THƯ MỤC ĐỊA CHÍ GIA LAI
Mô tả Số lần tải Tải về
TM Địa chí GL T.3 138
TM Địa chí GL T.1 171
TM Địa chí GL T.2 102
Ý kiến - Góp ý
      

Tra cứu từ điển
 
Liên kết website
Giới thiệu sách online
Văn bản pháp quy
Nhạc phố núi
Ảnh Tây Nguyên
Thống kê truy cập
Tổng số truy cập: 2,664,882
Hôm nay: 764
Đang xem: 98
Thư mục toàn văn Chuyên đề: “Kỷ niệm 50 năm thực hiện Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh (1969-2019)” (05/09/2019)

 Lêi nãi ®Çu

 

 

Cách đây 50 năm, vị lãnh tụ thiên tài, người con ưu tú của dân tộc Việt Nam đã đi xa. Người đã để lại cho nhân dân ta, Tổ quốc ta một bản Di chúc vô cùng giá trị. Nó là sản phẩm của sự kết tinh những tư tưởng, đạo đức và lối sống tốt đẹp nhất của Người. Bản Di chúc với những giá trị tuyệt vời đã để lại cho đất nước và con người Việt Nam, cho Đảng Cộng sản Việt Nam những bài học quý báu và trở thành cương lĩnh hành động của toàn Đảng, toàn quân và toàn dân ta. Những lời căn dặn mà Người để lại qua Di chúc thể hiện rõ nét trách nhiệm, ý chí, niềm tin, tình cảm và tâm nguyện lớn lao mà Người muốn gửi gắm lại cho tất cả chúng ta.
Nhân kỷ niệm 50 năm thực hiện Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh kính yêu (1969-2019) , Thư viện tỉnh Gia Lai biên soạn và phát hành Thư mục toàn văn chuyên đề: “Kỷ niệm 50 năm thực hiện Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh (1969-2019)”.
            Các bài viết đưa vào tập Thư mục toàn văn chuyên đề: “Kỷ niệm 50 năm thực hiện Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh (1969-2019)” được chúng tôi chọn lọc từ các sách, báo, tạp chí lưu trữ trong Thư viện tỉnh Gia Lai. Trên mỗi bài trích, chúng tôi đều có mô tả thư mục về hình thức của tài liệu.
Bạn đọc muốn tìm hiểu thêm từ tài liệu gốc, xin vui lòng liên hệ với Thư viện chúng tôi để được phục vụ. Bạn đọc cũng có thể truy cập  vào trang Website: “thuvientinhgialai.vn” để đọc tài liệu về “Kỷ niệm 50 năm thực hiện Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh (1969-2019)”, trong mục “Thư mục chuyên đề” .
Trong quá trình biên soạn, chúng tôi đã hết sức cố gắng, nhưng chắc chắn không tránh được sai sót xảy ra. Thư viện tỉnh Gia Lai mong nhận được ý kiến của bạn đọc cho “Thư mục toàn văn chuyên đề” ngày càng có chất lượng, phục vụ tốt nhu cầu đọc của bạn đọc.
                                         THƯ VIỆN TỈNH GIA LAI  

 

 
VIỆT NAM DÂN CHỦ CỘNG HÒA
Độc lập, Tự do, Hạnh phúc
 
(Tuyệt đối bí mật)                              (Nhân dịp mừng 75 tuổi)
 
Người làm thơ rất nổi tiếng, ở Trung Quốc đời nhà Đường là cụ Đỗ Phủ có câu thơ rằng “Nhân sinh thất thập cổ lai hy”. Nghĩa là: Người thọ bảy mươi, xưa nay hiếm.
Nǎm nay, tôi đã 75 tuổi. Tinh thần vẫn sáng suốt, thân thể vẫn mạnh khỏe. Tuy vậy, tôi cũng đã là lớp người “xưa nay hiếm”.
Ai đoán biết tôi sẽ sống và phục vụ Tổ quốc, phục vụ cách mạng mấy năm mấy tháng nữa?
Vì vậy, tôi để lại mấy lời này, chỉ nói tóm tắt vài việc thôi. Phòng khi tôi sẽ đi gặp cụ Các Mác, cụ Lênin và các vị cách mạng đàn anh khác, thì đồng bào cả nước và đồng chí trong Đảng khỏi cảm thấy đột ngột.
Trước hết nói về Đảng - Nhờ đoàn kết chặt chẽ, một lòng một dạ phục vụ giai cấp, phục vụ nhân dân, phục vụ Tổ quốc, cho nên từ ngày thành lập đến nay, Đảng ta đã đoàn kết, tổ chức và lãnh đạo nhân dân ta hǎng hái đấu tranh tiến từ thắng lợi này đến thắng lợi khác.
Đoàn kết là một truyền thống cực kỳ quý báu của Đảng và của dân ta. Các đồng chí từ Trung ương đến các chi bộ cần giữ gìn sự đoàn kết nhất trí của Đảng như giữ gìn con ngươi của mắt mình.
Trong Đảng thực hành dân chủ rộng rãi, thường xuyên và nghiêm chỉnh tự phê bình và phê bình là cách tốt nhất để củng cố và phát triển sự đoàn kết và thống nhất của Đảng. Phải có tình đồng chí thương yêu lẫn nhau.
Đảng ta là một Đảng cầm quyền. Mỗi đảng viên và cán bộ phải thực sự thấm nhuần đạo đức cách mạng, thật sự cần kiệm liêm chính, chí công vô tư. Phải giữ gìn Đảng ta thật trong sạch, phải xứng đáng là người lãnh đạo, là người đầy tớ thật trung thành của nhân dân.
Đoàn viên thanh niên ta nói chung là tốt, mọi việc đều hằng hái xung phong, không ngại khó khǎn, có chí tiến thủ. Đảng cần phải chǎm lo giáo dục đạo đức cách mạng cho họ, đào tạo họ thành những người thừa kế xây dựng xã hội chủ nghĩa vừa "hồng" vừa "chuyên".
Bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau là một việc rất quan trọng và rất cần thiết.
Nhân dân lao động ta ở miền xuôi cũng như ở miền núi, đã bao đời chịu đựng gian khổ, bị chế độ phong kiến và thực dân áp bức bóc lột, lại kinh qua nhiều nǎm chiến tranh.
Tuy vậy, nhân dân ta rất anh hùng, dũng cảm, hǎng hái, cần cù. Từ ngày có Đảng, nhân dân ta luôn luôn đi theo Đảng, rất trung thành với Đảng.
Đảng cần phải có kế hoạch thật tốt để phát triển kinh tế và vǎn hóa, nhằm không ngừng nâng cao đời sống của nhân dân.
Cuộc kháng chiến chống Mỹ có thể kéo dài mấy năm nữa. Đồng bào ta có thể phải hy sinh nhiều của nhiều người. Dù sao, chúng ta phải quyết tâm đánh giặc Mỹ đến thắng lợi hoàn toàn.
Còn non, còn nước, còn người,
Thắng giặc Mỹ, ta sẽ xây dựng hơn mười ngày nay!
Dù khó khǎn gian khổ đến mấy, nhân dân ta nhất định sẽ hoàn toàn thắng lợi. Đế quốc Mỹ nhất định phải cút khỏi nước ta. Tổ quốc ta nhất định sẽ thống nhất. Đồng bào Nam, Bắc nhất định sẽ sum họp một nhà. Nước ta sẽ có vinh dự lớn là một nước nhỏ mà đã anh dũng đánh thắng hai đế quốc to - là Pháp và Mỹ; và đã góp phần xứng đáng vào phong trào giải phóng dân tộc.
Về phong trào cộng sản thế giới - Là một người suốt đời phục vụ cách mạng, tôi càng tự hào với sự lớn mạnh của phong trào cộng sản và công nhân quốc tế bao nhiêu, thì tôi càng đau lòng bấy nhiêu vì sự bất hòa hiện nay giữa các đảng anh em!
Tôi mong rằng Đảng ta sẽ ra sức hoạt động, góp phần đắc lực vào việc khôi phục lại khối đoàn kết giữa các đảng anh em trên nền tảng chủ nghĩa Mác - Lênin và chủ nghĩa quốc tế vô sản, có lý có tình.
Tôi tin chắc rằng các đảng anh em và các nước anh em nhất định sẽ phải đoàn kết lại.
*
*      *
Về việc riêng - Sau khi tôi đã qua đời, chớ nên tổ chức đám đình, lãng phí ngày giờ và tiền bạc của nhân dân.
Tôi yêu cầu thi hài tôi được đốt đi, nói chữ là “hỏa táng”. Tôi mong rằng cách “hỏa táng” dần dần sẽ được phổ biến. Vì như thế đối với người sống đã tốt về mặt vệ sinh, lại không tốn đất. Bao giờ ta có nhiều điện, thì “điện táng” càng tốt hơn.
Tro xương thì tìm một quả đồi mà chôn. Gần Tam Đảo và Ba Vì như hình có nhiều đồi tốt. Trên mộ, nên xây 1 cái nhà giản đơn, rộng rãi, chắc chắn, mát mẻ để những người đến thăm viếng có chỗ nghỉ ngơi.
Nên có kế hoạch trồng cây trên đồi. Ai đến thăm thì trồng một cây làm kỷ niệm. Trồng cây nào phải tốt cây ấy.            Lâu ngày, cây nhiều thành rừng, sẽ tốt cho phong cảnh và lợi cho nông nghiệp.
            Nếu tôi qua đời trước ngày nước ta được thống nhất, thì nên gửi một ít tro xương cho đồng bào miền Nam.
Cuối cùng, tôi để lại muôn vàn tình thân yêu cho toàn dân, toàn Đảng, cho toàn thể bộ đội, cho các cháu thanh niên và nhi đồng.
Tôi cũng gửi lời chào thân ái đến các đồng chí, các bầu bạn, và các cháu thanh niên, nhi đồng quốc tế.
Điều mong muốn cuối cùng của tôi là: Toàn Đảng, toàn dân ta đoàn kết phấn đấu, xây dựng một nước Việt Nam hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh, và góp phần xứng đáng vào sự nghiệp cách mạng thế giới.
 
         Chứng kiến,                                      Hà Nội, ngày 15 tháng 5 nǎm 1965
      Bí thư thứ nhất                                                      HỒ CHÍ MINH
 Ban Chấp hành Trung ương:

          LÊ DUẨN

VIỆT NAM DÂN CHỦ CỘNG HÒA
Độc lập, Tự do, Hạnh phúc
 
(Tuyệt đối bí mật)
Năm nay, tôi vừa 78 tuổi, vào lớp những người “trung thọ”. Tinh thần vẫn sáng suốt tuy sức khỏe có kém so với vài năm trước đây. Người ta đến khi tuổi tác càng cao thì sức khỏe càng thấp. Đó là điều bình thường.
Nhưng không ai đoán biết được tôi sẽ sống và phục vụ Tổ quốc, phục vụ cách mạng mấy tháng, mấy năm nữa?
Vì vậy tôi viết sẵn và để lại mấy lời này, phòng khi tôi sẽ đi gặp cụ Các Mác, cụ Lênin và các vị cách mạng đàn anh khác, thì đồng bào cả nước và đồng chí trong Đảng khỏi cảm thấy đột ngột.
Về việc riêng
Suốt đời tôi hết lòng hết sức phục vụ Tổ quốc, phục vụ cách mạng, phục vụ nhân dân. Nay dù phải từ biệt thế giới này, tôi không có điều gì phải hối hận, chỉ tiếc là tiếc rằng không được phục vụ lâu hơn nữa, nhiều hơn nữa.
Sau khi tôi đã qua đời, chớ nên tổ chức điếu phúng linh đình, để khỏi lãng phí thì giờ và tiền bạc của nhân dân.
Tôi yêu cầu thi hài tôi được đốt đi, tức là “hỏa táng”. Tôi mong rằng cách “hỏa táng” sau này sẽ được phổ biến. Vì như thế đối với người sống đã tốt về mặt vệ sinh, lại không tốn đất ruộng. Khi ta có nhiều điện, thì “điện táng” càng tốt hơn.
Tro thì chia làm 3 phần, bỏ vào 3 cái hộp sành. Một hộp cho miền Bắc. Một hộp cho miền Trung. Một hộp cho miền Nam.
Đồng bào mỗi miền nên chọn l quả đồi mà chôn hộp tro đó. Trên mả, không nên có bia đá tượng đồng, mà nên xây 1 ngôi nhà giản đơn, rộng rãi, chắc chắn, mát mẻ, để những người đến thăm viếng có chỗ nghỉ ngơi.
Nên có kế hoạch trồng cây trên và chung quanh đồi. Ai đến thăm thì trồng một vài cây làm kỷ niệm. Lâu ngày, cây nhiều thành rừng sẽ tốt cho phong cảnh và lợi cho nông nghiệp. Việc săn sóc nên giao phó cho các cụ phụ lão.
Tháng 5/1968, khi xem lại thư này tôi thấy cần phải viết thêm mấy điểm không đi sâu vào chi tiết.
Ngay sau khi cuộc chống Mỹ, cứu nước của nhân dân ta đã hoàn toàn thắng lợi, công việc toàn Đảng, toàn quân và toàn dân ta phải ra sức làm là mau chóng hàn gắn vết thương nghiêm trọng do đế quốc Mỹ gây ra trong cuộc chiến tranh xâm lược dã man. Đó là một công việc cực kỳ to lớn, phức tạp và khó khăn. Chúng ta phải có kế hoạch sẵn sàng, rõ ràng, chu đáo, để tránh khỏi bị động, thiếu sót và sai lầm. Theo ý tôi, việc cần phải làm trước tiên là chỉnh đốn lại Đảng, làm cho mỗi đảng viên, mỗi đoàn viên, mỗi chi bộ đều ra sức làm tròn nhiệm vụ Đảng giao phó cho mình, toàn tâm toàn ý phục vụ nhân dân. Làm được như vậy, thì dù công việc to lớn mấy, khó khăn mấy chúng ta cũng nhất định thắng lợi.
Đầu tiên là công việc đối với con người.
Đối với những người đã dũng cảm hy sinh một phần xương máu của mình (cán bộ, binh sĩ, dân quân, du kích, thanh niên xung phong..,), Đảng, Chính phủ và đồng bào phải tìm mọi cách làm cho họ có nơi ăn chốn ở yên ổn, đồng thời phải mở những lớp dạy nghề thích hợp với mỗi người để họ có thể dần dần “tự lực cánh sinh”.
Đối với các liệt sĩ, mỗi địa phương (thành phố, làng xã) cần xây dựng vườn hoa và bia kỷ niệm ghi sự hy sinh anh dũng của các liệt sĩ, để đời đời giáo dục tinh thần yêu nước cho nhân dân ta.
Đối với cha mẹ, vợ con (của thương binh và liệt sĩ) mà thiếu sức lao động và túng thiếu, thì chính quyền địa phương (nếu ở nông thôn thì chính quyền xã cùng hợp tác nông nghiệp) phải giúp đỡ họ có công việc làm ăn thích hợp, quyết không để họ bị đói rét.
Những chiến sĩ trẻ tuổi trong các lực lượng vũ trang nhân dân và thanh niên xung phong đều đã được rèn luyện trong chiến đấu và đều tỏ ra dũng cảm. Đảng và Chính phủ cần chọn một số ưu tú nhất, cho các cháu ấy đi học thêm các ngành, các nghề, để đào tạo thành những cán bộ và công nhân có kỹ thuật giỏi, tư tưởng tốt, lập trường cách mạng vững chắc. Đó là đội quân chủ lực trong công cuộc xây dựng thắng lợi chủ nghĩa xã hội ở nước ta.
Trong sự nghiệp chống Mỹ, cứu nước, phụ nữ đảm đang ta đã góp phần xứng đáng trong chiến đấu và trong sản xuất. Đảng và Chính phủ cần phải có kế hoạch thiết thực để bồi dưỡng, cất nhắc và giúp đỡ để ngày thêm nhiều phụ nữ phụ trách mọi công việc kể cả công việc lãnh đạo. Bản thân phụ nữ thì phải cố gắng vươn lên. Đó là một cuộc cách mạng đưa đến quyền bình đẳng thật sự cho phụ nữ.
Đối với những nạn nhân của chế độ xã hội cũ, như trộm cắp, gái điếm, cờ bạc, buôn lậu, v.v.. thì Nhà nước phải dùng vừa giáo dục, vừa phải dùng pháp luật để cải tạo họ, giúp họ trở nên những người lao động lương thiện.
Trong bao năm kháng chiến chống thực dân Pháp, tiếp đến chống đế quốc Mỹ, đồng bào ta, nhất là đồng bào nông dân đã luôn luôn hết sức trung thành với Đảng và Chính phủ ta, ra sức góp của góp người, vui lòng chịu đựng mọi khó khăn gian khổ. Nay ta đã hoàn toàn thắng lợi, tôi có ý đề nghị miễn thuế nông nghiệp một năm cho các hợp tác xã nông nghiệp để cho đồng bào hỉ hả, mát dạ, mát lòng, thêm niềm phấn khởi, đẩy mạnh sản xuất.
Ở đây nói về kế hoạch xây dựng lại thành phố và làng mạc đẹp đẽ, đàng hoàng hơn trước chiến tranh. Khôi phục và mở rộng các ngành kinh tế. Phát triển công tác vệ sinh, y tế. Sửa đổi chế độ giáo dục cho hợp với hoàn cảnh mới của nhân dân, như phát triển các trường nửa ngày học tập, nửa ngày lao động. Củng cố quốc phòng. Chuẩn bị mọi việc để thống nhất Tổ quốc... 
Công việc trên đây là rất to lớn, nặng nề, và phức tạp, mà cũng là rất vẻ vang. Đây là một cuộc chiến đấu chống lại những gì đã cũ kỹ, hư hỏng, để tạo ra những cái mới mẻ, tốt tươi. Để giành lấy thắng lợi trong cuộc chiến đấu khổng lồ này cần phải động viên toàn dân, tổ chức và giáo dục toàn dân, dựa vào lực lượng vĩ đại của toàn dân.
 
