

            Đồng bào ta luôn luôn nhớ ơn quân đội ta đã dũng cảm chiến đấu để giữ gìn nền độc lập cho Tổ quốc và quyền tự do cho nhân dân.

            Trong lúc toàn dân ra sức kháng chiến, thì "chí sĩ Ngô Đình Diệm" ngao du ở nước Hoa Kỳ. Thế mà ngày nay, những người cầm quyền miền Nam dám to mồm nói họ đã đuổi thực dân Pháp và giải phóng đất nước Việt Nam!

            Ngoài việc đánh đuổi thực dân, kinh nghiệm kháng chiến thắng lợi nói chung và Điện Biên Phủ nói riêng, có hai ý nghĩa to lớn:

            - Nó đã khuyến khích các nhân dân bị áp bức ở Á - Phi nổi dậy chống chủ nghĩa thực dân, giành giải phóng dân tộc.

            - Nó chứng tỏ rằng, dưới sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng và Chính phủ ta và nhân dân ta đoàn kết nhất trí thì khó khăn gì cũng khắc phục được, công việc to lớn mấy cũng làm được. Sự nghiệp cách mạng và kháng chiến như vậy, công cuộc xây dựng nước nhà tiến dần lên chủ nghĩa xã hội cũng như vậy. 

TÔN ĐỨC THẮNG. Nêu cao tinh thần Điện Biên Phủ anh hùng, chúng ta hãy hăng hái vươn lên “mỗi người làm việc bằng hai” vì chủ nghĩa xã hội và thống nhất Tổ quốc // Sách Điện Biên Phủ qua những trang tư liệu. - H.: Quân đội nhân dân, 2014. - Tr. 248-250

            Thưa các đồng chí và các bạn,

            Hôm nay, chúng ta họp mặt đông đủ tại đây để kỷ niệm mười năm chiến thắng Điện Biên Phủ. Thay mặt ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Bộ Quốc phòng và Ủy ban hành chính thành phố Hà Nội tôi nhiệt liệt hoan nghênh sự có mặt của các đồng chí, các vị đại biểu của quân đội, các cơ quan và các đoàn thể Trung ương, các tầng lớp nhân dân Thủ đô, và nhiệt liệt hoan nghênh sự có mặt của ngoại giao đoàn và các đồng chí bạn hôm nay cũng tới dự, cùng chia sẻ niềm hân hoan với chúng tôi.

            Chiến thắng Điện Biên Phủ là một chiến công oanh liệt của quân và dân ta, là một trang sử sáng ngời trong lịch sử chống ngoại xâm của dân tộc Việt Nam. Mười năm đã trải qua, nhưng hình ảnh chiến thắng Điện Biên Phủ vẻ vang như còn rành rành in trong ký ức của mỗi người chúng ta. Trên một chiến trường rộng lớn, suốt từ Bắc đến Nam, quân dân ta, dù là ở tiền tuyến hay ở hậu phương, cũng đều chiến đấu và lao động vô cùng dũng cảm phục vụ chiến trường. Biết bao nhiêu chiến công rực rỡ. Biết bao nhiêu hành động anh hùng, biết bao nhiêu việc làm gan góc và vĩ đại. Tất cả mọi người đã đem hết sức mình để góp phần thực hiện quyết tâm chiến thắng của Trung ương Đảng. Nguồn sức mạnh của chúng ta là do sự lãnh đạo sáng suốt tài tình của Đảng, do tinh thần đoàn kết trên dưới một lòng, muôn người như một xung quanh Đảng và trong Mặt trận; do tinh thần tự lực cánh sinh, quyết chiến quyết thắng của nhân dân ta trong cuộc chiến đấu quyết liệt một mất một còn chống thực dân Pháp xâm lược và sự can thiệp của đế quốc Mỹ. Đúng như lời Hồ Chủ tịch đã nói: "Nhân dân ta có quyền tự hào là người đầu tiên đập tan sức mạnh và uy tín giả tạo của bọn thực dân và do đó thúc đẩy các dân tộc thuộc địa anh em vùng lên giành tự do và độc lập. Thắng lợi Điện Biên Phủ là thắng lợi chung của nhân dân ta, của phe xã hội chủ nghĩa và của các dân tộc chống đế quốc và thực dân".

            Chúng ta kỷ niệm chiến thắng Điện Biên Phủ trong khi ở miền Bắc nhân dân ta đang nỗ lực thi đua thực hiện kế hoạch Nhà nước năm 1964 và hoàn thành kế hoạch năm năm lần thứ nhất và đã giành nhiều thắng lợi to lớn về mọi mặt. Thắng lợi của Hội nghị chính trị đặc biệt do Hồ Chủ tịch triệu tập đang là nguồn cổ vũ mạnh mẽ cho nhân dân ta nâng cao sức phấn đấu cách mạng, xây dựng và bảo vệ miền Bắc, ủng hộ miền Nam.

            Kỷ niệm chiến thắng Điện Biên Phủ cũng đến với chúng ta trong khi đồng bào miền Nam đang chiến đấu oanh liệt, nêu cao tinh thần thi đua Ấp Bắc, giết giặc lập công, phát huy truyền thống quyết chiến quyết thắng của Điện Biên Phủ, đang giáng vào đầu đế quốc Mỹ và tay sai những đòn chí tử.

            Chúng ta họp nhau ở đây để ôn lại bài học quý giá của ngày lịch sử vẻ vang đó, để biểu dương và phát huy cao độ tinh thần chiến đấu anh dũng của quân đội ta, tinh thần đoàn kết yêu nước, tinh thần đấu tranh kiên cường bất khuất của nhân dân ta.

            Dưới ánh sáng của tinh thần Điện Biên Phủ anh hùng, của chủ nghĩa anh hùng cách mạng Việt Nam trong kháng chiến, chúng ta càng thêm tin tưởng, càng thêm phấn khởi, hăng hái vươn lên, theo tiếng gọi của Hồ Chủ tịch "mỗi người làm việc bằng hai" vì chủ nghĩa xã hội và vì thống nhất Tổ quốc...

TRƯỜNG CHINH. Chiến thắng Điện Biên Phủ là thắng lợi vĩ đại của nhân dân ta và cũng là thắng lợi chung của tất cả các dân tộc bị áp bức trên thế giới / Trường Chinh // Sách Điện Biên Phủ qua những trang tư liệu. - H.: Quân đội nhân dân, 2014. - Tr. 251-263

            Hôm nay, mồng 7 tháng 5 năm 1984, cùng với loài người tiến bộ, nhân dân Việt Nam kỷ niệm trọng thể lần thứ 30 Chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ.

            Trong không khí hào hùng của ngày hội lớn của nhân dân ta và cũng là ngày hội lớn của các dân tộc yêu chuộng độc lập, tự do, tôi thân ái gửi đến đồng bào và chiến sĩ cả nước, kiều bào ở nước ngoài, đến anh em bầu bạn trên thế giới lời chào mừng nhiệt liệt nhất.

            Kỷ niệm lần thứ 30 Chiến thắng Điện Biên Phủ đến giữa lúc nhân dân ta đang đoàn kết một lòng, quyết phấn đấu, ra sức thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược: Xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa, sau khi đã quét sạch các đội quân xâm lược ra khỏi bờ cõi của mình. Dưới ánh sáng Nghị quyết Đại hội toàn quốc lần thứ IV, Đại hội toàn quốc lần thứ V của Đảng và Nghị quyết của các cuộc hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng, tiếp theo, một khí thế thi đua sôi nổi đang dấy lên trong các lĩnh vực lao động sản xuất, chiến đấu và sẵn sàng chiến đấu.

            Ngày hội chiến thắng của chúng ta đến trong khi tình hình thế giới đang có những diễn biến phức tạp. Hệ thống xã hội chủ nghĩa thế giới do Liên Xô làm trụ cột đang cùng với các lực lượng cách mạng lớn mạnh không ngừng. Song chủ nghĩa đế quốc đứng đầu là đế quốc Mỹ, vẫn điên cuồng tập hợp các lực lượng phản động, xúc tiến việc chuẩn bị chiến tranh hạt nhân và đánh phá phong trào cách mạng trên nhiều khu vực. Nhân dân các dân tộc tiếp tục cuộc đấu tranh giải phóng, quyết đánh bại các cuộc phản kích của quân thù.

            Trong bối cảnh lịch sử trên đây, cuộc kỷ niệm trọng thể hôm nay mang ý nghĩa rất sâu sắc.

            ... Cách đây 30 năm, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam quang vinh và của Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại, nhân dân và các lực lượng vũ trang nhân dân nước ta đã làm nên chiến thắng Điện Biên Phủ, đỉnh cao của cuộc tiến công chiến lược đại thắng trong Đông Xuân 1953-1954, kết thúc thắng lợi cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp.

            Mọi người còn nhớ, ngay sau khi Cách mạng tháng Tám của nhân dân Việt Nam thành công, thực dân Pháp đã quay lại xâm lược nước ta một lần nữa, hòng đặt lại ách thống trị thuộc địa của chúng trên khắp Đông Dương. Tướng lĩnh Pháp tưởng có thể nhanh chóng kết thúc thắng lợi cuộc chiến tranh xâm lược bằng "một cuộc hành quân dạo mát"! Nhưng chúng đã lầm to. Theo lời kêu gọi của Đảng và của Chủ tịch Hồ Chí Minh, toàn dân ta từ Nam đến Bắc, đã nhất tề đứng lên kháng chiến, cứu nước. Thực dân Pháp thất bại trong chiến lược đánh nhanh thắng nhanh, đã buộc phải chuyển sang đánh kéo dài, ngày càng lún sâu vào thế bị động về chiến lược, gặp nhiều khó khăn về quân sự, chính trị và kinh tế...

            Năm 1953, cuộc kháng chiến lâu dài của nhân dân Việt Nam bước sang năm thứ tám. Quân và dân ta càng đánh càng mạnh, càng nắm vững quyền chủ động chiến lược trên chiến trường, giành hết thắng lợi này đến thắng lợi khác trên các mặt trận quân sự, chính trị và ngoại giao.

            Trong thế bị sa lầy, nguy khốn, thực dân Pháp phải yêu cầu đế quốc Mỹ viện trợ, hòng tìm một lối thoát cho cuộc chiến tranh hao người, tốn của, một "cuộc chiến tranh bẩn thỉu" mà nhân dân Pháp, nhân dân tiến bộ trên thế giới phỉ nhổ và lên án nghiêm khắc.

            Sau cuộc chiến tranh thế giới thứ hai, chủ nghĩa đế quốc bị suy yếu nghiêm trọng, nhưng vẫn tìm mọi cách chống lại thế tiến công chiến lược của ba dòng thác cách mạng đã hình thành và đang cuồn cuộn dâng cao. Sau khi đình chiến ở Triều Tiên, đế quốc Mỹ gây sức ép buộc Pháp tiếp tục cuộc chiến tranh xâm lược ở Đông Dương và bản thân Mỹ cũng trực tiếp can thiệp vào cuộc chiến tranh đó. Ý đồ đen tối của Mỹ là muốn gạt Pháp ra khỏi bán đảo này, áp đặt chủ nghĩa thực dân kiểu Mỹ ở Đông Dương và kiểm soát cả vùng Đông Nam châu Á.

            Kế hoạch Nava, một kế hoạch điên cuồng đầy tham vọng của cả Pháp và Mỹ đã ra đời trong bối cảnh ấy. Mục tiêu của kế hoạch đó là giành thắng lợi quyết định trong vòng 18 tháng để kết thúc chiến tranh có lợi cho Pháp và đương nhiên cũng tạo điều kiện cho Mỹ nắm lấy Đông Dương.

            Trung ương Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã phân tích sâu sắc thế chiến lược giữa ta và địch trên chiến trường, đánh giá đúng lực lượng đối sánh giữa hai bên và nhận định chính xác là thời cơ giành thắng lợi quyết định cho cuộc kháng chiến lâu dài đã đến. Đảng đã hạ quyết tâm giữ vững quyền chủ động chiến lược, buộc địch tiếp tục lún sâu vào thế bị động phòng ngự, phát triển mạnh mẽ thế tiến công chiến lược của ta, đập tan kế hoạch Nava, và phát huy sức cố gắng cao nhất của toàn Đảng, toàn quân và toàn dân, chớp lấy thời cơ giành thắng lợi quyết định cho cuộc kháng chiến chống Pháp.

            Một kế hoạch tác chiến chiến lược trong Đông Xuân 1953-1954 đã được vạch ra và đã được triển khai nhanh chóng. Phương châm "tích cực chủ động, cơ động, linh hoạt" đã được xác định.

            Cả nước Việt Nam ra trận. Các chiến trường phối hợp chặt chẽ, đồng loạt tiến công. Kết hợp chiến tranh chính quy với chiến tranh du kích, đánh cả trước mặt, bên sườn và sau lưng địch, cả ở rừng núi, nông thôn, đồng bằng và thành thị, quân và dân ta liên tiếp giáng cho địch những đòn rất hiểm, rất đau. Chúng phải phân tán binh lực, bị động đối phó trên khắp các chiến trường, cả ở Bắc Bộ, Trung Bộ và Nam Bộ, cả ở Thượng Lào, Hạ Lào và miền Đông Campuchia. Vừa được xây dựng để hòng giành lại quyền chủ động chiến lược, khối cơ động chiến lược của địch đã bị phá vỡ.

            Sau những trận đầu, kế hoạch Nava đã đứng trước nguy cơ phá sản. Vẫn hy vọng giành lại chủ động trong thế bị động, Nava chủ quan và liều lĩnh đổ thêm quân tinh nhuệ của Pháp xuống Điện Biên Phủ và quyết định xây dựng vị trí đó thành một tập đoàn cứ điểm rất mạnh, để thực hiện những âm mưu trước mắt và lâu dài của thực dân Pháp và của cả đế quốc Mỹ.

            Thực dân Pháp muốn tạo nên một phòng tuyến vững chắc từ Điện Biên Phủ dọc theo sông Nậm Hu đến Luông Pha Băng, thu hút và tiêu diệt chủ lực ta, phá kế hoạch tiến công của ta. Tiếp đó, sang thu đông năm 1954, sau khi bình định xuống miền Nam, sẽ tập trung lực lượng cơ động chiến lược ra chiến trường Bắc Bộ, mở cuộc tiến công chiến lược, giành thắng lợi quyết định. Nhân cơ hội đó, đế quốc Mỹ cũng muốn xây dựng Điện Biên Phủ thành một căn cứ không quân - lục quân chiến lược lợi hại, phục vụ lâu dài cho chính sách xâm lược của chúng ở Đông Dương và Đông Nam châu Á.

            Quyết tâm và kế hoạch tác chiến chiến lược Đông Xuân 1953-1954 của ta ngay từ đầu đã mang lại kết quả rõ rệt. Các cuộc tiến công liên tiếp của chủ lực ta nổ ra ở Lai Châu (Tây Bắc), ở Thượng Lào, Trung Lào, Hạ Lào, Bắc Tây Nguyên. Trên chiến trường hai nước láng giềng ở Đông Dương, có sự phối hợp của Quân giải phóng Lào và Quân giải phóng Campuchia. Ta tiêu diệt nhiều sinh lực địch, giải phóng nhiều vùng rộng lớn. Chiến tranh du kích phát triển mạnh ở đồng bằng Bắc Bộ, Bình - Trị - Thiên, cực Nam Trung Bộ và Nam Bộ.

            Trên chiến trường cả nước, đặc biệt là ở chiến trường Bắc Bộ, có thêm những thuận lợi mới cho ta. Bộ Chính trị Trung ương Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh quyết định chọn Điện Biên Phủ làm điểm quyết chiến chiến lược của quân và dân cả nước trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược.

            Ngày 13 tháng 3 năm 1954, cuộc đại tiến công của quân ta vào tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ bắt đầu. Cả nước đẩy mạnh hoạt động phối hợp chiến tranh với Điện Biên Phủ, "đem toàn lực chi viện chiến dịch Điện Biên Phủ và nhất là làm mọi việc cần thiết để giành toàn thắng cho chiến dịch này".

            Cuộc chiến đấu ở Điện Biên Phủ diễn ra quyết liệt suốt 55 ngày đêm liên tục, sau khi cân nhắc kỹ các phương án tác chiến, thấm nhuần tư tưởng "Đánh chắc tiến chắc"; do đó, đã triển khai công tác chuẩn bị tiếp cho chiến đấu từ kế hoạch tác chiến đến tổ chức lực lượng, bổ sung quân số, bảo đảm hậu cần, v.v. để đánh địch trong một chiến dịch quy mô lớn, dài ngày, xa hậu phương chiến lược.

            Với tinh thần quyết chiến, quyết thắng, quân ta đã chiến đấu vô cùng anh dũng, phát huy tác dụng của các loại vũ khí có trong tay, tìm ra nhiều cách đánh sáng tạo, vừa đánh hiệp đồng, vừa đánh độc lập, xây dựng trận địa tiến công và vây hãm quân thù, hạn chế đến mức tối đa ưu thế của địch về không quân, triệt hẳn nguồn tiếp tế và tiếp viện của chúng. Cuối cùng, ta đã tiêu diệt toàn bộ tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ vào chiều ngày 7 tháng 5 năm 1954.

            Chúng ta đã toàn thắng trong cuộc tiến công chiến lược Đông Xuân 1953-1954 mà đỉnh cao là chiến dịch Điện Biên Phủ. Kế hoạch Nava bị phá sản hoàn toàn.

            Quân và dân ta đã đánh bại cố gắng chiến tranh cao nhất của Pháp, có Mỹ giúp sức, giáng một đòn quyết định vào ý chí xâm lược của thực dân Pháp, buộc chúng phải ký Hiệp định Giơnevơ, kết thúc chiến tranh, lập lại hòa bình ở Đông Dương.

            Cuộc kháng chiến thần thánh của dân tộc Việt Nam chống cuộc chiến tranh xâm lược thực dân kiểu cũ của Pháp, đã giành được thắng lợi vĩ đại.

            Ba mươi năm đã qua, Điện Biên Phủ, cái tên kỳ diệu ấy đã đi vào lịch sử dân tộc và như Bạch Đằng, Chi Lăng, Đống Đa... Thời gian không làm phai mờ ý nghĩa thắng lợi vĩ đại của Điện Biên Phủ, của cuộc toàn dân kháng chiến chống thực dân Pháp, trái lại càng làm nổi bật tinh thần cách mạng, khí phách anh hùng của dân tộc Việt Nam.

            Cuộc tiến công chiến lược Đông Xuân 1953-1954 với chiến dịch Điện Biên Phủ là kết cục tất yếu của cuộc chiến tranh yêu nước, chính nghĩa của dân tộc Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng Mác - Lênin. Nó phản ánh tính tất yếu thắng lợi của phong trào giải phóng dân tộc trong thời đại ngày nay, phù hợp với quy luật phát triển của lịch sử xã hội loài người.

            Thắng lợi vĩ đại của cuộc kháng chiến chống Pháp đã bảo vệ và phát triển những thành quả của Cách mạng tháng Tám, giải phóng hoàn toàn miền Bắc, chấm dứt ách thống trị của thực dân Pháp trong gần một thế kỷ ở ba nước Đông Dương, đưa cách mạng Việt Nam chuyển sang một giai đoạn mới, giai đoạn cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc và giải phóng miền Nam khỏi ách thực dân mới của đế quốc Mỹ, hoàn thành nhiệm vụ cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân trong cả nước.

            Đối với phong trào cách mạng thế giới, sau thắng lợi vĩ đại của Cách mạng xã hội chủ nghĩa tháng Mười Nga mở đầu thời đại mới, thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội trên phạm vi toàn thế giới, thắng lợi của Cách mạng tháng Tám và tiếp đó là thắng lợi của cuộc kháng chiến của nhân dân Việt Nam chống thực dân Pháp xâm lược đã mở đầu cho sự sụp đổ của chủ nghĩa thực dân cũ, đánh dấu một bước phát triển mới trong cuộc đấu tranh của nhân dân thế giới vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và chủ nghĩa xã hội.

            Điện Biên Phủ và thắng lợi của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp cũng là hồi kèn chiến thắng của nhân dân ta trong trận chiến đấu chống bọn can thiệp Mỹ, là khúc nhạc mở màn cho bản trường ca chống Mỹ, cứu nước, chuẩn bị cuộc đụng đầu lịch sử giữa nhân dân Việt Nam với đế quốc Mỹ sau này.

            Điện Biên Phủ mãi mãi là niềm tự hào chính đáng của dân tộc Việt Nam, là niềm tin sắt đá của các dân tộc bị áp bức vùng lên chiến đấu để tự giải phóng cho mình.

            Cuộc sống càng chứng minh nhận định của Chủ tịch Hồ Chí Minh là đúng:

            Chiến thắng Điện Biên Phủ "là thắng lợi vĩ đại của nhân dân ta và cũng là thắng lợi chung tất yếu của các dân tộc bị áp bức trên thế giới. Chiến thắng Điện Biên Phủ càng làm sáng ngời chân lý của chủ nghĩa Mác - Lênin trong thời đại ngày nay; chiến tranh xâm lược của chủ nghĩa đế quốc nhất định thất bại, cách mạng giải phóng dân tộc nhất định thành công".

            Điện Biên Phủ là thắng lợi của độc lập dân tộc đối với chủ nghĩa thực dân, chủ nghĩa đế quốc.

            Điện Biên Phủ chứng minh một chân lý: trong thời đại ngày nay, một dân tộc đất không rộng, người không đông, nhưng quyết tâm chiến đấu, đoàn kết chặt chẽ, có Đảng Mác - Lênin chân chính lãnh đạo, lại được sự ủng hộ quốc tế, thì hoàn toàn có thể lật đổ ách thống trị của chủ nghĩa thực dân và đánh bại chiến tranh xâm lược của chủ nghĩa đế quốc, giành lại độc lập, tự do...

            Chân lý ấy lại được chứng minh trong cuộc đụng đầu lịch sử giữa dân tộc Việt Nam với đế quốc Mỹ, tên đế quốc đầu sỏ trong hàng ngũ đế quốc...

            Vì sao dân tộc Việt Nam, một dân tộc đất không rộng, người không đông, kinh tế lạc hậu, lại có thể đánh thắng những kẻ thù xâm lược lớn hơn mình gấp nhiều lần?

            Câu trả lời có thể tóm tắt như sau: nhân dân Việt Nam nồng nàn yêu nước, đoàn kết một lòng, quyết đánh và quyết thắng, biết đánh và biết thắng, lại có sức mạnh hỗ trợ của thời đại.

            Chúng ta quyết đánh và quyết thắng, biết đánh và biết thắng, vì nhân dân ta có truyền thống yêu nước nồng nàn, có ý thức độc lập, tự chủ cao. "Nước mất, nhà tan", đạo lý ấy thấm sâu vào tình cảm và lý trí của các thế hệ người Việt Nam, từ đời này qua đời khác. Mỗi khi Tổ quốc lâm nguy, mọi người Việt Nam đều đứng lên giữ nước, giữ nhà, bằng những cách đánh giặc thông minh và dũng cảm.

            Lòng yêu nước, tinh thần làm chủ đất nước của nhân dân ta đã được khơi dậy và bùng lên, khi cách mạng Việt Nam được ánh sáng soi đường của chủ nghĩa Mác - Lênin do Chủ tịch Hồ Chí Minh mang lại. Cách mạng Việt Nam bước vào quỹ đạo của cách mạng vô sản trên phạm vi toàn thế giới. Từ khi có Đảng lãnh đạo, nhân dân Việt Nam càng có ý thức sâu sắc về vai trò lịch sử, về khả năng và sức mạnh của mình. Do đó, đã quyết tâm chiến đấu, đoàn kết một lòng, đi theo con đường mà Đảng đã vạch ra.

            Quyết đánh và quyết thắng, biết đánh và biết thắng còn bắt nguồn từ đường lối đúng đắn, độc lập, tự chủ và sáng tạo của Đảng ta.

            Đó là đường lối chính trị lãnh đạo toàn dân làm cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân tiến lên làm cách mạng xã hội chủ nghĩa, kết hợp độc lập dân tộc với chủ nghĩa xã hội, kết hợp chủ nghĩa yêu nước với chủ nghĩa quốc tế vô sản.

            Đó là đường lối kháng chiến toàn dân, toàn diện và lâu dài, dựa vào sức mình là chính, đồng thời ra sức tranh thủ viện trợ quốc tế.