VIỆT NAM DÂN CHỦ CỘNG HÒA
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
Cuộc chống Mỹ, cứu nước của nhân dân ta dù phải kinh qua gian khổ, hy sinh nhiều hơn nữa, song nhất định thắng lợi hoàn toàn.
Đó là một điều chắc chắn.
Tôi có ý định đến ngày đó, tôi sẽ đi khắp hai miền Nam Bắc, để chúc mừng đồng bào, cán bộ và chiến sĩ anh hùng; thǎm hỏi các cụ phụ lão, các cháu thanh niên và nhi đồng yêu quý của chúng ta.
Kế theo đó, tôi sẽ thay mặt nhân dân ta đi thăm và cảm ơn các nước anh em trong phe xã hội chủ nghĩa, và các nước bầu bạn khắp năm châu đã tận tình ủng hộ và giúp đỡ cuộc chống Mỹ, cứu nước của nhân dân ta.
*
*    *
Ông Đỗ Phủ là người làm thơ rất nổi tiếng ở Trung Quốc đời nhà Đường, có câu rằng "Nhân sinh thất thập cổ lai hy", nghĩa là "Người thọ 70, xưa nay hiếm".
Nǎm nay, tôi vừa 79 tuổi, đã là lớp người "xưa nay hiếm" nhưng tinh thần, đầu óc vẫn rất sáng suốt, tuy sức khỏe có kém so với vài năm trước đây. Khi người ta đã ngoài 70 xuân, thì tuổi tác càng cao, sức khỏe càng thấp. Điều đó cũng không có gì lạ.
Nhưng ai mà đoán biết tôi còn phục vụ cách mạng, phục vụ Tổ quốc, phục vụ nhân dân được bao lâu nữa?
Vì vậy, tôi để sẵn mấy lời này, phòng khi tôi sẽ đi gặp cụ Các Mác, cụ Lênin và các vị cách mạng đàn anh khác, thì đồng bào cả nước, đồng chí trong Đảng và bầu bạn khắp nơi đều khỏi cảm thấy đột ngột.
Trước hết nói về Đảng - Nhờ đoàn kết chặt chẽ, một lòng một dạ phục vụ giai cấp, phục vụ nhân dân, phục vụ Tổ quốc, cho nên từ ngày thành lập đến nay, Đảng ta đã đoàn kết, tổ chức và lãnh đạo nhân dân ta hăng hái đấu tranh tiến từ thắng lợi này đến thắng lợi khác.
Đoàn kết là một truyền thống cực kỳ quý báu của Đảng và của dân ta. Các đồng chí từ Trung ương đến các chi bộ cần giữ gìn sự đoàn kết nhất trí của Đảng như giữ gìn con ngươi của mắt mình.
Trong Đảng thực hành dân chủ rộng rãi, thường xuyên và nghiêm chỉnh tự phê bình và phê bình là cách tốt nhất để củng cố và phát triển sự đoàn kết và thống nhất của Đảng. Phải có tình đồng chí thương yêu lẫn nhau.
Đảng ta là một Đảng cầm quyền. Mỗi đảng viên và cán bộ phải thực sự thấm nhuần đạo đức cách mạng, thật sự cần kiệm liêm chính, chí công vô tư. Phải giữ gìn Đảng ta thật trong sạch, phải xứng đáng là người lãnh đạo, là người đầy tớ thật trung thành của nhân dân.
Đoàn viên và thanh niên ta nói chung là tốt, mọi việc đều hăng hái xung phong, không ngại khó khăn, có chí tiến thủ. Đảng cần phải chăm lo giáo dục đạo đức cách mạng cho họ, đào tạo họ thành những người thừa kế xây dựng chủ nghĩa xã hội vừa "hồng" vừa "chuyên".
Bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau là một việc rất quan trọng và rất cần thiết.
Nhân dân lao động ta ở miền xuôi cũng như ở miền núi, đã bao đời chịu đựng gian khổ, bị chế độ phong kiến và thực dân áp bức bóc lột, lại kinh qua nhiều năm chiến tranh.
Tuy vậy, nhân dân ta rất anh hùng, dũng cảm, hăng hái, cần cù. Từ ngày có Đảng, nhân dân ta luôn luôn đi theo Đảng, rất trung thành với Đảng.
Đảng cần phải có kế hoạch thật tốt để phát triển kinh tế và văn hóa, nhằm không ngừng nâng cao đời sống của nhân dân.
Cuộc kháng chiến chống Mỹ có thể còn kéo dài. Đồng bào ta có thể phải hy sinh nhiều của, nhiều người. Dù sao, chúng ta phải quyết tâm đánh giặc Mỹ đến thắng lợi hoàn toàn. 
Còn non, còn nước, còn người 
Thắng giặc Mỹ, ta sẽ xây dựng hơn mười ngày nay!
Dù khó khǎn gian khổ đến mấy, nhân dân ta nhất định sẽ hoàn toàn thắng lợi. Đế quốc Mỹ nhất định phải cút khỏi nước ta. Tổ quốc ta nhất định sẽ thống nhất. Đồng bào Nam Bắc nhất định sẽ sum họp một nhà. Nước ta sẽ có vinh dự lớn là một nước nhỏ mà đã anh dũng đánh thắng hai đế quốc to - là Pháp và Mỹ; và đã góp phần xứng đáng vào phong trào giải phóng dân tộc.
Về phong trào cộng sản thế giới - Là một người suốt đời phục vụ cách mạng, tôi càng tự hào với sự lớn mạnh của phong trào cộng sản và công nhân quốc tế bao nhiêu, thì tôi càng đau lòng bấy nhiêu vì sự bất hòa hiện nay giữa các đảng anh em!
Tôi mong rằng Đảng ta sẽ ra sức hoạt động, góp phần đắc lực vào việc khôi phục lại khối đoàn kết giữa các đảng anh em trên nền tảng chủ nghĩa Mác-Lênin và chủ nghĩa quốc tế vô sản, có lý có tình.
Tôi tin chắc rằng các đảng anh em và các nước anh em nhất định sẽ phải đoàn kết lại.
*
*   *
Về việc riêng - Suốt đời tôi hết lòng hết sức phục vụ Tổ quốc, phục vụ cách mạng, phục vụ nhân dân. Nay dù phải từ biệt thế giới này, tôi không có điều gì phải hối hận, chỉ tiếc là tiếc rằng không được phục vụ lâu hơn nữa, nhiều hơn nữa.
Sau khi tôi đã qua đời, chớ nên tổ chức điếu phúng linh đình, để khỏi lãng phí thì giờ và tiền bạc của nhân dân.
*
*   *
Cuối cùng, tôi để lại muôn vàn tình thân yêu cho toàn dân, toàn Đảng, cho toàn thể bộ đội, cho các cháu thanh niên và nhi đồng.
Tôi cũng gửi lời chào thân ái đến các đồng chí, các bầu bạn và các cháu thanh niên, nhi đồng quốc tế.
Điều mong muốn cuối cùng của tôi là: Toàn Đảng, toàn dân ta đoàn kết phấn đấu, xây dựng một nước Việt Nam hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh, và góp phần xứng đáng vào sự nghiệp cách mạng thế giới".
                                        Hà Nội, ngày 10 tháng 5 năm 1969
                                                                        HỒ CHÍ MINH
 
NGUYỄN ĐỨC BÌNH. Những giá trị lý luận và thực tiễn trong Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh / Nguyễn Đức Bình // Sách Sự ra đời của bản di chúc lịch sử. - H. : Văn hóa thông tin, 2015. - Tr.144-148
Thật khó cho tôi khi được Ban Tổ chức Hội thảo phân công viết về những giá trị lý luận và thực tiễn trong Di chúc của Bác Hồ. Thật khó, vì Di chúc ở tầm cao vĩ đại trong khi trình độ tôi ở mức hạn chế. Thật khó, nhất là vì tự bản thân Di chúc đã mang sâu sắc giá trị lý luận và thực tiễn. Vậy tôi còn biết viết gì đây? Dẫu sao, với tôi đây cũng là dịp lớn để học tập, để tự nâng cao mình.
Tôi hiểu giá trị lý luận và giá trị thực tiễn trong Di chúc là thống nhất, không tách rời. Không chỉ trong Di chúc mà hầu như tất cả các bài viết, bài nói của Bác Hồ đều nổi bật đặc trưng ấy. Lý luận thật cao sâu, nhưng gần gũi, dễ hiểu, dễ nhớ. Thực tiễn rất cụ thể, sát cuộc sống, nhưng đầy ý nghĩa tư tưởng, lý luận. Ở Bác, sự thống nhất giữa lý luận với thực tiễn, giữa nói và làm là cả một tấm gương sáng điển hình, mọi người chúng ta cần học tập, noi theo.
Trong Di chúc, Bác "Trước hết nói về Đảng". Tôi hiểu tư tưởng về Đảng Cộng sản, về Đảng cầm quyền là hạt nhân trung tâm không chỉ trong Di chúc, mà cả trong tư tưởng Hồ Chí Minh nói chung. Trong tác phẩm Đường Cách mệnh (năm 1927) giảng cho lớp huấn luyện đầu tiên chuẩn bị thành lập Đảng, Bác dạy: "Cách mệnh trước hết phải có cái gì? Trước hết phải có đảng cách mệnh... Đảng có vững, cách mệnh mới thành công, cũng như người cầm lái có vững thuyền mới chạy. Đảng muốn vững thì phải có chủ nghĩa làm cốt, trong đảng ai cũng phải hiểu, ai cũng phải theo chủ nghĩa ấy. Đảng mà không có chủ nghĩa cũng như người không có trí khôn, tàu không có bàn chỉ nam.
Bây giờ học thuyết nhiều, chủ nghĩa nhiều, nhưng chủ nghĩa chân chính nhất, chắc chắn nhất, cách mệnh nhất là chủ nghĩa Lênin.
Từ Cách mạng Tháng Tám năm 1945 cho đến cuối đời, Bác đặc biệt quan tâm đến vấn đề Đảng cầm quyền. Suốt 24 năm trên cương vị đứng đầu Nhà nước, đứng đầu một Đảng cầm quyền, Người cùng tập thể lãnh đạo giải quyết không biết bao nhiêu vấn đề đại sự quốc gia trên tất cả các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, quân sự, ngoại giao; những vấn đề của kháng chiến kiến quốc, của cách mạng Xã hội chủ nghĩa trên miền Bắc và của cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam, của sự nghiệp giải phóng miền Nam, thống nhất nước nhà. Trong bộn bề công việc đó, vấn đề Đảng cầm quyền bao giờ cũng nằm ở trung tâm then chốt được Người đặc biệt chú ý. Những tư tưởng, luận điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh về Đảng cầm quyền, và không chỉ thế, cả những việc làm thực tế, cách hành xử và tấm gương đạo đức hàng ngày của Người trên cương vị lãnh tụ một Đảng cầm quyền và người lãnh đạo nhà nước, tất cả điều đó thực sự là những cống hiến quan trọng của Hồ Chí Minh vào việc phát triển học thuyết Mác - Lênin về Đảng Cộng sản, về xây dựng Đảng nói chung và đặc biệt trong điều kiện Đảng cầm quyền.
Di chúc của Bác nêu lên rất dễ hiểu mà cực kỳ sâu sắc cả về lý luận và thực tiễn. Có thể nói những điều Bác nhấn mạnh sau đây là những quy luật xây dựng và phát triển Đảng:
Một là, đoàn kết. Bác nói: "Đoàn kết là một truyền thống cực kỳ quý báu của Đảng và của nhân dân ta. Các đồng chí từ Trung ương đến các chi bộ cần phải giữ gìn sự đoàn kết nhất trí của Đảng như giữ gìn con ngươi của mắt mình”.
Hai là, dân chủ, tự phê bình và phê bình. Bác nói: "Trong Đảng thực hành dân chủ rộng rãi, thường xuyên và nghiêm chỉnh tự phê bình và phê bình là cách tốt nhất để củng cố và phát triển sự đoàn kết và thống nhất của Đảng. Phải có tình đồng chí thương yêu lẫn nhau".
Ba là, đạo đức cách mạng. Bác nói: "Đảng ta là một đảng cầm quyền. Mỗi đảng viên và cán bộ phải thật sự thấm nhuần đạo đức cách mạng, thật sự cần kiệm liêm chính, chí công vô tư. Phải giữ gìn Đảng ta thật trong sạch, phải xứng đáng là lãnh đạo, là người đầy tớ thật trung thành của nhân dân.
Bốn là, bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau.Bác nói đây là "một việc rất quan trọng và rất cần thiết"... "Đảng cần phải chăm lo giáo dục đạo đức cách mạng cho họ, đào tạo họ thành những người thừa kế xây dựng Chủ nghĩa xã hội vừa "hồng" vừa "chuyên".
Năm là, "Nhân dân ta rất anh hùng, dũng cảm, hăng hái, cần cù. Từ ngày có Đảng, nhân dân ta luôn luôn đi theo Đảng, rất trung thành với Đảng.
Đảng cần phải có kế hoạch thật tốt để phát triển kinh tế và văn hóa, nhằm không ngừng nâng cao đời sống nhân dân.
Sáu là, "Về phong trào cộng sản thế giới - Là một người suốt đời phục vụ cách mạng, tôi càng tự hào với sự lớn mạnh của phong trào cộng sản và công nhân quốc tế bao nhiêu, thì tôi càng đau lòng bấy nhiêu vì sự bất hòa hiện nay giữa các đảng anh em!
Tôi mong rằng Đảng ta sẽ ra sức hoạt động, góp phần đắc lực vào việc khôi phục lại khối đoàn kết giữa các đảng anh em trên nền tảng chủ nghĩa Mác- Lênin và chủ nghĩa quốc tế vô sản, có lý, có tình”.
Toát lên từ toàn bộ Di chúc là tinh thần yêu nước, yêu nhân dân vô bờ bến, là niềm tin sắt đá vào độc lập tự do của Tổ quốc, vào Chủ nghĩa xã hội, vào chủ nghĩa Mác - Lênin và chủ nghĩa quốc tế vô sản.
Điếu văn của Ban Chấp hành trung ương Đảng do đồng chí Tổng Bí thư Lê Duẩn tại lễ truy điệu trọng thể của Chủ tịch Hồ Chí Minh, ngày 9 - 9 - 1969 có đoạn: "Hồ Chủ tịch đã qua đời! Nhưng Người để lại cho chúng ta một di sản vô cùng quý báu. Đó là thời đại Hồ Chí Minh, thời đại rực rỡ nhất trong lịch sử quang vinh của dân tộc. Đó là kỷ nguyên độc lập, tự do của Tổ quốc, kỷ nguyên Chủ nghĩa xã hội ở nước ta”... 
Hồ Chí Minh đã qua đời! Nhưng Người luôn dẫn dắt chúng ta. Chúng ta vẫn cảm thấy có Người bên cạnh. Bởi chúng ta vẫn đi theo con đường của Người, tiếp tục sự nghiệp vĩ đại của Người. Bởi vì Người vẫn sống mãi với non sông đất nước, tên tuổi và hình ảnh của Người ngày càng khắc sâu trong trái tim khối óc của mỗi chúng ta. 

TRẦN VĂN PHÒNG. Đấu tranh chống cái cũ, xây dựng cái mới trong Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh / Trần Văn Phòng // Tạp chí Lý luận chính trị. - 2019. - Số 5. - Tr. 3-7 

Bản Di chúc của Hồ Chí Minh rất ngắn gọn nhưng hàm chứa rất nhiều tư tưởng quan trọng. Một trong những tư tưởng đó là vấn đề đấu tranh chống cái cũ, xây dựng cái mới. Người căn dặn ngay sau chiến thắng, phải nhanh chóng hàn gắn vết thương chiến tranh, chăm lo chỉnh đốn Đảng và chăm lo đến từng con người; từng bước đấu tranh xóa bỏ tập tục cũ, lạc hậu, xây dựng văn hóa mới. 

1. Thay đổi tâm lý, thói quen mải vui với chiến thắng và phải nghĩ ngay đến hàn gắn vết thương chiến tranh, chăm lo chỉnh đốn Đảng và chăm lo đến từng con người 
Thông thường sau chiến thắng, người ta dễ vui với chiến thắng, mải vui với những gì mà mình đã đạt được trong kháng chiến mà quên đi khó khăn, quên mất những việc cần làm ngay. Nhưng với Chủ tịch Hồ Chí Minh thì không phải vậy, Người đã căn dặn, nhắc nhở cán bộ, đảng viên về điều này rất rõ trong Di chúc. Không phải ngẫu nhiên mà vào tháng 5-1968, sau khi xem lại bản thảo Di chúc trước đó, chính Người đã viết “Thấy cần phải viết thêm mấy điểm không đi sâu vào chi tiết.
Ngay sau khi cuộc chống Mỹ, cứu nước của nhân dân ta đã hoàn toàn thắng lợi, công việc toàn Đảng, toàn quân và toàn dân ta phải ra sức làm là mau chóng hàn gắn vết thương nghiêm trọng do đế quốc Mỹ gây ra trong cuộc chiến tranh xâm lược dã man”.
Trong công việc hàn gắn vết thương chiến tranh thì theo Người, “việc cần làm trước tiên là chỉnh đốn lại Đảng, làm cho mỗi đảng viên, mỗi đoàn viên, mỗi chi bộ đều ra sức làm tròn nhiệm vụ Đảng giao phó cho mình, toàn tâm, toàn ý phục vụ nhân dân”. Đọc những lời căn dặn này của Chủ tịch Hồ Chí Minh, chúng ta lại liên tưởng đến lời nhắc nhở của Người trong tác phẩm Đạo đức cách mạng viết năm 1958: “Loại địch thứ ba là chủ nghĩa cá nhân, tư tưởng tiểu tư sản còn ẩn nấp trong mình mỗi người chúng ta. Nó chờ dịp - hoặc dịp thất bại, hoặc dịp thắng lợi - để ngóc đầu dậy. Nó là bạn đồng minh của hai kẻ địch kia (chủ nghĩa tư bản và bọn đế quốc; thói quen và truyền thống lạc hậu) ”. Nghĩa là Hồ Chí Minh đã nhìn thấy khả năng xuất hiện của chủ nghĩa cá nhân, tư tưởng tiểu tư sản trong điều kiện chúng ta giành chiến thắng trước đế quốc Mỹ. Đây không chỉ thể hiện tư duy nhìn xa, trông rộng mà còn thể hiện tinh thần kiên quyết đấu tranh chống cái cũ, xây dựng cái mới trong công tác xây dựng Đảng của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Để đấu tranh chống kẻ thù thứ ba này có hiệu quả và nâng cao chất lượng chỉnh đốn lại Đảng, Hồ Chí Minh yêu cầu: Thứ nhất, “Các đồng chí từ Trung ương đến các chi bộ phải giữ gìn sự đoàn kết nhất trí của Đảng như giữ gìn con ngươi của mắt mình”. Thứ hai, “Trong Đảng thực hành dân chủ rộng rãi, thường xuyên và nghiêm chỉnh tự phê bình và phê bình là cách tốt nhất để củng cố và phát triển sự đoàn kết và thống nhất của Đảng”. Thứ ba, “Phải có tình đồng chí thương yêu lẫn nhau”. Thứ tư, “Mỗi đảng viên và cán bộ phải thật sự thấm nhuần đạo đức cách mạng, thật sự cần kiệm liêm chính, chí công vô tư. Phải giữ gìn Đảng ta thật sự trong sạch, phải xứng đáng là người lãnh đạo, người đầy tớ thật trung thành của nhân dân”.
Cùng với chỉnh đốn Đảng thì “Đầu tiên là công việc với con người”. Hồ Chí Minh căn dặn, Đảng, Chính phủ sau chiến thắng đế quốc Mỹ xâm lược phải quan tâm từng đối tượng, từng con người. Đối với những người đã dũng cảm hy sinh một phần xương máu của mình thì Đảng, Chính phủ và đồng bào phải tìm mọi cách cho họ có nơi ăn, chốn ở, dạy nghề thích hợp cho mỗi người để họ có thể dần dần “tự lực cánh sinh”. Đối với các liệt sỹ thì xây dựng vườn hoa và đài tưởng niệm ghi sự hy sinh anh dũng để đời đời giáo dục tinh thần yêu nước cho nhân dân ta. Đối với cha, mẹ, vợ, con của thương binh, liệt sỹ mà thiếu sức lao động thì phải giúp đỡ họ. Đối với các chiến sỹ trẻ trong lực lượng vũ trang và thanh niên xung phong đã được rèn luyện cần lựa chọn bồi dưỡng, đào tạo thành lực lượng chủ lực trong xây dựng chủ nghĩa xã hội, Đảng, Chính phủ cũng phải giúp đỡ phụ nữ để họ trưởng thành, cống hiến. Đối với nạn nhân của chế độ cũ thì Nhà nước vừa giáo dục, vừa giúp đỡ, cải tạo họ trở thành người lương thiện. Đối với đồng bào nông dân, Người đề nghị miễn thuế nông nghiệp 1 năm cho đồng bào hỷ hả, mát dạ, mát lòng, thêm niềm phấn khởi, đẩy mạnh sản xuất.
Qua những căn dặn trên trong Di chúc của Người, chúng ta thấy Người mong muốn thay đổi một thói quen, tâm lý cũ - khi chiến thắng kẻ thù thì người ta dễ xuất hiện tư tưởng mải vui với chiến thắng mà quên đi những việc cần làm ngay sau khi kết thúc chiến tranh. 

2. Đấu tranh cải tạo cái cũ, xây dựng xã hội mới, chuẩn bị thống nhất Tổ quốc 
Với tinh thần “Còn non, còn nước, còn người, Thắng giặc Mỹ, ta sẽ xây dựng hơn mười ngày nay”, trong bản Di chúc, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã “nói về kế hoạch xây dựng lại thành phố và làng mạc đẹp đẽ, đàng hoàng hơn trước chiến tranh. Khôi phục và mở rộng các ngành kinh tế. Phát triển công tác vệ sinh, y tế. Sửa đổi chế độ giáo dục cho hợp với hoàn cảnh mới của nhân dân, như phát triển các trường nửa ngày học tập, nửa ngày lao động. Củng cố quốc phòng. Chuẩn bị mọi việc để thống nhất Tổ quốc...”. Theo Hồ Chí Minh, những công việc trên là to lớn, nặng nề, phức tạp. “Đây là cuộc chiến đấu chống lại những gì đã cũ kỹ, hư hỏng để tạo ra những cái mới mẻ, tốt tươi”. Điều rất quan trọng là Chủ tịch Hồ Chí Minh nhấn mạnh rằng “hoàn cảnh mới” đòi hỏi chúng ta phải phát triển tất cả các mặt của đời sống xã hội như giáo dục, y tế, vệ sinh, phát triển các ngành kinh tế,v.v.. cho phù hợp hoàn cảnh mới này. Đây là cuộc đấu tranh chống lại cái cũ kỹ, hư hỏng để tạo ra những cái mới mẻ, tốt tươi. Điều này hoàn toàn phù hợp với các nguyên lý của chủ nghĩa Mác - Lênin. Bởi lẽ, thực tiễn đổi thay thì nhiệm vụ chính trị cũng phải đổi thay theo cho phù hợp. Trong hoàn cảnh chiến tranh ác liệt, công tác chăm lo cho con người, phát triển mọi mặt kinh tế - xã hội chưa có điều kiện và phải thực hiện trong điều kiện thời chiến. Do vậy, khi hòa bình lập lại, những công tác này phải được thực hiện theo cách mới, phương pháp mới, cái nhìn mới cho phù hợp thực tiễn mới. Mặc dù, trong Di chúc ngắn gọn, Người không có điều kiện nói nhiều về các nguyên tắc phương pháp luận trong đấu tranh chống cái cũ, xây dựng cái mới, nhưng có thể khẳng định, Hồ Chí Minh là người luôn luôn vận dụng sáng tạo quan điểm kế thừa của phép biện chứng duy vật của chủ nghĩa Mác - Lênin vào cuộc đấu tranh chống cái cũ, xây dựng cái mới. Hồ Chí Minh là mẫu hình của thái độ khách quan, khoa học, biện chứng đối với cái cũ. Người không bao giờ phủ định sạch trơn cái cũ, cũng không bao giờ bê y nguyên xi toàn bộ cái cũ. Chẳng hạn, đối với học thuyết của Khổng Tử, Hồ Chí Minh từng nói: “Tuy Khổng Tử là phong kiến và tuy trong học thuyết của Khổng Tử có nhiều điều không đúng song những điều hay trong đó thì ta nên học”. Trong hoạt động cách mạng cũng như trong lãnh đạo nhân dân ta kháng chiến chống thực dân Pháp, chống đế quốc Mỹ và xây dựng đời sống mới, Chủ tịch Hồ Chí Minh chủ trương phát huy vốn cổ của dân tộc, nhưng không phục cổ máy móc. Đối với Người, “Đời sống mới không phải cái gì cũ cũng bỏ hết, không phải cái gì cũng làm mới.
Cái gì cũ mà xấu, thì phải bỏ. Thí dụ: ta phải bỏ hết tính lười biếng, tham lam.
Cái gì cũ mà không xấu, nhưng phiền phức thì phải sửa đổi lại cho hợp lý. Thí dụ: Đơm cúng, cưới hỏi quá xa xỉ, ta phải giảm bớt đi.
Cái gì cũ mà tốt, thì phải phát triển thêm. Thí dụ: Ta phải tương thân, tương ái, tận trung với nước, tận hiếu với dân hơn khi trước.
Cái gì mới mà hay, thì ta phải làm. Thí dụ: Ăn ở cho hợp vệ sinh, làm việc cho có ngăn nắp”.
Với tinh thần ấy, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhận thức và giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa cái mới và cái cũ trong phát triển văn hóa dân tộc. Sau chiến thắng đế quốc, theo Người, nhất định “Phải triệt để tẩy trừ mọi di tích thuộc địa và ảnh hưởng nô dịch của văn hóa đế quốc. Đồng thời, phát triển những truyền thống tốt đẹp của văn hóa dân tộc và hấp thụ những cái mới của văn hóa tiến bộ thế giới để xây dựng một nền văn hóa Việt Nam có tính chất dân tộc khoa học và đại chúng”. Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng là người luôn ủng hộ cái mới đúng, tiến bộ, hợp quy luật phát triển. Do vậy, Người đã chủ động phát động phong trào thi đua “Người tốt, việc tốt”, xây dựng đời sống mới và tích cực viết báo phổ biến gương người tốt, việc tốt,v.v..
Cuộc đấu tranh chống cái cũ, xây dựng cái mới theo Hồ Chí Minh là cuộc chiến đấu khổng lồ, đầy khó khăn, gian khổ. Bởi lẽ, “Thói quen rất khó đổi. Cái tốt mà lạ, người ta có thể cho là xấu. Cái xấu mà quen người ta cho là thường”. Do vậy, “Để giành lấy thắng lợi trong cuộc chiến đấu khổng lồ này cần phải động viên toàn dân, tổ chức và giáo dục toàn dân, dựa vào lực lượng vĩ đại của nhân dân”. Chúng ta còn nhớ ngay từ năm 1947, trong tác phẩm Sửa đổi lối làm việc, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ “lực lượng của dân chúng nhiều vô cùng.
Kinh nghiệm trong nước và các nước tỏ cho chúng ta biết: có lực lượng dân chúng, việc to tát mấy, khó khăn mấy làm cũng được. Không có, thì việc gì làm cũng không xong. Dân chúng biết giải quyết nhiều vấn đề một cách giản đơn, mau chóng, đầy đủ mà những người tài giỏi, những đoàn thể to lớn nghĩ mãi không ra”. Cuộc đấu tranh chống cái cũ, xây dựng cái mới không thể không dựa vào quần chúng nhân dân. Vấn đề là Đảng, Chính phủ phải biết giáo dục, thuyết phục, động viên, tập hợp, tổ chức họ thành phong trào thực tiễn rộng lớn. Có như vậy, cuộc đấu tranh chống cái cũ, xây dựng cái mới nhất định sẽ thành công. Điều này được Người nói rất rõ trong Di chúc.

3. Xây dựng văn hóa mới, từng bước đấu tranh xóa bỏ tập tục cũ, lạc hậu 
Trong Di chúc, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đề cập “về việc riêng”. Mặc dù đoạn về việc riêng rất ngắn nhưng đã toát lên tinh thần tiên phong của Người trong việc xây dựng văn hóa mới, đấu tranh xóa bỏ tập tục cũ, lạc hậu. Người mong muốn “Sau khi tôi qua đời, chớ nên tổ chức đám đình, lãng phí ngày giờ và tiền bạc của nhân dân”. Chúng ta đều rõ, như trong tác phẩm Sửa đổi lối làm việc, Hồ Chí Minh đã coi “Đơm cúng, cưới hỏi quá xa xỉ” là tập tục cũ, lạc hậu phải giảm bớt đi. Mà “thói quen và truyền thống lạc hậu” cũng là kẻ địch của cách mạng, của người cán bộ, đảng viên. Chúng ta đều rõ, người Việt có tập tục tổ chức lễ tang rất to, vừa gây lãng phí, vừa gây mất thời gian. Người muốn đi đầu xây dựng một tập tục mới, khoa học: “Tôi yêu cầu thi hài tôi được đốt đi. Nói chữ là “hỏa táng”. Tôi mong rằng cách “hỏa táng” dần dần sẽ được phổ biến. Vì như thế đối với người sống đã tốt về mặt vệ sinh, lại không tốn đất. Khi nào ta có nhiều điện thì “điện táng” càng tốt hơn” . “Tro xương thì tìm một quả đồi mà chôn”. Người đề xuất “Nên có kế hoạch trồng cây trên đồi. Ai đến thăm thì trồng một cây làm kỷ niệm. Trồng cây nào phải tốt cây ấy. Lâu ngày, cây tốt thành rừng, sẽ tốt cho phong cảnh và lợi cho nông nghiệp”. Cùng với “hỏa táng, điện táng”, Người muốn xây dựng một phong tục “trồng cây gây rừng”. Có thể nói, những tư tưởng này của Chủ tịch Hồ Chí Minh từ cách đây 50 năm đã vượt xa thời đại, vượt xa tầm nhìn của đại đa số chúng ta.
Trong Di chúc, tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh về đấu tranh chống cái cũ, xây dựng cái mới đóng vai trò phương pháp luận hết sức to lớn đối với chúng ta. Sự nghiệp đổi mới của chúng ta theo một nghĩa nào đó cũng là sự nghiệp đấu tranh chống cái cũ, cái lạc hậu, xây dựng cái mới, cái tiến bộ. Do vậy, chúng ta phải nắm chắc ý nghĩa phương pháp luận mà Người đã nêu ra:
Một là, cái tốt của truyền thống cần phải được khôi phục, cái cũ mà xấu thì phải bỏ, cái cũ không xấu nhưng gây phiền hà thì phải sửa chữa cho phù hợp. Cái cũ tốt, còn có ích thì giữ lại phát triển, cái gì mới mà hay, thì phải làm.
Hai là, cuộc đấu tranh chống cái cũ, xây dựng cái mới luôn luôn là cuộc chiến khó khăn, gian khổ, lâu dài, không thể ngày một, ngày hai là xong. Để cuộc chiến đấu này thắng lợi, người cán bộ, đảng viên phải biết dựa vào nhân dân, động viên nhân dân, khơi dậy, tập hợp, giáo dục, lôi cuốn nhân dân thành phong trào thực tiễn rộng lớn. Những cái mới lẻ tẻ khi đã trở thành phong trào to lớn của quần chúng thì sẽ trở thành tập tục mới, tiến bộ.
Ba là, phải kiên trì, kiên định cuộc đấu tranh chống cái cũ, xây dựng cái mới. Bởi lẽ, cái mới ra đời bao giờ cũng là cái đơn nhất. Cái cũ vốn bản tính mang tính bảo thủ lại thường được củng cố bởi tâm lý, thói quen lạc hậu và được số đông quần chúng noi theo một cách mù quáng. Vì vậy, đấu tranh chống cái cũ, xây dựng cái mới phải kiên trì, kiên định.
Bốn là, muốn đấu tranh chống cái cũ, xây dựng cái mới thì người cán bộ lãnh đạo, quản lý phải gương mẫu đi đầu thực hiện cái mới, đấu tranh xóa bỏ cái cũ, lạc hậu. Đúng như Chủ tịch Hồ Chí Minh thường căn dặn cán bộ, đảng viên: “Muốn hướng dẫn nhân dân mình phải làm mực thước cho người ta bắt trước” ; “Hô hào dân tiết kiệm mình phải tiết kiệm trước đã” ; “Muốn làm cách mạng, phải cải cách tính nết mình trước tiên”. Cả cuộc đời Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn là tấm gương sáng ngời về tinh thần gương mẫu, nêu gương “lo trước thiên hạ, vui sau thiên hạ”. Chính vì vậy, khi Người vận động quần chúng nhân dân xây dựng đời sống văn hóa mới, đấu tranh chống cái cũ, lạc hậu nói chung, nhân dân lại hết lòng hết sức tin và làm theo Người là vậy.

VŨ VĂN PHÚC. Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh định hướng cho cách mạng Việt Nam hôm qua, hôm nay và ngày mai / Vũ Văn Phúc // Tạp chí Lý luận chính trị. - 2019. - Số 5. - Tr. 8-12

Bản Di chúc thiêng liêng của Chủ tịch Hồ Chí Minh, sau nửa thế kỷ, càng sáng tỏ giá trị lịch sử và tầm nhìn thời đại của một bậc thiên tài. Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh soi đường, định hướng cho cách mạng Việt Nam hôm qua, hôm nay và cho mai sau, là ngọn đuốc soi đường cho đất nước ta vững bước đi lên, phát triển bền vững.
Di chúc là tâm nguyện, là ý chí, niềm tin, là tình cảm và trách nhiệm của Chủ tịch Hồ Chí Minh với Tổ quốc, với nhân dân, với sự nghiệp cách mạng.
Là người cách mạng, là người mácxít, thấu hiểu quy luật khách quan của tự nhiên, xã hội và con người, trong Di chúc, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhận thức và đón nhận quy luật của cuộc sống một cách chủ động, bằng phong thái ung dung tự tại, chuẩn bị cho việc ra đi bằng những lời tâm huyết dặn lại, Người viết: “Tôi để sẵn mấy lời này, phòng khi tôi sẽ đi gặp cụ Các Mác, cụ Lênin và các vị cách mạng đàn anh khác, thì đồng bào cả nước, đồng chí trong Đảng và bầu bạn khắp nơi đều khỏi cảm thấy đột ngột”.
Mở đầu Di chúc, với tinh thần lạc quan cách mạng, trách nhiệm với Tổ quốc, với nhân dân, Người tin tưởng chắc chắn thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ và sự thống nhất đất nước. Người khẳng định: “Cuộc chống Mỹ, cứu nước của nhân dân ta dù phải kinh qua gian khổ, hy sinh nhiều hơn nữa, song nhất định thắng lợi hoàn toàn. Đó là một điều chắc chắn”. Người cũng nêu những công việc dự định làm sau đó. Người viết: “Tôi có ý định đến ngày đó, tôi sẽ đi khắp hai miền Nam Bắc, để chúc mừng đồng bào, cán bộ và chiến sĩ anh hùng, thăm hỏi các cụ phụ lão, các cháu thiếu niên và nhi đồng yêu quý của chúng ta...”.
Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh là công trình bất hủ về xây dựng Đảng cầm quyền.
Là Người sáng lập, rèn luyện Đảng ta, Chủ tịch Hồ Chí Minh đặc biệt quan tâm đến công tác xây dựng Đảng. Người cho rằng, sự lãnh đạo của Đảng là nhân tố quyết định mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Trong công tác xây dựng Đảng, vấn đề đoàn kết thống nhất trong Đảng là một trong những nguyên tắc cơ bản nhất, là sự vận động và phát triển theo đúng quy luật của Đảng. Đoàn kết thống nhất trong Đảng là cơ sở để xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân. Đảng lãnh đạo, Đảng cầm quyền mà không đoàn kết thống nhất thì sự nghiệp cách mạng của dân tộc không thể thắng lợi.
Xây dựng và giữ gìn sự đoàn kết thống nhất trong Đảng luôn được Chủ tịch Hồ Chí Minh coi là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu, là nền tảng cho mọi thành công. Đoàn kết thống nhất không chỉ là vấn đề sinh tử của từng tổ chức Đảng các cấp, mà còn là sinh mệnh của toàn Đảng, là vấn đề sống còn của cách mạng. Trong bản thảo Di chúc mà Người dành nhiều tâm huyết để hoàn thành, ngay từ năm 1965, Người đã viết: “TRƯỚC HẾT NÓI VỀ ĐẢNG”. “Nhờ đoàn kết chặt chẽ, một lòng một dạ phục vụ giai cấp, phục vụ nhân dân, phục vụ Tổ quốc cho nên từ ngày thành lập đến nay, Đảng ta đã đoàn kết, tổ chức và lãnh đạo nhân dân ta hăng hái đấu tranh tiến từ thắng lợi này đến thắng lợi khác. Đoàn kết là một truyền thống cực kỳ quý báu của Đảng và dân tộc ta. Các đồng chí từ Trung ương đến các chi bộ cần giữ gìn sự đoàn kết nhất trí của Đảng như giữ gìn con ngươi của mắt mình”. Như vậy có thể thấy, đoàn kết thống nhất trong Đảng không chỉ là mối quan tâm lớn hàng đầu của Người mà còn là sự trăn trở khi Người nghĩ về mai sau.
Vì sao Chủ tịch Hồ Chí Minh lại luôn nhấn mạnh vai trò, ý nghĩa quan trọng của đoàn kết thống nhất. Người không chỉ nêu ra yêu cầu phải đoàn kết trong Đảng mà Người còn chỉ rõ sự đoàn kết ấy phải là đoàn kết nhất trí, đoàn kết thống nhất một cách thực chất và phải thể hiện cả trong tư tưởng và hành động. Tư tưởng và hành động phải thống nhất. Không thể bề ngoài là đoàn kết nhưng những khi cần ra một quyết định, một quyết sách thì không có được sự thống nhất hay khi cần thì liên minh nhau, khi không cần thì tìm cách cản trở công việc của nhau. Trong tư tưởng của Người, đoàn kết phải là đoàn kết thống nhất, trước sau như một, tức là phải dựa trên nền tảng đường lối, quan điểm của Đảng và vì lợi ích của cách mạng, nhân dân và tập thể. Người luôn nhấn mạnh: Đảng tuy có nhiều đảng viên, song khi tiến hành nhiệm vụ cách mạng thì chỉ như một người, trong Đảng không cho phép có tình trạng “trống đánh xuôi, kèn thổi ngược”.
Đảng là tổ chức chính trị cao nhất của nhân dân, của dân tộc, các đảng viên đều tham gia tổ chức một cách tự giác, tự nguyện. Việc giữ vững và thực hiện nghiêm minh các nguyên tắc của Đảng là trách nhiệm của mỗi đảng viên. Người coi nguyên tắc tập trung dân chủ là nguyên tắc cơ bản và quan trọng, trong từng tổ chức Đảng phải thực hành dân chủ, mở rộng dân chủ, “Phải thực sự mở rộng dân chủ để tất cả đảng viên bày tỏ hết ý kiến của mình”, mọi ý kiến, suy nghĩ của mỗi đảng viên đều phải được bày tỏ, lắng nghe; mọi quyết định quan trọng của tổ chức đều phải được bàn bạc, thảo luận một cách dân chủ. Để đoàn kết thống nhất trong Đảng đòi hỏi cán bộ, đảng viên phải thật thà tự phê bình và phê bình, đây chính là một hình thức rèn luyện đảng viên để xây dựng, chỉnh đốn Đảng ngày càng trong sạch, vững mạnh. Bởi theo Người: “Chỉ có đảng chân chính cách mạng và chính quyền thật dân chủ mới dám mạnh dạn tự phê bình, hoan nghênh phê bình và kiên quyết sửa chữa. Do tự phê bình và phê bình... mà chúng ta đoàn kết càng chặt chẽ”. Đây cũng là quy luật phát triển của Đảng Cộng sản nói chung, theo tinh thần của chủ nghĩa Mác - Lênin. Trong Di chúc, Người căn dặn “Trong Đảng thực hành dân chủ rộng rãi, thường xuyên và nghiêm chỉnh tự phê bình và phê bình là cách tốt nhất để củng cố và phát triển sự đoàn kết và thống nhất của Đảng”.
Để có sự đoàn kết thật sự, không chỉ cần thực hiện đúng nguyên tắc sinh hoạt Đảng mà còn rất cần tình thương yêu, sự đồng cảm và chia sẻ với nhau. Năm 1966, Người bổ sung vào bản thảo Di chúc cụm từ “Phải có tình đồng chí thương yêu lẫn nhau”. Để có sự đoàn kết thống nhất thực sự thì bên cạnh tinh thần, lý trí, trong mỗi cán bộ, đảng viên phải có tình thương yêu đồng chí, có lòng nhân ái, nhân hậu. Trong thực hành công việc không chỉ đặt ra yêu cầu hoàn thành công việc mà còn phải có sự cảm thông, chia sẻ, giúp đỡ nhau cùng hoàn thành công việc. Vì vậy, để duy trì và bồi đắp đoàn kết thống nhất thì từng tổ chức Đảng bên cạnh việc phải chú trọng giáo dục ý thức trách nhiệm, còn phải thường xuyên bồi dưỡng tình thân ái, tình thương yêu cảm thông chia sẻ, tình đồng chí.
Trong điều kiện Đảng cầm quyền, Hồ Chí Minh đặc biệt coi trọng yếu tố đạo đức trong Đảng, chống lại các căn bệnh “quan liêu”, “tham nhũng, lãng phí”, “xa dân”. Theo Người, Đảng cầm quyền có nhiệm vụ to lớn là lãnh đạo nhân dân xây dựng xã hội mới, tiến hành “một cuộc chiến đấu khổng lồ”, xóa đi những gì đã cũ kỹ, hư hỏng, xây dựng những cái mới mẻ, tốt tươi. Trong Di chúc, Chủ tịch Hồ Chí Minh căn dặn với 4 chữ “thật”: “Đảng ta là một Đảng cầm quyền. Mỗi đảng viên và cán bộ phải thật sự thấm nhuần đạo đức cách mạng, thật sự cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư. Phải giữ gìn Đảng ta thật trong sạch, phải xứng đáng là người lãnh đạo, là người đầy tớ thật trung thành của nhân dân”.
Mỗi đảng viên, nhất là đảng viên giữ trọng trách lãnh đạo phải cương quyết chống chủ nghĩa cá nhân, chủ nghĩa cơ hội trong chính bản thân mình. Bởi như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã rút ra: chủ nghĩa cá nhân, chủ nghĩa cơ hội chính là căn nguyên của mất đoàn kết thống nhất trong Đảng.
Thấm nhuần tư tưởng và thực hiện Di chúc của Người, những năm qua, Đảng ta luôn coi trọng, giữ gìn và phát huy đoàn kết thống nhất. Nhờ đó, Đảng đã quy tụ và phát huy được sức mạnh toàn dân, tạo nên sức mạnh tổng hợp để hoàn thành nhiệm vụ lãnh đạo đất nước mà nhân dân tin tưởng giao phó. Trong nhiều kỳ đại hội Đảng, vấn đề đoàn kết thống nhất đều được nghiêm túc đặt ra, được xem xét, đánh giá một cách toàn diện và sâu sắc.
Trong Di chúc, ngay sau khi nói về Đảng, Hồ Chí Minh nói về đoàn viên và thanh niên. Người viết: “ĐOÀN VIÊN và THANH NIÊN ta nói chung là tốt, mọi việc đều hăng hái xung phong, không ngại khó khăn, có chí tiến thủ”. Người căn dặn: “Đảng cần phải chăm lo giáo dục đạo đức cách mạng cho họ, đào tạo họ thành những người thừa kế xây dựng chủ nghĩa xã hội vừa “hồng” vừa “chuyên”.
Bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau là một việc rất quan trọng và rất cần thiết”.
50 năm qua, Đảng ta đã quan tâm bồi dưỡng, đào tạo các thế hệ đoàn viên, thanh niên. Nhiều đoàn viên, thanh niên đã thực sự trở thành người kế tục xứng đáng sự nghiệp cách mạng của lớp cha, anh đi trước. Nhiều người đã trở thành cán bộ lãnh đạo, quản lý, cán bộ chuyên môn giỏi; trở thành những trí thức tài năng, những công nhân, những nông dân sản xuất giỏi, những doanh nhân thành đạt... Đảng ta chủ trương xây dựng Đoàn vững mạnh là xây dựng Đảng trước một bước. Tầm nhìn xa của Hồ Chí Minh về xây dựng những lớp người kế tục sự nghiệp cách mạng vẻ vang của Đảng, của nhân dân rất rõ ràng. Người luôn thể hiện sự tin tưởng vào thế hệ trẻ, thế hệ tương lai của đất nước. Suốt đời mình, Người luôn dành sự quan tâm, chăm lo đặc biệt cho thanh niên, thiếu niên và nhi đồng. Trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, việc chăm lo đào tạo, bồi dưỡng thế hệ trẻ như tâm nguyện của Người trong Di chúc là một việc cực kỳ quan trọng của Đảng, của nhân dân ta.
Nói về nhân dân lao động, trong Di chúc, Người viết: “NHÂN DÂN LAO ĐỘNG ta ở miền xuôi cũng như miền núi, đã bao đời chịu đựng gian khổ, bị chế độ phong kiến và thực dân áp bức bóc lột, lại kinh qua nhiều năm chiến tranh.
Tuy vậy, nhân dân ta rất anh hùng, dũng cảm, hăng hái, cần cù. Từ ngày có Đảng, nhân dân ta luôn luôn đi theo Đảng, rất trung thành với Đảng”.
Suốt cuộc đời của Người là chăm lo cho đời sống của nhân dân. Trong Di chúc, Người căn dặn: “Đảng cần phải có kế hoạch thật tốt để phát triển kinh tế và văn hóa, nhằm không ngừng nâng cao đời sống của nhân dân”.
Khi viết VỀ VIỆC RIÊNG, Người tâm niệm: “Suốt đời tôi hết lòng hết sức phục vụ Tổ quốc, phục vụ cách mạng, phục vụ nhân dân. Nay dù phải từ biệt thế giới này, tôi không có gì phải hối hận, chỉ tiếc là tiếc rằng không được phục vụ lâu hơn nữa, nhiều hơn nữa”.
 Ngay cả việc ra đi của Người, Người vẫn còn lo cho nhân dân, khi Người căn dặn: “Sau khi tôi đã qua đời, chớ nên tổ chức điếu phúng linh đình, để khỏi lãng phí thì giờ và tiền bạc của nhân dân”.
Nhân dân luôn trong trái tim của Người, tất cả vì nhân dân, dành cho nhân dân. Người viết: “Cuối cùng, tôi để lại muôn vàn tình thân yêu cho toàn dân, toàn Đảng, cho toàn thể bộ đội, cho các cháu thanh niên và nhi đồng”.
Đoạn cuối cùng của bản Di chúc thiêng liêng, Người viết: “Điều mong muốn cuối cùng của tôi là: Toàn Đảng, toàn dân ta đoàn kết phấn đấu, xây dựng một nước Việt Nam hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh, và góp phần xứng đáng vào sự nghiệp cách mạng thế giới”. Sau bao biến cố thăng trầm của CNXH, thế giới chúng ta phải coi đây chính là đặc trưng cơ bản nhất của một nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Sau 50 năm thực hiện Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh, chúng ta càng thấy rõ hơn tầm nhìn chiến lược, tư tưởng thiên tài của Người từ cách đây trên nửa thế kỷ đã, đang và sẽ vẫn là ngọn đuốc soi đường, định hướng cho cách mạng Việt Nam. Sau 50 năm thực hiện Di chúc, chúng ta soi xét vào từng lời dặn của Người, tự hào đã làm được nhiều việc, trân trọng những thành quả đã đạt được, nhưng không khỏi đau lòng về những thiếu sót, hạn chế, những tiêu cực đang diễn ra trong xã hội. Trong Đảng vẫn còn sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên.
Bước vào thời kỳ hội nhập quốc tế, trước những tác động của kinh tế thị trường, một bộ phận cán bộ, đảng viên, kể cả cán bộ cấp cao có xu hướng chạy theo chủ nghĩa cá nhân; một số tổ chức Đảng có biểu hiện mất đoàn kết nội bộ, chưa tôn trọng và thực hiện chưa đúng nguyên tắc tập trung dân chủ. Việc tự phê bình và phê bình có nơi trở nên hình thức, có nơi bị lợi dụng để đấu đá, hạ bệ lẫn nhau. Bên cạnh đó, những biểu hiện cơ hội chủ nghĩa, “lợi ích nhóm", tính cục bộ địa phương có nơi đã xuất hiện và phá hoại sự đoàn kết thống nhất trong Đảng. Ở nhiều nơi, chính người đứng đầu chịu trách nhiệm trước cấp ủy cấp trên và cấp mình về sự đoàn kết thống nhất nội bộ lại chưa thực sự gương mẫu, chưa thấm nhuần ý thức xây dựng khối đoàn kết thống nhất trong nội bộ. Chính vì vậy, việc lựa chọn người đứng đầu có đủ phẩm chất, năng lực, có vai trò tiền phong, gương mẫu là rất quan trọng. Người đứng đầu cấp ủy, chính quyền phải thực sự công bằng, công tâm trong xử lý công việc, phải thực sự là trung tâm quy tụ, đoàn kết của tổ chức Đảng, của tập thể cơ quan, đơn vị.
Thực tế cho thấy, đoàn kết thống nhất trong cán bộ lãnh đạo ở cấp càng cao thì tác động, ảnh hưởng đối với Đảng càng mạnh, sức lan tỏa ra xã hội càng lớn. Ngược lại, những người nắm trọng trách lãnh đạo, không có ý thức đoàn kết thống nhất thì không những gây nguy hại mà còn tạo ra những nguy cơ lớn, khó lường cho toàn Đảng.
Trong thời điểm đất nước đang đứng trước những thời cơ, vận hội mới nhưng cũng đầy những thử thách lớn lao, những thành tựu mà toàn Đảng, toàn dân đạt được qua gần 35 năm thực hiện công cuộc đổi mới toàn diện đất nước chính là kết quả của sự đoàn kết thống nhất của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta, là minh chứng khẳng định sự trưởng thành và vững mạnh của Đảng. Tuy nhiên, trong bối cảnh tình hình thế giới diễn biến phức tạp, khó lường, bên cạnh những thành tựu đạt được, chúng ta vẫn đang phải đối mặt với nhiều khó khăn, phức tạp. Các thế lực thù địch luôn tìm mọi cách, bằng nhiều âm mưu thâm độc, xảo quyệt, kích động chia rẽ nội bộ, gây mất đoàn kết trong Đảng. Chính vì vậy, tăng cường đoàn kết và thống nhất trong Đảng từ Trung ương đến cơ sở là điều tất yếu và cấp thiết trong giai đoạn hiện nay.
Giờ đây, đoàn kết thống nhất trong Đảng càng phải được xem là một chiến lược lâu dài đối với sự nghiệp cách mạng. Là Đảng duy nhất cầm quyền, Đảng ta càng phải xây dựng, củng cố sự đoàn kết thống nhất, có như vậy thì hệ thống chính trị, các tầng lớp nhân dân, các dân tộc mới đoàn kết xung quanh Đảng. Đoàn kết trong Đảng chính là tấm gương cho cả hệ thống chính trị và là nhân tố quyết định bảo đảm đoàn kết dân tộc.
Trước thềm Đại hội XIII của Đảng, trước thời điểm phải lựa chọn những người xứng đáng, vừa có tài, vừa có đức để đảm nhận những trọng trách lãnh đạo đất nước, thì hơn bao giờ hết, chúng ta càng phải phát huy truyền thống đoàn kết thống nhất. Đây là trách nhiệm lớn, mà trước hết là của tập thể, cá nhân lãnh đạo từ Trung ương đến từng cơ sở. Mỗi cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ giữ trọng trách lãnh đạo từ cấp cao đến cấp cơ sở phải thực sự thực hiện nghiêm lời căn dặn của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong Di chúc. “Các đồng chí từ Trung ương đến các chi bộ cần giữ gìn sự đoàn kết nhất trí của Đảng như giữ gìn con ngươi của mắt mình”.