            Thực hiện đường lối kháng chiến đó, quân và dân ta đã nghĩ ra nhiều cách đánh rất tài tình. Đó là cách đánh thích hợp với trình độ phát triển kinh tế, văn hóa của đất nước, phát huy truyền thống và kinh nghiệm lâu đời của chiến tranh nhân dân Việt Nam - vươn lên chính quy và hiện đại - với nhiều hình thức phong phú, linh hoạt do quân và dân ta sáng tạo ra. Cách đánh ấy thấm nhuần tư tưởng cách mạng tiến công, luôn luôn chủ động và kiên quyết tiêu diệt địch, với tinh thần quyết chiến, quyết thắng, "thà hy sinh tất cả chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ!". Nhờ vậy, quân và dân ta cuối cùng đã đánh thắng những đội quân nhà nghề của chủ nghĩa thực dân, chủ nghĩa đế quốc. Chính tên bại tướng Nava đã phải thừa nhận: "Bao giờ Việt Minh cũng từ chối chiến tranh cổ điển và bắt Pháp phải theo hình thức chiến tranh của họ", cuộc chiến tranh mà "chưa có một học viện quân sự nào nghiên cứu kỹ lưỡng".

            Với chính sách vừa kháng chiến vừa kiến quốc, kết hợp đúng đắn nhiệm vụ chống phong kiến với nhiệm vụ chống đế quốc, kết hợp huy động sức dân với bồi dưỡng sức dân để kháng chiến lâu dài, Đảng đã chủ trương phát động quần chúng thực hiện giảm tô và cải cách ruộng đất ngay trong kháng chiến. Hậu phương của cuộc chiến tranh nhân dân không ngừng được củng cố và tăng cường chi viện ngày càng nhiều sức người, sức của, tạo thêm sức mạnh vật chất và tinh thần cho tiền tuyến.

            Với cải cách ruộng đất, Mặt trận dân tộc thống nhất trên nền tảng liên minh công nông được mở rộng một cách vững chắc, điều đó cho phép động viên và phát triển sức mạnh tiềm tàng của đất nước, của dân tộc. Sức mạnh ấy là sản phẩm của sự kết hợp lực lượng chính trị với lực lượng quân sự, kết hợp sức mạnh của truyền thống dân tộc với sức mạnh hiện tại về mọi mặt của toàn dân.

            Để đánh thắng những tên đế quốc to, Đảng ta đã ra sức xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân hùng hậu với ba thứ quân: bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương và dân quân du kích. Đó là mũi mác của cuộc kháng chiến, là lực lượng nòng cốt của toàn dân đánh giặc.

            Dưới sự lãnh đạo chặt chẽ của Đảng, lực lượng vũ trang nhân dân ta đã phát huy được bản chất cách mạng tốt đẹp, có tinh thần chiến đấu dũng cảm, có kỷ luật tự giác, nghiêm minh, có tổ chức vững mạnh, có trang bị từ thô sơ tiến đến hiện đại, nắm được khoa học và nghệ thuật quân sự cách mạng. Với lực lượng nòng cốt đó, nhân dân ta đã đánh thắng được các đội quân xâm lược của thực dân Pháp, của đế quốc Mỹ và các thế lực khác...

            Chúng ta biết đánh và biết thắng còn vì quân và dân ta chiến đấu trong sự phối hợp chặt chẽ với quân và dân Lào, quân và dân Campuchia trên toàn chiến trường Đông Dương. Chúng ta lại luôn luôn tăng cường đoàn kết quốc tế, tranh thủ sự ủng hộ và giúp đỡ to lớn của các nước xã hội chủ nghĩa anh em, của cả loài người tiến bộ. Nhân dân Việt Nam làm nhiệm vụ dân tộc của mình đồng thời làm nghĩa vụ quốc tế đối với nhân dân các nước trên bán đảo Đông Dương và tích cực góp phần vào sự nghiệp cách mạng của nhân dân toàn thế giới, vì vậy đồng minh của nhân dân Việt Nam rất rộng, bầu bạn của nhân dân Việt Nam rất đông.

            Kết hợp sức mạnh của dân tộc ta với sức mạnh của thời đại mới, Đảng ta đã thống nhất được cuộc chiến đấu của nhân dân ta với thế tiến công của ba dòng thác cách mạng trên thế giới. Chính hai nguồn sức mạnh đó đã chắp cánh cho cách mạng Việt Nam, cho chiến tranh nhân dân Việt Nam đạt tới đích cuối cùng.

            Quyết đánh và quyết thắng, biết đánh và biết thắng, nhân dân Việt Nam đã thắng trong chiến tranh giải phóng dân tộc và trong chiến tranh bảo vệ Tổ quốc...

            Chiến tranh nhân dân Việt Nam là một kinh nghiệm sáng tạo thành công của thời đại, một thắng lợi vĩ đại của phong trào giải phóng dân tộc ở thế kỷ XX này.

            Bằng kinh nghiệm của mình, nhân dân Việt Nam đã góp phần làm phong phú thêm kho tàng kinh nghiệm của các dân tộc đang đấu tranh giành độc lập, tự do.

            Thắng lợi rực rỡ của nhân dân Việt Nam và của nhiều dân tộc trên các lục địa, từ Cuba, Ănggôla đến Êtiôpi, Môdămbích, từ Nicaragoa đến En Xanvađo, v.v... đang cổ vũ mạnh mẽ các dân tộc bị áp bức trên toàn thế giới. Những thắng lợi đó đang làm tan rã hệ thống thuộc địa của chủ nghĩa đế quốc, đồng thời góp phần mở rộng hệ thống thế giới của chủ nghĩa xã hội.

            Bộ mặt của thế giới đang thay đổi nhanh chóng.

            Truyền thống Điện Biên Phủ là sự kế thừa và phát triển truyền thống đấu tranh kiên cường, bất khuất chống ngoại xâm của dân tộc Việt Nam, qua hơn bốn nghìn năm dựng nước và giữ nước, truyền thống của các anh hùng cứu nước: Bà Trưng, Bà Triệu, Lý Thường Kiệt, Trần Hưng Đạo, Lê Lợi, Quang Trung.

            Phát huy truyền thống Điện Biên Phủ, trải qua mấy chục năm chiến đấu đầy gian khổ, hy sinh, mùa Xuân năm 1975, nhân dân ta đã đánh bại cuộc chiến tranh xâm lược của đế quốc Mỹ và bè lũ tay sai, giành thắng lợi hoàn toàn. Tổ quốc ta độc lập, tự do và thống nhất.

            Cách mạng nước ta chuyển sang giai đoạn mới, giai đoạn cả nước quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Đại hội toàn quốc lần thứ IV và Đại hội toàn quốc lần thứ V của Đảng đã đề ra đường lối cách mạng xã hội chủ nghĩa nhằm đưa nước ta tiếp tục tiến lên.

            Với niềm tự hào vô hạn và nguồn sinh lực mới, với truyền thống Điện Biên Phủ, truyền thống chiến dịch Hồ Chí Minh, nhân dân cả nước ta đang ra sức phấn đấu thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược: xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội và sẵn sàng chiến đấu, bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa...

            Ba mươi năm sau chiến thắng oanh liệt ở Điện Biên Phủ, Tổ quốc ta đã trải qua nhiều thử thách, gian nan, nhưng vẫn hiên ngang tiến bước. Bằng xương máu và mồ hôi của mình, dân và quân ta đã ghi tiếp biết bao chiến công rực rỡ trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, và đang đứng trước những triển vọng tốt đẹp.

            Hôm nay, kỷ niệm lần thứ 30 chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ và cuộc kháng chiến thắng lợi chống thực dân Pháp, chúng ta tưởng nhớ Chủ tịch Hồ Chí Minh, lãnh tụ kính yêu và người thầy vĩ đại của Cách mạng Việt Nam. Với tầm nhìn chiến lược thiên tài, Người đã cùng Trung ương Đảng dẫn dắt nhân dân ta đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác. Nhớ đến công lao trời biển của Người, chúng ta thấy như Người luôn luôn bên cạnh chúng ta, đang cùng chúng ta mừng ngày hội chiến thắng. Toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta quyết tâm thực hiện trọn vẹn Di chúc thiêng liêng của Người.

            Tổ quốc Việt Nam đời đời ghi công các chiến sĩ đã hy sinh anh dũng ở Điện Biên Phủ và trên các chiến trường trong hơn 30 năm chiến tranh giải phóng và chiến tranh giữ nước, làm nhiệm vụ dân tộc và nghĩa vụ quốc tế. Tấm gương sáng của các anh hùng, liệt sĩ sống mãi với non sông đất nước, sống mãi trong lòng nhân dân Việt Nam.

            Chúng ta vô cùng tự hào về Đảng Cộng sản Việt Nam quang vinh, một Đảng Mác - Lênin chân chính, người lãnh đạo sáng suốt của giai cấp công nhân và nhân dân Việt Nam, người tổ chức mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam.

            Chúng ta vô cùng tự hào về nhân dân ta, một dân tộc anh hùng, thấm nhuần chân lý sáng ngời: "Không có gì quý hơn độc lập, tự do”, trải qua đấu tranh kiên cường, bất khuất, đã viết nên những trang sử vẻ vang.

            Chúng ta vô cùng tự hào về quân đội ta, một quân đội nhân dân nêu cao tinh thần yêu nước, yêu chủ nghĩa xã hội và tinh thần quốc tế vô sản, đã cùng toàn dân lập những chiến công vĩ đại, từ Điện Biên Phủ đến đại thắng mùa Xuân 1975 và thắng lợi oanh liệt mùa Xuân năm 1979.

            Nhân ngày hội lớn này, chúng ta tỏ lòng biết ơn sâu sắc về sự ủng hộ và giúp đỡ đầy tình nghĩa anh em của nhân dân Liên Xô, nhân dân Lào, nhân dân Campuchia, nhân dân các nước xã hội chủ nghĩa khác và của cả loài người tiến bộ đối với sự nghiệp cách mạng của nhân dân Việt Nam.

            Phấn khởi, tin tưởng, hướng về tương lai tươi sáng, toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta đoàn kết chặt chẽ chung quanh Ban Chấp hành Trung ương Đảng, đứng đầu là đồng chí Tổng Bí thư Lê Duẩn, quyết đem hết tinh thần và lực lượng giành thắng lợi to lớn hơn nữa trong nhiệm vụ xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa.

            - Sự nghiệp cách mạng của nhân dân Việt Nam nhất định thắng!

            - Sự nghiệp cách mạng của nhân dân thế giới vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và chủ nghĩa xã hội nhất định thắng!

            - Tinh thần quyết chiến, quyết thắng của Điện Biên Phủ muôn năm!

            - Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam muôn năm!

            - Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại sống mãi trong sự nghiệp của chúng ta!

            - Tất cả vì sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa, vì hạnh phúc của nhân dân!

PHẠM VĂN ĐỒNG. Chiến thắng Điện Biên Phủ - Bài học đoàn kết chiến đấu và chiến thắng dưới ngọn cờ của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh / Phạm Văn Đồng // Sách Điện Biên Phủ qua những trang tư liệu. - H.: Quân đội nhân dân, 2014. - Tr. 264-267

            ... Trong lịch sử các dân tộc cũng như trong lịch sử loài người, tầm vóc của những sự kiện lớn, những sự kiện tích cực ngày càng sáng tỏ với thời gian.

            Thời gian 30 năm qua đầy sóng gió cách mạng càng làm nổi bật ý nghĩa, tác dụng và ảnh hưởng của Chiến thắng Điện Biên Phủ đối với Việt Nam cũng như đối với nhiều dân tộc khác trên thế giới.

            Chiến thắng Điện Biên Phủ kế tục truyền thống anh hùng dựng nước và giữ nước của Hai Bà Trưng, Trần Hưng Đạo, Lê Lợi, Quang Trung..., phát huy thành quả 25 năm đấu tranh cách mạng dưới sự lãnh đạo của Đảng và của Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại, phát triển mạnh mẽ thắng lợi của Cách mạng tháng Tám và sức sống của nước Việt Nam mới, nước Việt Nam dân chủ cộng hòa.

            Chiến thắng Điện Biên Phủ đánh dấu sự thất bại không thể cứu vãn nổi của đội quân viễn chinh Pháp, kết thúc vĩnh viễn chế độ thống trị của thực dân Pháp đã kéo dài gần một thế kỷ trên đất nước ta.

            Cùng với thực dân Pháp, đế quốc Mỹ bắt đầu nếm mùi thất bại cay đắng ở Điện Biên Phủ, bởi chúng đã can thiệp rất sâu vào cuộc chiến tranh, cho nên ngay sau Điện Biên Phủ và Hội nghị Giơnevơ, đế quốc Mỹ đã hất cẳng thực dân Pháp, nhảy vào Việt Nam với những tham vọng ngông cuồng: không chỉ chúng thay thực dân Pháp thiết lập sự đô hộ thực dân mới của chúng ở miền Nam mà còn chuẩn bị tiến hành cuộc chiến tranh xâm lược miền Bắc nước ta. Như vậy, cuộc chạm trán đầu tiên giữa nhân dân Việt Nam với đế quốc Mỹ ở Điện Biên Phủ đã trở thành cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước lâu dài, gian khổ và vô cùng oanh liệt của nhân dân Việt Nam ta.

            Chiến thắng Điện Biên Phủ đã tạo cho nhân dân ta mạnh, tài năng, ý chí quyết chiến và quyết thắng, càng đánh càng mạnh, càng thắng lớn và sau hơn 20 năm chiến đấu sáng ngời chủ nghĩa anh hùng cách mạng, nhân dân ta kết thúc cuộc kháng chiến chống nước đế quốc giàu và mạnh nhất của thời đại ngày nay bằng Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, hoàn thành độc lập, tự do trong cả nước, nhanh chóng thống nhất Tổ quốc, đưa cả nước tiến lên chủ nghĩa xã hội...

            Về mặt quốc tế, Chiến thắng Điện Biên Phủ là tiếng sấm báo hiệu sự sụp đổ của chủ nghĩa thực dân (cũ). Quá trình kháng chiến của nhân dân Việt Nam chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ từ Chiến thắng Điện Biên Phủ đến Chiến dịch Hồ Chí Minh cũng là quá trình lớn mạnh của phong trào giải phóng dân tộc trên khắp các lục địa, làm thay đổi bản đồ thế giới, đưa hàng chục nước đứng lên giành độc lập, tự do, tạo thành một lực lượng lớn ngày càng có vai trò quan trọng trong đời sống quốc tế. Lịch sử phong phú và hào hùng ba mươi năm qua làm cho dân tộc Việt Nam ta trở thành người chiến sĩ chiến đấu và chiến thắng các lực lượng thực dân và đế quốc, nêu tấm gương sáng và cổ vũ mạnh mẽ cuộc chiến đấu tất thắng có ý nghĩa thời đại của nhân dân bị áp bức trên toàn thế giới.

            Chiến thắng Điện Biên Phủ và nói chung cuộc đấu tranh cách mạng của nhân dân ta từ khi có Đảng là thắng lợi của ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, là sự kết hợp thiên tài và truyền thống của dân tộc Việt Nam với học thuyết Mác - Lênin, tinh hoa, ánh sáng và chân lý của thời đại. Ở đây cần nhấn mạnh một điều rất quan trọng: thắng lợi của sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta gắn bó mật thiết với Cách mạng xã hội chủ nghĩa tháng Mười vĩ đại, với sự ra đời và lớn mạnh của Liên bang Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Xôviết, với sự hình thành và phát triển của cộng đồng xã hội chủ nghĩa trên thế giới. Đó là thắng lợi của tình đoàn kết chiến đấu đặc biệt liên kết ba dân tộc anh em Việt Nam, Lào, Campuchia trên bán đảo Đông Dương. Đó là thắng lợi của sự ủng hộ và giúp đỡ khảng khái và rộng khắp của các nước xã hội chủ nghĩa, của nhân dân Pháp, nhân dân Mỹ và cả loài người tiến bộ.

            Trong thời gian tới, trên cơ sở những thành quả đã giành được, lịch sử sẽ có những chuyển biến càng phong phú và hào hùng hơn nữa. Như quá khứ đã chứng minh, đối với chúng ta và nhân dân thế giới, lịch sử bao giờ cũng là người bạn đường trung thành đầy tính năng động hướng theo những xu thế sâu xa của dân tộc cũng như của cả loài người bởi lẽ, suy cho cùng, lịch sử là do nhân dân làm nên, nhất là ở thời đại chúng ta, bắt đầu bằng Đại cách mạng xã hội chủ nghĩa tháng Mười, thời đại của ba dòng thác cách mạng lúc nhân dân các nước lần lượt đứng lên làm chủ vận mệnh của mình, làm chủ độc lập, tự do và cuộc sống mới của mình.

            Phát huy chủ nghĩa anh hùng cách mạng mà Điện Biên Phủ và Chiến dịch Hồ Chí Minh là những đỉnh cao chói lọi, nhân dân ta đang ra sức làm tròn hai nhiệm vụ chiến lược: xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội và bảo vệ vững chắc Tổ quốc xã hội chủ nghĩa thân yêu của chúng ta.

            Trong tình hình quốc tế ngày nay, nhân dân ta sát cánh cùng nhân dân các nước xã hội chủ nghĩa và nhân dân thế giới quyết làm hết sức mình đánh bại nguy cơ chiến tranh hạt nhân, ra sức phấn đấu cho sự nghiệp quan trọng bậc nhất là bảo vệ hòa bình và cuộc sống yên lành của mọi người trên trái đất và cùng với hòa bình phấn đấu cho sự nghiệp độc lập dân tộc, dân chủ và chủ nghĩa xã hội.

            Kỷ niệm lần thứ 30 chiến thắng Điện Biên Phủ, chúng ta hãy ôn lại những bài học quý báu của chặng đường cách mạng vẻ vang đã qua: bài học đoàn kết chiến đấu và chiến thắng dưới ngọn cờ của Đảng và của Chủ tịch Hồ Chí Minh kính yêu; bài học phấn đấu kiên cường và bền bỉ, vượt mọi khó khăn gian khổ đánh bại mọi kẻ thù vì lợi ích của cách mạng và của nhân dân; bài học phát huy lòng dũng cảm, trí thông minh và tài năng sáng tạo của mỗi người và của cả dân tộc, ra sức thực hiện quyền làm chủ tập thể xã hội chủ nghĩa của nhân dân lao động, đó là sức mạnh tổng hợp làm nên thắng lợi...

VÕ NGUYÊN GIÁP. Điện Biên Phủ, cây cột mốc bằng vàng / Võ Nguyên Giáp // Sách Điện Biên Phủ qua những trang tư liệu. - H.: Quân đội nhân dân, 2014. - Tr. 268-275

            Cùng với Bạch Đằng, Chi Lăng, Đống Đa..., Điện Biên Phủ đã đánh dấu một chặng đường lịch sử của dân tộc. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói: "Đây là cây cột mốc bằng vàng".

            Ba mươi năm trước đây, tại một thung lũng bấy giờ chưa mấy ai biết đến trên miền Tây Bắc của Tổ quốc, đã diễn ra trận quyết chiến chiến lược lớn nhất trong cuộc kháng chiến lâu dài của nhân dân ta chống đế quốc Pháp và can thiệp Mỹ. Sau 55 ngày đêm chiến đấu với một tinh thần quyết chiến quyết thắng, quân và dân ta đã lập nên chiến công Điện Biên Phủ, tiêu diệt toàn bộ tập đoàn cứ điểm mạnh nhất trong lịch sử chiến tranh xâm lược của đế quốc Pháp.

            Chiến thắng Điện Biên Phủ mang ý nghĩa sâu sắc của thời đại mới, bắt đầu từ Cách mạng tháng Mười Nga. Với chủ nghĩa Lênin, con đường giải phóng của các dân tộc đã được mở ra. Chủ tịch Hồ Chí Minh, người học trò xuất sắc của Lênin, sáng lập ra Đảng ta, đưa sự nghiệp đấu tranh cách mạng của nhân dân ta tiến lên trên con đường thắng lợi. Tổng khởi nghĩa tháng Tám thành công. Nhà nước công nông đầu tiên ở Đông Nam châu Á ra đời. Tiếp đó, Đảng ta đã phát động cuộc kháng chiến trường kỳ khi đế quốc Pháp trở lại xâm lược nước ta. Nêu cao ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, cuộc kháng chiến toàn dân và toàn diện của nhân dân ta đã vượt qua muôn trùng khó khăn gian nguy, đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác, gây cho địch những tổn thất nặng nề, đẩy chúng vào tình thế ngày càng nguy khốn.

            Bước vào Đông Xuân 1953-1954, trước mưu đồ điên cuồng của đế quốc Pháp - Mỹ đề ra kế hoạch Nava nhằm kết thúc chiến tranh trong vòng 18 tháng, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Trung ương Đảng ta đã động viên và lãnh đạo toàn quân và dân ta trong cả nước, phối hợp với quân và dân hai nước bạn Lào và Campuchia anh em, tiến hành cuộc tiến công chiến lược rộng lớn, đập tan kế hoạch Nava, giành thắng lợi lớn trên khắp các chiến trường mà đỉnh cao là chiến thắng Điện Biên Phủ lịch sử.

            Trong lịch sử bốn nghìn năm dựng nước và giữ nước, dân tộc ta biết bao phen đã đánh thắng những đội quân xâm lược tàn bạo của các thế lực phong kiến phương Bắc. Nhưng đây là lần đầu tiên, dân tộc ta, nhân dân ta đã đánh thắng đội quân hùng mạnh của một nước đế quốc phương Tây, đế quốc Pháp xâm lược.

            Chiến thắng Điện Biên Phủ cùng với các chiến thắng to lớn khác trên các chiến trường đã đưa đến thành công của Hội nghị Giơnevơ, lập lại hòa bình trên đất nước và hai nước bạn Lào và Campuchia, trên cơ sở tôn trọng độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của mỗi nước.

            Miền Bắc nước ta đã hoàn toàn giải phóng, vững bước tiến lên chủ nghĩa xã hội, trở thành hậu phương lớn trong cuộc đấu tranh để giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc.

            Chiến thắng Điện Biên Phủ đã lần đầu phá vỡ một mảng thành trì quan trọng của chủ nghĩa đế quốc, gióng lên hồi chuông báo hiệu buổi chiều tàn của chủ nghĩa thực dân cũ trên phạm vi toàn thế giới.

            Chiến thắng Điện Biên Phủ đã được nhân dân Liên Xô, nhân dân Trung Quốc, nhân dân các nước anh em và cả loài người tiến bộ, trong đó có nhân dân Pháp đón mừng như thắng lợi của bản thân mình. Các dân tộc bị áp bức ở khắp châu Á, châu Phi, châu Mỹ Latinh được cổ vũ mạnh mẽ, kế tiếp nhau vùng lên chiến đấu. Nhân dân ta có thể tự hào là đã có cống hiến xứng đáng vào sự nghiệp đấu tranh giải phóng của các dân tộc.

            Cùng với những thắng lợi vang dội của biết bao dân tộc, trong những thập kỷ gần đây đã đứng lên chiến đấu để làm chủ vận mệnh của mình, chiến thắng Điện Biên Phủ đã khẳng định chân lý vĩ đại: Một dân tộc bị áp bức, quyết tâm đoàn kết chiến đấu vì độc lập và tự do theo đường lối đúng đắn nhất định có đầy đủ khả năng để chiến thắng mọi kẻ thù xâm lược. Đó là quy luật của lịch sử trong thời đại ngày nay.

            Trong cuộc đọ sức quyết liệt Đông Xuân 1953-1954, trên khắp các chiến trường của bán đảo Đông Dương nói chung cũng như trên chiến trường chính Điện Biên Phủ, sự lãnh đạo của Đảng ta đã tỏ ra đúng đắn, sáng tạo và sắc bén, thực sự biết địch, biết ta, nắm được quy luật của chiến trường và luôn luôn giữ vững quyền chủ động. Chúng ta cho chủ động là nguyên tắc cơ bản của nghệ thuật quân sự của chiến tranh nhân dân. Chủ động thể hiện quyền làm chủ trên chiến trường, buộc địch phải hành động theo ý định của ta. Chủ động cũng là biểu hiện cao nhất của tư tưởng tiến công cách mạng trong chiến tranh. Với tư tưởng chủ động và tiến công ấy, chúng ta đã phát huy đến cao độ sức mạnh của quân và dân ta trong cả nước, phối hợp với quân và dân của hai nước anh em trên bán đảo Đông Dương. Chúng ta đã kết hợp sức mạnh của dân tộc với sức mạnh của thời đại tạo nên sức mạnh tổng hợp to lớn để giành lấy thắng lợi, từng bước đi đến thắng lợi hoàn toàn.