NGUYỄN VĂN CÔNG. Điều mong muốn cuối cùng trong Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh / Nguyễn Văn Công // Tạp chí Lý luận chính trị. - 2019. - Số 5. - Tr. 18-21  

Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh là tài sản vô giá của Đảng và nhân dân ta, có giá trị lý luận và thực tiễn to lớn về nhiều mặt, đó là sự kết tinh của tinh hoa văn hóa dân tộc với tinh hoa văn hóa nhân loại, là những chỉ dẫn quý báu, là nguồn cổ vũ, động viên to lớn với toàn Đảng, toàn dân, toàn quân trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh được Người viết và sửa nhiều lần trong giai đoạn 1965-1969, thời điểm cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước diễn ra hết sức ác liệt và có những dấu mốc quan trọng; cách mạng dù còn khó khăn, song đang trên đà thắng lợi, đòi hỏi sự đoàn kết, chiến đấu bền bỉ của toàn Đảng, toàn quân, toàn dân với niềm tin vững chắc vào thắng lợi cuối cùng.
Những bút tích của Chủ tịch Hồ Chí Minh còn lưu lại trong các bản Di chúc đã cho thấy, đây là văn bản được Người tập trung thời gian, suy nghĩ, chỉnh sửa nhiều nhất so với các văn bản bút tích để lại. Điều đó thể hiện tinh thần trách nhiệm của Người trước sự nghiệp cách mạng của dân tộc, đó còn là tấm lòng của vị lãnh tụ với tương lai đất nước. Bản Di chúc còn mang nét độc đáo rất riêng, đó là, dù bút tích Bác ghi rõ “Tuyệt đối bí mật”, nhưng đây lại là tài liệu được công bố rộng rãi nhất, được nhiều thế hệ học tập, noi theo. Toàn văn Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã được Bộ Chính trị cho công bố và xuất bản cùng ngày tổ chức lễ quốc tang (9-9-1969). Di chúc và toàn bộ tư tưởng của Người là tài sản vô giá để lại cho Đảng và nhân dân ta.
Là người sáng lập, giáo dục và rèn luyện Đảng ta, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dẫn dắt Đảng và dân tộc ta đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác, Người đặc biệt quan tâm căn dặn: “Trước hết nói về Đảng” và nhấn mạnh “Đoàn kết là một truyền thống cực kỳ quý báu của Đảng và của dân ta”. Người tâm huyết nhắc nhở các đồng chí từ Trung ương đến các chi bộ “cần phải giữ gìn sự đoàn kết nhất trí của Đảng như giữ gìn con ngươi của mắt mình”.
Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng chỉ rõ, muốn làm được việc đó thì trong Đảng phải đoàn kết nhất trí, thực hành dân chủ, tự phê bình và phê bình, phải có tình đồng chí thương yêu lẫn nhau. Đặc biệt Người nhấn mạnh: “Đảng ta là một đảng cầm quyền. Mỗi đảng viên và cán bộ phải thật sự thấm nhuần đạo đức cách mạng, thật sự cần kiệm liêm chính, chí công vô tư. Phải giữ gìn Đảng ta thật trong sạch, phải xứng đáng là người lãnh đạo, là người đầy tớ thật trung thành của nhân dân”. Trong hai câu ngắn gọn nhưng Người liên tiếp sử dụng hai từ “thật sự” và “thật” như một lời nhắn gửi mang tính quy luật, phổ biến, phải làm thường xuyên, liên tục, nếu không Đảng khó lòng giữ vững vai trò cầm quyền của mình.
Để thực hiện đoàn kết, thống nhất trong Đảng, Chủ tịch Hồ Chí Minh yêu cầu phải thực hiện các nguyên tắc tổ chức và sinh hoạt của Đảng, làm cho Đảng ta thật sự trong sạch, vững mạnh. Người chỉ rõ: “việc cần phải làm trước tiên là chỉnh đốn lại Đảng, làm cho mỗi đảng viên, mỗi đoàn viên, mỗi chi bộ đều ra sức làm tròn nhiệm vụ Đảng giao phó cho mình, toàn tâm toàn ý phục vụ nhân dân. Làm được như vậy, thì dù công việc to lớn mấy, khó khăn mấy chúng ta cũng nhất định thắng lợi”.
Trong Di chúc, Người cũng chỉ rõ: “Cuộc kháng chiến chống Mỹ có thể kéo dài mấy năm nữa...” và “Dù khó khăn gian khổ đến mấy, nhân dân ta nhất định sẽ hoàn toàn thắng lợi”. Sau khi chiến tranh kết thúc, Người căn dặn: “công việc toàn đảng, toàn quân và toàn dân ta phải ra sức làm là mau chóng hàn gắn vết thương nghiêm trọng do đế quốc Mỹ gây ra trong cuộc chiến tranh xâm lược dã man”. Đó là công việc khó khăn, vô cùng phức tạp nên Người rất quan tâm căn dặn trong Di chúc.
Đối với Đoàn viên thanh niên, trong Di chúc, Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ vai trò của thanh niên trong sự nghiệp cách mạng, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, là đội hậu bị của Đảng, là người chủ tương lai của đất nước, do vậy Đảng phải chăm lo bồi dưỡng đạo đức cách mạng cho họ. Đó là thể hiện sự quan tâm sâu sắc của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh đối với việc bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau. Người căn dặn và nhấn mạnh: “Đảng cần phải chăm lo giáo dục đạo đức cách mạng cho họ, đào tạo họ thành những người thừa kế xây dựng chủ nghĩa xã hội vừa “hồng” vừa “chuyên”.
Bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau là một việc rất quan trọng và rất cần thiết”.
Dân tộc ta đã trải qua nhiều cuộc chiến tranh chống giặc ngoại xâm bảo vệ nền độc lập dân tộc. Sau mỗi lần chiến thắng, ông cha ta lại có kế sách để bồi dưỡng sức dân, tăng cường lực lượng. Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã kế thừa truyền thống quý báu đó của dân tộc ta. Với tình thương bao la dành cho mọi tầng lớp nhân dân, Người đặc biệt quan tâm và căn dặn: “Nhân dân lao động ta ở miền xuôi cũng như miền núi, đã bao đời chịu đựng gian khổ, bị chế độ phong kiến và thực dân áp bức bóc lột, lại kinh qua nhiều chiến tranh (...) Đảng cần phải có kế hoạch thật tốt để phát triển kinh tế và văn hóa, nhằm không ngừng nâng cao đời sống của nhân dân”.
Lời căn dặn của Chủ tịch Hồ Chí Minh về nhân dân chứng tỏ Người hiểu thấu đáo ngọn nguồn về nhân dân, thực sự quan tâm lo lắng cho dân và mối quan hệ giữa Đảng với dân, dân với Đảng. Trong tình thương bao la dành cho mọi tầng lớp nhân dân, Chủ tịch Hồ Chí Minh trăn trở nhiều đến nông dân. Người nhấn mạnh những đóng góp to lớn của nông dân, vai trò của nông dân đối với sự nghiệp cách mạng của nước nhà: “Trong bao năm chống thực dân Pháp, tiếp đến chống đế quốc Mỹ, đồng bào ta, nhất là đồng bào nông dân đã luôn hết sức trung thành với Đảng và Chính phủ ta, ra sức góp của góp người, vui lòng chịu đựng mọi khó khăn gian khổ. Nay ta đã hoàn toàn thắng lợi, tôi có ý đề nghị miễn thuế nông nghiệp một năm cho các hợp tác xã sản xuất nông nghiệp để cho đồng bào hỉ hả, mát dạ, mát lòng, thêm nhiều phấn khởi, đẩy mạnh sản xuất”.
Đối với con nguời, Chủ tịch Hồ Chí Minh căn dặn: “Đầu tiên là công việc đối với con người. Đối với những người đã dũng cảm hy sinh một phần xương máu của mình (...), Đảng, Chính phủ và đồng bào phải tìm mọi cách làm cho họ có nơi ăn chốn ở yên ổn, đồng thời phải mở những lớp dạy nghề thích hợp với mỗi người để họ có thể dần dần “tự lực cách sinh” (...), quyết không để họ bị đói rét”. Ngay đối với những nạn nhân của chế độ xã hội cũ, Người cũng nhắc nhở “Nhà nước phải dùng vừa giáo dục, vừa dùng pháp luật để cải tạo họ, giúp đỡ họ trở nên những người lao động lương thiện”.
Trong Di chúc, Chủ tịch Hồ Chí Minh đưa ra lời tiên đoán có tính chất khẳng định, như một tất yếu của lịch sử: “Cuộc kháng chiến chống Mỹ có thể kéo dài mấy năm nữa. Đồng bào ta có thể hy sinh nhiều của nhiều người. Dù sao, chúng ta phải quyết tâm đánh giặc Mỹ đến thắng lợi hoàn toàn”. Trong Di chúc, Người viết: “...Tôi mong rằng, Đảng ta sẽ ra sức hoạt động, góp phần đắc lực vào việc khôi phục lại khối đoàn kết giữa các đảng anh em trên nền tảng chủ nghĩa Mác - Lênin và chủ nghĩa quốc tế vô sản, có lý, có tình”.
Suốt đời phục vụ nhân dân, đất nước, trong Di chúc, Chủ tịch Hồ Chí Minh không đề cập đến “cá nhân” hay “bản thân”, mà nói “về việc riêng”, bởi suốt đời Người phấn đấu cho hạnh phúc chung của toàn dân. Cái riêng của Người hòa trong cái chung của dân tộc. Suốt đời Người vì dân, vì nước, vì Đảng, nên không lúc nào Người nghĩ đến bản thân mình. Trước lúc đi xa, Người “không có điều gì phải hối hận” vì đã phục vụ cách mạng, phục vụ nhân dân hết sức, hết lòng. Người “chỉ tiếc là tiếc rằng không được phục vụ lâu hơn nữa, nhiều hơn nữa”, và “để lại muôn vàn tình thân yêu” cho toàn dân, toàn Đảng, cho toàn thể bộ đội, cho các cháu thanh niên và nhi đồng”.
Từ ngày Chủ tịch Hồ Chí Minh đi xa đến nay, toàn Đảng, toàn dân ta ra sức và quyết tâm thực hiện Di chúc thiêng liêng của Người, lấy nhiệm vụ xây dựng Đảng là then chốt, phát triển kinh tế là trọng tâm, cùng với phát triển văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội. Cách mạng nước ta phải trải qua muôn vàn thử thách, dù thế giới biến đổi khôn lường, toàn Đảng và toàn dân ta nguyện sống chiến đấu, lao động và học tập theo gương Bác Hồ vĩ đại. Thực hiện đúng như lời thề mà đồng chí Lê Duẩn, Bí thư thứ nhất, tuyên đọc khi vĩnh biệt Bác Hồ, chúng ta quyết tâm thực hiện những điều Bác căn dặn trong Di chúc: “mang lá cờ bách chiến bách thắng của HỒ CHỦ TỊCH tới đích cuối cùng”.
50 năm thực hiện Di chúc Bác Hồ, Đảng và nhân dân ta đã đạt được nhiều thắng lợi và thành tựu to lớn, đưa đất nước phát triển nhanh, bền vững lên một tầm cao mới. Song, vẫn còn nhiều thiếu sót, yếu kém, chưa làm được nhiều điều như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã căn dặn. Trong việc xây dựng Đảng, xây dựng Nhà nước, thực hiện quyền làm chủ của nhân dân và khối đại đoàn kết toàn dân tộc, bên cạnh những thành tựu và ưu điểm đáng kể, chúng ta còn vấp phải không ít sai lầm và khuyết điểm. Sự suy thoái về chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối sống, sự vi phạm các nguyên tắc về tổ chức và sinh hoạt, sự lạm dụng quyền lực, tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí trong một bộ phận cán bộ, đảng viên đã có những tác động tiêu cực đến việc nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, làm giảm sút lòng tin của nhân dân đối với Đảng, với chế độ. Cuộc vận động xây dựng, chỉnh đốn Đảng được tiến hành trong nhiều năm qua, đặc biệt là Cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh” được phát động từ sau Đại hội X đến nay, chính là để Đảng ta khắc phục yếu kém và khuyết điểm, khôi phục và phát huy những phẩm chất cao đẹp vốn có.
Thực hiện Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh, cán bộ, đảng viên cần không ngừng tu dưỡng đạo đức cách mạng, thật sự “cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư”. Đồng thời, phải có bản lĩnh chính trị vững vàng, lập trường tư tưởng kiên định, xây dựng Đảng ta thật sự trong sạch, vững mạnh, hoàn thành lời Người căn dặn trong Di chúc: “điều mong muốn cuối cùng: “Toàn Đảng, toàn dân ta đoàn kết phấn đấu, xây dựng một nước Việt Nam hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh, và góp phần xứng đáng vào sự nghiệp cách mạng thế giới”.
 

TRẦN VIẾT HOÀN. 50 năm thực hiện di chúc Chủ tịch Hồ Chí Minh: Học lại Di chúc của Bác Hồ / Trần Viết Hoàn // Báo Sài Gòn giải phóng. - 2019. - Số 15073. - Ngày 14/5. - Tr. 3

 Đã 50 năm trôi qua nhưng bản Di chúc thiêng liêng Bác Hồ để lại cho chúng ta vẫn mãi là một văn kiện lịch sử, một tài sản tinh thần vô giá, kết tinh toàn bộ tinh hoa tư tưởng, tâm hồn và đạo đức vô cùng trong sáng, đẹp đẽ của một lãnh tụ rất đời thường mà rất vĩ đại, suốt đời phụng sự Tổ quốc, phục vụ cách mạng, phục vụ nhân dân. Những thành tựu to lớn, bài học rút ra qua 50 năm thực hiện Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh; khẳng định toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta quyết tâm tiếp tục phấn đấu thực hiện thắng lợi Di chúc thiêng liêng và con đường cách mạng mà Bác Hồ đã chọn, đó là: Độc lập dân tộc gắn liền với Chủ nghĩa xã hội.

1. Bác Hồ vĩnh biệt chúng ta đã 50 năm. Trong suốt 50 năm qua và mãi mãi, lòng mỗi người không bao giờ nguôi niềm tưởng nhớ, nỗi tiếc thương và lòng biết ơn sâu sắc đối với vị lãnh tụ anh hùng của dân tộc, người thầy vĩ đại của nhân dân ta, người lãnh tụ thiên tài của Đảng, của dân tộc, người Bác kính yêu của chúng ta, nhà văn hóa lớn của nhân loại. Bởi vậy, 50 năm và mãi mãi về sau, tuy Bác xa chúng ta, nhưng Bác lại rất gần chúng ta để đưa đường cho chúng ta đi bằng ngọn đèn tỏa sáng là Di chúc của Người.
Buổi sáng 10-5-1965, khắp nơi trong cả nước đang sôi nổi thi đua lập thành tích mừng thọ Bác Hồ 75 tuổi, tại ngôi nhà sàn trong khu Phủ Chủ tịch, đúng 9 giờ - giờ đẹp nhất của một ngày, chọn đúng lúc sức khỏe tốt nhất trong những năm gần đây để viết về ngày ra đi của mình và viết những điều dặn lại cháu con, Bác Hồ thanh thản, ung dung, tự tại. Bác Hồ suy nghĩ về việc này từ đầu những năm 60 của thế kỷ 20, sau khi dự hội nghị đại biểu Đảng Cộng sản và công nhân quốc tế từ Mátxcơva trở về. Càng tự hào với sự lớn mạnh của phong trào cộng sản và công nhân quốc tế bao nhiêu thì Bác càng đau lòng bấy nhiêu vì sự bất đồng dẫn đến những bất hòa giữa các đảng anh em, nhất là trong việc đánh giá kẻ thù. Đế quốc Mỹ không bỏ lỡ cơ hội, dấn sâu thêm bàn tay tội ác vào Việt Nam. Tháng 2-1965, không quân Mỹ ồ ạt leo thang đánh phá miền Bắc. Tháng 3-1965, quân viễn chinh Mỹ bắt đầu đổ bộ lên Đà Nẵng. Lịch sử lại trao cho dân tộc một sự nghiệp trọng đại: cả nước tiến hành cuộc chống Mỹ cứu nước.
Năm 1945-1946, vận mệnh dân tộc ta cũng đã ở thế “ngàn cân treo sợi tóc”. Nhưng khi đó, Bác Hồ mới tuổi 55, 56. Vì vậy, Người đã nguyện với dân tộc “Phận sự tôi như một người cầm lái, phải chèo chống thế nào để đưa con thuyền Tổ quốc vượt qua khỏi cơn sóng gió mà an toàn đi đến bờ bến hạnh phúc của nhân dân”. Còn giờ đây thời điểm tháng 5-1965, Bác Hồ đã tuổi 75, thuộc lớp người “xưa nay hiếm”, “Ai đoán biết tôi sẽ sống và phục vụ Tổ quốc, phục vụ cách mạng mấy năm, mấy tháng nữa”. Bác Hồ hiểu rõ hơn ai hết tình hình sức khỏe của Người và sự nghiệp cách mạng lâu dài, gian khổ mà dân tộc ta cần phải vượt qua. Người đã biết rất rõ rằng không thể sống đến ngày thống nhất Tổ quốc, bởi thế Người dặn lại cho Đảng, cho dân, cho cháu con định hướng chiến lược mà phấn đấu.
2. Di chúc mà Bác gửi lại cho nước, cho dân, cho Đảng là một văn kiện lịch sử vô giá, kết tinh trong đó cả tinh hoa tư tưởng, đạo đức và tâm hồn cao đẹp của một vĩ nhân hiếm có đã trọn một đời phấn đấu hy sinh vì Tổ quốc và nhân dân. Di chúc đã khẳng định thắng lợi tất yếu của sự nghiệp chống Mỹ cứu nước ngay từ khi nó đang diễn ra quyết liệt, đồng thời cũng vạch ra những định hướng mang tính cương lĩnh cho sự phát triển của đất nước sau khi kháng chiến thắng lợi. Di chúc là sự chăm lo của Người đối với sứ mệnh của Đảng:
“Việc cần phải làm trước tiên là chỉnh đốn lại Đảng, làm cho mỗi đảng viên, mỗi đoàn viên, mỗi chi bộ đều ra sức làm tròn nhiệm vụ Đảng giao phó cho mình, toàn tâm, toàn ý phục vụ nhân dân. Làm được như vậy, thì dù công việc to lớn mấy, khó khăn mấy chúng ta cũng nhất định thắng lợi”. Trong Đảng phải đoàn kết nhất trí, thực hành dân chủ, tự phê bình và phê bình, phải có tình đồng chí thương yêu lẫn nhau. Đặc biệt Người nhấn mạnh vai trò của đạo đức cách mạng, vì “Đảng ta là một đảng cầm quyền. Mỗi đảng viên và cán bộ phải thật sự thấm nhuần đạo đức cách mạng, thật sự cần kiệm liêm chính, chí công vô tư. Phải giữ gìn Đảng ta thật trong sạch, phải xứng đáng là người lãnh đạo, người đầy tớ thật trung thành của nhân dân”.
Di chúc đã căn dặn: “Đảng cần phải có kế hoạch thật tốt để phát triển kinh tế và văn hóa, nhằm không ngừng nâng cao đời sống của nhân dân”. Điều đầu tiên là “công việc đối với con người”; trước hết là với cán bộ, chiến sĩ, dân quân du kích… những người đã hy sinh một phần xương máu của họ… phải giúp đỡ họ có công việc làm ăn thích hợp, quyết không để họ bị đói rét. Ngay đối với những nạn nhân của chế độ xã hội cũ, Người cũng nhắc nhở “Nhà nước phải vừa giáo dục, vừa dùng pháp luật để cải tạo họ, giúp đỡ họ trở nên những người lao động lương thiện”.
Đối với “đồng bào ta, nhất là đồng bào nông dân đã luôn luôn hết sức trung thành với Đảng, với Chính phủ, ra sức góp của, góp người, vui lòng chịu đựng mọi việc khó khăn gian khổ” trong 2 cuộc kháng chiến chống Pháp, chống đế quốc Mỹ, “nay kháng chiến đã hoàn toàn thắng lợi”, Bác “đề nghị miễn thuế nông nghiệp 1 năm cho các hợp tác xã nông nghiệp để cho đồng bào hể hả, mát dạ, mát lòng, thêm niềm phấn khởi, đẩy mạnh sản xuất”. Di chúc thể hiện sự quan tâm sâu sắc của Người đối với việc “bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau”, Người đề nghị Đảng, Chính phủ cần lựa chọn những người ưu tú trong số những chiến sĩ trẻ tuổi và thanh niên xung phong, cử họ đi học để đào tạo thành “đội quân chủ lực trong công cuộc xây dựng thắng lợi CNXH ở nước ta”. Di chúc “mong rằng Đảng ta sẽ ra sức hoạt động: góp phần đắc lực vào việc khôi phục lại khối đoàn kết giữa các đảng anh em trên nền tảng chủ nghĩa Mác - Lênin và chủ nghĩa quốc tế vô sản, có lý, có tình; góp phần xứng đáng vào sự nghiệp cách mạng thế giới”.
3. Về việc riêng, trọn đời Người đã hy sinh phấn đấu cho sự nghiệp của dân tộc và nhân loại, nên dù phải từ biệt thế giới này, Người không có điều gì phải hối hận, chỉ tiếc rằng không được phục vụ lâu hơn nữa, nhiều hơn nữa. Người đề nghị, sau khi Người qua đời chớ nên tổ chức đình đám, lãng phí ngày giờ và tiền bạc của nhân dân, thi hài Người đề nghị “đốt đi” để tốt về mặt vệ sinh, “lại không tốn đất”.
Di chúc mang giá trị nhân văn cao cả, mong mọi người, căn dặn mọi người, mà đặc biệt là đảng viên, cán bộ, những người có chức trọng quyền cao của Đảng cầm quyền cần phải xây dựng, rèn luyện mình tư chất ở đời và làm người. Ở đời thì phải thân dân, gần dân, lo cái lo của dân, đau cái đau của dân. Làm người thì phải chính tâm, phải cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư; cần phải giữ trọn đạo nghĩa của truyền thống dân tộc: “Uống nước nhớ nguồn”, “Ăn quả nhớ người trồng cây” - có cơ đồ, sự nghiệp mà mình đang được thừa hưởng là nhờ sự đắp móng, xây nền, sự giành giật bằng mồ hôi, công sức, nước mắt và xương máu của tổ tiên, của những bậc tiền bối, cán bộ, đồng bào, chiến sĩ…
Di chúc đã phản ánh tâm hồn cao đẹp, đạo đức trong sáng - “muôn vàn tình thân yêu” của lãnh tụ đối với Tổ quốc, với nhân dân, với phong trào cách mạng thế giới, với bạn bè khắp năm châu, đặc biệt với thanh niên và nhi đồng. Di chúc mãi mãi là những lời dặn thiết tha, là ánh sáng chỉ đường, là sức mạnh thôi thúc hành động, không chỉ đối với nhân dân ta, mà còn đối với tất cả những ai đang đấu tranh cho tự do, độc lập, cho hòa bình, công lý, cho cơm áo và hạnh phúc của con người.

Kỷ niệm 50 năm thực hiện Di chúc của Bác, lại thêm một dịp để mỗi người chúng ta báo cáo với Bác những công việc mà mình đã thực hiện, đang thực hiện và sẽ thực hiện theo những lời dặn dò, nhắn nhủ và mong đợi của Bác. Và đây cũng là một cơ hội tốt để mỗi người chúng ta thật thà tự phê bình và phê bình, xem xét lại mình một cách nghiêm chỉnh, thấy rõ những sai lầm để sửa chữa, thấy rõ những ưu điểm để phát huy thêm. Từ đó, tất cả mọi người đem lòng đoàn kết với tình thương yêu đồng chí, đồng loại và giúp nhau tiến bộ, “vứt bỏ cái ba lô chủ nghĩa cá nhân”, để xây dựng một xã hội công bằng, dân chủ, văn minh như Bác Hồ vẫn từng mong và ngày nay Đảng ta đã, đang trăn trở phấn đấu thực hiện.

 

HOÀNG CHÍ BẢO. Tầm cao tư tưởng, niềm tin son sắt của Chủ tịch Hồ Chí Minh / Hoàng Chí Bảo // Báo Quân đội nhân dân. - 2019. - Số 20878. - Ngày 23/5. - Tr. 1,2 