            Ngược lại, đế quốc Pháp và can thiệp Mỹ không phải thiếu sức mạnh vật chất và vũ khí, cũng không thiếu những tướng lĩnh tài ba. Nhưng do cuộc chiến tranh xâm lược là phi nghĩa, nên họ không nắm được và cũng không thể nào nắm được quy luật của chiến tranh. Họ luôn luôn đánh giá quá cao sức mạnh của vật chất và kỹ thuật, đánh giá quá thấp sức mạnh của một dân tộc, một quân đội đứng lên chiến đấu vì độc lập và tự do. Họ luôn luôn chủ quan, luôn luôn bị bất ngờ, luôn luôn bị động, luôn luôn phạm sai lầm. Vào lúc họ tưởng chừng như sắp giành thắng lợi to lớn thì chính là lúc đi đến thất bại hoàn toàn.

            Bắt tay vào thực hiện kế hoạch, đầu mùa đông 1953, tướng Nava đã có một quyết tâm lớn, tập trung ở vùng châu thổ sông Hồng một lực lượng huy động lớn nhất từ trước tới nay, quyết giành lại chủ động. Nava quên rằng do bản chất chiến tranh xâm lược, phân tán lực lượng để chiếm đóng đất đai là một sự tất yếu không thể tránh được. Do vậy, khi quân ta phối hợp với lực lượng vũ trang của hai nước bạn triển khai cuộc tiến công chiến lược Đông Xuân trên khắp các chiến trường, cho các cánh quân của ta đánh vào những hướng chiến lược hiểm yếu mà địch tương đối sơ hở, thì tướng Nava liên tiếp bị động, buộc phải rút từng bộ phận của lực lượng cơ động, phân tán ra khắp bốn phương để đối phó. Kẻ địch lại càng lúng túng và bị động trước bão táp của chiến tranh nhân dân nổi lên mạnh mẽ ở khắp các vùng sau lưng địch: từ đồng bằng Bắc Bộ đến đồng bằng sông Cửu Long, Bình - Trị - Thiên, Tây Nguyên và ở hai nước bạn Lào, Campuchia, tiêu diệt và làm tan rã sinh lực địch, mở ra những vùng giải phóng rộng lớn. Chỉ trong vòng bốn tháng, khối lực lượng cơ động mà Nava dày công xây dựng đã bị xé nhỏ làm nhiều mảnh, không còn có hiệu lực. Kế hoạch Nava bắt đầu phá sản từ đó.

            Cũng trong xu thế nói trên, khi một cánh quân của ta tiến lên Tây Bắc, Lai Châu bị đe dọa, Thượng Lào bị uy hiếp, thì tướng Nava đã phải vội vã cho các đơn vị quân dù đổ bộ xuống Điện Biên Phủ. Thế là tại Điện Biên Phủ, một trận quyết chiến chiến lược đã hình thành, ngoài mọi tính toán của viên tư lệnh thứ bảy của đội quân viễn chinh Pháp.

            Trên mặt trận Điện Biên Phủ, dưới áp lực của quân ta, bộ chỉ huy quân đội viễn chinh tiếp tục tăng thêm lực lượng. Tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ lớn lên rất nhanh, được tổ chức "phòng ngự ở mức độ tối đa". Các tướng tá Pháp - Mỹ coi Điện Biên Phủ là "một pháo đài bất khả xâm phạm", sẵn sàng và đủ sức để nghiền nát quân chủ lực của Việt Minh nếu dám liều lĩnh tiến công vào.

            Chúng ta đã sớm nhận định: địch bị động điều các binh đoàn tinh nhuệ của chúng lên miền rừng núi Tây Bắc: đây là một cơ hội tốt để quân ta tiêu diệt chúng. Chủ tịch Hồ Chí Minh và Bộ Chính trị hạ quyết tâm tiêu diệt tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ. Quân và dân ta đứng trước một nhiệm vụ lịch sử hết sức nặng nề và vẻ vang.

            Để thực hiện nhiêm vụ trọng đại ấy, lúc đầu, khi quân địch mới chiếm đóng, còn sơ hở, ta đã từng chủ trương tập trung các đại đoàn chủ lực, tiến hành một trận đánh lớn tiêu diệt tập đoàn cứ điểm trong hai ngày ba đêm. Giờ G đã được định vào 17 giờ ngày 28 tháng 1. Một ngày trước đó, chiều 25 tháng 1, khi bộ đội ta đã được bố trí sẵn sàng ở vị trí xuất phát tiến công, thì tất cả các đơn vị chiến đấu đã được lệnh rút quân ra. Nắm vững phương châm đánh chắc thắng mà Chủ tịch Hồ Chí Minh đã luôn luôn nhấn mạnh, chúng ta đã chủ động thay đổi cách đánh.

            "Tất cả cho tiền tuyến, tất cả để chiến thắng". Trung ương Đảng và Chính phủ ta kêu gọi toàn quân và toàn dân, quyết định động viên đến mức cao nhất sức người, sức của cho một trận quyết chiến dài ngày.

            Một bất ngờ lớn đối với địch là trên tuyến đường dài hàng mấy trăm kilômét, hàng chục vạn đồng bào và chiến sĩ ta, với khí thế do cải cách ruộng đất mang lại, dưới mưa bom lửa đạn của địch, từ những hậu phương xa xôi ngày đêm mang lương thực đạn dược ra tiền tuyến, liên tục bảo đảm hậu cần cho mặt trận Điện Biên Phủ - một điều mà bộ tham mưu quân đội viễn chinh với những tính toán tỷ mỷ cho rằng ta không thể nào giải quyết được.

            Qua một thời gian, không thấy quân ta hành động, Nava cho rằng phong trào tấn công của Việt Minh đã chấm dứt. Ngày 12 tháng 3, thực hiện kế hoạch chiến lược đã định từ trước, Nava huy động một bộ phận lực lượng huy động mở cuộc hành binh mới vào vùng tự do của ta ở miền Nam. Ngay ngày hôm sau, 13 tháng 3, vào 17 giờ, trọng pháo của ta bắn vào đồi Him Lam, mở màn cho cuộc tiến công lớn vào tập đoàn cứ điểm. Quân địch hoàn toàn bị bất ngờ.

            Địch càng bị bất ngờ khi phát hiện cả một hệ thống trận địa tiến công và bao vây với hàng trăm kilômét chiến hào từ núi cao đổ xuống cánh đồng Mường Thanh, xiết chặt dần lại xung quanh tập đoàn cứ điểm.

            Địch đã bị bất ngờ khi quân ta tập trung ưu thế binh lực tuyệt đối tiêu diệt từng tiểu đoàn, từng trung tâm đề kháng một, tiêu diệt từng bộ phận sinh lực của địch, thu hẹp phạm vi chiếm đóng của chúng, từng bước vững chắc tiến tới tiêu diệt toàn bộ tập đoàn cứ điểm.

            Địch lại bị bất ngờ trước những đợt tiến công ngày càng mạnh của quân ta, trước sự phát triển không thể nào ngăn cản được của chiến hào ta ngang qua sân bay, cắt đứt con đường tiếp tế duy nhất bằng cầu hàng không của chúng. Khi hệ thống trận địa của ta tiến sát vào khu trung tâm của tập đoàn cứ điểm thì toàn bộ những hỏa lực các cỡ của ta đã trực tiếp uy hiếp hầm chỉ huy của tướng Đờ Cátxtơri.

            Trên các chiến trường sau lưng địch, chúng ta lại đứng trước một tình thế mới. Quân dân ta và quân dân hai nước bạn ra sức tranh thủ thời cơ, đẩy mạnh cao trào tiến công, phối hợp với chiến trường chính, ở Nam Bộ, hàng nghìn đồn bốt của địch bị tiêu diệt. Ở Tây Nguyên, cả vùng phía bắc được giải phóng, ở Bình - Trị - Thiên, căn cứ du kích được mở rộng, ở châu thổ sông Hồng, vùng tự do đã chiếm ba phần tư đất đai. Hàng vạn ngụy quân ra hàng. Phạm vi của chính quyền nhân dân mở rộng nhanh chóng, ở Lào, một nửa số dân và một nửa đất đai của nước bạn đã được giải phóng, ở Campuchia căn cứ địa Tây Nam được mở rộng. Thế chiến lược của quân đội viễn chinh trên toàn bán đảo Đông Dương đang bị rung chuyển.

            Với cách đánh dũng cảm, mưu trí và sáng tạo của cán bộ và chiến sĩ ta, tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ đã trở thành một địa ngục trần gian giam hãm 17 nghìn quân lính viễn chinh Pháp sống trong trận địa giữa bùn lầy, lương thực đạn dược cạn dần, thương binh chồng chất, mạng sống từng ngày từng giờ bị đe dọa. Các tướng tá Pháp - Mỹ bàn tính mãi không tìm ra cách cứu nguy cho tập đoàn cứ điểm đang giãy giụa trong cơn hấp hối.

            Chiều mồng 7 tháng 5 năm 1954, trước cuộc tổng tiến công của quân ta từ các hướng, hơn một vạn quân lính còn lại của quân đội viễn chinh lũ lượt kéo nhau ra hàng. Có người hô "Hòa bình muôn năm". Có người kéo phong cầm và ca hát. Những người chiến thắng đã cứu sống họ.

            Toàn bộ tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ bị tiêu diệt. Quân và dân ta giành được toàn thắng.

            Trong bức điện khen ngợi cán bộ và chiến sĩ nhân dịp chiến thắng Điện Biên Phủ, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết "thắng lợi tuy lớn nhưng mới chỉ là bước đầu...".

            Từ đó, ròng rã trong 20 năm, dân tộc ta, nhân dân ta lại phải đương đầu với cuộc chiến tranh xâm lược của chủ nghĩa đế quốc Mỹ, cuộc chiến tranh xâm lược quy mô lớn nhất, tàn bạo nhất từ sau chiến tranh thế giới lần thứ hai.

            Cũng giống như đế quốc Pháp trước đây, đế quốc Mỹ mỗi lần mở rộng chiến tranh là một lần tưởng rằng nhất định thắng, nhưng cuối cùng lại thất bại. Mùa xuân năm 1975, khi Oasinhtơn cho rằng chiến tranh sắp đi đến thắng lợi hoàn toàn thì chính vào lúc đó, trước cuộc Tổng tiến công và nổi dậy của quân và dân ta mà đỉnh cao là chiến dịch Hồ Chí Minh vĩ đại, toàn bộ cơ đồ của đế quốc Mỹ và tay sai đã sụp đổ tan tành. Nhân dân ta đã giành được thắng lợi trọn vẹn. Tổ quốc ta đã hoàn toàn độc lập và thống nhất, cả nước tiến lên chủ nghĩa xã hội...

            Ngày nay, hơn bao giờ hết, đấu tranh cho hòa bình và hợp tác giữa các dân tộc là nhiệm vụ hàng đầu của cả loài người tiến bộ.

            Trải qua nhiều thập kỷ chiến tranh, chúng ta rất khao khát hòa bình. Hòa bình và hữu nghị là nguyện vọng của dân tộc ta. Độc lập và chủ nghĩa xã hội là lẽ sống của nhân dân ta.

            Với sức mạnh của hệ thống xã hội chủ nghĩa có Liên Xô là trụ cột, với tinh thần liên minh chiến đấu keo sơn của nhân dân ba nước Đông Dương, với sức mạnh tiến công của ba dòng thác cách mạng, chúng ta luôn luôn cảnh giác, cùng nhau đoàn kết đấu tranh cho một nền hòa bình lâu dài trên trái đất, cho sự nghiệp giải phóng dân tộc, giải phóng xã hội, giải phóng con người. Mọi mưu toan phiêu lưu của các thế lực hiếu chiến sẽ bị loại trừ.

            Dưới ngọn cờ của Chủ tịch Hồ Chí Minh, của Đảng Cộng sản Việt Nam, đứng đầu là đồng chí Tổng Bí thư Lê Duẩn, nhân dân ta trong cả nước quyết đem hết tinh thần và nghị lực của những người chiến thắng, phát huy sức mạnh to lớn của chế độ làm chủ tập thể xã hội chủ nghĩa, xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội và bảo vệ vững chắc Tổ quốc xã hội chủ nghĩa thân yêu.

            Tinh thần Điện Biên Phủ mãi mãi cổ vũ nhân dân ta vững bước tiến lên trong hàng ngũ các dân tộc tiên phong trên thế giới.

NGUYỄN CHÍ THANH. Yếu tố tinh thần của Quân đội và nhân dân ta trong chiến dịch Điện Biên Phủ / Nguyễn Chí Thanh // Sách Điện Biên Phủ qua những trang tư liệu. - H.: Quân đội nhân dân, 2014. - Tr. 276-286

            Chiến thắng Điện Biên Phủ đã mở thêm một trang lịch sử chói lọi của dân tộc Việt Nam ta.

            Lúc quân đội viễn chinh Pháp bị tiêu diệt và tướng Đờ Cát bị bắt làm tù binh ở Điện Biên Phủ thì bọn cầm quyền ở Pháp mới buộc lòng phải ký Hiệp nghị Giơnevơ.

            Làm như vậy họ đã tỏ ra một phần nào "biết điều". Nhưng tiếc thay, giá họ "biết điều" sớm hơn thì họ đỡ phải mất thêm sáu nghìn triệu đôla, khỏi phải nướng hàng vạn quân viễn chinh để rồi không đổi lấy được cái gì ngoài sự nhục nhã cho quân đội Pháp, cho đế quốc Pháp.

            Trước sự thất bại quá đột ngột lúc bấy giờ, các nhà chính trị, quân sự của đế quốc Pháp hết sức cay cú đã đổ dồn trách nhiệm vào đầu Nava. Họ làm tình làm tội tên bại tướng này và lập luận rằng giá được một viên tướng nào khác chỉ huy giỏi hơn thì ngọn cờ tam tài đâu đến nỗi phải bị vùi dập phũ phàng trên mảnh đất Điện Biên Phủ xa xôi (!). Dù sao các nhà chính trị và chiến lược ấy cũng đành công nhận một thực tế là ở Điện Biên Phủ họ đã thất bại nặng, chúng ta đã chiến thắng lớn. Thực tế đó ăn sâu trong đầu óc họ cho đến ngày nay, vì vậy do kinh nghiệm bản thân, vừa qua trước những thắng lợi to lớn của nhân dân ta ở miền Nam, một số người trong họ đã khuyên người Mỹ đừng dùng biện pháp quân sự để giải quyết vấn đề Nam Việt Nam. Không biết người Mỹ suy nghĩ gì trước lời khuyên ấy hay là vẫn cứ điên cuồng lăn theo "vết xe đổ" của thực dân Pháp?

            Tuy nhiên, từ chỗ công nhận thực tế là sự thất bại nặng nề của họ ở Điện Biên Phủ, những nhà chính trị và chiến lược của đế quốc Pháp vẫn chưa rút ra được những kết luận thích đáng. Kết luận đích đáng nhất cần rút ra là: trong chiến dịch Điện Biên Phủ, yếu tố gì là yếu tố quyết định trên chiến trường đã làm cho họ phải thất bại, đã làm cho đối phương của họ - tức là ta - giành được thắng lợi to lớn và vẻ vang?

            Trong cuộc chiến tranh ở Đông Dương lúc bấy giờ, Pháp đã tung ra trên chiến trường Việt Nam gần 15 vạn quân viễn chinh Pháp và hơn 30 vạn quân ngụy; số quân chừng đó phải chăng là quá ít? Pháp đã phải tiêu tốn sáu nghìn triệu đôla, tính ra bằng 21 nghìn triệu đồng Việt Nam; số tiền đó phải chăng là quá thiếu? Pháp đã tung ra hàng vạn cán bộ chỉ huy và nhân viên kỹ thuật, trên chiến trường Việt Nam đã hầu như đủ mặt các danh tướng của Pháp lúc bấy giờ như Đácgiăngliơ, Lơcléc, Moóclie, Valuy, Cácpăngchiê, Đờ Lát đờ Tátxinhi, Cônhi, Xalăng, Nava, v.v. số tướng tá như vậy phải chăng là quá hiếm?

            Không! Số quân của họ có thừa, tiền của họ có thừa, trang bị kỹ thuật của họ có thừa, cán bộ của họ có thừa, ít ra cũng là quá thừa so với lực lượng của chúng ta lúc đầu. Thế nhưng họ vẫn thất bại.

            Chắc đại tướng Cácpăngchiê còn nhớ, vào năm 1950, khi Cao Bằng bị thất thủ, quân của "tướng quân" đóng ở Đồng Đăng, Lạng Sơn, có phải vì mất tinh thần cho nên "tướng quân" phải buộc lòng hạ lệnh cho rút lui và tháo chạy?

            Nếu thống chế Đờ Lát còn sống, chắc ngài còn nhớ, trong chiến dịch Hòa Bình năm 1951, ngài mới bị đả có mấy trận kha khá thôi, nhưng có phải vì tinh thần quân đội của ngài đã ruỗng ra cho nên buộc lòng thống chế phải bỏ phòng tuyến mà hồi đó ngài cho là một phòng tuyến chiến lược?

            Ngay từ hồi ấy, giá các ngài nhận rõ quân đội của các ngài không còn đủ tinh thần tiến công và phòng ngự nữa để kịp thời rút ra kết luận thích đáng thì đâu đến nỗi các ngài phải mang lấy mối "hận Điện Biên Phủ" về sau?

            Một điều nổi bật của quân đội Pháp lúc bấy giờ là tinh thần chiến đấu quá sút kém. Đó là một nguyên nhân chính làm cho quân đội Pháp thất bại. Trạng thái tinh thần ấy là con đẻ của hoàn cảnh xã hội nước Pháp lúc bấy giờ. Hoàn cảnh đó có những đặc điểm chính như sau:

            1. Sau đại chiến lần thứ hai, chính sách của đế quốc Pháp không những không có sự thay đổi gì đáng kể mà trái lại còn phản động hơn trước. Đối nội, họ thực hành một chính sách phản dân chủ; đối ngoại, họ thực hành chính sách lệ thuộc vào đế quốc Mỹ; đối với các nước thuộc địa, họ thực hành một chính sách bạo lực rất phản động. Tính chất phi nghĩa và phản động của những chính sách ấy làm cho quân đội của họ ngày càng thêm suy nhược, càng thêm chán ghét chiến tranh.

            2. Đế quốc Pháp đưa quân đội đi tiến hành chiến tranh xâm lược ở một nơi cách xa nước Pháp hàng vạn cây số, trong một thời kỳ mà cao trào cách mạng giải phóng dân tộc đang dâng lên cuồn cuộn. Trong cuộc chiến tranh xâm lược đó, họ và quân đội của họ lại dựa vào giai cấp phong kiến địa chủ đang suy tàn và giai cấp tư sản mại bản phản động yếu ớt ở Việt Nam, như thể chẳng khác nào người sắp chết đuối mà vớ phải bọt.

            3. Từ trong chính sách phản động và chiến tranh phi nghĩa ấy, quân đội của Pháp không đào đâu ra được một lý tưởng chiến đấu, hơn nữa nó lại gặp phải một đối phương là dân tộc Việt Nam và Quân đội nhân dân Việt Nam, tuy lúc đầu còn yếu kém về trang bị kỹ thuật, nhưng lại có một tinh thần chiến đấu rất anh hùng. Vì vậy bản thân tinh thần của quân đội Pháp đã kém lại ngày càng sút kém nhanh chóng và trầm trọng hơn.

            Chiến thắng của ta và sự thất bại của thực dân Pháp ở Việt Nam phản ánh một sự so sánh lực lượng phức tạp, trong đó yếu tố tinh thần của quân đội đôi bên chiếm một vị trí quan trọng có tính chất quyết định trên chiến trường. Nhưng bất cứ một trạng thái tinh thần nào cũng không phải nảy sinh và phát triển một cách độc lập, mà nó tùy thuộc vào nhiều nhân tố khác như chế độ xã hội, năng lực lãnh đạo và nhất là mục tiêu chính trị, v.v. Vì vậy khi bàn về yếu tố tinh thần của quân đội và nhân dân ta trong chiến dịch Điện Biên Phủ, chúng ta phải đứng trên quan điểm đó.

            Mùa thu năm 1945, nước ta tuyên bố độc lập, nhân dân ta lần đầu tiên sau gần 80 năm làm nô lệ được hưởng tự do dưới một chế độ dân chủ thật sự. Nhưng chưa được bao lâu, thực dân Pháp, được sự ủng hộ của Anh và Mỹ, gây chiến ở nước ta, âm mưu quẳng cái ách thuộc địa lên đầu nhân dân ta một lần nữa. Trước tình hình đó, Đảng và Hồ Chủ tịch kêu gọi toàn dân đứng lên kháng chiến chống xâm lược Pháp với khẩu hiệu nổi tiếng: "Chúng ta thà hy sinh tất cả, chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ!".

            Khẩu hiệu ấy đã phát động rất mạnh lòng tự hào, tinh thần bất khuất và quật cường của dân tộc ta, làm cho cả nước sôi sục đứng lên đánh Pháp với mọi phương tiện sẵn có trong tay. Khẩu hiệu ấy đã động viên và giáo dục nhân dân ta xác định một thái độ chính trị kiên quyết chống thực dân Pháp, giành cho kỳ được độc lập dân tộc với bất cứ giá nào. Khẩu hiệu ấy có tác dụng cách mạng hóa quần chúng rất lớn, hướng họ vào và nâng cao quyết tâm kháng chiến lâu dài, gian khổ, nhưng nhất định thắng lợi. Khẩu hiệu ấy, đứng về mặt chiến lược mà nói, nhằm mục tiêu cố giành lấy ưu thế về chính trị và tinh thần của quân và dân ta ngay từ lúc đầu trong sự so sánh lực lượng giữa đôi bên. Nhờ vậy mà từ cuối năm 1945 đến năm 1950, trong hoàn cảnh vô cùng khó khăn, gian khổ và hết sức chênh lệch về lực lượng vật chất, chúng ta vẫn kiên trì kháng chiến và thu được một số thắng lợi bước đầu. Ý nghĩa lớn lao của những thắng lợi đó là chúng ta đã phá được chiến lược "đánh nhanh thắng nhanh" của địch. Mặt khác, chiến lược kháng chiến lâu dài của ta đã được thực tiễn chứng minh là đúng và ngày càng phát huy tác dụng rõ rệt.

            Thu đông năm 1950, chúng ta thắng lớn ở biên giới. Thắng lợi này có ý nghĩa rất quan trọng. Nó đánh một đòn rất mạnh vào quyết tâm của các tướng lĩnh Pháp, vào tinh thần của quân đội viễn chinh Pháp và ngụy quân. Đồng thời nó làm cho toàn dân và toàn quân ta từ Nam chí Bắc vô cùng phấn khởi, tinh thần của quân và dân ta tăng lên một cách nhảy vọt. Mọi người qua thắng lợi đó, đều thấy rằng Đảng, Chính phủ, dân tộc mình, quân đội mình và chính mình đã lớn mạnh lên nhiều, rằng trường kỳ kháng chiến không phải là vô hạn độ, triển vọng thắng lợi đã nhích lại gần chúng ta hơn trước nhiều, địch đã phải chịu thất bại chua cay và không thể huênh hoang như trước nữa.