Bản Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh là một mẫu mực về tổng kết lý luận-thực tiễn mang tầm tư tưởng chiến lược của bậc vĩ nhân. Là Chủ tịch Đảng và Chủ tịch nước, 24 năm liên tục là nguyên thủ quốc gia, Hồ Chí Minh đã thể hiện trong Di chúc với hơn 1.000 từ-một đại tổng kết lý luận và thực tiễn cách mạng Việt Nam gắn liền với cuộc đời và sự nghiệp của Người, với những chặng đường trong cuộc hành trình lịch sử của dân tộc và của Đảng, vì lý tưởng và mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, vì độc lập-tự do-hạnh phúc của nhân dân. Thực hiện Di chúc của Người, chúng ta đã vượt qua bao thử thách cam go, chiến đấu gian lao và anh dũng “đánh thắng hai đế quốc to”; toàn Đảng, toàn dân một ý chí, một niềm tin son sắt, hành động với sức mạnh đoàn kết muôn triệu người để giành thắng lợi, hướng tới tương lai.
Trong Di chúc, trên bình diện tư tưởng, Người đã đề cập toàn diện các vấn đề cách mạng giải phóng dân tộc ở miền Nam, về cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc, về Đảng và xây dựng Đảng cầm quyền thực sự trong sạch, vững mạnh, về Nhà nước và thực hành dân chủ, thực sự là nhà nước của dân, do dân và vì dân. Di chúc trù tính việc trước mắt và việc lâu dài, về dân tộc và quốc tế; về công việc tương lai, tái thiết đất nước sau chiến tranh, xây dựng đất nước đàng hoàng hơn, to đẹp hơn, làm tất cả mọi việc vì hạnh phúc của nhân dân.
Niềm tin tưởng mãnh liệt của Người vào thắng lợi hoàn toàn của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước trong hoàn cảnh chiến tranh đang diễn ra hết sức ác liệt, đồng bào, chiến sĩ cả nước đang chịu đựng nhiều gian khổ, hy sinh, vượt qua muôn vàn thử thách khó khăn và tình hình quốc tế cũng đang diễn biến phức tạp… cho thấy tầm nhìn xa trông rộng của Người. Đó là niềm tin khoa học, nhìn thấu xu thế phát triển của tình hình, tính tất yếu thắng lợi của chính nghĩa cách mạng và sự thất bại không thể nào tránh khỏi của chiến tranh xâm lược phi nghĩa, trái đạo lý và phản nhân văn mà đế quốc, thực dân gây ra. Người tin tưởng, khẳng định và nhấn mạnh: “Cuộc chống Mỹ, cứu nước của nhân dân ta dù phải kinh qua gian khổ, hy sinh nhiều hơn nữa, song nhất định thắng lợi hoàn toàn. Đó là một điều chắc chắn”.
Với Hồ Chí Minh, niềm tin thúc đẩy hành động. Người hình dung “cuộc kháng chiến chống Mỹ có thể còn kéo dài. Đồng bào ta có thể phải hy sinh nhiều của, nhiều người. Dù sao chúng ta phải quyết tâm đánh giặc Mỹ đến thắng lợi hoàn toàn". Và hành động lại góp phần củng cố niềm tin: “Dù khó khăn gian khổ đến mấy, nhân dân ta nhất định sẽ hoàn toàn thắng lợi. Đế quốc Mỹ nhất định phải cút khỏi nước ta. Tổ quốc ta nhất định sẽ thống nhất. Đồng bào Nam Bắc nhất định sẽ sum họp một nhà".
Từng lời, từng chữ của Người trong Di chúc đều toát lên sự kiên định, nhất quán của tư tưởng, sự vĩ đại của niềm tin không gì lay chuyển được.
Động lực sâu xa thúc đẩy Người tin tưởng mãnh liệt như thế và thức tỉnh đồng bào, chiến sĩ hành động dũng cảm, quyết liệt như thế, không có gì khác đó là tình yêu và tình cảm của Người với Tổ quốc và nhân dân mà cả cuộc đời mình, Người đã tự nguyện dấn thân và dâng hiến cho dân, cho nước. Nó lắng đọng, bền bỉ, thường trực trong suy tư và cảm xúc, trong trái tim và trí óc của Người.
Cũng trong bối cảnh của Di chúc, Người đã từng kêu gọi đồng bào, chiến sĩ ta “Hễ còn một tên xâm lược trên đất nước ta, thì ta còn phải tiếp tục chiến đấu, quét sạch nó đi”, phải “đánh cho Mỹ cút, đánh cho ngụy nhào”, “Tiến lên! Toàn thắng ắt về ta”, để cho “Bắc-Nam sum họp, xuân nào vui hơn!”… Người đã thực sự truyền cảm hứng tới toàn dân tộc. Trong giờ phút thử thách ác liệt, cam go của cuộc chiến đấu, cũng như trong suốt cuộc hành trình lịch sử không ngừng không nghỉ của dân tộc để bảo vệ quyền sống, quyền tự do, giữ gìn và nâng cao phẩm giá con người, Hồ Chí Minh luôn là ngọn cờ dẫn dắt toàn dân tộc, gắn bó máu thịt với nhân dân mình, cuộc đời Người ở trong sự sống và số phận của nhân dân, dân tộc mình.
Hãy nhớ lại những sự kiện tiêu biểu in dấu ấn của Người trong mỗi bước ngoặt của cách mạng. Bên thềm của Cách mạng Tháng Tám giải phóng dân tộc, Người từng căn dặn chúng ta với quyết tâm sắt đá “dù phải đốt cháy cả dãy Trường Sơn cũng phải kiên quyết giành cho được độc lập”. Giữa khói lửa của cuộc chiến tranh xâm lược trở lại của thực dân Pháp, ngày 19-12-1946, Người ra lời kêu gọi đồng bào, chiến sĩ cả nước “thà hy sinh tất cả, chứ nhất định không chịu mất nước, không chịu làm nô lệ”. Đó là lời thề thiêng liêng đối với Tổ quốc mà nguyên thủ quốc gia Hồ Chí Minh đã thay mặt toàn thể quốc dân đồng bào nói lên ý chí của toàn dân tộc.
Hai mươi năm sau, vào lúc 76 tuổi, khi đã khởi thảo xong lần đầu bản Di chúc, ngày 17-7-1966, Người ra lời kêu gọi đồng bào, chiến sĩ cả nước. Trong lời kêu gọi ấy, nổi bật một tư tưởng lớn, một sự lựa chọn giá trị được khẳng định: “Không có gì quý hơn độc lập, tự do”. Đó là chân lý của muôn đời, rọi sáng nhận thức, giúp chúng ta hiểu rõ vì sao niềm tin vào thắng lợi và ý chí chiến đấu vì thắng lợi hoàn toàn của Người mãnh liệt đến như vậy.
Chỉ cần lưu ý tới một chi tiết trong văn phong của Người thì đủ rõ. Bốn lần trong một đoạn văn ngắn, Người nhấn mạnh tới từ “nhất định” để khẳng định niềm tin chiến thắng.
Trong Di chúc, Người căn dặn: “Các đồng chí từ Trung ương đến các chi bộ cần phải giữ gìn sự đoàn kết nhất trí của Đảng như giữ gìn con ngươi của mắt mình”. Đây là nhân tố làm nên sức sống, sức chiến đấu của một Đảng cách mạng mà lẽ sống, sự tồn tại của Đảng chỉ vì nhân dân. Đoàn kết trong Đảng, muôn người như một còn là sức mạnh của trí tuệ khoa học và đạo đức cách mạng của toàn Đảng, của từng tổ chức Đảng đến mỗi một đảng viên.
Theo Hồ Chí Minh, đoàn kết trong Đảng còn là động lực và sự nêu gương, thúc đẩy đoàn kết toàn dân tộc, gắn liền với đoàn kết quốc tế. Với Hồ Chí Minh, lãnh tụ tối cao của Đảng và của dân tộc, đoàn kết là nỗ lực phấn đấu, là mẫu mực thực hành trong suốt cuộc đời của Người. Trước tình trạng xảy ra mất đoàn kết, sự bất hòa giữa các đảng anh em, Người dằn vặt, lo âu đến mức đau đớn.
Là người chiến sĩ cách mạng, luôn tin tưởng, lạc quan vào sự nghiệp cách mạng, luôn tự hào về sự lớn mạnh của phong trào cộng sản thế giới mà Người phải nói đến “sự đau lòng” về tình trạng bất hòa giữa các đảng anh em thì nỗi đau ấy của Người thấm thía biết chừng nào. Với nghị lực phi thường, với tấm lòng cao cả, Người thường nén chặt nỗi đau nhân thế ở trong lòng. Ngay trong ngôn từ, hiếm khi Người nói tới sự đau buồn, vậy mà trong Di chúc, Người phải nói đến “tự hào bao nhiêu” thì cũng “đau lòng bấy nhiêu” trước những sóng gió âm ỉ trong phong trào cộng sản quốc tế mà Người cảm nhận sâu sắc hơn ai hết, thì nỗi đau của Người là tất cả tinh thần trách nhiệm không chỉ đối với Đảng, với dân tộc mà còn đối với quốc tế và nhân loại. Thêm một lần nữa, ta nhận ra sự cao thượng vĩ đại của Người.
Người căn dặn Đảng ta “ra sức hoạt động, góp phần đắc lực vào việc khôi phục lại khối đoàn kết giữa các đảng anh em trên nền tảng Chủ nghĩa Mác-Lênin và chủ nghĩa quốc tế vô sản, có lý, có tình”. Đây cũng chính là một trong những phương diện xây dựng Đảng của Đảng ta, là trách nhiệm cao cả của Đảng ta đối với phong trào cộng sản quốc tế và cách mạng thế giới theo Di chúc của Người. 
NGÔ THIÊN PHƯƠNG. Những lời căn dặn, chỉ dẫn thiết thực của Người / Ngô Thiên Phương // Báo Quân đội nhân dân. - 2019. - Số 20821. - Ngày 26/3. - Tr. 1,7
Tròn 50 năm chúng ta học tập và thực hiện Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh-bản Di chúc kết tinh và tỏa sáng tâm hồn, trí tuệ của một con người vĩ đại. Học tập và thấm nhuần Di chúc của Người, chúng ta càng hiểu rõ giá trị lý luận, thực tiễn to lớn của văn kiện lịch sử vô giá và thấy rõ nhiều chỉ dẫn thiết thực cho hôm nay.
Tâm thế ung dung, bình tĩnh, luôn có cái nhìn lạc quan… là những nét đặc sắc trong phong cách Hồ Chí Minh. Với sự nghiệp cách mạng, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn có niềm tin sắt đá vào thắng lợi cuối cùng, dù ở những hoàn cảnh, những giai đoạn khó khăn, thử thách gian nan, ác liệt nhất. Chúng ta thấy rõ tinh thần này trong “Nhật ký trong tù” và nhiều tác phẩm của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Cho đến Di chúc-văn kiện lịch sử vô giá mà Người để lại cho muôn đời sau, chúng ta vẫn thấy một tinh thần, một nụ cười lạc quan tỏa sáng. Vẫn với văn phong giản dị, Người viết về sự ra đi như viết về sự bắt đầu của một hành trình mới. Như cánh hạc giữa trời, Người ung dung đi về cõi vĩnh hằng như một sự chuyển trạng thái nhẹ nhàng, bởi vì “Suốt đời tôi hết lòng hết sức phục vụ Tổ quốc, phục vụ cách mạng, phục vụ nhân dân. Nay dù phải từ biệt thế giới này tôi không có điều gì phải hối hận, chỉ tiếc là tiếc rằng không được phục vụ lâu hơn nữa, nhiều hơn nữa”.
Với cảm giác thanh thản của một người đã hoàn thành bổn phận, công việc của mình, Người xác định nhẹ nhàng việc ra đi và không muốn gây bất cứ một sự phiền toái nào: “Sau khi tôi đã qua đời, chớ nên tổ chức điếu phúng linh đình, để khỏi lãng phí thì giờ và tiền bạc của nhân dân”. Người mong muốn được gần gũi với nhân dân khắp mọi miền đất nước. Sự ung dung, thanh thản trước tuổi già và cái chết, đức khiêm nhường, tình thương yêu nhân dân bao la, đó là những phẩm chất chúng ta thấy rõ ở Người-một bậc vĩ nhân kiệt xuất.
 Với nhãn quan chính trị sáng suốt, những điều Chủ tịch Hồ Chí Minh dự đoán về bước phát triển của cách mạng Việt Nam, đã được lịch sử xác nhận là hoàn toàn chính xác. Với niềm tin sắt đá vào thắng lợi cuối cùng của cuộc kháng chiến chính nghĩa, trong Di chúc, Chủ tịch Hồ Chí Minh đề cập sớm đến những vấn đề mà Đảng ta, nhân dân ta cần chú ý thực hiện sau khi cuộc kháng chiến thắng lợi, mặc dù khi Người từ giã chúng ta, cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của quân và dân ta đang diễn ra hết sức ác liệt, với muôn vàn gian khổ, hy sinh. Những công việc Người trù liệu cho chúng ta sau ngày thắng lợi, được đề cập trong Di chúc đã vượt lên thời gian, trở thành những định hướng lớn trong sự nghiệp chấn hưng và phát triển đất nước những năm qua, hôm nay và mãi về sau.
Mỗi việc trong Di chúc Người “chỉ nói vắn tắt” nhưng là những định hướng chiến lược về phát triển kinh tế, chính trị, xã hội, văn hóa của đất nước sau chiến tranh; về chăm lo xây dựng Đảng, bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau; về quan tâm chăm lo, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân, để mong muốn cuối cùng của Người trong Di chúc trở thành hiện thực: “Toàn Đảng, toàn dân ta đoàn kết phấn đấu, xây dựng một nước Việt Nam hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh, và góp phần xứng đáng vào sự nghiệp cách mạng thế giới”. Đặc biệt, Người dành những dòng ngắn gọn, cô đọng để “Trước hết nói về Đảng…”.
Đứng trước nhiệm vụ nặng nề xây dựng lại đất nước sau chiến tranh, Người căn dặn: “...việc phải làm trước tiên là chỉnh đốn lại Đảng” để nâng cao năng lực, trình độ, trí tuệ và rèn luyện phẩm chất đạo đức của cán bộ, đảng viên, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng. Trong đó, vấn đề rèn luyện đạo đức cách mạng trong điều kiện Đảng cầm quyền được Chủ tịch Hồ Chí Minh đặc biệt nhấn mạnh: “Đảng ta là một Đảng cầm quyền. Mỗi đảng viên phải thật sự thấm nhuần đạo đức cách mạng, thật sự cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư. Phải giữ gìn Đảng ta thật trong sạch, phải xứng đáng là người lãnh đạo, là người đầy tớ thật trung thành của nhân dân”.
50 năm đã qua từ khi chúng ta học tập, không ngừng phấn đấu để thực hiện trọn vẹn những lời di huấn thiêng liêng cuối cùng Người để lại trong Di chúc. Có nhiều việc chúng ta đã và đang làm tốt, đạt được những kết quả nhất định, như: Công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng, công tác đền ơn đáp nghĩa, xóa đói giảm nghèo, xây dựng cơ sở hạ tầng; từng bước nâng cao đời sống của nhân dân, bảo đảm an sinh xã hội; mở cửa hội nhập quốc tế, nâng cao vị thế, uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế... Còn nhiều việc chúng ta phải tiếp tục đẩy mạnh, làm quyết liệt, phấn đấu nhiều hơn nữa, để xứng đáng với mong muốn của Người trước lúc đi xa, cũng là mong muốn, nguyện vọng của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta. Đó là tiếp tục làm tốt công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng, cải cách hành chính; phòng, chống, đẩy lùi tham nhũng, lãng phí, tiêu cực và các tệ nạn xã hội...
Những điều căn dặn, chỉ dẫn cuối cùng của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong Di chúc từ 50 năm trước vừa thiết thực, cụ thể, vừa mang tính chiến lược. Chúng ta hãy cùng đọc lại, luôn học tập, thấm nhuần và tâm niệm những điều Người căn dặn để thấy rõ hơn những định hướng quý báu mà Người chỉ ra trong sự nghiệp chấn hưng và phát triển đất nước, nhất là trong bối cảnh mới, trong tiến trình đất nước đổi mới, hội nhập ngày càng sâu rộng, để thực hiện tốt nhất những điều Người mong ước, căn dặn trong bản Di chúc bất hủ cách đây tròn nửa thế kỷ. 
NGUYỄN THÚY HỒNG DUYÊN. Thấm nhuần lời căn dặn về mối quan hệ giữa Đảng và dân theo Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh / Nguyễn Thúy Hồng Duyên // Sách Hồ Chí Minh và bản di chúc trường tồn lịch sử. - H. : Thanh niên, 2017. - Tr. 44-75
Trong bản Di chúc lịch sử để lại cho toàn Đảng, toàn quân và toàn dân ta, khi nói đến nhân dân lao động miền xuôi cũng như miền ngược, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định rằng: "Nhân dân ta rất anh hùng, dũng cảm, hăng hái, cần cù. Từ ngày có Đảng, nhân dân ta luôn luôn đi theo Đảng, rất trung thành với Đảng". Có thể nói đây là một đánh giá có tính tổng kết về những truyền thống cực kì quý giá của nhân dân ta; đồng thời đây còn là một khẳng định về sự gắn bó giữa nhân dân ta với Đảng mà chúng ta thường nói đó là "mối quan hệ máu thịt giữa Đảng và dân". Lời nhận xét của Chủ tịch Hồ Chí Minh tuygiản dị dễ hiểu, nhưng nội dung của vấn đề lại rất lớn, bởi nó có liên quan đến vấn đề nhận thức về mục tiêu cách mạng, về chiến lược và cả về phương pháp cách mạng nữa... do vậy, có thể có nhiều cách tiếp cận với vấn đề này ở nhiều góc độ khác nhau, trong bài viết nhỏ này chúng tôi muốn nêu lên mấy suy nghĩ về nhận thức vấn đề theo quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh.
1. Sở dĩ nhân dân ta "rất trung thành với Đảng", và mối quan hệ giữa Đảng với dân là mối quan hệ máu thịt, là vì nó xuất phát từ cơ sở vững chắc đó là: lí tưởng của Đảng, sự nghiệp của Đảng cũng chính là khát vọng muôn đời của nhân dân ta, đó là: "Độc lập dân tộc gắn liền với Chủ nghĩa xã hội". Trở lại lịch sử của dân tộc Việt Nam, chúng ta đều thấm thía một điều là: biết bao triều đại, biết bao thế hệ, đời này nối tiếp đời kia... dân tộc Việt Nam luôn luôn phải đấu tranh giành độc lập, bảo vệ và giải phóng dân tộc mình, với khát vọng cháy bỏng được sống trong độc lập tự do, được sống trong hòa bình hạnh phúc. Từ khát vọng ấy, cha ông ta đã chiến đấu không mệt mỏi, đã viết lên thiên lịch sử bằng vàng và đã vun đúc thành truyền thống chống ngoại xâm oanh liệt, nhưng hầu hết những cuộc khởi nghĩa kể cả những phong trào cách mạng trước khi có Đảng đều đi đến kết cục thất bại và độc lập dân tộc vẫn chỉ là khát vọng của nhân dân ta.
Chỉ đến khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời (3-2-1930), Đảng đã xác định ngay mục tiêu của Đảng, sự nghiệp của Đảng là lãnh đạo nhân dân ta đứng lên tiến hành công cuộc đấu tranh giải phóng giành độc lập, tự do cho dân tộc, và tiến tới xây dựng một xã hội công bằng, dân chủ, văn minh, nghĩa là thực hiện độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Lí tưởng của Đảng, mục tiêu đấu tranh của Đảng, sự nghiệp cách mạng của Đảng, hoàn toàn phù hợp với yêu cầu và khát vọng của toàn dân tộc Việt Nam. Bởi vậy, ngay từ khi Đảng ra đời, nhân dân ta đã hoàn toàn tin theo Đảng, ủng hộ Đảng, nguyện đứng dưới ngọn cờ của Đảng mà chiến đấu hi sinh, với đường lối đúng đắn, với thiên tài lãnh đạo của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Đảng đã lãnh đạo nhân dân ta vượt qua bao khó khăn gian khổ, giành thắng lợi ngày càng lớn từ cao trào 1930-1931 mà đỉnh cao là Xô viết - Nghệ Tĩnh, phong trào dân chủ 1936-1939, đến Tổng khởi nghĩa tháng Tám 1945 với việc ra đời nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và tiếp đến hai cuộc kháng chiến chống ngoại xâm kéo dài gần 1/3 thế kỉ (1945-1975) chống lại hai đế quốc to là Pháp và Mỹ. Những thử thách ác liệt của giai đoạn này đã càng làm sáng thêm và khẳng định thêm mối quan hệ vững bền giữa Đảng và dân kể cả những lúc gay go nhất.
Ngày nay trong điều kiện hòa bình, Đảng lãnh đạo công cuộc đổi mới đất nước như Chủ tịch Hồ Chí Minh căn dặn đây là "một công việc khổng lồ" đầy khó khăn phức tạp. Đảng phải tập trung được sức mạnh của toàn dân tộc mới thực hiện thành công được. Muốn vậy Đảng phải tuyệt đối trung thành với lý tưởng của mình. Sự nghiệp cách mạng của Đảng vẫn là khát vọng đồng thời cũng là sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta. Có thể nói trong suốt chặng đường 79 năm từ khi có Đảng, mục tiêu lý tưởng của Đảng luôn được nhân dân tin theo, bởi đó cũng đồng thời là khát vọng, là cái đích mà cả dân tộc ta hướng tới. Bởi vậy, nhân dân ta luôn luôn trung thành với Đảng, mối quan hệ giữa Đảng và dân là mối quan hệ máu thịt, không có gì thay thế được và cũng không có thế lực nào chia rẽ nổi.