            Tiếp đến thời kỳ năm 1950-1953, trên khắp các chiến trường từ Nam chí Bắc, chúng ta liên tiếp mở nhiều chiến dịch lớn và đặc biệt là phong trào chiến tranh du kích sôi nổi, mạnh mẽ và phát triển sâu rộng hơn lúc nào hết. Những sự kiện nổi bật có ảnh hưởng sâu sắc đến tinh thần của quân và dân ta trong thời kỳ này là: cải cách ruộng đất và các cuộc chỉnh huấn, chỉnh quân ở trong Đảng và trong quân đội. Cuộc cách mạng ruộng đất làm cho nông dân lao động vùng lên, qua cuộc đấu tranh giai cấp với địa chủ, tư tưởng và tinh thần của nông dân có một sự chuyển biến rất mạnh, sự giác ngộ dân tộc được kết hợp chặt chẽ với sự giác ngộ giai cấp, do đó tinh thần chiến đấu chống giặc Pháp của họ tăng lên gấp bội. Nông dân lao động qua cải cách ruộng đất được cách mạng hóa thêm một bước cao hơn, trạng thái tinh thần của nông dân đã có một sự biến đổi về chất lượng. Cuộc đấu tranh giai cấp của nông dân lúc bấy giờ do Đảng ta lãnh đạo đã thúc đẩy rất mạnh cuộc kháng chiến của toàn dân, đã thúc đẩy rất mạnh quân đội tập trung và dân quân du kích giết giặc lập công. Trên chiến trường Điện Biên Phủ, yếu tố tinh thần của quân và dân ta đã chịu ảnh hưởng trực tiếp và nhạy bén của cuộc đấu tranh giai cấp rộng lớn đó. Các cuộc chỉnh quân và chỉnh huấn trong quân đội tiến hành vào thời kỳ này có một ý nghĩa to lớn và sâu sắc. Nó làm cho quân đội ta giác ngộ chính trị cao hơn trên cơ sở của sự giáo dục giai cấp, của sự giáo dục đường lối cách mạng dân tộc dân chủ, đường lối chiến tranh nhân dân và quân đội nhân dân của Đảng. Nó là một cuộc vận động lớn để cách mạng hóa quân đội thêm một bước mới, hướng cho cán bộ và chiến sĩ nhận rõ bản chất của quân đội nhân dân, phân rõ ta, bạn, thù, xác định mục tiêu chiến đấu là giành độc lập dân tộc, ruộng đất cho dân cày, tiến tới chủ nghĩa xã hội, xác định quân đội phải chịu sự lãnh đạo tuyệt đối của Đảng, v.v. Tư tưởng cách mạng của quân đội ta được phát động lên cao và sâu sắc hơn so với trước. Do đó, đến thời kỳ này, các chiến sĩ ta không còn thích những bài hát "tráng sĩ một đi không trở lại" nữa, vì họ đã được trang bị thêm một số nhận thức khoa học về quy luật của cuộc đấu tranh giai cấp và đấu tranh dân tộc, họ đã hiểu rõ hơn vì ai mà chiến đấu, chiến đấu để làm gì, phần thắng cuối cùng nhất định về ai? v.v. Trong hoàn cảnh cách mạng đó, tinh thần của quân và dân ta trong chiến dịch Điện Biên Phủ so với trước cao hơn nhiều, và đó là một điều địch không lường tới, là một yếu tố quyết định thắng lợi trên chiến trường. Một thành công lớn của Đảng ta lúc bấy giờ là Trung ương Đảng, đứng đầu là Hồ Chủ tịch, Đảng ủy mặt trận Điện Biên Phủ, các tổ chức đảng trong quân đội và trong dân công, các tổ chức đảng ở hậu phương đã nắm chắc và phát huy cao độ yếu tố đó trong suốt chiến dịch và trong chiến đấu, ở ngoài tiền tuyến cũng như hậu phương.

            Đó là về phần ta. Còn về phần của địch, do không đánh giá được yếu tố tinh thần của quân đội và nhân dân ta - dĩ nhiên họ không thể nào đánh giá đúng được - cho nên lúc bấy giờ họ đã bị bốn cái bất ngờ lớn:

            1. Họ cho rằng quân đội của ta không thể có đủ tinh thần hoặc dù có tinh thần khá cũng không làm gì nổi cái tập đoàn cứ điểm được bảo vệ dưới những lưới lửa dày đặc ở Điện Biên Phủ.

            2. Họ cho rằng quân đội ta kém về trình độ văn hóa và kỹ thuật, không thể sử dụng được pháo binh và súng cao xạ một cách có hiệu quả và với địa hình phức tạp quanh Điện Biên Phủ, chúng ta không thể nào kéo pháo được đến gần trận địa của họ.

            3. Họ cho rằng trình độ của cán bộ ta chỉ có thể chỉ huy đánh du kích khá, khó mà chỉ huy nổi một chiến dịch quy mô lớn, có nhiều sư đoàn tham gia, với một sự hiệp đồng binh chủng phức tạp.

            4. Đặc biệt họ không đánh giá đúng khả năng hậu phương của ta lúc bây giờ, họ cho rằng chúng ta không thể giải quyết nổi các vấn đề rất khó khăn, rất phức tạp về hậu cần như tiếp tế lương thực, đạn dược, thuốc men, bổ sung quân số, v.v...

            Do đâu mà họ đánh giá sai và bị những bất ngờ đó? Điểm xuất phát là do họ đánh giá quá thấp yếu tố tinh thần của chúng ta. Với quan điểm quân sự của họ, họ không hiểu nổi được rằng, từ trong đường lối đúng đắn của Đảng ta, từ trong cuộc chiến đấu chính nghĩa của nhân dân và quân đội ta, đã toát ra một sức mạnh tinh thần, và sức mạnh ấy tác động vào cuộc đấu tranh đã sáng tạo nên lực lượng vật chất cần thiết để chiến thắng họ.

            Tinh thần chiến đấu của quân đội và nhân dân ta trong cuộc kháng chiến lâu dài nói chung và trong chiến dịch Điện Biên Phủ nói riêng do những nhân tố sau đây tạo thành:

            1. Quân đội và nhân dân ta kế thừa sâu sắc truyền thống của cả một dân tộc anh hùng. Trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, mỗi một chiến sĩ, mỗi một người dân ta đều ít hay nhiều có mang theo tinh thần cao cả của Trần Hưng Đạo, Lê Lợi, Nguyễn Trãi, Nguyễn Huệ, Trương Định, Nguyễn Đình Chiểu, Phan Đình Phùng, Hoàng Hoa Thám, v.v...

            2. Tinh thần chiến đấu của quân đội và nhân dân ta đã được xây dựng trên cơ sở của chủ nghĩa Mác - Lênin, của chủ nghĩa yêu nước chân chính kết hợp với chủ nghĩa quốc tế vô sản. Đường lối cách mạng dân tộc dân chủ của Đảng ta là sự kết hợp chủ nghĩa Mác - Lênin với thực tiễn của cách mạng nước ta đã hun đúc tinh thần chiến đấu của quân đội và nhân dân ta. Tinh thần dũng cảm của quân đội và nhân dân ta chủ yếu bắt nguồn từ đường lối chính trị đúng đắn đó. Đấy là nhân tố cơ bản.

            3. Quân đội ta là quân đội nhân dân, thực chất là quân đội công nông, tuyệt đại đa số gồm những người xuất thân từ công nông, tức xuất thân từ những giai cấp, tầng lớp cách mạng nhất trong nhân dân ta. Tinh thần chiến đấu của quân đội và nhân dân ta không những đã chịu ảnh hưởng sâu sắc và được rèn luyện qua những thử thách của cuộc đấu tranh yêu nước mà còn qua những thử thách của cuộc đấu tranh giai cấp rộng lớn; cuộc đấu tranh giai cấp ấy vừa là trường rèn luyện, vừa là một nguồn động viên, cổ vũ mạnh mẽ quân đội và nhân dân ta vùng lên chiến thắng.

            4. Quân đội và nhân dân chiến đấu để bảo vệ và xây dựng một chế độ xã hội tiên tiến hơn bất cứ thời kỳ lịch sử nào trước đây ở nước ta. Chế độ xã hội của chúng ta đại biểu cho cái mới, vì vậy nó dồi dào sức sống như mùa xuân, nó có đủ năng lực huy động những lực lượng tiềm tàng của nhân dân ta để đấu tranh có hiệu quả chống lại cái cũ mà thực dân Pháp là đại biểu, kết liễu cuộc đời của nó, mở đường cho cái mới phát triển, và cái mới đó là chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc hiện nay.

            Chỉ có dưới ánh sáng của học thuyết đấu tranh giai cấp của Mác, chúng ta mới đánh giá được sâu sắc và toàn diện tác dụng của yếu tố tinh thần của quân đội và nhân dân cách mạng trong chiến đấu. Học thuyết đấu tranh giai cấp là linh hồn của chủ nghĩa Mác. Tư tưởng cách mạng của học thuyết đó thể hiện ở chỗ nó khẳng định rằng quần chúng nhân dân sáng tạo ra lịch sử, rằng giai cấp vô sản có khả năng cải tạo xã hội và cải tạo thế giới; nó khẳng định lịch sử loài người từ khi có giai cấp là lịch sử đấu tranh giai cấp và yếu tố con người, yếu tố tinh thần là yếu tố quyết định trong cuộc đấu tranh của giai cấp vô sản, của quần chúng nhân dân chống lại những giai cấp thù địch. Luận điểm yếu tố con người, yếu tố tinh thần là yếu tố quyết định trong cuộc đấu tranh giai cấp của Mác, Ăngghen, Lênin và Xtalin đã được chứng minh một lần nữa trong thực tiễn của cuộc kháng chiến của dân tộc Việt Nam ta. Đứng về mặt lý luận mà nói, ai nắm vững được luận điểm đó của chủ nghĩa Mác - Lênin tức là người đó đã nắm vững được một nội dung quan trọng của học thuyết đấu tranh giai cấp. Ngược lại ai xa rời hoặc phủ nhận luận điểm đó thì người ấy vứt bỏ một nội dung quan trọng của học thuyết đấu tranh giai cấp và họ sẽ đi tới phạm sai lầm trong hoạt động thực tiễn, thậm chí cả trong chiến lược và sách lược nữa.

            Đảng ta đánh giá đúng yếu tố tinh thần của quân đội và nhân dân ta, nhất là của công nông trong cuộc chiến tranh. Quan điểm ấy không những quán triệt trong mọi công tác, học tập và chiến đấu của quân đội mà đặc biệt nó đã được quán triệt trong chiến lược, sách lược của Đảng ta trong cuộc cách mạng dân tộc dân chủ. Nội dung chủ yếu của quan điểm đó trong đường lối cách mạng của Đảng ta là tư tưởng kiên quyết chống chủ nghĩa đế quốc, là thái độ dứt khoát dựa vào nhân dân, dựa vào con người, để tiến hành đấu tranh giai cấp, đấu tranh cách mạng.

            Lôgích của vấn đề này là: ai đánh giá thấp lực lượng quần chúng, đánh giá thấp yếu tố con người, yếu tố tinh thần trong đấu tranh cách mạng thì tự khắc trước mắt của người ấy, chủ nghĩa đế quốc, nhất là đế quốc Mỹ sẽ trở thành một "con người thép khổng lồ" và khi đã thấy đế quốc khổng lồ thì nhất định sẽ thấy nhân dân cách mạng, nhất là các dân tộc châu Á, châu Phi và châu Mỹ Latinh chỉ "bé tí hon" (!) (những người này cho rằng các dân tộc Á, Phi và Mỹ Latinh lạc hậu, kém văn hóa và kỹ thuật cho nên khó địch nổi với bọn đế quốc). Từ cách nhìn đó họ chỉ có thể rút ra kết luận là: "Đừng dại đem trứng chọi với đá" (!). Cách nhìn đó là cách nhìn phản động, kết luận ấy mang tính chất thủ tiêu đấu tranh và đầu hàng đế quốc.

            Trong việc xây dựng quân đội và chỉ đạo tác chiến, chúng ta đã coi trọng yếu tố con người, yếu tố tinh thần. Đương nhiên quân đội nào cũng cần có tổ chức, trang bị, biên chế, kỹ thuật và kỹ thuật càng được cải tiến thì khả năng chiến đấu của nó càng có điều kiện tăng thêm. Kỹ thuật là quan trọng nhưng con người làm ra và sử dụng kỹ thuật, cho nên con người và tinh thần con người vẫn giữ vai trò quyết định, về đường lối xây dựng quân đội, tư tưởng chiến lược, chiến thuật, tác chiến cho đến công tác huấn luyện, lao động sản xuất, v.v... quan điểm của quân đội nhân dân do Đảng lãnh đạo phải khác hẳn quan điểm quân sự của giai cấp tư sản. Nó phải là quan điểm vô sản, xem con người, tinh thần là yếu tố quyết định trên chiến trường, trong chiến tranh và cả trong mọi hoạt động thời bình nữa. Thử hỏi từ chỗ không có một tấc sắt do đâu mà nhân dân ta làm nên sự nghiệp lớn lao như ngày nay?

            Xin trả lời: tiền bạc, vũ khí, trang bị kỹ thuật, v.v... chúng ta thua kém nhiều so với đế quốc, nhưng nhờ có một đường lối cách mạng đúng đắn của Đảng ta, một đảng vô sản theo chủ nghĩa Mác - Lênin, và dưới sự lãnh đạo của đường lối đó, nhân dân và quân đội ta đã đem hành động rất cách mạng, rất tự giác để kiên quyết khắc phục khó khăn, không sợ gian khổ, không sợ hy sinh, sáng tạo dần dần lực lượng vật chất từ trong tay của mình và lấy được từ trong tay của địch nhằm làm thay đổi từng bước so sánh lực lượng theo chiều hướng ngày càng có lợi cho ta, tiến tới giành thắng lợi cuối cùng.

            Nếu ngày xưa ông cha ta mơ ước tìm thấy một sức mạnh thần kỳ ở nơi con ngựa sắt của Phù Đổng Thiên Vương để đánh đuổi quân ngoại xâm, thì ngày nay chúng ta đã tìm thấy sức mạnh đó không phải đâu xa mà ở nơi đường lối chính trị đúng đắn của Đảng ta. Đường lối chính trị ấy đã biến thành hành động cách mạng của hàng triệu quần chúng, và quá trình nó tác động vào quần chúng là quá trình làm cho tư tưởng cách mạng, tinh thần chiến đấu vốn có của một dân tộc bị áp bức chuyển biến mạnh mẽ và trở thành vô địch. Đó là một vũ khí sắc bén nhất mà chúng ta đã dùng để chiến thắng quân thù.

            Luận điểm "con người, tinh thần là yếu tố quyết định" hiện đang là một vấn đề nóng hổi trong cuộc đấu tranh giữa hai đường lối trong phong trào cộng sản quốc tế, đường lối của chủ nghĩa Mác - Lênin và đường lối của chủ nghĩa xét lại hiện đại. Mang quan điểm của thuyết vũ khí, những người xét lại chủ nghĩa phủ nhận yếu tố quyết định của con người, của tinh thần trong đấu tranh cách mạng. Vì vậy, họ đã nhìn chủ nghĩa đế quốc, nhất là đế quốc Mỹ, như "một con người thép khổng lồ", họ phủ nhận bạo lực là quy luật phổ biến của mọi cuộc cách mạng, họ không nhìn thấy một thực tế rất quan trọng là châu Á, châu Phi và châu Mỹ La tinh đang là một trung tâm bão táp cách mạng, họ đánh giá quá thấp khả năng cách mạng của quần chúng nhân dân trên thế giới, bao gồm khả năng cách mạng của giai cấp công nhân và các tầng lớp cách mạng khác ở các nước châu Âu và châu Mỹ. Không phải ngẫu nhiên mà những người theo chủ nghĩa xét lại phạm cả một loạt sai lầm nghiêm trọng. Một trong những nguyên nhân quan trọng đưa họ đến chỗ phạm sai lầm là họ đã phủ nhận yếu tố quyết định của con người, yếu tố quyết định của tinh thần quần chúng cách mạng và như thế tức là họ đã tước bỏ một nội dung quan trọng của học thuyết đấu tranh giai cấp của Mác.

            Chiến dịch Điện Biên Phủ diễn ra cách đây đã mười năm, nhưng những bài học của Điện Biên Phủ, trong đó có bài học về yếu tố tinh thần của quân đội và nhân dân ta - vẫn giữ nguyên giá trị đối với chúng ta trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, trong sự nghiệp đấu tranh giành thống nhất nước nhà, trong công tác xây dựng quân đội, củng cố quốc phòng và cả trong sự nghiệp chống chủ nghĩa xét lại hiện đại, bảo vệ sự trong sáng của chủ nghĩa Mác - Lênin, góp phần vào cuộc đấu tranh cho hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và chủ nghĩa xã hội trên toàn thế giới.

            Đối với địch, những bài học của Điện Biên Phủ cũng vẫn giữ nguyên giá trị của nó. Vì không đánh giá được yếu tố quyết định của con người, của tinh thần trong chiến tranh và vì bản thân tinh thần quân đội họ đã ruỗng nát, chủ nghĩa thực dân Pháp cách đây mười năm đã chôn vùi chút "thanh danh" tàn lụi còn sót lại của quân đội mình trên cánh đồng Điện Biên...

PHẠM VĂN TRÀ. Vận dụng và phát triển những bài học kinh nghiệm của chiến thắng Điện Biên Phủ vĩ đại vào công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc ngày nay / Phạm Văn Trà // Sách Điện Biên Phủ qua những trang tư liệu. - H.: Quân đội nhân dân, 2014. - Tr. 379-386

            Cách đây tròn 45 năm, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh, nhân dân và các lực lượng vũ trang nhân dân ta đã làm nên chiến thắng Điện Biên Phủ vĩ đại, đỉnh cao của cuộc tiến công chiến lược đại thắng Đông Xuân 1953-1954. Chiến thắng Điện Biên Phủ và nói chung chiến thắng Đông Xuân 1953-1954 đã đặt một dấu son rực rỡ trong lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc ta; tiêu diệt tập đoàn cứ điểm mạnh nhất của quân viễn chinh Pháp, làm phá sản kế hoạch Nava hòng cứu vãn tình thế khó khăn và giành thắng lợi quyết định của chiến tranh xâm lược, đập tan cố gắng chiến tranh cao nhất của thực dân Pháp có Mỹ giúp sức, kết thúc thắng lợi cuộc kháng chiến thần thánh chống thực dân Pháp, buộc chúng phải ký Hiệp định Giơnevơ - kết thúc chiến tranh, lập lại hòa bình ở Đông Dương trên cơ sở tôn trọng độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam và hai nước Lào, Campuchia, miền Bắc nước ta hoàn toàn được giải phóng.

            Thắng lợi của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp mà đỉnh cao là chiến thắng Điện Biên Phủ, đã đưa lại cho quân và dân ta nhiều bài học thành công lớn. Trước hết là, bài học nắm vững và vận dụng sáng tạo đường lối kháng chiến toàn dân, kháng chiến toàn diện đúng đắn, sáng tạo của Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh, tạo nên niềm tin sắt đá, sức mạnh đoàn kết thống nhất cao của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân, của cả dân tộc vì mục tiêu độc lập, tự do, dân chủ, ấm no, hạnh phúc cho nhân dân. Thành công của đường lối cách mạng, đường lối kháng chiến của Đảng ta có thể xem là một mẫu hình đột phá thành công về cách mạng thuộc địa, cách mạng giải phóng dân tộc do Đảng của giai cấp công nhân lãnh đạo ở một nước thuộc địa nửa phong kiến; về chiến tranh cách mạng, chiến tranh nhân dân đánh thắng chiến tranh xâm lược thực dân kiểu cũ của đế quốc Pháp và được Mỹ giúp sức. Đó là bài học động viên tổ chức lực lượng toàn dân đánh giặc có lực lượng vũ trang làm nòng cốt, thực hiện vừa kháng chiến vừa kiến quốc, vừa chiến đấu chống quân xâm lược vừa xây dựng chế độ dân chủ nhân dân, để càng đánh càng mạnh tiến lên giành toàn thắng. Đó là bài học phát huy sức mạnh của đường lối chiến tranh nhân dân, xây dựng các lực lượng vũ trang nhân dân, quân đội nhân dân trung thành vô hạn với nhân dân, với sự lãnh đạo của Đảng, với sự nghiệp giải phóng dân tộc và với Tổ quốc. Đó còn là bài học xây dựng Đảng ngang tầm với đòi hỏi của cuộc kháng chiến...

            Kế thừa truyền thống anh hùng, tinh thần quyết chiến quyết thắng và vận dụng, phát triển sáng tạo những bài học kinh nghiệm phong phú, quý báu đã tích lũy được của chiến thắng Điện Biên Phủ và của cả cuộc kháng chiến lần thứ nhất, quân và dân ta, dưới sự lãnh đạo của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, đã vượt qua muôn vàn gian khổ, dũng cảm hy sinh, giành thắng lợi trọn vẹn trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, giải phóng dân tộc, giải phóng đất nước, thống nhất Tổ quốc, đưa cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội. Thực tế lịch sử đã khẳng định, chính con đường cách mạng, dưới sự lãnh đạo của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, đã đưa dân tộc Việt Nam đến chiến thắng Điện Biên Phủ và thắng lợi oanh liệt của cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân 1975, đỉnh cao là chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử. Con đường đó là hoàn toàn đúng đắn, phù hợp với quyền lợi cơ bản và khát vọng của dân tộc ta: độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, xây dựng dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng và văn minh. Điều đó là chân lý, không thể xuyên tạc, phủ nhận.

            Công cuộc đổi mới xây dựng chủ nghĩa xã hội, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và bảo vệ Tổ quốc ngày nay kế tục sự nghiệp và những chiến công vĩ đại của Điện Biên Phủ, của hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ và của hơn 20 năm xây dựng và bảo vệ Tổ quốc vừa qua trong những điều kiện lịch sử mới. Thời gian không làm phai mờ, trái lại càng làm nổi bật truyền thống anh hùng, kinh nghiệm và những bài học thành công của chiến thắng Điện Biên Phủ, của hai cuộc kháng chiến cứu nước đã qua. Những tài sản vô giá đó vẫn tràn đầy sức sống và có ý nghĩa thực tiễn to lớn cần được kế thừa, vận dụng và phát triển sáng tạo trong điều kiện mới của cách mạng nước ta ngày nay.

            Một là, vận dụng và phát triển bài học thực hiện thắng lợi đường lối kháng chiến toàn dân, kháng chiến toàn diện của Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh, tạo nên niềm tin vững chắc, ý chí quyết chiến quyết thắng và sức mạnh đoàn kết thống nhất cao của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân vì mục tiêu độc lập, tự do, dân chủ, ấm no, hạnh phúc cho nhân dân, sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa ngày nay phải quán triệt sâu sắc, vận dụng đúng đắn, sáng tạo đường lối đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước nhằm mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh, vững bước đi lên chủ nghĩa xã hội; tiếp tục nắm vững hai nhiệm vụ chiến lược là xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa mà Cương lĩnh của Đại hội Đảng VII và Nghị quyết Đại hội Đảng VIII đề ra. Trên cơ sở tổng kết thực tiễn và nghiên cứu lý luận của những năm đổi mới, Nghị quyết Đại hội Đảng VIII và các Nghị quyết Trung ương (khóa VIII) đã khẳng định đường lối đổi mới của Đảng là đúng đắn, đúng định hướng xã hội chủ nghĩa, tuy trong quá trình thực hiện có một số khuyết điểm, lệch lạc dẫn đến khó khăn ở mức độ này hay mức độ khác; đã chỉ ra những nội dung cơ bản của công cuộc tiếp tục đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, của sự nghiệp củng cố nền quốc phòng toàn dân và xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân, quân đội nhân dân trong những năm cuối của thế kỷ này, chuẩn bị bước sang thế kỷ XXI. Trước mắt chúng ta khó khăn, thách thức còn lớn, nhưng thuận lợi cũng không nhỏ. Công cuộc đổi mới đã thu được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa rất quan trọng; đời sống của các tầng lớp nhân dân được nâng lên rõ rệt; tạo ra được thế và lực mới của đất nước. Vấn đề là chúng ta phải đánh giá đúng cục diện cách mạng nước ta, tình hình thế giới và khu vực, hiểu hết được các nhân tố chủ quan và khách quan, thấy rõ cái mạnh, cái yếu của chính mình, bám sát, nắm bắt kịp những chuyển động của cuộc sống, của từng lĩnh vực. Trên cơ sở đó mà tiếp tục quán triệt, vận dụng đúng đắn, sáng tạo đường lối của Đảng; đảng viên phải nói và làm theo nghị quyết, thực hiện đúng Cương lĩnh, Điều lệ Đảng và pháp luật Nhà nước, kiên định những vấn đề về quan điểm có tính nguyên tắc của Đảng; củng cố niềm tin tưởng tuyệt đối của nhân dân đối với đường lối và sự lãnh đạo của Đảng; xây dựng sức mạnh đoàn kết thống nhất cao của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân với tinh thần tự tin, ý chí tiến công, quyết chiến quyết thắng của Điện Biên Phủ năm xưa, kiên quyết thực hiện thắng lợi đường lối đổi mới, hoàn thành sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, chiến thắng nghèo nàn lạc hậu, xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội, bảo vệ vững chắc Tổ quốc.

            Kế thừa và phát triển truyền thống Điện Biên Phủ - quyết tâm hoàn thành nhiệm vụ mới đặt ra của chiến tranh cách mạng - ngày nay, các lực lượng vũ trang nhân dân, quân đội nhân dân phải cùng với toàn dân nêu cao tinh thần độc lập tự chủ, tự lực, tự cường, phát huy nội lực của mình hoàn thành thật tốt nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc, đánh bại chiến lược "diễn biến hòa bình", bạo loạn lật đổ; sẵn sàng ứng phó thắng lợi với mọi tình huống phức tạp có thể xảy ra, kể cả chiến tranh xâm lược ở các quy mô trong điều kiện vũ khí công nghệ cao; tham gia tích cực vào sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa; thực hiện có hiệu quả nhiệm vụ lao động sản xuất, làm kinh tế, nhất là nhiệm vụ tham gia phát triển kinh tế - xã hội, xây dựng cơ sở chính trị, củng cố quốc phòng, an ninh ở các địa bàn chiến lược; góp phần giữ vững hòa bình, ổn định chính trị, bảo vệ sự nghiệp phát triển kinh tế, xây dựng đất nước.

            Hai là, kế thừa và phát triển những thành tựu về lý luận và thực tiễn động viên tổ chức lực lượng toàn dân đánh giặc, vừa kháng chiến vừa kiến quốc của Đông Xuân 1953-1954, của hai cuộc kháng chiến để xây dựng nền quốc phòng toàn dân và thế trận quốc phòng toàn dân vững mạnh, từng bước hiện đại, trên cơ sở những thành tựu của công cuộc đổi mới đất nước. Trong các cuộc chiến tranh yêu nước trước đây, Đảng ta đã giáo dục, động viên tổ chức được lực lượng của cả dân tộc, thực hiện cả nước lên đường đi đánh giặc, đồng thời tích cực sản xuất, xây dựng hậu phương, xây dựng chế độ mới, càng đánh càng mạnh. Ngày nay, trong điều kiện mới, cần phải giáo dục cho toàn Đảng, toàn dân, toàn quân nhận thức đúng và tập trung sức thực hiện nhiệm vụ hàng đầu là phát triển kinh tế, nhưng không được lơi lỏng nhiệm vụ quốc phòng, phải kết hợp chặt chẽ kinh tế với quốc phòng - an ninh, quốc phòng - an ninh với kinh tế và các mặt xây dựng khác, bảo đảm càng phát triển kinh tế thì tiềm lực, lực lượng và thế trận quốc phòng càng được củng cố vững mạnh.

            Phát huy truyền thống yêu nước nồng nàn của nhân dân và các lực lượng vũ trang nhân dân ta trong chiến dịch Điện Biên Phủ, trong cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ, giáo dục cho quân và dân ta nêu cao hơn nữa tinh thần yêu nước, yêu chủ nghĩa xã hội, nâng cao tinh thần cảnh giác cách mạng, làm tốt nghĩa vụ bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ chế độ, tích cực tham gia xây dựng nền quốc phòng toàn dân, nâng cao chất lượng sự nghiệp xây dựng khu vực phòng thủ tỉnh, thành phố, quận, huyện, xây dựng cơ sở xã, phường vững mạnh toàn diện. Trong quá trình đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, việc xây dựng cơ sở hạ tầng phải đáp ứng cả yêu cầu phát triển kinh tế và củng cố quốc phòng, an ninh. Tận dụng thành quả của công nghiệp hóa, hiện đại hóa để xây dựng nền quốc phòng toàn dân độc lập tự chủ, tự lực tự cường, vững mạnh, từng bước hiện đại, đủ khả năng bảo vệ hòa bình, làm phá sản âm mưu "diễn biến hòa bình", đánh thắng những thủ đoạn phá hoại, phong tỏa, thôn tính, chiến tranh xâm lược bằng các loại vũ khí hiện đại nhất. Đồng thời xây dựng ngành công nghiệp quốc phòng có khả năng tự sản xuất, sửa chữa vũ khí trang bị kết hợp với mua sắm đảm bảo trang bị đủ cho quân đội đáp ứng yêu cầu của chiến tranh bảo vệ Tổ quốc.

            Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng và quản lý Nhà nước về quốc phòng. Kịp thời thể chế hóa các quyết định của Đảng về quốc phòng thành chính sách, pháp luật của Nhà nước, từng bước hoàn chỉnh bộ luật về quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc, bảo đảm mỗi công dân, các tổ chức chính trị - xã hội, các thành phần kinh tế và các ngành, các cấp, các địa phương đều tự giác, chủ động làm nhiệm vụ quốc phòng, xây dựng các lực lượng vũ trang nhân dân và kiểm tra, uốn nắn việc thực hiện theo luật định.

            Ba là, vận dụng bài học nắm vững quy luật phát triển của cách mạng và chiến tranh cách mạng để chủ động, đi trước, đón đầu xây dựng lực lượng bộ đội chủ lực, tạo nên bước trưởng thành vượt bậc của quân đội ta ở Điện Biên Phủ, đặc biệt là kinh nghiệm xây dựng các binh đoàn chủ lực cơ động mạnh trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ và phát triển nghệ thuật quân sự chiến tranh nhân dân, phấn đấu tạo nên một bước phát triển mới về chất lượng tổng hợp và sức mạnh chiến đấu của các lực lượng vũ trang nhân dân và của quân đội nhân dân theo hướng cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại.

            Phải tiếp tục tập trung xây dựng quân đội về chính trị làm cơ sở để nâng cao chất lượng mọi mặt. Giáo dục cho quân đội phát huy truyền thống "Bộ đội Cụ Hồ"; "Trung với Đảng, trung với nước, hiếu với dân, sẵn sàng chiến đấu hy sinh vì độc lập tự do của Tổ quốc, vì chủ nghĩa xã hội"; giáo dục truyền thống yêu nước, lòng trung thành vô hạn với độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, với Đảng và nhân dân; xây dựng mối quan hệ máu thịt với nhân dân, mối quan hệ nội bộ thật dân chủ, đoàn kết, đầy tính nhân văn - văn hóa của một tập thể quân nhân cách mạng cùng chiến đấu vì một mục đích chung, cao đẹp.

            Trên cơ sở đánh giá đúng tình hình nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc trước mắt và lâu dài, tiến hành từng bước vững chắc, có cơ sở khoa học xây dựng quân đội về tổ chức phù hợp với tình hình thực tiễn của đất nước và nhiệm vụ của quân đội theo hướng nâng cao chất lượng, nâng cao sức mạnh chiến đấu, trình độ sẵn sàng chiến đấu, bảo đảm gọn, mạnh, đủ sức hoàn thành nhiệm vụ.

            Vận dụng và phát triển sáng tạo những kinh nghiệm quý báu đã được tổng kết của Điện Biên Phủ, của các cuộc chiến tranh yêu nước vừa qua vào huấn luyện, rèn luyện bộ đội theo phương châm đã được xác định, sát với yêu cầu và điều kiện mới, đạt trình độ thành thạo, thuần thục, vững chắc những động tác cơ bản về kỹ thuật và chiến thuật, sáng tạo nhiều cách đánh hay, mới; có bản lĩnh chiến đấu vững vàng, tham gia xây dựng và đấu tranh thắng lợi trên mặt trận tư tưởng chính trị, văn hóa, đánh bại mọi thủ đoạn xâm lược bằng quân sự của địch ở các quy mô vũ khí công nghệ cao, bảo vệ vững chắc Tổ quốc xã hội chủ nghĩa.

            Tiếp tục đẩy mạnh công tác tổng kết chiến tranh, công tác nghiên cứu khoa học lịch sử quân sự, tổng kết kinh nghiệm chiến đấu, chiến dịch, chỉ đạo chiến lược. Vận dụng có hiệu quả kết quả của tổng kết vào phát triển và hoàn thiện khoa học quân sự, nghệ thuật quân sự, khoa học kỹ thuật quân sự, khoa học xã hội và nhân văn quân sự của nền quốc phòng toàn dân, chiến tranh nhân dân hiện đại bảo vệ Tổ quốc.

            Kế thừa những kinh nghiệm phong phú, quý báu của Điện Biên Phủ, của cuộc kháng chiến thần thánh 30 năm và phát huy tinh thần thi đua yêu nước, "cả nước ra trận", "xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước", các lực lượng vũ trang nhân dân quyết tâm thực hiện đạt kết quả cao nhất phong trào thi đua quyết thắng do Đảng ủy Quân sự Trung ương và Bộ Quốc phòng phát động, cùng với toàn dân, dưới sự lãnh đạo của Đảng, thực hiện thắng lợi sự nghiệp đổi mới xây dựng chủ nghĩa xã hội, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, củng cố quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. 

PHẦN III

MỘT SỐ ANH HÙNG TIỂU BIỂU  ĐƯỢC TUYÊN DƯƠNG TRONG CHIẾN DỊCH ĐIỆN BIÊN PHỦ 

LÊ HẢI TRIỀU. Phan Đình Giót - Anh hùng lấp lỗ Châu Mai / Lê Hải Triều // Sách Anh hùng Điện Biên Phủ. - H.: Quân đội nhân dân, 2004. - Tr. 7-17  

Phan Đình Giót quê ở làng Vịnh Yên, xã Tam Quan, huyện Cẩm Xuyên, tỉnh Hà Tĩnh. Gia đình Giót rất nghèo. Bố bị chết đói, Giót phải sống cuộc đời đi ở, làm thuê từ năm 13 tuổi. Cách mạng tháng Tám thành công, Phan Đình Giót tham gia tự vệ chiến đấu, đến năm 1950, anh xung phong vào bộ đội. Sống trong quân ngũ, Phan Đình Giót luôn luôn tự giác, gương mẫu về mọi mặt, hết lòng thương yêu giúp đỡ đồng đội, sẵn sàng nhận khó khăn về mình, nhường thuận lợi cho bạn nên anh luôn được đồng đội mến phục, tin yêu.

Phan Đình Giót đã tham gia nhiều chiến dịch lớn: Trung Du, Hòa Bình, Tây Bắc... Trận đánh nào anh cũng nêu cao tinh thần quả cảm, kiên quyết vượt qua mọi khó khăn, hoàn thành nhiệm vụ. Quá trình chiến đấu hai lần bị thương nặng, nhưng anh cố nén nỗi đau tiếp tục chiến đấu.

Mới ba tháng tuổi quân, Phan Đình Giót đã tham gia chiến dịch Đường 18 trong trận đánh đồn Tràng Bạch, cuộc chiến đấu diễn ra gay go, ác liệt, anh bám sát tổ trưởng. Tiêu diệt xong lô cốt số một, Phan Đình Giót bị thương nặng, cấp trên cho lui ra phía sau, nhưng anh vẫn xin ở lại, tiếp tục làm nhiệm vụ cho đến khi trận đánh kết thúc.

Trong trận đánh tiêu diệt vị trí Chùa Tiếng (cuối năm 1950), trong khi bí mật cắt hàng rào, xung kích tranh thủ đào công sự, nhưng đất quá rắn, anh em không sao đào bí mật được. Nghe tiếng động, địch trong cứ điểm bắn ra và gọi pháo bắn tới. Quân ta xông lên đánh bộc phá phá các lô cốt trầy trật. Phan Đình Giót bò lên đặt bộc phá đánh lô cốt số một. Lô cốt bị thủng một mảng lớn, anh liền ném lựu đạn vào đó tiêu diệt toàn bộ quân địch, tạo điều kiện cho đơn vị đánh thắng.

Mùa đông năm 1951, sau mấy chiến dịch liên tiếp, bộ đội ta đã thấm mệt, nhưng theo kế hoạch chung, thu đông này chủ lực ta sẽ mở chiến dịch Hòa Bình. Những chiến sĩ vết thương vừa lên da non trong chiến dịch Lý Thường Kiệt lại chuẩn bị ống nước, bao gạo, vòng lá ngụy trang chuẩn bị lên đường. Các chiến sĩ tân binh cũng như cựu binh nức lòng xuất kích, cả Đại đoàn 312 bí mật vượt sông, Trung đoàn 141 nhận nhiệm vụ tiến công địch ở hai mỏm 400 và 600 trên đỉnh Ba Vì, khống chế toàn bộ khu vực sông Đà. Sau khi kiểm tra các mũi, vị trí của tiểu đoàn trên ra lệnh nổ súng. Tiếng bộc phá, tiếng thủ pháo, tiếng lựu đạn nổ dồn dập. Chỉ trong 10 phút đã giải quyết xong điểm cao 400. Địch hoàn toàn bị bất ngờ đến nỗi không kịp dùng điện đài báo cáo lên điểm cao 600. Thừa thắng, trung đoàn trưởng ra lệnh cho đại đội của Phan Đình Giót đánh thẳng lên điểm cao 600. Trời tối, anh em theo đường nhựa xông lên. Quân ta bắc thang nhưng thang ngắn phải nối lại. Cả ba lần bắc thang đều bị địch dùng tiểu liên bắn, đã có một số anh em bị thương vong. Phan Đình Giót phát hiện một chỗ gần cổng đồn, nơi tường cao vách thành vại, địch tương đối sơ hở có thể vào được. Theo đường này, anh em đưa trọng liên vào bắn quét, địch chúi xuống tránh đạn. Lợi dụng thời cơ đó bộ đội ta lần lượt phát triển vào tung thâm. Quân địch không sao chống đỡ nổi trước lối đánh gần, chia cắt, hiệp đồng hết sức ăn ý của tổ ba người. Địch chui vào hầm ngầm. Quân ta vây chặt hầm ngầm vừa đánh vừa gọi hàng. Trong trận này ta đã tiêu diệt 120 tên, bắt 135 tên.

Trong chiến dịch lịch sử Điện Biên Phủ, Phan Đình Giót cùng đơn vị hành quân gần 500km, vượt qua nhiều đèo, dốc, mang vác nặng. Chân Giót bị nứt nẻ, nhiều vết sâu chạy dọc ngang dưới bàn chân, mỗi bước đi như có nhiều mũi kim đâm vào da thịt, đau buốt đến điếng người, anh vẫn giấu đồng đội để được đi chiến đấu. Có lần cả đơn vị ngồi nghỉ, chính trị viên đi thăm hỏi bộ đội, thấy Giót đang băng bàn chân nứt nẻ, nhìn bàn chân bầm tím, máu rỉ ra, đồng chí chính trị viên khuyên Giót trở lại tuyến sau. Nghe xong, mắt anh đỏ hoe, Giót khẩn khoản: “Báo cáo chính trị viên, chân em có đau nhưng em cố gắng đi được, anh đừng để em ở lại”. Trước ý chí quyết tâm của Giót, chính trị viên đành chiều ý anh. Phan Đình Giót còn lo từng giấc ngủ, bát canh cho anh em. Mỗi khi thấy đồng đội có khuyết điểm, anh nhẹ nhàng rủ đi chơi, tỉ tê phân tích cái hay, cái dở làm cho anh em vừa cảm động lại nhanh chóng nhận ra lỗi lầm. Cũng chính vì thế Phan Đình Giót được anh em trong đơn vị gọi là anh cả.

Chiều ngày 13 tháng 3 năm 1954, Trung đoàn 141 Đại đoàn 312 được lệnh nổ súng tấn công tiêu diệt cứ điểm Him Lam.

Him Lam được gọi là Bê-a-tơ-ri-xơ, nằm ở phía đông bắc tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ, cách Mường Thanh 2,5km, được Na-va xây dựng thành một trung tâm phòng ngự kiên cố nhất. Him Lam thuộc phân khu trung tâm và án ngữ con đường từ Tuần Giáo đến Điện Biên Phủ, ngăn chặn hướng tấn công chính của quân ta vào ngoại vi Điện Biên Phủ.

Him Lam gồm ba vị trí trên ba ngọn đồi có thể yểm trợ cho nhau, có trận địa phòng ngự vững chắc với nhiều hỏa điểm lợi hại và cả một hệ thống hàng rào dây thép gai được gài mìn, có nơi rộng đến 200 mét.

Him Lam còn có mối liên quan rất mật thiết với trung tâm đề kháng Độc Lập và Bản Kéo. Ba vị trí này hình thành một khu vực vòng ngoài được hỏa lực rất mạnh của chúng ở Mường Thanh và Hồng Cúm yểm trợ.

Do vị trí đặc biệt quan trọng và nhiệm vụ nặng nề mà Him Lam phải đảm nhiệm như vậy nên Na-va đã bố trí tiểu đoàn 3 thuộc lữ đoàn lính lê dương số 13 thiện chiến do tên quan tư Pê-gô chỉ huy và một đại đội ngụy Thái chiếm giữ.

Tiểu đoàn này đã từng tham chiến ở Li Bi trong đại chiến thế giới lần thứ hai. Nó là “một đơn vị thần thoại, chưa bao giờ bị thua trận nào”. Na-va và Cô-nhi được báo cáo quân ta sẽ tiến công Him Lam vào đêm ngày 13 tháng 3. Thấy vậy, để động viên binh sĩ và có những chỉ thị cần thiết, sáng 13 tháng 3 năm 1954, tướng Cô-nhi chỉ huy quân Pháp ở Bắc Việt Nam đã bay lên Điện Biên Phủ. Cô-nhi đã quan sát, kiểm tra kỹ lưỡng, mãi đến trưa ngày 13 tháng 3 ông ta mới yên tâm bay về Hà Nội.

Trước khi Him Lam bị tiến công, từ Na-va, Cô- nhi đến Đờ-cát đều chủ quan, cho rằng Điện Biên Phủ là pháo đài bất khả xâm phạm. Ngày 7 tháng 3, Na-va định tăng cường cho Điện Biên Phủ thêm 3 tiểu đoàn, Đờ-cát gạt đi, quả quyết: “Thật vô ích! Sẽ gay go, nhưng chúng tôi giữ được”.

Đờ-cát còn cho rải truyền đơn khiêu khích ta: “Còn đợi gì nữa mà không tiến công, nếu các người không phải là những kẻ hèn nhát”.

Cùng với Độc Lập, Him Lam được mệnh danh là “quả đấm sắt”, với ý nghĩ ấy, tên thiếu úy Giắc-cơ, tù binh Pháp ta bắt được trước khi chiến dịch bắt đầu đã khuyên ta khá chân thành: “Các ngài đừng nên đụng đến Him Lam, vì Him Lam là một pháo đài bất khả xâm phạm. Pháo đài này chính do một cố vấn Mỹ ở chiến trường Triều Tiên thiết kế và trực tiếp đôn đốc xây dựng. Ngay cả tướng Mỹ Ô Đa-ni-en và Bộ trưởng quốc phòng Pháp Pơ-lê-ven cũng đến tận nơi kiểm tra”.

Mặc dù vậy, sau khi cân nhắc kỹ, Bộ chỉ huy chiến dịch chọn Him Lam làm trận đánh mở đầu.

17 giờ 10 phút ngày 13 tháng 3, đạn pháo của ta rót trúng Him Lam, khu trung tâm tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ, sân bay Mường Thanh, sân bay Hồng Cúm. Đòn phủ đầu của ta khá mạnh và rất bất ngờ (40 khẩu lựu pháo từ 75 đến 120 ly). Chỉ huy trưởng và phó cụm Him Lam cùng trung tá chỉ huy phân khu trung tâm và cả ban tham mưu đều bị chết trong đợt này.

Đại đội 58 Tiểu đoàn 428 Trung đoàn 141 Đại đoàn 312 của Phan Đình Giót triển khai đội hình chiến đấu từ 15 giờ. Anh em truyền tay nhau đọc thư Bác Hồ và lệnh động viên của Đại tướng Tổng tư lệnh. Đến giờ pháo bắn, anh em rút ra khỏi rừng. Cùng với sự chi viện của pháo binh, pháo cao xạ ta lần đầu xuất trận đã tạo nên không khí hào hùng chưa từng có kể từ ngày thành lập quân đội. Anh em bắt tay nhau, từng nhóm nhắc lại quyết tâm của tổ ba người trong tiểu đội.

Trong lúc pháo ta bắn chế áp, mọi việc đều diễn ra thuận lợi. Nhưng khi địch ở Him Lam hồi tỉnh sau cơn choáng váng và pháo địch phản pháo thì tình hình trở nên gay cấn. Lúc này Phan Đình Giót đã là tiểu đội trưởng tiểu đội bộc phá. Nhiệm vụ của tiểu đội anh là phải phá rào mở cửa cho bộ binh xung phong đánh chiếm mục tiêu. Tiểu đoàn 428 mở cửa bằng bộc phá đến hàng rào thứ bảy, còn một hàng rào cuối. Một chiến sĩ lên đánh quả cuối cùng bị hy sinh. Tiểu đội trưởng Phan Đình Giót xông lên đánh quả bộc phá quyết định. Lô cốt địch bị san bằng, địch dạt cả vào trong. Tổ xung kích ném lựu đạn nhưng chần chừ không đánh chiếm ngay, địch lại xông ra chiếm lại. Tổ chiếm lô cốt đầu cầu vẫn chưa lên. Phan Đình Giót thấy nếu chậm trễ thì trận đánh sẽ kéo dài nên quyết định dùng hỏa lực bản thân đánh chiếm lô cốt đầu cầu. Vì phải mang bộc phá nên trang bị của anh em làm nhiệm vụ mở cửa chỉ có tiểu liên và lựu đạn. Sau khi mở thông 60 mét hàng rào kẽm gai, cả tiểu đội chỉ còn bốn người và cả bốn người đều bị thương. Anh em xông lên chiếm lô cốt. Mũi phản kích của địch bị chặn đứng. Cùng lúc đó, tiểu đội đột kích có mặt. Đại đội phó nhận định đây là thời cơ xung phong liền lệnh cho bộ đội đánh vào tung thâm. Địch rút lên tầng hai, ra sức chống cự. Một hỏa điểm bắn ra ác liệt trên đường phát triển của xung kích. Pháo địch bắn sát chân rào.

Lúc này Phan Đình Giót thay mặt cán bộ chỉ huy trung đội ở cánh giữa. Thấy hỏa điểm địch bắn chặn đồng đội, Phan Đình Giót dùng quả lựu đạn cuối cùng đánh hỏa điểm. Địch ngừng bắn. Xung kích ta tiến lên thì hỏa điểm lại khôi phục. Giót dùng tiểu liên đưa vào trong lô cốt bắn một băng. Lúc này Phan Đình Giót đã bị thương lần thứ ba vào vai, máu chảy đầm đìa, ngất đi. Lúc tỉnh dậy, thấy đồng đội bị chặn lại bởi một hỏa điểm đột nhiên xuất hiện, hỏa điểm này tỏ ra rất lợi hại. Hai chiến sĩ đặt trung liên tìm cách dập tắt hỏa điểm nhưng bị địch bắn bị thương. Mấy chiến sĩ khác xông lên thay thế nhưng súng bị đất vùi, không sử dụng được nữa. Tình hình lúc này thật căng thẳng, hỏa điểm của địch chưa bị dập tắt thì máu của đồng đội còn phải đổ. Cán bộ trung đội bị thương vong hết, Phan Đình Giót tự đảm nhiệm vai trò chỉ huy trung đội. Các chiến sĩ vẫn thay nhau xông lên tìm cách diệt hỏa điểm nhưng đều hy sinh, hỏa điểm địch từ lô cốt vẫn bắn mạnh vào bộ đội ta. Lực lượng xung kích bị ùn lại. Phan Đình Giót nhìn trừng trừng vào hỏa điểm địch rồi anh ép người sát mặt đất, bò nhích lên từng tí thận trọng gần đến lỗ châu mai, với ý nghĩ cháy bỏng, duy nhất là phải dập tắt ngay nó. Anh dùng hết sức mình còn lại nâng khẩu tiểu liên lên bắn mạnh vào lỗ châu mai. Hết đạn, anh thay băng khác tiếp tục bắn. Nhưng khi xung kích xung phong lên thì hỏa điểm địch vẫn bắn ra ác liệt, lại một số chiến sĩ nữa ngã xuống. Mọi người thấy anh đứng lên ngồi xuống bên lỗ châu mai địch.