Qua phần diễn giải ở trên, chúng ta có thể kết luận rằng, cơ sở của "mối quan hệ máu thịt giữa Đảng với dân" chính là mục tiêu lý tưởng của Đảng, sự nghiệp cách mạng của Đảng đồng thời cũng là khát vọng của nhân dân. Ngoài lợi ích của nhân dân, của dân tộc Đảng không có lợi ích nào khác cả. Vì vậy, sự nghiệp cách mạng của Đảng phải luôn luôn trung thành với khát vọng độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội của nhân dân ta. Mối quan hệ máu thịt giữa Đảng với dân sẽ không bao giờ bị chia rẽ, không bao giờ bị đối lập hay bị phản bội, khi con đường mà Đảng lựa chọn vẫn là con đường mà nhân dân mong muốn, cái đích của Đảng cần phấn đấu cũng chính là khát vọng của nhân dân ta. Tất cả những điều đó đều giản dị như Chủ tịch Hồ Chí Minhđã khái quát: "Nước ta được độc lập, dân ta được tự do, đồng bào ta ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành".
2. Bản chất của "mối quan hệ máu thịt giữa Đảng với dân", hay bản chất của vấn đề "nhân dân ta rất trung thành với Đảng" là ở chỗ: "Đảng phải xứng đáng là người lãnh đạo" và "là người đầy tớ thật trung thành của nhân dân". Đây không chỉ là mong mỏi, đây cũng chính là lời căn dặn của Chủ tịch Hồ Chí Minh trước lúc ra đi. Theo Người, Đảng cầm quyền có rất nhiều nhiệm vụ, có rất nhiều đòi hỏi và cũng có rất nhiều yêu cầu mới. Trong Di chúc Chủ tịch Hồ Chí Minh nói rõ trách nhiệm của "Đảng ta" và chỉ ra hai yêu cầu căn bản nhất đó là: "phải xứng đáng làm người lãnh đạo và là người đày tớ thật trung thành của nhân dân". Đây cũng chính là bản chất của mối quan hệ giữa Đảng với dân, bởi vì muốn xứng đáng là người lãnh đạo, trước hết Đảng phải tuyệt đối trung thành với lý tưởng của Đảng là đặt lợi ích của nhân dân lên trên hết. Để làm tròn sứ mệnh của mình Đảng phải có đường lối đúng. Đường lối đó là lấy nhân dân làm trung tâm, lấy dân giàu nước mạnh làm nền tảng, lấy lợi ích quốc gia dân tộc làm nguyên tắc. Đường lối đúng còn là mọi chủtrương chính sách của Đảng phải đi được vào cuộc sống, phải được nhân dân tin theo và ủng hộ. Đường lối đúng còn phải có tác dụng kiểm nghiệm và đánh giá thực tiễn, tổng kết được thực tiễn để góp phần phát triển được lý luận của Đảng cầm quyền. Cùng với đường lối đúng, để Đảng xứng đáng là Đảng cầm quyền, thì cán bộ đảng viên của Đảng phải thật sự gương mẫu, phải thật sự cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư.
Ở nội dung này cần phải nói rõ rằng: theo Chủ tịch Hồ Chí Minh đối với cán bộ đảng viên muốn gương mẫu thì nhất thiết phải có sự hi sinh, trước hết là sự hi sinh quyền lợi cá nhân của mình cho lợi ích của tập thể và của người khác. Gương mẫu chính là "phải tận tụy phục vụ nhân dân", gương mẫu là "khổ trước thiên hạ, hưởng sau thiên hạ", gương mẫu còn là "thấy việc gì có lợi cho dân dù nhỏ cũng phải hết sức làm, thấy việc gì có hại cho dân phải hết sức tránh". Gương mẫu nghĩa là cần phải có đạo đức cách mạng, phải "cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư, đạo đức là cái gốc của người cách mạng". Đạo đức còn phải kiên quyết "chống tham ô lãng phí, quan liêu", phải chống thói ích kỉ "chỉ biết mình béo, mặc thiên hạ gầy". Để xứng đáng là người lãnh đạo cần phải gương mẫu học tập và làm theo tấm gươngHồ Chí Minh, phải coi được phục vụ lợi ích của nhân dân là niềm vui lớn nhất. Phải xây dựng được một đam mê lớn là cống hiến hi sinh cho dân tộc, cho đất nước, cho đồng bào mình, đó mới là "chính quả".
Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, nếu người cán bộ đảng viên chỉ phấn đấu để "xứng đáng là người lãnh đạo" thôi thì chưa đủ, mà còn phải là "người đầy tớ trung thành của nhân dân". Muốn làm được điều này, trước hết là "đừng lên mặt làm quan cách mạng", phải "thật thà, gần gũi, gắn bó" với nhân dân, phải để cho "dân tin, dân yêu, dân kính trọng". Mỗi người phải nhận thức được trách nhiệm của toàn Đảng và của chính mình là: hễ dân đói là Đảng có lỗi, hễ dân rét là Đảng có lỗi , hễ dân bệnh tật là Đảng có lỗi. Và "ngoài làm đường lối chính sách, Đảng còn phải chăm lo đến tương cà mắm muối cho dân". Muốn làm được người đầy tớ trung thành của nhân dân, còn phải biết học tập nhân dân "bởi kinh nghiệm trong dân chúng là rất phong phú", bởi "dân chúng biết giải quyết nhiều vấn đề một cách đơn giản, mau chóng, đầy đủ mà những người tài giỏi, những đoàn thể to lớn nghĩ mãi không ra". Đồng thời, muốn làm "người đầy tớ thật trung thành của nhân dân" thì cần phải biết ơn nhân dân, như Hồ Chí Minh từng nói: "Chúng ta phải biết rằng: Cơm chúngta ăn, áo chúng ta mặc, vật liệu chúng ta dùng đều là mồ hôi nước mắt của nhân dân mà ra... Tóm lại, để hiểu và nhận thức một cách sâu sắc lời dạy: mối quan hệ giữa Đảng và dân là mối quan hệ máu thịt, chúng ta cần hiểu một cách đầy đủ bản chất của vấn đề đó chính là "Đảng ta phải xứng đáng là người lãnh đạo, là đầy tớ thật trung thành của nhân dân".
3. Nguyên tắc để đảm bảo cho mối quan hệ giữa Đảng với dân mãi mãi là "mối quan hệ máu thịt" đó chính là nguyên tắc "lấy dân làm gốc". Lấy dân làm gốc là nguyên tắc thống nhất từ nhận thức đến lãnh đạo và chỉ đạo điều hành. Lấy dân làm gốc còn là nguyên tắc đảm bảo cho mọi chủ trương đường lối của Đảng phản ánh đúng thực tiễn, gắn bó với thực tế và trở thành một thực thể sống như Hồ Chí Minh từng nói: "Cách xa dân chúng, không liên hệ chặt chẽ với dân chúng, cũng như đứng lơ lửng giữa trời, nhất định thất bại". Nguyên tắc lấy dân làm gốc đảm bảo cho mối quan hệ giữa dân với Đảng bền chặt, vừa là đạo đức vừa là văn hóa. Lấy dân làm gốc, nói ngắn gọn như Hồ Chí Minh là "từ trong quần chúng ra. Về sâu trong quần chúng".
Lấy dân làm gốc đặt trong mối quan hệ giữa Đảng với dân, được coi là nguyên tắc, để đảm bảo "mối quan hệ máu thịt" đó vừa bền chặt, vừa không ngừng phát triển, lại vừa quán triệt được "cái chân lý", mà khi phê phán thói xa dân, coi thường dân chúng, không chịu hiểu dân chúng, Người viết: "Chúng ta phải ghi tạc vào đầu cái chân lý này: dân rất tốt". Và Người coi đây là chân lý gốc. Vì theo Người, lẽ đơn giản nhất là "chở thuyền cũng là dân và lật thuyền cũng là dân". Lấy dân làm gốc còn động viên được mọi nguồn lực trong nhân dân, phát huy được thế trận lòng dân, bởi: "Dân chúng đồng lòng việc gì cũng làm được. Dân chúng không ủng hộ việc gì cũng không nên","lúc họ đã hiểu thì việc gì khó khăn mấy họ cũng làm được, hy sinh mấy họ cũng không sợ"
Lấy dân làm gốc còn là điều kiện để Đảng thực hiện được mục đích để phát triển xã hội. "Đảng mới lắng nghe được ý kiến của nhân dân, những phê bình đóng góp của nhân dân, thậm chí cả những chê cười oán trách của dân nữa". Bởi nhân dân chỉ nói, chỉ cởi mở chân thành khi họ được tôn trọng, khi họ được đánh giá đúng vai trò, khả năng và đóng góp của họ, bởi thực tế đã chứng minh: "Từ xưa đến nay, quần chúng không bao giờ tin cậy và yêu mến những kẻ tự cao, tự đại, những kẻ có óc lãnh tụ, tự xưng ta đây là anh hùng, lãnh tụ" cả,v.v... Tóm lại, “lấy dân làm gốc” vừa là một quan điểm lớn của Chủ tịch Hồ Chí Minh, và “lấy dân làm gốc” còn là một nguyên tắc để mối quan hệ giữa Đảng với dân thực sự là “mối quan hệ máu thịt”.
Sự thống nhất giữa mục tiêu lý tưởng của Đảng và khát vọng của nhân dân là Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội là cơ sở, nền tảng. Đảng ta “Phải xứng đáng là người lãnh đạo, là người đầy tớ thật trung thành của nhân dân” là bản chất của vấn đề. Lấy dân làm gốc làm nguyên tắc, chính là đảm bảo cho mối quan hệ máu thịt”, đảm bảo cho nhân dân luôn luôn đi theo Đảng và trung thành với Đảng.
Ôn lại Di chúc của Người, mỗi người chúng ta hãy học tập, rèn luyện theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh, trước hết phải thấm nhuần tư tưởng của Người về vai trò lãnh đạo của Đảng cầm quyền, đồng thời phải học tập nghiên cứu thấu đáo lời dạy của Người về mối quan hệ máu thịt giữa Đảng viên với nhân dân, trong đó vai trò gương mẫu của “cán bộ, đảng viên, đoàn viên thanh niên” luôn giữ vai trò quan trọng chẳng những đảm bảo cho sự lãnh đạo của Đảng thành công mà còn đảm bảo cho niềm tin của nhân dân với Đảng và sự trung thành của nhân dân với Đảng không bị giảm sút.
HOÀNG CHÍ BẢO. Những chỉ dẫn quý báu của Bác Hồ đối với Đảng và nhân dân ta / Hoàng Chí Bảo // Báo Quân đội nhân dân. - 2019. - Số 20869. - Ngày 14/5. - Tr. 1,2
Trong Bản Di chúc bất hủ mà Chủ tịch Hồ Chí Minh viết và chỉnh sửa, bổ sung nhiều lần (từ năm 1965 đến 1969), Người vẫn hằng suy nghĩ, căn dặn: “Trước hết nói về Đảng” và “đầu tiên là công việc với con người”.
Thấu hiểu vai trò của dân, sức đóng góp to lớn và sự hy sinh vô bờ bến của nhân dân trong sự nghiệp cách mạng nên khi nói về “đầu tiên là công việc với con người”, Người đặc biệt quan tâm tới việc đền ơn đáp nghĩa đối với những người có công với nước. Giải quyết các vấn đề xã hội trong quản lý xã hội sau chiến tranh ở trong chiều sâu tư duy quản lý xã hội của Hồ Chí Minh. Người căn dặn bao điều cụ thể, thiết thực, thấm đượm tinh thần nhân ái và nhân văn cao cả của Người. Trong Di chúc, Người viết: “Đối với những người đã dũng cảm hy sinh một phần xương máu của mình (cán bộ, binh sĩ, dân quân, du kích, thanh niên xung phong…), Đảng, Chính phủ và đồng bào phải tìm mọi cách làm cho họ có nơi ăn chốn ở yên ổn, đồng thời phải mở những lớp dạy nghề thích hợp với mỗi người để họ có thể dần dần "tự lực cánh sinh”.
Người còn chỉ dẫn, đối với các liệt sĩ, mỗi địa phương (thành phố, làng xã) cần xây dựng vườn hoa và bia kỷ niệm ghi nhớ sự hy sinh anh dũng của các liệt sĩ, để đời đời giáo dục tinh thần yêu nước cho nhân dân ta. Người đồng thời nhắc nhở chính quyền địa phương, chính quyền cùng hợp tác xã nông nghiệp ở nông thôn giúp đỡ cha mẹ, vợ con của thương binh và liệt sĩ mà thiếu sức lao động và túng thiếu, để họ có công việc làm ăn thích hợp, quyết không để họ bị đói rét… Đảng và Chính phủ cần chọn một số ưu tú nhất trong những chiến sĩ trẻ tuổi trong các lực lượng vũ trang nhân dân và thanh niên xung phong đã được rèn luyện trong chiến đấu… cho các cháu ấy đi học thêm các ngành, các nghề, để đào tạo thành những cán bộ và công nhân kỹ thuật giỏi, tư tưởng tốt, lập trường cách mạng vững chắc. Người tin rằng, đó là đội quân chủ lực trong công cuộc xây dựng thắng lợi chủ nghĩa xã hội ở nước ta.
Người rất mực quan tâm tới phụ nữ và nông dân, căn dặn Đảng và Chính phủ cần có kế hoạch thiết thực để bồi dưỡng, cất nhắc và giúp đỡ để ngày càng có thêm nhiều phụ nữ phụ trách mọi công việc, kể cả công việc lãnh đạo. Người cũng động viên phụ nữ phải cố gắng vươn lên. Đó là một cuộc cách mạng đưa đến quyền bình đẳng thật sự cho phụ nữ. Người đề nghị miễn thuế nông nghiệp một năm cho các hợp tác xã để đồng bào hỉ hả, mát dạ, mát lòng, thêm niềm phấn khởi, đẩy mạnh sản xuất. Đối với những nạn nhân của chế độ xã hội cũ như trộm cắp, gái điếm, cờ bạc, buôn lậu… thì Nhà nước phải vừa giáo dục vừa phải dùng pháp luật để cải tạo họ, giúp họ trở nên những người lao động lương thiện.
Trù tính những công việc phải làm sau khi đã hoàn toàn thắng lợi, Người nói tới kế hoạch xây dựng lại thành phố, làng mạc đẹp đẽ, đàng hoàng hơn trước chiến tranh. Khôi phục và mở rộng các ngành kinh tế; phát triển công tác vệ sinh, y tế; sửa đổi chế độ giáo dục cho hợp với hoàn cảnh mới của nhân dân như phát triển các trường nửa ngày học tập, nửa ngày lao động. Củng cố quốc phòng, chuẩn bị mọi việc để thống nhất Tổ quốc…
Hết lòng quan tâm và tin cậy ở thế hệ trẻ, Người nêu trong Di chúc một vấn đề có tầm chiến lược: “Bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau là một việc rất quan trọng và rất cần thiết”. Đảng cần phải chăm lo giáo dục đạo đức cách mạng cho đoàn viên và thanh niên, đào tạo họ thành những người thừa kế xây dựng chủ nghĩa xã hội (CNXH) vừa “hồng” vừa “chuyên”. Nói tóm lại, Đảng cần phải có kế hoạch thật tốt, để phát triển kinh tế và văn hóa, nhằm không ngừng nâng cao đời sống của nhân dân.
Vậy là, bao nhiêu việc phải làm, bao nhiêu đối tượng con người phải quan tâm đều được Người nói đến, nhắc đến. Trong trái tim của Người đều có chỗ dành cho mọi người, mọi cảnh đời và số phận. Trong suy nghĩ, lo toan, định liệu của Người từ việc hôm nay và mai sau, từ chiến tranh đang còn tiếp diễn đến sau ngày thắng lợi khi đã có hòa bình và thống nhất, từ hiện tại bộn bề gian khó đến tương lai với triển vọng tốt đẹp, tươi sáng… Hồ Chí Minh đã dành tất cả trí tuệ, tâm hồn, sức lực và thời gian để chăm lo cho đời sống của nhân dân.
Tư tưởng phong phú, sâu sắc của Người trong Di chúc còn thể hiện ở quan niệm của Người về chủ nghĩa xã hội Việt Nam, về đổi mới để phát triển đất nước ta sau chiến tranh. Đó là những chỉ dẫn vô cùng quý báu cho Đảng và nhân dân ta hiện nay và mai sau. Từ tâm nguyện, điều mong muốn cuối cùng ghi trong Di chúc ta nhận ra quan niệm của Người về CNXH Việt Nam và xây dựng CNXH ở Việt Nam.
 Người viết những dòng cuối cùng khép lại bản văn hơn 1.000 từ, cô đúc tất cả những suy nghĩ, cân nhắc suốt 4-5 năm liền. “Điều mong muốn cuối cùng của tôi là: Toàn Đảng, toàn dân ta đoàn kết phấn đấu, xây dựng một nước Việt Nam hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh, và góp phần xứng đáng vào sự nghiệp cách mạng thế giới”.
Câu hỏi lớn: CNXH là gì ở Việt Nam đã được Người trả lời sáng tỏ. Đó là hướng đích mục tiêu, là giá trị, là tất cả mong muốn của Người với sự kết tinh hoài bão, khát vọng cả cuộc đời Người theo đuổi, phấn đấu đến cùng.
Ngược dòng lịch sử, chúng ta thấy, tại lễ ra mắt hoạt động công khai của Đảng sau Đại hội II, năm 1951, Người đã nói: Toàn bộ đường lối chính sách của Đảng chỉ đúc vào một câu thôi: Một nước Việt Nam hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và phú cường. Gần hai thập niên sau, trong Di chúc 1969, câu này được nhắc lại hoàn toàn, Người chỉ thay “phú cường” bằng “giàu mạnh” cho đồng bào dễ hiểu, dễ nhớ.
Trong Cương lĩnh của Đảng trong thời kỳ đổi mới và hội nhập, Đảng ta đã thể hiện trọn vẹn định hướng mục tiêu của Người thành mục tiêu của đổi mới, đồng thời cũng là đặc trưng tổng quát của CNXH Việt Nam-một CNXH đậm tính chất nhân dân và dân tộc, gắn liền với bản chất giai cấp công nhân và tinh thần thời đại: “Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”. Trong Di chúc, Người đề cập tới “đổi mới” một cách sâu sắc mà bình dị.
Theo bản văn Người viết năm 1968, đổi mới như một kế hoạch, một chương trình hành động của toàn Đảng, toàn dân để xây dựng lại đất nước đàng hoàng hơn, to đẹp hơn sau chiến tranh.
Người hình dung, công việc trên đây là rất to lớn, nặng nề và phức tạp, mà cũng rất là vẻ vang. Đây là một cuộc chiến đấu chống lại những gì đã cũ kỹ, hư hỏng, để tạo ra những cái mới mẻ, tốt tươi. Để giành lấy thắng lợi trong cuộc chiến đấu khổng lồ này cần phải động viên toàn dân, tổ chức và giáo dục toàn dân, dựa vào lực lượng vĩ đại của toàn dân.
Ba lần, từ “toàn dân” được Người nhắc lại, một thể hiện sinh động nguyên lý cách mạng là sự nghiệp của quần chúng qua hành động thực tiễn đầy tính năng động, sáng tạo của nhân dân. Họ thực sự là chủ và thực sự làm chủ, tự mình xây đắp cuộc sống hạnh phúc của mình. Đổi mới trong tư tưởng Hồ Chí Minh, trong đường lối của Đảng mang tầm vóc một cuộc cách mạng, là một tiến trình lịch sử lâu dài với những cải biến cách mạng sâu sắc và triệt để trên “Đường cách mệnh”. Định nghĩa dung dị mà sâu sắc của Người, dù độ lùi của thời gian đã hơn chín thập niên, cho đến nay vẫn mang tầm một định nghĩa kinh điển: “Cách mệnh là phá cái cũ, đổi ra cái mới, phá cái xấu đổi ra cái tốt”.
Là một nhà biện chứng thực hành xuất sắc, Người còn nhận thức và xử lý rất nhuần nhuyễn, thành công mối quan hệ giữa cái cũ và cái mới thường gặp trong đổi mới. Khẳng định cái mới tiến bộ, tích cực và phủ định cái cũ lạc hậu, lỗi thời, theo Người là cả một cuộc đấu tranh lâu dài, bền bỉ, cần phải đề cao tính sáng tạo, ra sức thực hành sáng tạo trong thực tiễn.
Di chúc của Bác Hồ, ở tầm cao tư tưởng, thực sự là một đại tổng kết lý luận-thực tiễn về con đường cách mạng Việt Nam.
Tầm tư tưởng ấy thể hiện trong tinh thần và lời văn của bản Di chúc cho thấy nổi bật giá trị lý luận, ý nghĩa thời đại.
Toàn bộ tư tưởng và di sản của Người để lại trong Di chúc cũng như trong sự nghiệp của Người đều toát lên những đặc tính, những phẩm chất khoa học-cách mạng và nhân văn. Đó cũng là những giá trị đích thực và bền vững của Chủ nghĩa Mác-Lênin mà Người theo đuổi đến cùng với một tấm lòng thủy chung son sắt, với bản lĩnh sáng tạo của nhà tư tưởng Mác xít kiên định. Người trung thành với Chủ nghĩa Mác-Lênin, với lý tưởng mục tiêu cộng sản chủ nghĩa, nhưng đó là trung thành một cách sáng tạo, xa lạ với bệnh giáo điều, biệt phái và chủ quan duy ý chí.
Chủ nghĩa Mác-Lênin qua trí tuệ khoa học và tầm nhìn văn hóa của Hồ Chí Minh đã trở nên sống động, thiết thực và hiệu quả trên mảnh đất thực tiễn Việt Nam, bởi Người đã nhận thức và thực hành, đã vận dụng và phát triển một cách sáng tạo, đã “Việt hóa” những tư tưởng Mác xít và những tinh hoa trí tuệ, văn hóa nhân loại và thời đại vào thực tiễn Việt Nam.
Bản Di chúc với hơn 1.000 từ ở tầm cao tư tưởng của Người đã trở thành Bảo vật Quốc gia cùng với những tác phẩm lý luận cũng như văn chương đặc sắc khác của Người. Di chúc là sự kết tinh nổi bật nhất Tư tưởng-Đạo đức-Phong cách Hồ Chí Minh.
 