Phan Đình Giót có thể làm được gì khi trong tay anh không còn một viên đạn?

Mọi người đều đổ dồn về anh, theo dõi hồi hộp. Bỗng thấy anh rướn người lên, lấy đà, tay bám chắc vào những thân cây gỗ phía trên lỗ châu mai rồi xoay người thật nhanh lại, áp lồng ngực vào lỗ châu mai địch, hỏa điểm lợi hại nhất của địch đã bị dập tắt.

Một tiếng hô vang lên:

- Tất cả xông lên trả thù cho “anh cả”

Nhiều tiếng hô đồng thanh đáp lại:

- Xung phong! Xung phong! Xung phong!

Sau tiếng hô đó các chiến sĩ xung phong diệt các ổ đề kháng cuối cùng của địch. Tiểu đoàn 428 của Phan Đình Giót đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ tiêu diệt cứ điểm Him Lam.

Phan Đình Giót - người con của đất Hà Tĩnh đã hy sinh anh dũng, xứng đáng với danh hiệu Anh hùng lấp lỗ châu mai.

LÊ HẢI TRIỀU. Tô Vĩnh Diện - Anh hùng chèn pháo / Lê Hải Triều // Sách Anh hùng Điện Biên Phủ. - H.: Quân đội nhân dân, 2004. - Tr. 18-30

Tô Vĩnh Diện sinh năm 1928, quê ở xã Nông Trường, huyện Nông Cống, tỉnh Thanh Hóa. Nhà Diện rất nghèo, lên 8 tuổi đã phải đi ở cho địa chủ. Suốt 12 năm đi ở, anh đã phải chịu đựng bao cảnh áp bức bất công. Cách mạng tháng Tám thành công, Diện thoát cảnh đi ở. Năm 1946, anh tham gia dân quân ở địa phương, đến năm 1949 Tô Vĩnh Diện xung phong vào bộ đội. Những ngày đầu trong quân ngũ, Tô Vĩnh Diện luôn luôn gương mẫu đi đầu trong học tập và công tác, lôi cuốn đồng đội noi theo.

Tháng 5 năm 1953, quân đội ta thành lập các đơn vị pháo cao xạ chuẩn bị cho đánh lớn, Tô Vĩnh Diện được điều làm tiểu đội trưởng một đơn vị pháo cao xạ... Pháo cao xạ lúc này là loại vũ khí hiện đại, có lá chắn phía trước, tầm bắn tối đa 6.700 mét, tầm bắn hiệu quả 2.500 đến 3.000 mét. Là vũ khí đánh có hiệu quả không quân địch lúc đó. Khẩu đội có bảy pháo thủ: số 1 quay hướng, số 2 quay tầm và đạp cò, số 3 cự ly, số 4 hướng đường bay, góc bổ nhào và tốc độ, số 5 nạp đạn, số 6 tiếp đạn, số 7 dự bị và lo đạn.

Đông Xuân 1953-1954 tin tức quân sự từ khắp nơi dội về làm cho các chiến sĩ pháo cao xạ vô cùng sốt ruột. Sau bao nhiêu tháng trời học tập, họ chờ được ra trận đọ sức với không quân địch. Những ngày chờ đợi diễn ra căng thẳng, có vũ khí pháo cao xạ trong tay mà cứ phải nhìn lũ giặc trời hoành hành trên bầu trời, trong lòng ai nấy không yên.

Giữa lúc ấy Tô Vĩnh Diện lại bị ốm nặng, phải nằm điều trị ở quân y viện. Khi Diện ra viện trở về thì đơn vị đang gấp rút chuẩn bị lên đường đi chiến dịch Điện Biên Phủ.

Bộ đội hành quân lên Điện Biên Phủ. Chặng đường kéo pháo vào trận địa vô cùng gian khổ bắt đầu. Pháo phải tháo khỏi xe và thay bằng sức người để kéo. Hàng trăm người thay nhau kéo những cỗ pháo nặng hàng tấn vượt qua mỗi ngày vài cây số đường rừng núi cheo leo, khúc khuỷu. Sau hơn một tuần kéo pháo vào, vượt qua dãy Pa Sông vào chiếm lĩnh ở khu vực Bản Tấu, phía Bắc cứ điểm Độc Lập. Vào đến nơi tưởng nổ súng ngay thì đột nhiên có lệnh kéo pháo ra. Cán bộ chiến sĩ ngơ ngác, không hiểu vì sao. Nhiều người bất bình ra mặt, kêu ca, phàn nàn, thậm chí có người còn văng tục.

Tô Vĩnh Diện cũng không khỏi hoang mang. Thế này nghĩa là thế nào? Kéo pháo vào rồi lại kéo pháo ra? Chi bộ Đảng họp bất thường, lãnh đạo cán bộ, đảng viên, đoàn viên ổn định tư tưởng, tin tưởng vào cấp trên, vào Bộ Tổng tư lệnh.

Quân địch không ngờ rằng quân đội ta có những khẩu pháo lớn kia lại được bí mật vượt qua hàng trăm cây số đường rừng, lên dốc, xuống đèo trên những con đường mà ngay đi bộ người ta cũng phải lần mò từng bước một. Quân địch lại không ngờ được rằng hàng tấn sắt thép kia đã được vận chuyển không do một thứ máy móc nào khác ngoài sức lực con người - những người chiến sĩ pháo cao xạ anh hùng với sức lao động phi thường...

Kéo pháo ra gian truân, ác liệt bội phần. Hàng trăm cánh tay bám chặt những sợi dây tời kéo khẩu pháo lặc lè lên dốc, rồi khi xuống dốc thì hàng trăm đôi bàn chân phải dậm thật mạnh tưởng như lún sâu xuống mặt đất, hàng trăm bàn tay ghì chặt những sợi dây buộc pháo, thả cho nó xuống từ từ, mà hai bên họ là vách núi dựng đứng, là vực sâu. Nguy hiểm hơn cả là người chiến sĩ đi bên pháo để lao những hòn chèn, giữ cho pháo khỏi tụt và dũng cảm nhất có lẽ là người chiến sĩ cầm càng pháo lái cho pháo đi đúng đường. Chỉ sẩy chân, sẩy tay là bị hất xuống vực, là bị bánh pháo đè nát người. Khẩu pháo cứ lầm lũi, lên dốc, xuống đèo gập ghềnh trong đêm tối và lại phải chịu những trận pháo kích của địch.

Con đường kéo pháo này mới được công binh phá rừng, chặt cây làm gấp trong một thời gian ngắn chuẩn bị cho chiến dịch nên còn rất mấp mô, gồ ghề. Chỉ cần bánh pháo chồm qua một hòn đá hay một gốc cây, pháo quật càng sang bên phải hay sang bên trái thì cũng đủ rụng rời chân tay ra rồi.

Tất cả đã chuẩn bị xong. Đêm tối mịt mùng, gần một trăm con người cùng lúc cúi xuống, cầm chắc sợi dây, choãi chân, hơi ngả người về phía sau sẵn sàng đợi lệnh. Những tiếng hô rì rầm nổi lên: Hai... ai, ba... này!

- Dô... ô... ô ta nào! Dô... ô... ô ta nào!

Khẩu pháo cựa quậy, nhúc nhắc, bánh pháo bắt đầu nhích dần từng centimét trên mặt đường tối nhờ nhờ. Tiếng thở phì phò, hổn hển, tiếng ư ự... bị nén trong lồng ngực được phát ra hòa với tiếng đất đá lăn theo bánh pháo rào rào. Mùi mồ hôi chua chua mặn mặn lẫn với mùi vỏ cây bị nghiến nát hăng hắc. Bánh pháo, nhích dần, nhích dần lúc một phần ba, lúc một nửa, lúc cả vòng. Gần đến đỉnh đốc Ba Tời, bộ đội dừng lại nghỉ vài phút, tranh thủ kiểm tra và chuẩn bị đổ dốc. Lúc này các chiến sĩ mới thấy mệt rã rời, chân đau, tay bỏng. Con đường kéo pháo vượt qua đã gian nan vất vả, nhưng chặng đường cuối cùng này gay go gấp bội, pháo phải đổ xuống một cái dốc ba bậc dựng đứng. Anh em công binh đã phải thiết kế ba cái tời liền nhau nên mới có tên là Dốc Ba Tời. Ở bậc dưới cùng dốc càng đứng, vực càng sâu, đường lại vòng. Đổ xong Dốc Ba Tời, pháo leo qua một quả đồi thoai thoải hình mâm xôi thì tới cầu Gỗ. Từ cầu Gỗ ra đường 41 khoảng cách không đầy 300 mét đường bằng. Nếu tính từ Dốc Ba Tời ra tới đường 41 thì chặng đường kéo pháo chỉ còn gần 2km nữa thôi. Nhưng đây là chặng đường đẫm máu mà ác liệt nhất.

Buổi chiều, Tô Vĩnh Diện đã đi theo đoàn cán bộ pháo cao xạ ra nghiên cứu đường đến tận cầu Gỗ. Một đơn vị công binh ở đây đang tranh thủ sửa chữa cầu vừa bị pháo binh địch bắn hỏng. Diện xắn tay áo vào làm với anh em công binh.

Khi quay trở về Dốc Ba Tời, Diện nhìn xuống núi, những khẩu pháo cao xạ đang chuẩn bị đổ dốc, liệu nó có bị lăn xuống vực như một khẩu đội nào không? Không thể được. Diện nghiến răng tự nhủ thầm. Chỉ có thể người mất nhưng pháo nhất định còn!

Vừa lúc đó, phía sau núi, những tia chớp lóe lên liên tiếp rồi một loạt đạn pháo của địch bắn về ầm ầm, nổ tung ngay dưới chân núi. Diện lao nhanh về phía khẩu đội.

Lại một loạt đạn pháo nữa của địch bắn về. Đất cát bay rào rào.

Từ lúc chuẩn bị đổ dốc đến giờ thần kinh của Tô Vĩnh Diện luôn luôn bị căng thẳng. Một loạt tiếng nổ như xé nát mang tai. Theo thói quen, mỗi lần địch bắn về, Tô Vĩnh Diện lại chạy quanh khẩu pháo để xem xét tình hình. Các pháo thủ vẫn hiên ngang đứng vững ở vị trí của mình bên cạnh khẩu pháo.

Bỗng tiếng đồng chí chính trị viên cất lên, giọng đã khản vì mệt mỏi, vì thức đêm nhưng vẫn còn rõ ràng, rành mạch:

- Các đồng chí Đại đội 827! Giờ phút quyết liệt đã tới. Địch đã bắn về ta và chúng còn tiếp tục bắn nữa. Nhiệm vụ của tất cả chúng ta là phải bảo đảm cho pháo đổ dốc an toàn. Còn người thì còn pháo. Quyết không để pháo mất mà người còn. Các đồng chí có thể thực hiện được không?

- Có! Có!

- Còn người còn pháo! Dù người mất pháo vẫn phải còn.

Diện chạy về vị trí lái càng, anh nói như hét:

- Tôi với đồng chí Tri sẽ bắt lái đoạn này vì buổi chiều tôi đã được đi nghiên cứu cùng đại đội. Các đồng chí cầm chèn cẩn thận nhé, thấy bánh pháo hơi lái ra miệng vực phải lao chèn luôn. Mấy đồng chí “phanh” phải thật thính, có gì phanh lại ngay. Đồng chí Ước thay đổi điều khiển mõ. Đồng chí Đài ốm khoác chăn đi trước dẫn đường. Tất cả phải hiệp đồng chặt chẽ như lúc ta bắn máy bay địch. Đang xuống dốc mà nó bắn pháo về không một ai buông tay, quyết ghìm thật chắc. Còn người còn pháo nghe rõ chưa?

- Rõ! Rõ!

- Cốc... cốc - Tiếng mõ bắt đầu.

- Hai... ai ba... dô... ô ta nào, dô... ô ta nào!

Khẩu pháo bắt đầu nhích, nhích từng đoạn theo nhịp mõ và nhịp thở phì phò của hàng chục con người. Ở đầu càng, Diện mở to mắt, ghì, lái theo mảnh chăn trắng trước mặt. Mảnh chăn lúc ẩn lúc hiện như trong giấc mơ. Mồ hôi Diện vã ra như tắm. Khẩu pháo đã xuống hết dốc thứ nhất, chuẩn bị đổ dốc thứ hai. Đồng chí trung đội trưởng đợi sẵn ở đầu dốc:

- Nó vẫn bắn về đây, xê một, xê hai đã xuống hết rồi. Khẩu 3 của các đồng chí cho xuống ngay đi. Tranh thủ để lấy đường cho các khẩu đội bạn xuống trước sáng. Gắng lên nào, bảo vệ pháo tới đích.

Pháo đổ dốc thứ hai, chớm đầu dốc thứ ba thì pháo địch lại bắn về. Những tiếng nổ đằng trước, đằng sau, bên phải, bên trái. Mặc, pháo cứ chuyển động tụt dần xuống núi. Bốn sợi dây to bằng cổ tay được kiểm tra lại từng đoạn. Chính trị viên, đại đội trưởng đều có mặt. Đồng chí trung đội trưởng tự mình soi đèn pin kiểm tra lại các nút buộc.

Tiếng mõ “cốc... cốc” lại vang lên đều đặn trong đêm khuya. Khẩu pháo ngoan ngoãn nhích từng bước trôi theo độ dây thả từ bên trên. Mấy sợi dây lúc căng, lúc chùng lại. Mấy dòng người như mấy hàng chân rết lúc lắc vặn vỏ đỗ xoắn vào nhau.

Tô Vĩnh Diện cùng với Tri lái pháo nhịp nhàng ăn khớp với nhịp mõ điều khiển.

Bỗng nhiên, ánh chớp lóe lên ở phía Mường Thanh, kèm theo là những tiếng nổ đầu nòng của hàng chục khẩu pháo địch. Đại đội trưởng, trung đội trưởng cùng hét lên:

- Cứ bình tĩnh, nó bắn mặc xác nó!

Pháo địch như những đợt sóng hung dữ ào ào xô tới. Những tiếng nổ đinh tai nhức óc. Đất đá bắn tung tóe. Một phút yên lặng, bồn chồn căng thẳng trùm lên tất cả. Nhưng lập tức nó bị xua tan. Cùng một lúc có nhiều tiếng thét: “Bám chắc vào, bám chắc vào! Không để pháo đổ! Còn người còn pháo, anh em ơi!”.

Tô Vĩnh Diện gào từng tiếng một:

- Ghìm, ghìm chắc, chết không rời pháo!

Anh choãi chân, ráng hết sức cùng với Tri du mạnh càng pháo vào vách núi. Khói đạn phả vào mặt nóng hầm hập.

Bên trên, mấy chiến sĩ bộ binh bị trúng đạn ngã gục xuống. Nhưng hàng chục con người vẫn chụm vào nhau, cắm chân xuống đất vững vàng. Khẩu pháo vẫn từ từ trôi trong cơn sóng gió.

Diện nghiến răng ghì chặt tay lái, mắt mở trừng trừng vẫn nhìn theo mảnh khăn trắng dẫn đường. Mặt dốc bị cày lên vì pháo địch, khẩu pháo lắc lư, giật cục. Lưng Diện vẹo đi, hai vai tê dại không còn cảm giác nữa.

Lại một loạt pháo địch bắn về. Tiếng nổ lại bị át đi bởi hàng chục tiếng hét: “Bám chắc, quyết tâm bảo vệ pháo”. Người Diện bị dồn mạnh về phía trước tưởng gẫy làm đôi. Khẩu pháo lao xuống ầm ầm. Diện hét thật to: “Chết không rời pháo!”.

Một mảnh pháo chém đứt đôi sợi dây tời, mọi người mất đà, ngã sấp ngã ngửa, còn ba sợi dây rừng không đủ sức ghìm khối thép khổng lồ đang lao xuống dốc. Sáu, bảy chục con người bị kéo lê sềnh sệch. Có nhiều tiếng gọi thất thanh trên đầu dốc:

- Đứt dây rồi, ghìm lại, ghìm lại...

- Phanh, phanh, chèn, chèn vào.

- Đồng chí Diện lái pháo vào... ào!

Một hòn chèn lao tới. Khẩu pháo chồm qua. Một hòn chèn khác. Khẩu pháo vẫn phăng phăng chạy. Một chiến sĩ đuổi theo pháo lao thêm được hòn chèn thứ ba vào bánh. Pháo vẫn lao ầm ầm hất mạnh đồng chí xuống vực. Càng pháo nảy lên, quật xuống trong tay Diện. Tri bị hất mạnh vào vách núi, không dậy được nữa. Khẩu pháo càng lao đà càng mạnh. Tất cả mọi thứ chân, phanh, mô đất... không đủ sức ghìm nổi khẩu pháo nữa. Nhiều chiến sĩ vẫn dũng cảm bám lấy pháo, họ bị kéo lê lết trên mặt đường.

Phía trước khẩu pháo đang ầm ầm lao xuống dốc. Chỉ có một mình Diện. Diện cắn môi, lấy hết sức đẩy càng pháo vào vách núi. Khẩu pháo đứng sững lại tưởng như đã chịu thua sức lực và trí tuệ của con người. Nhưng rồi nó lại quật mạnh càng hất tung hai chiến sĩ bám bên cạnh xuống vực và hùng hổ lao xuống. Chỉ còn một quãng ngắn là tới chỗ đường vòng. Cái vực sâu đen ngòm đã hiện ra. Giữa lúc đó, một chiến sĩ lao kịp tới ngang thân pháo, chiến sĩ đó bị bật văng ra xa.

Khẩu pháo đồ sộ vẫn lao xuống dốc ầm ầm. Hai tai Diện có lúc tưởng như bị điếc đặc, nghe có lúc thấy gió táp vào mang tai ù ù. Mảnh chăn trắng phía trước không còn nữa. Trước mắt Diện chỉ là một màu đen mờ mịt, đồi núi, cây cối lướt nhanh vùn vụt.

Khẩu pháo của tiểu đội Diện, khẩu pháo ngày đêm anh săn sóc lau chùi, yêu quý nó, bây giờ như một con ngựa bất kham cứ lao đi, lao đi không còn sức nào cản lại được nữa. Diện thu hết sức lực một lần nữa, đẩy mạnh càng pháo vào vách núi. Khẩu pháo nhảy qua mô đất, hất càng lại và nhấc bổng Diện như muốn hất tung anh lên sườn dốc. Diện vội ghì chặt hai tay không chịu rời pháo, người anh một lần nữa bị quật mạnh.

Tô Vĩnh Diện đuối sức lắm rồi, mồ hôi ướt đẫm áo trấn thủ, đôi tay tê dại vẫn bám chặt lấy càng pháo. Bây giờ Tô Vĩnh Diện không còn phân biệt được thời gian, được cảnh sắc xung quanh. Mắt anh mờ đi vì mồ hôi từ mi mắt tràn xuống. Tai anh ù lên trong những tiếng động như gõ rất nhiều mảnh kim khí bên màng tai. Tô Vĩnh Diện nghiến chặt răng tưởng như vỡ quai hàm. Trong giờ phút nguy nan ấy, anh buông tay lái, đạp mạnh hai chân, cả thân mình Diện bật như thỏi cao su lao vào trước vành bánh pháo. Khẩu pháo chồm lên rồi cuốn anh vào gầm chiếc đế kích đằng trước đè xuống chiếc mũ sắt anh đang đội. Pháo dừng hẳn, mọi người chạy đến chèn cứng bánh. Chặt gốc cây, kéo pháo lùi lại đưa Tô Vĩnh Diện ra ngoài. Vài phút sau tim anh ngừng đập.

Sau đêm Tô Vĩnh Diện hy sinh để bảo vệ khẩu pháo, toàn Đại đội 827 đã nghiêm trang thề trước mộ người liệt sĩ anh hùng: “Noi gương đồng chí, chúng tôi sẽ chiến đấu đến cùng, tiêu diệt hết máy bay địch”.

LÊ HẢI TRIỀU. Trần Can - Anh hùng cắm cờ căn cứ Him Lam / Lê Hải Triều // Sách Anh hùng Điện Biên Phủ. - H.: Quân đội nhân dân, 2004. - Tr.31-40

            Trần Can sinh năm 1931, quê ở xã Sơn Thành, huyện Yên Thành, tỉnh Nghệ An. Từ nhỏ Trần Can đã rất thích đi bộ đội để được cầm súng giết giặc, cứu nước. Lớn lên, ba lần anh xung phong tình nguyện nhập ngũ nhưng vì sức khỏe yếu, các đơn vị bộ đội đều từ chối. Mãi đến lần thứ tư anh mới được chấp nhận.

Từ khi vào bộ đội, Trần Can chiến đấu rất dũng cảm, mưu trí. Trong mọi tình huống dù khó khăn ác liệt anh đều kiên quyết dẫn đầu đơn vị vượt lên, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ.

Năm 1952, sau khi chỉnh huấn chính trị, biên chế, trang bị, các đại đoàn cơ động được biên chế thống nhất theo quy định của Bộ Tổng tham mưu. Mỗi tiểu đoàn bộ binh có một đại đội chủ công gồm bốn trung đội. Việc học tập quân sự cũng thống nhất theo tài liệu của Bộ Tổng tham mưu. Về học đánh công sự kiên cố, các đơn vị học đánh cứ điểm kiên cố, có sinh lực trên dưới một tiểu đoàn địch, học đánh vận động tiêu diệt những binh đoàn cơ động lớn. Có diễn tập thực binh, bắn đạn thật, phân đội hỏa lực và binh chủng phối thuộc. Có thể nói, chỉnh huấn và chấn chỉnh về tổ chức, huấn luyện năm 1952 là bước ngoặt đối với việc xây dựng lực lượng vũ trang. Trung đoàn 209 Đại đoàn 312 của Trần Can đi vào chiến dịch Tây Bắc trong niềm tin và sức mạnh mới.

Tây Bắc là chiến trường có tầm quan trọng về chiến lược trên chiến trường Bắc Bộ lúc đó. Chiếm Tây Bắc, địch đã tạo ra thế thường xuyên uy hiếp căn cứ địa Việt Bắc của ta. Giải phóng được Tây Bắc, chúng ta sẽ mở rộng và củng cố được căn cứ địa Việt Bắc. Mục đích của chiến dịch này là tiêu diệt sinh lực địch, tranh thủ nhân dân Tây Bắc, giải phóng một bộ phận đất đai. Ý nghĩa của chiến dịch lớn lao là vậy, Trần Can nóng lòng được tham gia.

Ngày 10 tháng 10 năm 1952, toàn đại đoàn vượt sông Thao chia làm hai cánh. Một cánh gồm Trung đoàn 141 vào phối thuộc vượt Khe Lóng, nhanh chóng tiến vào tiêu diệt vị trí Sài Lương. Cánh thứ hai, Trung đoàn 209 của Trần Can theo hướng Bắc vượt đèo Nậm Bằng cao gần 2.000 mét, dọc đường tiêu diệt địch ở La Hầu Pèng, tiến vào bao vây tiêu diệt địch ở Nậm Mười, Bản Tủ, Bản Hoa. Trận đánh ở Bản Hoa, Trần Can làm nhiệm vụ xung kích, vừa có lệnh xung phong anh đã nhanh chóng cùng tiểu đội vượt qua cửa mở, dùng thủ pháo diệt một ụ súng địch rồi lập tức phát triển vào bên trong. Khi tiểu đội bị thương vong hết, Trần Can tự động sáp nhập với hai đồng chí của tiểu đội khác lập thành một tổ tiếp tục chiến đấu. Trần Can dẫn đầu tổ diệt luôn ba ụ súng nữa và đánh thẳng vào sở chỉ huy địch, diệt cơ quan đầu não, bắt sống 22 tên, thu 17 súng các loại.

Trong chiến dịch Điện Biên Phủ, đơn vị Trần Can được giao nhiệm vụ tiêu diệt cứ điểm Him Lam. Him Lam là một trung tâm phòng ngự kiên cố nhất của địch. Vị trí này thuộc phân khu trung tâm, cách Mường Thanh 2,5km, có nhiệm vụ bảo vệ phân khu trung tâm Mường Thanh và án ngữ con đường từ Tuần Giáo đến Điện Biên Phủ. Binh lực ở Him Lam có 1 tiểu đoàn lê dương tăng cường thuộc lữ đoàn lê dương số 13. Him Lam trước có năm mỏm, nay địch dùng máy ủi san đi còn ba mỏm, hình thành ba cứ điểm vừa yểm hộ được cho nhau vừa có thể độc lập tác chiến. Hỏa lực chia làm nhiều tầng khá vững chắc, nhiều hỏa điểm chéo, hỏa điểm lướt sườn. Giữa các hỏa điểm có hàng rào và bãi mìn ngăn cách. Hệ thống công sự phụ có bãi mìn và dây thép gai rộng từ 100 mét đến 200 mét. Cứ điểm nào cũng có hầm ngầm và lực lượng phản kích.

Tiến công một cứ điểm nằm trong tập đoàn cứ điểm mạnh đặt ra cho chỉ huy những vấn đề mới mẻ. Trước hết là trinh sát. Sau khi nhận nhiệm vụ, ngày nào đơn vị cũng đi trinh sát thực địa. Ban ngày lên đài quan sát để nghiên cứu Him Lam, ban đêm cán bộ tiếp cận. Muốn hiểu Him Lam cả ngoại vi và cả tung thâm phải đi từ nhiều hướng trong nhiều thời gian khác nhau rồi tổng hợp tình hình từ nhiều nguồn mới có thể kết luận chính xác.

Địch dò biết ý định của ta nên tổ chức phản kích quyết liệt. Đêm 11 tháng 3, ta vừa đào xong tuyến xuất phát xung phong thì sáng ngày 12 địch huy động bộ binh có xe tăng yểm hộ và xe xúc đất ra lấp. Lính công binh địch cài mìn trên những đoạn hào ta đã đào rồi dùng xe ủi lấp lại. Lấp xong, chúng cho pháo bắn, cho máy bay ném bom từ tuyến xuất phát xung phong tới cửa rừng. Các tuyến xuất phát xung phong của các mũi đều bị lấp.

Tối 12 tháng 3, tranh thủ sương mù chúng ta lại đào. Anh em phải gỡ từng quả mìn, moi đất lẫn với cành cây trên từng đoạn hào. Địch dùng súng cối, pháo bắn chặn quyết liệt.

Ban ngày địch lấp hào, ban đêm chúng dùng đèn pha, pháo sáng cho những phân đội nhỏ tuần tiễu và đặt vọng gác ở ngoài hàng rào để ngăn chặn trinh sát ta thâm nhập. Trong hai đêm liền, các chiến sĩ ta không sao tiếp cận được chân rào. Nhiều chiến sĩ quân báo dũng cảm của chúng ta đã bị thương vong. Nhưng đến lúc này tình hình tung thâm Him Lam ra sao chúng ta vẫn chưa hiểu cụ thể. Không thể thông qua một kế hoạch tiến công khi chưa biết thật cụ thể kẻ thù. Chỉ huy đại đoàn giao nhiệm vụ cho trung đội trưởng quân báo phải tổ chức bộ đội thật gọn nhẹ, ngụy trang bằng đất. Lực lượng này sẽ tiến ra cửa rừng vào lúc địch đi lấy nước. Quan sát đường đến trận địa phục kích, phân công cho từng tay súng. Chọn độ mươi người có sức khỏe để bắt tù binh, cử hai người vật một tên. Hẹn ba ngày phải hoàn thành.

Đúng ba ngày sau, trung đội trưởng quân báo dẫn lên sở chỉ huy đại đội tên thiếu úy Giắc-cơ (trong trận này quân báo đại đoàn đã diệt hơn một tiểu đội địch, bắt ba lính lê dương).

Thế là căn cứ vào những điều ta nắm được đối chiếu với lời khai của Giắc-cơ ta thấy lời khai của tên này có thể tin cậy được.

17 giờ 10 phút ngày 13 tháng 3 năm 1954, pháo của ta rót trúng Him Lam. Trong lúc pháo ta bắn chế áp, mọi việc đều diễn ra thuận lợi. Nhưng khi địch ở Him Lam hồi tỉnh sau cơn choáng váng và pháo địch phản pháo thì tình huống của ta trở nên khó khăn. Trước hết là hào giao thông chỗ này vừa nông lại không có hào nhánh nên vận động trong hào rất khó khăn, hỏa lực tiểu đoàn không thể nào vượt qua đội hình xung kích lúc này đã đứng chật trong lòng hào để chuẩn bị xung phong. Trước tình hình đó, phân đội trợ chiến của Tiểu đoàn 11 đã nhảy khỏi hào, bất chấp hỏa lực địch, tiến gần sát hàng rào nơi quy định cho trận địa hỏa lực tiểu đoàn. Phải bảo đảm cho bộc phá mở cửa. Càng chần chừ thương vong càng cao.

17 giờ, Trung đoàn 141, các tổ hỏa lực đã lên sát đồn đang dùng hỏa lực bản thân kiềm chế lỗ châu mai, yểm hộ cho bộc phá mở cửa.

Trên hướng Trung đoàn 209 đã chiếm lĩnh xong trận địa, hỏa điểm 1 và 2 của địch đã bị sơn pháo ta tiêu diệt ngay từ phút đầu, hỏa điểm 3 và 4 vẫn bắn ra trên hướng cửa mở. Tổ ĐKZ của tiểu đoàn đã anh dũng tiêu diệt hai hỏa điểm này, 18 phút sau cửa mở thông, xung kích tràn lên đánh thẳng vào tung thâm.

Tiểu đội trưởng Trần Can chỉ huy tiểu đội nhanh chóng chiếm lô cốt đầu cầu. Chiếm xong, Trần Can chỉ huy một tổ đánh lô cốt số 6 rồi đánh lên lô cốt cố thủ. Súng máy địch quét sát đất. Trần Can cho một tổ dùng thủ pháo bí mật tiến sau lô cốt và dùng tiểu liên bắn nghi binh thu hút hỏa lực địch về phía mình. Địch bắn phía trước, không đề phòng phía sau. Sau vài loạt thủ pháo, khẩu trung liên trong lô cốt cố thủ im bặt. Chớp thời cơ, Trần Can nhảy lên khỏi giao thông hào cắm lá cờ “Quyết chiến Quyết thắng” của Bác Hồ trao tặng lên nóc lô cốt cố thủ của địch ở cứ điểm thứ ba. Đó là lá cờ đầu tiên quân ta cắm trên cứ điểm địch, tại chiến trường Điện Biên Phủ, trong chớp đạn lá cờ như giục giã bộ đội xông lên diệt địch. Trần Can chỉ huy tiểu đội đánh vào bên trong đánh các ngách trong lô cốt, bắt sống tên quan ba lê dương. Các tổ khác đánh chiếm các lô cốt xung quanh.

Quân ta đang phát triển thì vấp phải một ổ đề kháng. Địch lợi dụng các bao cát bắn dọc theo hào. Các chiến sĩ dùng luôn một tù binh bắt nó gọi hàng. Một số tên địch ra hàng. Nhưng trên hướng phát triển của đơn vị vẫn còn một số tên địch ngoan cố chống cự. Hỏa lực ở đây quét là là mặt đất, Trần Can biết đây là hỏa điểm lợi hại. Anh đề nghị đánh bằng thuốc nổ. Trung đội trưởng đồng ý giao nhiệm vụ cho một chiến sĩ ôm bộc phá xông lên, chiến sĩ này đang tiến thì bị trúng đạn gục xuống, Trần Can định cử người thay thế thì chiến sĩ ấy đã vùng dậy. Đợi lúc mũi súng của địch quét sang hướng khác, anh trườn lên rồi vọt tiến về hầm ngầm. Một lát sau bộc phá nổ, hầm ngầm bị diệt, tiểu đội Trần Can bắt 25 tên, thu nhiều vũ khí.

Him Lam, cụm cứ điểm mạnh nhất được phòng ngự hiện đại chưa từng có đã bị tiêu diệt.

Trong trận đánh điểm cao 507 khu trung tâm Mường Thanh, Trần Can đã dũng cảm dẫn đầu tiểu đội xông lên áp đảo địch, chiếm mỏm cột cờ. Địch bắn pháo dữ dội và cho quân đánh chiếm lại. Ta với địch giành giật nhau từng thước đất hết sức quyết liệt. Trần Can đã cùng đồng đội kiên quyết giữ vững và tiến công đánh bại bốn đợt phản kích của chúng. Địch lại xông lên trong đợt công kích thứ năm, chúng ném lựu đạn tới tấp trước khi xung phong.

Trần Can nhặt lựu đạn của chúng ném lại và chỉ huy anh em nhảy lên hào đánh giáp lá cà với địch. Cán bộ đại đội bị thương vong hết, bản thân anh cũng bị thương, nhưng Trần Can vẫn quyết tâm thay thế cán bộ đại đội chỉ huy đơn vị chiến đấu. Sáng hôm sau, Trần Can tập trung thương binh nhẹ lại động viên, chấn chỉnh tổ chức, củng cố lại trận địa. Địch lại phản kích dữ dội, hòng đánh bật quân ta giành lại cửa ngõ tiến vào Mường Thanh. Trần Can chỉ huy đơn vị đánh tan đợt phản kích của chúng, kiên quyết giữ vững trận địa tạo thế cho đơn vị tiến vào trung tâm Mường Thanh.

Trần Can đã hy sinh anh dũng khi chỉ huy bộ đội đánh vào chỉ huy sở của tướng Đờ-cát vào sáng ngày 7 tháng 5 năm 1954 - ngày kết thúc chiến dịch lịch sử Điện Biên Phủ.

LÊ HẢI TRIỀU. Đinh Văn Mẫu - Anh hùng nuôi quân / Lê Hải Triều // Sách Anh hùng Điện Biên Phủ. - H.: Quân đội nhân dân, 2004. - Tr. 41-45

Đinh Văn Mẫu sinh năm 1924 ở xã Phúc Khánh, huyện Yên Lập, tỉnh Phú Thọ. Từ khi còn ở bộ đội địa phương huyện, Đinh Văn Mẫu đã tích cực trong mọi công tác. Tuy hoạt động đơn lẻ nhưng anh rất dũng cảm, qua hai trận đánh Đinh Văn Mẫu diệt được 3 tên địch. Khi lui quân anh mang được 7 tử sĩ và 3 thương binh ra ngoài.

Được bổ sung vào bộ đội chủ lực, Đinh Văn Mẫu được phân công làm nuôi quân. Bảy năm liên tục ở vị trí công tác này, trải qua 8 chiến dịch, anh đã phát huy nhiều sáng kiến, vượt qua mọi khó khăn ác liệt, hết lòng phục vụ anh em, đảm bảo đơn vị luôn luôn được ăn uống tốt.

Trong trận Liễn Sơn, Đại đội 9 Tiểu đoàn 11 Trung đoàn 209 Đại đoàn 312, lúc này bộ phận đi đầu của tiểu đoàn địch đã chiếm được dãy cọ trên núi Liễn Sơn. Chúng dùng cối, đại liên từ trên cao ngăn chặn tiểu đoàn. Từ hai bên sườn đội hình, Tiểu đoàn 11 vận động thành hai hướng. Tiểu đội đi đầu của Tiểu đoàn 11 đã chiếm được nửa đồi cọ. Nửa bên kia là địch. Lợi dụng lúc ta đứng chân chưa vững, địch xung phong ồ ạt. Ta và địch tranh chấp, các chiến sĩ ta dùng lưỡi lê đánh gần. Nấp sau những gốc cọ anh em tỉa từng tên địch. Sự ngoan cường của tiểu đội đã tạo điều kiện cho các đơn vị phía sau tiến lên đánh chiếm đồi cọ. Địch chạy tán loạn vào rừng dưới chân đồi. Anh em ta đuổi địch. Đinh Văn Mẫu cùng đồng đội mang cơm ra trận địa nhưng không gặp bộ đội (đơn vị đang truy kích địch). Anh vẫn bình tĩnh quyết tâm động viên anh em hướng theo tiếng súng tìm cho bằng được đơn vị, bảo đảm cho bộ đội ăn no, tiếp tục chiến đấu.

Một lần, trong chiến dịch Tây Bắc năm 1952, tiểu đội của Đinh Văn Mẫu đem cơm cho bộ đội phải qua con suối nước lũ chảy xiết. Anh dũng cảm vượt qua trước, dùng dây rừng căng qua suối, buộc vào hai gốc cây to hai bên bờ để anh em vịn vào, đội cơm qua. Đinh Văn Mẫu còn đội cả ba gánh cơm của các đồng chí yếu vượt suối an toàn, nên đã bảo đảm cơm cho bộ đội ăn trước giờ nổ súng.

Mở màn chiến dịch Điện Biên Phủ là tiêu diệt căn cứ Him Lam. Đơn vị của Đinh Văn Mẫu đảm nhiệm trên hướng thứ yếu. Cả đêm 12 tháng 3, Đinh Văn Mẫu cùng tiểu đội phải thức thâu đêm nấu cơm cho bộ đội ăn, rồi cơm nắm mang theo, lại còn cả nước uống. Tất cả hoàn tất trong đêm.

Trong đợt hai chiến dịch Điện Biên Phủ, Đại đoàn 312 sử dụng Trung đoàn 204 tiến công tiêu diệt Đồi D1. Sau 2 giờ chiến đấu, các chiến sĩ Trung đoàn 209 đã tiêu diệt gọn sở chỉ huy tiểu đoàn 3 trung đoàn An-giê-ri. Thừa thắng, trung đoàn trưởng lệnh cho đơn vị tiến công sang Đồi D2. Trận đánh ở Đồi D2 kéo dài tới gần sáng, địch hốt hoảng bỏ chạy vào Mường Thanh. Sau khi tiêu diệt xong quân địch, để lại một bộ phận chiếm giữ trận địa không cho địch phản kích chiếm lại; đồng thời tổ chức nhanh những trận địa hỏa lực khống chế sát thương quân địch ở Mường Thanh.

Thực hiện mệnh lệnh của trên, Trung đoàn 209 đã xây dựng hệ thống trận địa vững chắc. Các chiến sĩ ta ngày đêm giữ vững từng tấc đất trên các điểm cao C1, D1, D2. Những trận địa phòng ngự được củng cố công sự, hào giao thông, hào chiến đấu, ụ súng, vị trí dự bị. Đài quan sát D1 trở thành cứ điểm phòng ngự mạnh của đại đoàn, có trận địa hỏa lực cho sơn pháo và súng cối với công sự kiên cố.

Công tác bảo đảm cơm nước cho các đơn vị ở trận địa phòng ngự cũng vô cùng vất vả gian nan. Mỗi ngày Đinh Văn Mẫu phải đi về hai, ba chuyến trên chặng đường 3km luôn luôn bị máy bay, pháo binh địch oanh tạc. Anh vẫn bảo đảm đủ cơm nước cho đơn vị mình và còn giúp thêm đơn vị bạn. Đường mang cơm từ D1 sang D2 phải vượt một đoạn hào nông giữa ban ngày, máy bay và pháo binh địch tập trung bắn dữ dội, nhiều anh em nuôi quân rất ngại khi mang cơm ra trận địa qua đoạn đường này. Đinh Văn Mẫu đã đề nghị cán bộ cho bọc cơm vào vải mưa, rồi bọc vải dù ngụy trang ra ngoài, khéo léo bò qua, kéo gói cơm theo. Anh em làm theo Đinh Văn Mẫu và đã an toàn vượt qua lửa đạn dày đặc của kẻ thù, đưa cơm đến tận tay từng chiến sĩ. Hành động dũng cảm sáng tạo của Đinh Văn Mẫu đã giải quyết được tư tưởng cho anh em nuôi quân và động viên bộ đội ngoài trận địa, góp phần vào chiến thắng chung của đơn vị.

Trong các chiến dịch, điều kiện phục vụ chiến đấu gặp nhiều khó khăn nhưng Đinh Văn Mẫu đã có nhiều cố gắng cải thiện bữa ăn cho đơn vị. Anh đã tích cực đi kiếm măng, đào củ mài, lấy hoa chuối rừng... bảo đảm thường xuyên bữa ăn của đơn vị có canh rau, góp phần bảo đảm tốt sức khoẻ của bộ đội, thực hiện khẩu hiệu “Ăn no đánh thắng”.

LÊ HẢI TRIỀU. Đặng Đức Song - Anh hùng phòng ngự Đồi Xanh / Lê Hải Triều // Sách Anh hùng Điện Biên Phủ. - H.: Quân đội nhân dân, 2004. - Tr. 46-56

Đặng Đức Song sinh năm 1934 ở xã Công Hòa, huyện Nam Thanh, tỉnh Hải Dương. Anh nhập ngũ tháng 4 năm 1952, là chiến sĩ liên lạc. Trong chiến dịch Điện Biên Phủ, Đặng Đức Song là tổ trưởng tổ súng máy Đại đội 51 Tiểu đoàn 439 Trung đoàn 98 Sư đoàn 316.

Mở đầu chiến dịch, Bộ chỉ huy chiến dịch lệnh cho Đại đoàn 316 đưa lực lượng phòng ngự, kiên quyết giữ vững thế bao vây uy hiếp tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ; đồng thời tích cực tranh thủ tiêu diệt một bộ phận sinh lực địch. Đại đoàn điều Tiểu đoàn 439 Trung đoàn 98 ra chốt giữ Đồi Xanh, gồm các điểm cao 781, 754, 518, 502 nối tiếp nhau tạo nên một bức thành ngăn cách cánh đồng Mường Thanh với dãy Tà Lèng, nhằm bảo đảm cho công tác làm đường kéo pháo xây dựng trận địa pháo binh bắn vào Mường Thanh và tạo bàn đạp cho đại đoàn triển khai lực lượng xây dựng trận địa bao vây tiến công ở phía Đông tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ. Gọi là Đồi Xanh vì giữa vùng đồi núi ở bản Tà Lèng ngày đêm bị bom địch cày xới, Đồi Xanh vẫn xanh màu xanh của rừng.

Trung đội của Đặng Đức Song được giao nhiệm vụ phòng ngự Đồi Xanh, đánh trả các đợt tấn công của địch. Điều khó nhất đối với trung đội của anh là Đồi Xanh hiểm trở nên di chuyển rất khó khăn.

Hôm ấy trời còn sương mù, một tiểu đoàn của địch bí mật tiến ra Khe Chít. Vừa tan sương, ba xe tăng địch lao ra phối hợp cùng pháo binh, không quân bắn phá dữ dội, yểm hộ cho bộ binh xung phong lên Đồi Cháy, một ngọn đồi thoai thoải ở phía trước Đồi Xanh. Tiểu đội tiền duyên của ta bí mật chờ địch đến cách 30 mét mới bất thần nổ súng đồng loạt, diệt tại chỗ 10 tên. Tiếp đó, anh em liên tiếp đánh lui hai đợt xung phong của địch, ghìm chân chúng hơn một giờ rồi bí mật rút về trận địa chính. Địch chiếm Đồi Xanh làm bàn đạp tổ chức tiến công lên Đồi Xanh; đồng thời cho một mũi bí mật luồn rừng đánh vào trận địa sơn pháo của ta. Các chiến sĩ pháo binh cảnh giác theo dõi chúng, phối hợp với lực lượng bảo vệ đánh bật quân địch, bảo vệ trận địa pháo an toàn. Các đợt xung phong sau đó của địch lên Đồi Xanh đều bị bẻ gãy. Tính chung trong ngày hôm đó, quân ta đánh bại 6 đợt tấn công của địch, diệt hơn 60 tên, bảo vệ vững chắc trận địa.

Biết địch chưa từ bỏ âm mưu tiến đánh Đồi Xanh và những trận tấn công sắp tới của chúng sẽ còn quyết liệt hơn, ngay tối hôm ấy tiểu đoàn tổ chức rút kinh nghiệm. Tiểu đoàn đánh giá bộ đội chiến đấu dũng cảm, cán bộ chỉ huy linh hoạt, các phân đội hiệp đồng chặt chẽ, nhưng công sự chưa thật chắc chắn, trận địa chưa bố trí thành thế liên hoàn, xuất kích chưa mạnh, cần động viên anh em gấp rút tăng cường củng cố trận địa, giữ vững quyết tâm, sẵn sàng đánh bại lực lượng địch lớn hơn nữa. Về mặt chiến thuật, không nên dàn mỏng lực lượng, chỉ để một bộ phận phòng ngự phía trước, kết hợp với lực lượng cơ động mạnh sẵn sàng phản kích. Phải đánh địch tiến công trước mặt; đồng thời tỉnh táo đề phòng chúng bí mật luồn đánh sau lưng.

Nhờ kịp thời rút kinh nghiệm, động viên bộ đội phát huy ưu điểm, khắc phục khuyết điểm nên tiểu đoàn và các đơn vị phối thuộc đã liên tiếp đánh bại ba lần tiến công của địch, tiêu diệt và làm bị thương hàng trăm tên, bắn hỏng 1 xe tăng, bắn rơi 1 máy bay. Sau mỗi trận lại tổ chức rút kinh nghiệm. Thế trận phòng ngự Đồi Xanh càng được củng cố vững chắc hơn.

Hôm sau, vào 9 giờ sáng, Đồi Xanh vẫn đang còn chìm trong sương mù dày đặc, không gian im ắng, bỗng rung lên bởi từng đợt, từng đợt pháo địch dội tới.

Loạt pháo vừa dứt, dưới sự chỉ huy của trung đội trưởng cả trung đội vào ngay vị trí chiến đấu chờ địch.

Tổ súng máy của Đặng Đức Song có ba người: Song, Doanh và Trương. Doanh và Trương vừa mới được điều về trung đội 2 ngày nên còn bỡ ngỡ. Song vừa ngắm bắn vừa hướng dẫn cho Trương và Doanh trong lúc tiếp đạn. Tổ súng máy của Song có nhiệm vụ chặn đánh địch ở phía bên trái Đồi Xanh.

Địch lên khoảng 1 đại đội, chúng thận trọng tiến lên theo đội hình hàng ngang. Tổ súng máy của Đặng Đức Song bình tĩnh chờ đợi. Tưởng đối phương đã bị vùi lấp sau những đợt bắn pháo dữ dội yểm trợ nên địch có vẻ tự tin hơn. Địch đã lầm. Sau tiếng hô của trung đội trưởng, cả trung đội nhất loạt ném lựu đạn và bắn xối xả vào đội hình của chúng ở một cự ly rất gần. Bị đánh bất ngờ địch không kịp trở tay, nhiều tên chết ngay tại chỗ, số còn lại hốt hoảng bỏ chạy xuống chân đồi bị vướng mìn của ta nên nhiều tên đã bỏ xác.

Đợt tấn công lần thứ nhất của địch thất bại hoàn toàn.

Cả trung đội ai cũng mừng vì chiến thắng quá mau lẹ mà không tốn nhiều công sức, niềm vui hiện lên trên từng khuôn mặt lấm lem đất và mồ hôi. Chiến thắng như tiếp thêm cho Doanh, Trương và Song một quyết tâm chiến đấu mới.

Mặt trời càng lên cao nắng càng gay gắt, ai nấy mồ hôi toát ra như tắm, cổ họng khô bỏng. Song vừa ngửa cổ tu một ngụm nước trong bi đông, định ngả lưng nghỉ một chút thì căn hầm bỗng rung chuyển vì đạn pháo của địch, cả Đồi Xanh lại rung lên lần nữa, cây cối bị pháo tiện ngang thân đổ ầm ầm như bị động rừng. Khói đạn mù mịt khắp đồi, mùi thuốc đạn khét lẹt lọt vào cổ họng mọi người đắng ngắt, cả Đồi Xanh như rung chuyển vì tiếng đạn nổ chói tai. Song hầu như điếc đặc không còn nghe thấy gì nữa.

Bốn chiếc bê-vanh-xít lượn lờ trên đầu, soi mói, dò tìm mục tiêu, thấy nghi ngờ là bắn đạn khói chỉ điểm cho pháo. Pháo vẫn giội đến dữ dội, hầm của Song bị sập.

Nghe tiếng kêu nhỏ từ hầm Trương, Song cố gạt đất nhoi lên bò sang thì Doanh đã ở đó rồi. Hầm Trương bị sập, anh bị thương nặng, máu ra nhiều. Đặng Đức Song và Doanh băng bó vết thương cho Trương, rồi sửa lại hầm, củng cố ngụy trang và chờ địch tới.

Địch lại kéo lên khoảng 1 trung đội. Lần này chúng dồn hết sang phía bên trái, nơi có tổ súng máy của Song. Lúc này Song và Doanh chỉ còn hơn 100 viên đạn và ba quả lựu đạn. Nhìn thấy địch kéo lên đông quá Doanh có phần hoang mang, anh bảo: “Liệu có đánh được không hả Song? Hay là...”. Song ngắt ngang lời ngay: “Không được đâu Doanh. Trong trường hợp này phải chiến đấu đến cùng thôi”.

Doanh hiểu ý Song...

Pháo địch yểm trợ vẫn giội đến dữ dội. Một cành cây to từ đâu rơi ngay xuống cửa hầm làm khẩu trung liên bật lên rồi văng xuống vực.

Trước tình huống vô cùng bất ngờ này, Song bảo Doanh quan sát địch để anh bò xuống lấy súng.

Địch đã ở gần tổ chiến đấu của Đặng Đức Song, nên chúng không nã pháo nữa. Song nhanh nhẹn tụt xuống và vội vàng nắm lấy nòng súng định kéo lên. Người anh giật rung lên vì bị bỏng. Nhưng tồi tệ hơn súng càng rơi xuống và vướng vào một tảng đá. Song bò tiếp, lần này anh thận trọng hơn cầm chắc lấy báng súng. Lên đến hầm, Song và Doanh thở phào nhẹ nhõm. Song xòe bàn tay ra để Doanh băng qua loa rồi nhanh chóng chuẩn bị chiến đấu.

Địch kéo lên chia làm hai tốp, tốp đầu gần 20 tên đã cách tổ súng máy của Song vài chục thước. Doanh lắp đạn vào súng và kéo khóa nòng, nhưng không thể kéo được, cát và đất đã vào hết cả nòng súng. Không còn cách nào khác, Song liền cởi áo, tháo súng ra lau, thực hành động tác mà anh đã đoạt giải nhất trong cuộc thi hội thao ở lớp huấn luyện.

Xong xuôi, Song kê súng ngắm thử...

Địch đã lên rất gần, Song nhìn thấy tên chỉ huy đội mũ lưỡi trai, tay cầm can, nó vừa đi vừa hung hăng giục lính. Thỉnh thoảng nó lại vụt can vào một tên lính nào đó. Tên lính đeo điện đài không rời tên chỉ huy một bước. Kinh nghiệm chiến đấu và học tập mách bảo Song rằng nếu diệt tên chỉ huy và tên mang điện đài thì đội hình quân địch sẽ như rắn mất đầu, tan vỡ nhanh. Thời cơ đã đến với Song, khi tên chỉ huy cúi xuống nói gì đó với tên lính mang điện đài anh ngắm vào vai nó bóp cò. Đạn nổ, tên chỉ huy loạng choạng rồi ngã gục. Song ngắm tiếp phát thứ hai, trúng ngay tên lính mang điện đài. Hai tên ngã chồng lên nhau. Doanh khoái quá kêu lên: “Sao anh bắn giỏi thế, thằng con đè lên thằng bố kìa anh Song”.

Bị đánh bất ngờ, địch hoảng loạn bắn trả điên cuồng rồi tháo chạy. Đạn còn ít, nên Song bắn rất thận trọng. Bắn viên nào chắc ăn viên đó. Trận địa mịt mù khói đạn nhưng Doanh đã phát hiện ra ba tên địch đang liều mạng xông lên. Song quay súng, một viên đạn đã kết liễu tên địch ngoan cố, còn hai tên nằm bẹp dưới hào không dám ngóc đầu lên.

Song và Doanh chỉ còn lại một quả lựu đạn. Bọn địch rút xuống đồi thấy ta im tiếng súng chúng lại quay lên. Song hô to: “Xung phong!”. Doanh lập tức rút chốt lựu đạn ném. Lựu đạn nổ, chúng hoảng sợ không dám kéo lên nữa.

Còn hai tên địch dưới hào, nhưng Song và Doanh không còn vũ khí gì trong tay. Nhưng chiến thắng đã mang lại cho họ sự bình tĩnh đến kỳ lạ. Song bảo Doanh: “Sang đường hầm bên trái xem còn ai không?”.

Một phút trôi qua, Song mừng rỡ thấy Doanh về cùng với Doan và mang theo hai quả lựu đạn. Song và Doanh chưa biết tính thế nào thì Doan nhảy lên khỏi hầm bò về phía giao thông hào nơi có hai tên lính Pháp. Các anh lo lắng dõi theo. Lựu đạn nổ, hai tên lính Pháp bị diệt. Song và Doanh chạy lại sung sướng ôm lấy Doan trong niềm vui bất tận.

Lúc này đã 5 giờ chiều, địch không dám tiến công lên nữa, các anh chuẩn bị tìm về trung đội.

Trương đã ngất lịm dưới hầm, đất đá phủ hết lên người anh, đôi mắt nhắm nghiền. Các anh gạt đất bế Trương lên mặt hầm. Còn ít nước cuối cùng trong bi đông của Doan, Song đổ vào miệng Trương. Trương tỉnh lại dần.

Lúc này cả Song, Doanh và Doan đều thấm mệt. Cả bốn người đói lả và khát khô họng. Họ thay nhau cõng Trương về trung đội.

Anh em trong trung đội đón họ trong sự vui mừng khôn xiết. Trung đội phó nắm chặt tay từng người - những người từ cõi chết trở về.

Trận chiến đấu hôm ấy, tổ súng máy của Song thắng lớn, hàng chục tên địch bỏ xác lại Đồi Xanh. Nhưng đơn vị cũng bị thiệt hại, ba đồng chí hy sinh, bảy người bị thương nặng phải chuyển về tuyến sau, trong đó có đồng chí trung đội trưởng.

Ngay đêm đó, trung đội của Song được lệnh rút về đại đội, một trung đội khác lên thay. Vài ngày sau đó, trung đội được tặng Huân chương ngay tại chiến trường. Song, Doanh và Doan cũng được tặng Huân chương và được tặng danh hiệu “Hai tư dũng Sĩ Đồi Xanh”. Buổi trao Huân chương tại chiến hào thật cảm động. Trung đoàn trưởng Vũ Lăng gắn Huân chương cho Song, rồi ôm lấy anh khen ngợi: Song đánh giỏi lắm! Song xúc động đến lặng người.

Gần một tháng sau, khi ra viện, anh không về đơn vị cũ như cả trung đội mong đợi, mà được điều về một trung đội mũi nhọn. Doanh lên thay Song làm tổ trưởng tổ súng máy.

Trong trận đánh Đồi Mâm Xôi ngày 3 tháng 5 năm 1954, trên đoạn đường hào gần 2km, Đặng Đức Song đã ba ngày lội dưới đường hào bùn nước ngập đến bụng, đưa đại đội trưởng qua lại đoạn đường nguy hiểm này để nghiên cứu mở cửa đột phá. Cánh vu hồi tiến theo con hào đào từ C1 qua Đồi Mâm Xôi để đột phá C2. 9 giờ 30 phút, quân ta làm chủ Đồi C2. Sau đại đội thuộc tiểu đoàn dù lê dương số 2 là tiểu đoàn dù ngụy số 5 gồm 600 tên bị tiêu diệt và bắt sống.

Đúng 17 giờ 30 phút, lá cờ “Quyết chiến Quyết thắng” của Bác Hồ trao tặng đã phấp phới tung bay trên nóc hầm của Đờ-cát, kết liễu số phận của tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ. Bộ đội, dân công nhảy lên hò reo vang dậy khắp một vùng thung lũng rộng lớn. Nhiều đồng chí trào nước mắt vì sung sướng.

LÊ HẢI TRIỀU. Phùng Văn Khầu - Anh hùng sơn pháo 75 ly / Lê Hải Triều // Sách Anh hùng Điện Biên Phủ. - H.: Quân đội nhân dân, 2004. - Tr. 68-75

            Phùng Văn Khầu sinh năm 1930, quê ở xã Đức Hùng, huyện Trùng Khánh, tỉnh Cao Bằng. Bố mẹ Phùng Văn Khầu mất sớm, lên 8 tuổi Khầu đã phải đi ở để kiếm sống. Cách mạng tháng Tám thành công, cuộc đời đi ở của anh được giải phóng. Năm 1946, Phùng Văn Khầu tham gia hoạt động ở địa phương, khi làm liên lạc, khi làm chiến sĩ công an, nhiệm vụ nào anh cũng hoàn thành xuất sắc.

            Tháng 12 năm 1949, Phùng Văn Khầu xung phong vào bộ đội. Từ đó đến năm 1954, anh tham gia 7 chiến dịch lớn, đánh hàng chục trận. Chiến dịch nào, trận đánh nào Phùng Văn Khầu cũng tỏ ra dũng cảm, mưu trí, khênh pháo vận động giỏi, chuyển đạn, thao tác pháo nhanh.

            Trong chiến dịch Điện Biên Phủ, đợt tiến công thứ hai là đợt quan trọng nhất của chiến dịch. Bấy lâu làm nhiệm vụ phục kích địch ở vùng Đồn Vàng, Phú Thọ cán bộ chiến sĩ Đại đội 755 thuộc Trung đoàn 675 vẫn rạo rực, mong ngóng. Nhận định của trên qua đợt một của chiến dịch, quân địch không còn khả năng đánh sâu vào hậu phương ta, nên quyết định cho Đại đội 755 ngược lên Điện Biên Phủ. Thật khó nói hết niềm vui của anh em lúc đó. Dọc đường anh em nói với nhau: “Đã đến sau các đơn vị khác, chúng ta càng phải cố gắng lập công lớn”.

            Ngày 28 tháng 3 năm 1954, Đại đội 755 từ Phú Thọ tập kết tại điểm cao phía Bắc Him Lam. Ngay đêm đó, đại đội vào xây dựng trận địa trên Đồi Không Tên vừa bị máy bay địch ném bom cháy trụi. Từ đây đến đồi E1 chỉ 200 mét, do đó khi đào hầm anh em phải lặng lẽ moi từng nắm đất.

            Đang đào, một loạt pháo địch nổ sát khẩu đội Phùng Văn Khầu. Một pháo thủ bị ngất. Ba lô để trên miệng hố bị mảnh pháo xé tướp. Sáng hôm sau, anh em lấy tro rắc lên lớp đất mới đào để ngụy trang giữ nguyên màu xám của quả đồi đã cháy trụi, đợi đến tối lại đào tiếp.

            Số người của khẩu đội còn ít quá, anh em khênh vác pháo quần quật nhiều chuyến trong suốt buổi sáng ngày 30 tháng 3 mới đưa hết pháo đạn đến phía sau trận địa. Từ đây tiến vào hầm phải vượt qua một sườn đồi đối diện với Đồi E1 nên chỉ hơi nhô đầu lên là lập tức bị địch bắn tới như mưa.

            Chiều hôm đó, khẩu đội trưởng Phùng Văn Khầu bàn với anh em buộc dây kéo từng bộ phận của pháo. Khi kéo đến càng pháo, bốn pháo thủ nằm ở bốn góc để càng pháo lên lưng rồi nhịp nhàng bò lên. Cuối cùng còn hai bánh pháo, Phùng Văn Khầu vác chạy vút lên như một mũi tên, rồi nhảy vào hầm.

            Bọn địch bên Đồi E1 trông thấy hô hoán ầm ĩ. Nhưng muộn rồi. Chẳng còn mấy chốc chúng sẽ bị trừng trị.

            Chưa bao giờ quân ta được đánh một loạt trận công kiên lớn như lần này, cùng một lúc tiến công sáu cứ điểm phía Đông khu trung tâm: A1, C1, C2, D1, D2 và E1 chế áp, phá hủy một phần pháo binh địch, tiêu hao một bộ phận lực lượng cơ động của địch trong chiều sâu khu trung tâm. Dãy cứ điểm phía Đông này là khu vực phòng ngự then chốt của địch, mất nó thì Điện Biên Phủ nhất định sẽ bị tiêu diệt.

            Pháo ta không nhiều, đạn chỉ có hạn nhưng với cách đánh thích hợp, biết tập trung hỏa lực vào những nơi chủ yếu, với kỹ thuật bắn chính xác pháo binh ta đã chiếm được lòng tin yêu của bộ binh.

            17 giờ ngày 30 tháng 3 năm 1954, pháo binh ta bất thần bắn vào sở chỉ huy của Đờ-cát, các cứ điểm A1, C1, D1, E1, các trận địa pháo và quân cơ động của địch. Trong 6 phút đầu tiên địch hoàn toàn bất lực, pháo binh địch bị tê liệt không hoạt động được. Từ trên Đồi Không Tên, 2 khẩu sơn pháo 75 ly của Phùng Văn Khầu bắn 22 phát đạn, tiêu diệt 5 đại liên và 3 lô cốt của địch ở đồi E1. Bộ binh chỉ mục tiêu nào, sơn pháo đều bắn trúng. Các đồng chí bộ binh reo lên: “Pháo binh bắn giỏi quá!”. Tiểu đoàn 3 trung đoàn An-giê-ri của địch ở cứ điểm E1 bị tiêu diệt sau 1 giờ 30 phút chống cự.

            Thực hiện mệnh lệnh của Bộ chỉ huy chiến dịch, Đại đoàn 312 đã xây dựng hệ thống trận địa ngày càng tiến sát vị trí trung tâm địch. Những trận địa phòng ngự được củng cố công sự, hào giao thông, hào chiến đấu, ụ súng, vị trí dự bị. Các đơn vị sơn pháo của Trung đoàn 675 đi liền đội hình với bộ binh được điều lên phía trước. Đại đội 755 lên Đồi E. Phùng Văn Khầu đã cùng anh em khẩn trương đào hầm cho pháo, hầm cho pháo thủ với công sự kiên cố.

            Quyết giữ vững từng tấc đất trên những điểm cao ta đã làm chủ! Đó là ý chí, đồng thời là nhiệm vụ nặng nề của quân ta trong những ngày tháng tư này.

            Mỹ vừa tăng viện nhiều máy bay chiến đấu và vận tải để tiếp sức cho quân Pháp cố thủ Điện Biên Phủ. Na-va đã vạch xong một kế hoạch ném bom dữ dội và liên tục. Máy bay oanh tạc của địch ráo riết bắn phá, trút bom na-pan đốt cháy núi đồi, dùng bom hạng nặng trút xuống các vị trí nghi là trận địa pháo binh ta. Có ngày chúng đã dùng đến 250 lần chiếc máy bay oanh tạc và khu trục. Cuộc chiến đấu của Đại đội 755 Phùng Văn Khầu ở Đồi E1 diễn ra vô cùng khốc liệt. Bom địch đã phá hỏng 1 trong 3 khẩu sơn pháo của Đại đội 755.

            Để khắc phục những sơ suất đã gây cho ta ít nhiều tổn thất, nhiều vấn đề kỹ thuật, chiến thuật đã được anh em đặt ra và giải quyết.

            Sáng ngày 23 tháng 4, đã khá muộn, 6 máy bay “cổ ngỗng” mới xuất hiện và lao xuống đánh phá cứ điểm 206 mà ta vừa làm chủ. Tiếp đó, nhiều đợt máy bay B.26 đến giội bom vào khu vực chiến hào của bộ binh ta ở phía Tây. Phối hợp với hoạt động của không quân, bộ binh địch đánh lên điểm cao Mâm Xôi và C1 ở phía Đông. Pháo địch ở gần hầm chỉ huy của Đờ-cát kéo ra khỏi công sự, phơi trần trên mặt đất để chuẩn bị chi viện cho bọn đi phản kích.

            Từ trên Đồi E1, Phùng Văn Khầu lập tức cho quay nòng pháo về hướng trận địa nơi 4 khẩu 105 ly của địch vừa xuất hiện. Khẩu đội bạn bên cạnh cũng nhịp nhàng nổ súng, 5 phút sau khi đạn của ta bắn đi, toàn bộ pháo địch ở Mường Thanh và Hồng Cúm đã dội về tới tấp. Cả Đồi E1 chìm trong bụi khói. Trận đấu pháo một chọi mười giữa ta với địch bắt đầu diễn ra quyết liệt. Chính trị viên đại đội nhảy vào hầm khẩu đội 1:

            - Khầu ơi, Khầu, khẩu đội 2 bị địch bắn trúng rồi. Các đồng chí hãy kiên quyết đánh địch trả thù cho anh em khẩu đội 2.

            Khầu nghe xong lặng người đi. Bỗng anh quát lên giọng khản đặc:

            - Còn một khẩu súng cũng đánh!

            Một pháo thủ một tay lau nước mắt, một tay chém mạnh vào không khí:

            - Một là chúng ta chiến thắng địch hôm nay. Hai là chúng ta hy sinh tất cả trên đồi này!

            - Vào vị trí - Phùng Văn Khầu dõng dạc hô và tự mình nhảy vào vị trí ngắm. Nước mắt anh tràn ra nhòe cả kính ngắm.

            Một lát sau, Phùng Văn Khầu đưa được đường tim chữ thập vào mục tiêu. Anh bắt đầu giật cò. Khẩu pháo chồm lên, anh lại tiếp tục bắn.

            Chỉ trong vòng 10 phút, khẩu đội sơn pháo Phùng Văn Khầu lần lượt diệt gọn cả 4 khẩu pháo 105 ly của địch.

            Mặc dù pháo binh địch bắn rất ác liệt, có lúc tiểu đội chỉ còn hai người, bản thân Phùng Văn Khầu nhiều lần bị sức ép và bị thương, nhưng anh vẫn luôn luôn ngoan cường bám trận địa, tích cực tiến công địch, chi viện đắc lực cho bộ binh chiến đấu ở điểm cao 203, 207, 507 và Đồi C.

            Tính tổng cộng trong thời gian phòng ngự ở Đồi E1, với một khẩu sơn pháo 75 ly, Phùng Văn Khầu đã bắn phá hủy 5 khẩu pháo 105 ly, 6 đại liên, 10 lô cốt, 1 kho đạn, diệt hàng trăm tên địch.

            Với ý chí quyết thắng và tác phong chiến đấu ngoan cường, mưu trí, khẩu đội Phùng Văn Khầu đã đứng vững suốt 36 ngày đêm trên những trận địa “soi gương”, góp phần viết lên những trang anh hùng ca của pháo binh Quân đội nhân dân Việt Nam anh hùng. 

 

 

MỤC  LỤC

 

                                   Trang

Lời nói đầu                                                                                 3

PHẦN I                                                     

CHIẾN THẮNG ĐIỆN BIÊN PHỦ - NHỮNG BẢN HÙNG CA

- Công tác quân báo trong chiến dịch Điện Biên Phủ                                 6

- Đòn chiến lược thứ năm                                                               15

- Mở cửa đồn độc lập                                                                      22

- Cứ điểm thứ ba                                                                             35

- Đường vào sở chỉ huy Đờ Cát                                                    49

- Chiều chiến thắng diệu kỳ                                                            60                                                    

PHẦN II

MỘT SỐ BÀI VIẾT CỦA CHỦ TỊCH HỒ CHÍ MINH VÀ CÁC ĐỒNG CHÍ LÃNH ĐẠO ĐẢNG, NHÀ NƯỚC, QUÂN ĐỘI VỀ CHIẾN THẮNG ĐIỆN BIÊN PHỦ

- Nhân ngày kỷ niệm chiến thắng Điện Biên Phủ                           70

- Mẩu chuyện về Điện Biên Phủ                                                     75

- Điện Biên Phủ                                                                               82

- Nêu cao tinh thần Điện Biên Phủ anh hùng…                              84

- Chiến thắng Điện Biên Phủ là thắng lợi vĩ đại…                         86

- Chiến thắng Điện Biên Phủ…                                                      100

- Điện Biên Phủ, cây cột mốc bằng vàng                                        103

- Yếu tố tinh thần của Quân đội và nhân dân ta…                         112

- Vận dụng và phát triển những bài học kinh nghiệm…                124                                                                                                                                                                                 

 PHẦN III

MỘT SỐ ANH HÙNG TIÊU BIỂU ĐƯỢC TUYÊN DƯƠNG TRONG CHIẾN DỊCH ĐIỆN BIÊN PHỦ

- Phan Đình Giót - Anh hùng lấp lỗ Châu Mai                              134

- Tô Vĩnh Diện - Anh hùng chèn pháo                                          140

- Trần Can - Anh hùng cắm cờ căn cứ Him Lam                           149

- Đinh Văn Mẫu - Anh hùng nuôi quân                                         155

- Đặng Đức Song - Anh hùng phòng ngự Đồi Xanh                     157

- Phùng Văn Khầu - Anh hùng sơn pháo 75 ly                             164

 

                       

 

 

 

 

 

 

Chịu trách nhiệm xuất bản

NGUYỄN THỊ THỦY

Giám đốc Thư viện tỉnh Gia Lai

 

 

 

 

 

 

 

 

Ban biên tập

TRẦN TIẾN SỸ

NGUYỄN THỊ THANH HOA

PHẠM THỊ THU THẢO

TRẦN THỊ HUYỀN

 

 

 

 

 

 

 

 

 

    

  
In 600 cuốn, khổ 14,5 x 20,5cm tại Công ty Cổ phần Trường Xuân, 74 Lê Lợi, TP. Pleiku, tỉnh Gia Lai. Giấy phép xuất bản số:   /GP-STTTT do Sở Thông tin và Truyền thông Gia Lai cấp ngày   tháng  năm 2024. In xong và nộp lưu chiểu tháng 4 năm 2024.

 

 

 
Các tin khác
NHẬN XÉT BẠN ĐỌC
(Chưa có ý kiến nào được viết)
Đăng nhập
Tên truy cập:
Mật khẩu:
Thành tích khen thưởng
Sách mới Bổ sung
Chọn trang
1. Cánh diều hình nốt nhạc / Niê Thanh Mai,Hau Phan .- 2024 Chi tiết
2. Một vụ phá án / Quyên Gavoye .- 2024 Chi tiết
3. Nết Na và Cù Nhây / Yên Khương .- 2024 Chi tiết
4. Cuộc phiêu lưu của Còng gió vân xanh / Lê Đức Dương .- 2024 Chi tiết
5. Bạn có thích làm mèo? / Đ. T. Hoài Thư .- 2024 Chi tiết
Tài liệu số hoá mới
Chọn trang
1. Phát huy giá trị tinh thần, tình cảm của Chủ tịch Hồ Chí Minh với đồng bào các dân tộc thiểu số vùng Tây Nguyên, góp phần giữ vững sự ổn định, hòa bình, tạo động lực trong phát triển / Phạm Xuân Hoàng .-  Chi tiết
2. Phát triển giáo dục đào tạo vùng Tây Nguyên những thuận lợi, thách thức và giải pháp đặt ra / Lương Hữu Nam .-  Chi tiết
3. Phát triển kinh tế - xã hội và bảo đảm quốc phòng - an ninh vùng Tây Nguyên trong bối cảnh mới / Phạm Xuân Hoàng .-  Chi tiết
4. Phát triển nông nghiệp công nghệ cao ở Tây Nguyên hiện nay và một số giải pháp / Trương Thị Hạnh .-  Chi tiết
5. Phong trào chống phá ấp chiến lược ở Tây Nguyên những năm 1961-1963 / Cao Thị Thu Hiền .-  Chi tiết
Tài liệu của Thư viện
1. Sách lẻ: 79673 
2. Bài trích: 17657 
3. Sách tập: 9517 
4. Sách bộ: 2361 
5. Ấn phẩm định kỳ: 1199 
6. Đĩa CD-ROM: 832 
SÁCH HUYỆN
Tặng sách cho Việt Kiều ở Lào & CPC
Cơ quan chủ quản: SỞ VĂN HÓA, THỂ THAO VÀ DU LỊCH GIA LAI
Bản quyền: THƯ VIỆN TỈNH GIA LAI
30 - Phạm Văn Đồng - TP. Pleiku - Tỉnh Gia Lai. Điện thoại: (059).6250708.
 Website: http://www.thuvientinhgialai.vn ; E-mail:  thuvientinh_gli@vnn.vn ; gialaitv@yahoo.com
Chịu trách nhiệm chính: Bà Nguyễn Thị Thủy - Giám đốc Thư viện tỉnh Gia Lai

Giấy phép do Sở TT&TT Gia Lai cấp số: 05/GPTTĐT-STTTT, ngày 13 tháng 6 năm 2014.