NGÔ VĂN HOÁN. Tư tưởng Hồ Chí Minh về Đảng Cộng sản Việt Nam trong Di chúc của Người / Ngô Văn Hoán // Sách Hồ Chí Minh và bản di chúc trường tồn lịch sử. - H. : Thanh niên, 2017. - Tr.217-250
Tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc về những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam, là kết quả của sự vận dụng phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin vào điều kiện cụ thể của nước ta, kế thừa và phát triển các giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại. Đó là tư tưởng về giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng con người; về độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại; về sức mạnh của nhân dân, của khối đại đoàn kết dân tộc, về quyền làm chủ của nhân dân, xây dựng Nhà nước thực sự của dân, do dân, vì dân, về quốc phòng toàn dân, xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân; về phát triển kinh tế và văn hóa, không ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân; về đạo đức cách mạng, cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư về chăm lo bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau; về xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh, cán bộ đảng viên vừa là người lãnh đạo, vừa là người đầy tớ thật trung thành của nhân dân.
Tư tưởng Hồ Chí Minh soi đường cho cuộc đấu tranh của nhân dân ta giành thắng lợi, là tài sản tinh thần to lớn của Đảng và dân tộc ta.
Sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản trong quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam trở thành vấn đề then chốt, quyết định mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Sự lãnh đạo của Đảng - một vấn đề mang tính qui luật, tất yếu, một điều kiện tiên quyết cho cách mạng Việt Nam đi lên chủ nghĩa xã hội. Chính vì vậy, vấn đề về Đảng Cộng sản Việt Nam là sợi chỉ đỏ xuyên suốt quá trình hình thành và phát triển của tư tưởng Hồ Chí Minh.
Trong tác phẩm Dưới lá cờ vẻ vang, vì độc lập, vì tự do, vì chủ nghĩa xã hội tiến lên giành thắng lợi mới, xuất bản năm 1970, nhân dịp kỷ niệm 40 năm ngày thành lập Đảng, khi viết về Đảng là nhân tố đảm bảo cho mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam, cố Tổng Bí thư Lê Duẩn đã viết: "Hơn bốn mươi năm qua so với chiều dài lịch sử dân tộc 4000 năm, quả là ngắn ngủi. Song những gì vinh quang nhất, vẻ vang nhất, hiển hách nhất phải kể từ khi có Đảng, là ngọn cờ bách chiến, bách thắng của dân tộc Việt Nam". Báo cáo Chính trị tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV của Đảng (12-1976) đã ghi: Giương cao hai ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, đường lối ấy là sợi chỉ đỏ xuyên suốt trong toàn bộ tiến trình cách mạng nước ta kể từ khi có Đảng, là ngọn cờ bách chiến, bách thắng của cách mạng Việt Nam.
Việc Hồ Chí Minh tham gia Đại hội Tua (12-1920) không chỉ là cái mốc đánh dấu Người đã hoàn thành việc chọn đường đi cho mình và cho dân tộc Việt Nam, mà còn là cái mốc lớn ghi nhận sự hình thành trong ý thức của Hồ Chí Minh về tính tất yếu của tổ chức Đảng Cộng sản, về tầm quan trọng của đội tiên phong của giai cấp công nhân.
Hồ Chí Minh nói: "Tôi chỉ có một sự ham muốn, ham muốn tột bậc, là làm sao cho nước ta được hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ta ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành".  Trước lúc đi vào cõi vĩnh hằng, Người cũng đã nói điều mong muốn cuối cùng là: "Toàn Đảng, toàn dân ta đoàn kết phấn đấu, xây dựng một nước Việt Nam hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh, và góp phần xứng đáng vào sự nghiệp cách mạng của thế giới".
Để thực hiện mục tiêu, lý tưởng độc lập tự do đó phải đi theo con đường cách mạng vô sản của chủ nghĩa Mác - Lênin, phải tiến hành giải phóng dân tộc, giải phóng xã hội và giải phóng con người, gắn độc lập dân tộc với chủ nghĩa xã hội. Đảng Cộng sản là nhân tố quyết định thắng lợi của sự nghiệp độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về Đảng Cộng sản ở Việt Nam được hình thành từng bước trên cơ sở vận dụng và phát triển tư tưởng Lênin về Đảng kiểu mới vào điều kiện cụ thể của Việt Nam.
Sáng lập và rèn luyện thành công Đảng Cộng sản ở một nước vốn là thuộc địa, kinh tế nông nghiệp lạc hậu, giai cấp công nhân nhỏ bé trở thành đội tiên phong dũng cảm và là bộ tham mưu sáng suốt của giai cấp công nhân, của nhân dân lao động, của toàn dân tộc Việt Nam, người tổ chức và lãnh đạo duy nhất cuộc cách mạng giải phóng dân tộc và cách mạng xã hội chủ nghĩa Việt Nam là một cống hiến lớn lao của Hồ Chí Minh về lý luận và tổ chức thực tiễn xây dựng Đảng vô sản kiểu mới của chủ nghĩa Mác - Lênin.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về Đảng Cộng sản Việt Nam gồm những nội dung cơ bản sau:
1. Cách mạng muốn thành công trước hết phải có Đảng Cách mệnh. Điều đó khẳng định tính tất yếu phải có Đảng Cộng sản.
Cách mạng là sự nghiệp chung của dân chúng chứ không phải là việc của một vài người. Quần chúng phải được giác ngộ, phải được tổ chức và lãnh đạo mới giành được thắng lợi. Ngay từ năm 1927, trong tác phẩm "Đường Cách mệnh", Hồ Chí Minh đặt vấn đề: "Cách mệnh trước hết phải có cái gì?", và Người khẳng định: "Trước hết phải có Đảng cách mệnh, để trong thì vận động và tổ chức dân chúng, ngoài thì liên lạc với dân tộc bị áp bức và vô sản giai cấp mọi nơi. Đảng có vững cách mệnh mới thành công, cũng như người cầm lái có vững thuyền mới chạy".
Muốn đưa cách mạng giải phóng đến "thành công và thành công đến nơi, nghĩa là dân chúng được hưởng cái hạnh phúc, tự do, bình đẳng thật" thì phải đi theo con đường cách mạng Nga, con đường cách mạng vô sản, phải lấy "dân chúng (công nông) làm gốc, phải có đảng vững bền, phải bền gan, phải hy sinh, phải thống nhất. Nói tóm lại là phải theo chủ nghĩa Mã Khắc Tư và Lênin".
Trong tiến trình cách mạng Việt Nam, trải qua các thời kỳ, các giai đoạn cách mạng khác nhau, Người đều nhấn mạnh vai trò lãnh đạo của Đảng, luôn quan tâm đến việc xây dựng Đảng, rèn luyện Đảng, và trước lúc đi xa, điều Người quan tâm trước hết cũng là "nói về Đảng".
2. Đảng Cộng sản Việt Nam là sản phẩm của sự kết hợp chủ nghĩa Mác - Lênin với phong trào công nhân và phong trào yêu nước.
Luận điểm sáng tạo của Hồ Chí Minh về các yếu tố ra đời của Đảng Cộng sản không những có ý nghĩa quan trọng đối với quá trình cách mạng Việt Nam, mà còn có ý nghĩa quốc tế, nhất là đối với những nước có hoàn cảnh tương đối giống với Việt Nam.
Đây là một luận điểm mới, một khái quát rất quan trọng của Hồ Chí Minh về quá trình hình thành Đảng Cộng sản Việt Nam so với học thuyết của Lênin. Theo nguyên lý của học thuyết Mácxít, sự ra đời của Đảng Cộng sản là sự phản ánh cuộc đấu tranh của giai cấp công nhân đến thời kỳ tự giác. Đảng Cộng sản là sự kết hợp của chủ nghĩa Mác-Lênin với phong trào công nhân. Lênin viết: "Trong tất cả các nước, chỉ có thể kết hợp giữa chủ nghĩa xã hội với phong trào công nhân, mới xây dựng được một cơ sở vững chắc cho cả hai. Nhưng trong mỗi nước, sự kết hợp ấy lại là một sản phẩm của lịch sử, lại được thực hiện bằng những con đường đặc biệt, tùy theo điều kiện không gian và thời gian".
Từ thực tế quá trình ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam, Hồ Chí Minh đã nói trong tác phẩm Thường thức chính trị viết vào năm 1953, rằng "Đảng kết hợp phong trào cách mạng Việt Nam với chủ nghĩa Mác - Lênin".
Đây là một thành công sáng tạo của Hồ Chí Minh về việc thành lập Đảng và tổng kết lý luận của Người về qui luật thành lập Đảng vô sản kiểu mới ở nước ta vốn là thuộc địa, một quốc gia dân tộc có nền văn hiến lâu đời, trong đó chủ nghĩa dân tộc là dòng chủ lưu của tư tưởng Việt Nam, một động lực lớn của đất nước.
Nhận thức và vận dụng đúng qui luật về sự ra đời của Đảng Cộng sản, việc thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam thực sự là một sáng tạo, thể hiện quá trình phát triển của tư tưởng Hồ Chí Minh, cũng như của các thế hệ những người cộng sản Việt Nam đó là từ chủ nghĩa yêu nước đến với chủ nghĩa Lênin, chủ nghĩa quốc tế vô sản, từ giác ngộ dân tộc phát triển đến giác ngộ giai cấp, kết hợp giác ngộ dân tộc với giác ngộ giai cấp trên nền tảng chủ nghĩa Mác-Lênin. Nhận thức vấn đề này cũng có ý nghĩa rất lớn trong sự nghiệp xây dựng Đảng, trong giáo dục, rèn luyện đảng viên, nâng cao trình độ chính trị của đảng viên ngang tầm với yêu cầu, nhiệm vụ đấu tranh dân tộc và đấu tranh giai cấp ngày càng phát triển hiện nay.
3. Đảng Cộng sản Việt Nam - Đảng của giai cấp công nhân, đồng thời là Đảng của dân tộc Việt Nam.
Đảng Cộng sản Việt Nam là Đảng của giai cấp vô sản, gồm những phần tử tiên tiến trong giai cấp vô sản, là đội tiên phong, bộ tham mưu của giai cấp vô sản.
Hồ Chí Minh đã khẳng định, trong thời đại ngày nay, giai cấp công nhân là giai cấp duy nhất và độc nhất có sứ mệnh lãnh đạo cách mạng đến thắng lợi cuối cùng. Giai cấp nông dân là lực lượng cách mạng to lớn, là đồng minh tin cậy của giai cấp công nhân. Nhưng vì nông dân mang tính chất phân tán, tư hữu, nên không thể coi nông dân là lực lượng lãnh đạo cách mạng.
Người đã phê phán trào lưu cơ hội, thổi phồng vai trò của nông dân và các tầng lớp, giai cấp khác mà không thấy vai trò, sứ mệnh của giai cấp công nhân trong cách mạng Việt Nam, và cũng phê phán khuynh hướng cô độc, hẹp hòi, chỉ thiên về công nông mà không thấy hết vai trò sức mạnh của cả dân tộc.
Vận dụng sáng tạo nguyên lý về Đảng vô sản của Mác và Lênin, Hồ Chí Minh đã xây dựng thành công Đảng vô sản kiểu mới ở nước ta - Đảng Cộng sản Việt Nam, một Đảng mang bản chất giai cấp công nhân. Cái quyết định bản chất của giai cấp công nhân của Đảng, không phải chỉ là thành phần xuất thân của đảng viên, mà cơ bản ở nền tảng tư tưởng của Đảng, là chủ nghĩa Mác - Lênin, là ở mục tiêu, đường lối của Đảng thực sự vì sự nghiệp giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, và ở vấn đề Đảng nghiêm túc tuân thủ những nguyên tắc tổ chức của Đảng kiểu mới và thực tiễn đấu tranh cách mạng của Đảng.
Hồ Chí Minh xác định mục tiêu của Đảng Cộng sản Việt Nam cũng là mục tiêu của toàn dân tộc Việt Nam: Độc lập cho dân tộc, dân chủ cho nhân dân, tiến lên chủ nghĩa xã hội. Báo cáo Chính trị tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ II, tháng 2-1951, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định: "Trong giai đoạn này, quyền lợi của giai cấp công nhân và nhân dân lao động và của dân tộc là một. Chính vì Đảng Lao động Việt Nam là Đảng của giai cấp công nhân và nhân dân lao động, cho nên nó phải là Đảng của dân tộc Việt Nam". Không chỉ trong cách mạng dân tộc dân chủ mà khi chuyển sang cách mạng XHCN, luận điểm đó vẫn được Người nhắc lại và chỉ đạo toàn bộ công tác của Đảng. Trong bài nói chuyện với cán bộ và đảng viên lâu năm vào ngày 09-12-1961, Hồ Chí Minh đã khẳng định: "Đảng ta là Đảng của giai cấp, đồng thời cũng là của dân tộc, không thiên tư, thiên vị".
Hồ Chí Minh, khi khẳng định bản chất giai cấp công nhân của Đảng, bao giờ cũng gắn với những nhiệm vụ để đạt được mục tiêu giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng xã hội, giải phóng con người. Hồ Chí Minh đã nói: "Đảng không phải là một tổ chức để làm quan phát tài. Nó phải làm tròn nhiệm vụ giải phóng dân tộc, làm cho tổ quốc giàu mạnh, đồng bào sung sướng". Người còn nói rõ thêm, Đảng ta là Đảng của giai cấp công nhân và nhân dân lao động nghĩa là những người thợ thuyền, dân cày và lao động trí óc kiên quyết nhất, hăng hái nhất, trong sạch nhất, tận tâm tận lực phụng sự Tổ quốc và nhân dân.
4. Đảng vừa là người lãnh đạo, vừa là người đầy tớ trung thành của nhân dân. "Đảng cầm quyền, dân là chủ".
Đảng ra đời và lãnh đạo cách mạng Việt Nam từ năm 1930 cho đến nay. Từ sau Tổng khởi nghĩa tháng 8-1945 thắng lợi, Đảng ta đã trở thành "Đảng cầm quyền". Đảng đã lãnh đạo cách mạng thành công, đã nắm chính quyền toàn guốc, từ đó trở đi Đảng vừa là người lãnh đạo, vừa là Đảng cầm quyền. Theo Hồ Chí Minh, "Đảng cầm quyền" là Đảng tiếp tục lãnh đạo sự nghiệp cách mạng trong điều kiện Đảng đã lãnh đạo quần chúng nhân dân giành được quyền lực Nhà nước và Đảng trực tiếp lãnh đạo bộ máy Nhà nước đó để tiếp tục hoàn thành sự nghiệp độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Đảng Cộng sản Việt Nam bao gồm công nhân, nông dân, lao động trí óc yêu nước, giác ngộ cách mạng, hy sinh phụng sự Tổ quốc, phụng sự nhân dân, phụng sự XHCN và CSCN. Ngoài lợi ích của Tổ quốc, của nhân dân, Đảng không có lợi ích nào khác: "Đảng không phải là nhóm để tranh địa vị, tranh tước lộc". Đảng gồm những người mà: "Giàu sang không thể quyến rũ, nghèo khó không thể chuyển lay, uy vũ không thể khuất phục. Đảng ta phải là người lãnh đạo, người đầy tớ thật trung thành của nhân dân". Khi nói về những vấn đề của Đảng cầm quyền, Người thường nhấn mạnh: "Đảng cầm quyền, nhân dân là chủ". "Mọi quyền bính lực lượng đều ở nơi dân" . Người đặc biệt quan tâm đến vấn đề này, cho đây là điểm khác biệt giữa Đảng Cộng sản và Đảng Tư sản khi cầm quyền. Hồ Chí Minh luôn nhấn mạnh vấn đề quyền lực thuộc về nhân dân là vấn đề nguyên tắc, là bản chất chế độ mới của Đảng ta. Đảng lãnh đạo cách mạng, lãnh đạo chính quyền là nhằm thiết lập và củng cố quyền làm chủ của nhân dân, mọi quyền lực phải thuộc về nhân dân. Trái với nguyên tắc đó, Đảng sẽ thoái hóa, biến chất, trở thành Đảng đối lập với nhân dân, đứng trên pháp luật; còn đảng viên, cán bộ của Đảng sẽ trở thành những "ông quan cách mạng", những kẻ "vinh thân phì gia".
Muốn vậy, phải có cơ chế, phải xây dựng cơ chế "Đảng cầm quyền", cốt lõi cơ chế là quan hệ giữa Đảng với nhân dân, với Nhà nước; Đảng phải trong sạch, xứng đáng là người lãnh đạo, người đầy tớ của nhân dân. Nhà nước là Nhà nước của dân, do dân, vì dân dưới sự lãnh đạo của Đảng, cán bộ chính quyền các cấp đều là công bộc của dân, đầy tớ của dân. Dân làm chủ - mọi quyền hành, mọi lực lượng là ở dân. Nhân dân thực sự tham gia quản lý Nhà nước.
Vì vậy, trong Di chúc, Người nhắc nhở: "Đảng ta là một Đảng cầm quyền. Mỗi đảng viên và cán bộ phải thực sự thấm nhuần đạo đức cách mạng, thật sự cần kiệm liêm chính, chí công vô tư. Phải giữ gìn Đảng ta thật trong sạch, phải xứng đáng là người lãnh đạo, người đầy tớ thật trung thành của nhân dân". Đây là một luận điểm rất quan trọng của Hồ Chí Minh về quan hệ giữa Đảng và dân, Đảng và Nhà nước của dân, do dân và vì dân.
5. Thường xuyên xây dựng và chỉnh đốn Đảng.
Đảng Cộng sản Việt Nam trở thành Đảng duy nhất lãnh đạo cách mạng Việt Nam từ năm 1930 cho đến nay. Trách nhiệm, vinh dự đó của Đảng không phải là do ý muốn của một ai, cũng không phải là sự xếp đặt chủ quan của một giai cấp, một lực lượng nào, mà trước hết vì Đảng đã đáp ứng được yêu cầu khách quan của sự phát triển cách mạng và được quần chúng công nhận. Tuy nhiên, muốn Đảng vững mạnh cách mạng triệt để, luôn luôn giữ vững quyền lãnh đạo và nắm giữ chính quyền là phải thường xuyên xây dựng và chỉnh đốn Đảng.
Đảng không thể đòi hỏi Mặt trận dân tộc thống nhất, không thể đòi hỏi nhân dân thừa nhận quyền lãnh đạo và địa vị cầm quyền của mình mà: "Phải tỏ ra là một bộ phận trung thành nhất, hoạt động nhất, chân thực nhất; chỉ trong đấu tranh và công tác hàng ngày, khi quần chúng rộng rãi thừa nhận chính sách đúng đắn và năng lực lãnh đạo của Đảng thì Đảng mới giành được địa vị lãnh đạo".
Ở một nước thuộc địa, nửa phong kiến nông nghiệp lạc hậu, thành phần đảng viên đại bộ phận là nông dân, tiểu tư sản, trình độ lý luận, trình độ văn hóa thấp, kinh nghiệm đấu tranh, nhất là kinh nghiệm lãnh đạo xây dựng xã hội còn hạn chế. Do đó, theo Hồ Chí Minh phải không ngừng xây dựng Đảng, rèn luyện Đảng theo chuẩn mực của một Đảng kiểu mới - Một Đảng Mác-Lênin chân chính, trong sạch, vững mạnh; phải rèn luyện, xây dựng, chỉnh đốn Đảng, làm cho Đảng thật mạnh, thật trong sạch là nhiệm vụ thường xuyên.
Tháng 01-1949 trong bài nói tại buổi bế mạc hội nghị cán bộ của Đảng lần thứ 6, Hồ Chí Minh nói để đưa kháng chiến đến thắng lợi phải chấn chỉnh bộ máy chính quyền, chỉnh đốn các đoàn thể, mà "trước hết phải chỉnh đốn nội bộ Đảng... Đảng ví như cái máy phát điện, các công việc trên ví như những ngọn đèn, máy mạnh thì đèn sáng".
Tháng 4-1952, trước yêu cầu và nhiệm vụ mới của kháng chiến, Người đã chỉ rõ: "Đảng là đội tiên phong của giai cấp và dân tộc. Để làm tròn nhiệm vụ kháng chiến và kiến quốc, Đảng phải mạnh, toàn Đảng tư tưởng phải nhất trí, hành động phải nhất trí".
Trong Di chúc (bản bổ sung tháng 5-1968) Người chỉ rằng: "Việc phải làm trước tiên là chỉnh đốn lại Đảng". Người viết: "Ngay sau khi cuộc chống Mỹ, cứu nước của nhân dân ta đã hoàn toàn thắng lợi, công việc của toàn Đảng, toàn quân và toàn dân ta phải ra sức làm là mau chóng hàn gắn vết thương nghiêm trọng do đế quốc Mỹ gây ra trong cuộc chiến tranh xâm lược dã man. Đó là một công việc cực kỳ to lớn, phức tạp và khó khăn. Chúng ta phải có kế hoạch sẵn sàng, rõ ràng, chu đáo để tránh khỏi bị động, thiếu sót và sai lầm. Theo ý tôi, việc cần phải làm trước tiên là chỉnh đốn lại Đảng, làm cho mỗi đảng viên, mỗi đoàn viên, mỗi chi bộ đều ra sức làm tròn nhiệm vụ Đảng giao phó cho mình, toàn tâm toàn ý phục vụ nhân dân. Làm được như vậy, thì dù công việc to lớn mấy, khó khăn mấy chúng ta cũng nhất định thắng lợi".
Như vậy, theo Hồ Chí Minh, xây dựng và chỉnh đốn Đảng là nhằm bảo đảm cho Đảng luôn luôn trong sạch, vững mạnh, xứng đáng là đội tiên phong của giai cấp công nhân và của dân tộc, là tổ chức tiền phong chiến đấu vì lợi ích của nhân dân, của Tổ quốc, chứ không phải là một tổ chức làm quan, phát tài, quan liêu, mệnh lệnh độc đoán. Đảng phải trong sạch, phải loại bỏ những phần tử cơ hội, thoái hóa ra ngoài, làm cho đội ngũ cán bộ, đảng viên luôn luôn giữ vững đạo đức cách mạng, cần kiệm liêm chính, chí công vô tư, là đầy tớ của nhân dân.
Vấn đề cơ bản về xây dựng chỉnh đốn Đảng đó là Đảng lấy chủ nghĩa Mác - Lênin làm nền tảng tư tưởng kim chỉ nam cho hành động. Phải nâng cao trình độ nhận thức, trí tuệ mà trước hết là trình độ chủ nghĩa Mác - Lênin cho cán bộ, đảng viên. Đảng Cộng sản Việt Nam phải là một đảng đạo đức, văn minh, một đảng trí tuệ, một đảng sáng tạo. Phải nắm vững bản chất cách mạng của chủ nghĩa Mác - Lênin, nắm vững điểm cốt lõi, linh hồn của học thuyết Mác là phép biện chứng duy vật, phải kết hợp lý luận kinh nghiệm hoạt động cách mạng Việt Nam, phải nắm vững lập trường, phương pháp biện chứng của chủ nghĩa Mác-Lênin để giải quyết những vấn đề của thực tiễn đất nước. Cán bộ đảng viên phải không ngừng nâng cao trình độ lý luận, năng lực trí tuệ, nắm chắc thực tiễn cách mạng để hoạch định và kịp thời bổ sung đường lối, chủ trương chính sách, biện pháp cách mạng; phải chống giáo điều, kinh nghiệm chủ nghĩa, phải nâng cao trình độ văn hóa, khoa học kỹ thuật.
Xây dựng và chỉnh đốn Đảng không chỉ lấy chủ nghĩa Mác - Lênin làm nền tảng tư tưởng kim chỉ nam cho hành động, mà còn phải tuân thủ và vận dụng một cách linh hoạt các nguyên tắc tổ chức và sinh hoạt của Đảng, đó là: nguyên tắc tổ chức dân chủ tập trung; tập thể lãnh đạo cá nhân phụ trách; tự phê bình và phê bình; kỷ luật nghiêm minh và tự giác. Đoàn kết thống nhất trong Đảng, đoàn kết thống nhất về tư tưởng, ý chí và hoạt động.
Thắng lợi lịch sử của cách mạng Việt Nam và sự trưởng thành vững mạnh của Đảng ta qua các giai đoạn cách mạng chứng tỏ Hồ Chí Minh đã thành công trong xây dựng và rèn luyện Đảng ta. Thực tế đó là căn cứ đáng tin cậy nhất chứng minh sự đúng đắn và ý nghĩa chỉ đạo thực tiễn của những luận điểm của Hồ Chí Minh về Đảng, về Đảng cầm quyền đối với sự nghiệp xây dựng Đảng hiện nay và mai sau.
Trong sự nghiệp đổi mới, Đảng xác định xây dựng kinh tế là nhiệm vụ trung tâm, xây dựng Đảng là nhiệm vụ then chốt. Xác định xây dựng Đảng là nhiệm vụ then chốt chính là quán triệt lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh: "Đảng có vững cách mạng mới thành công, cũng như người cầm lái có vững thuyền mới đi". Đây là tư tưởng chỉ đạo có ý nghĩa đặc biệt quan trọng, mang tầm chiến lược, một trong những bài học thành công trong đổi mới của Đảng ta. Trong lĩnh vực chính trị, để đáp ứng yêu cầu đổi mới kinh tế, đương nhiên chúng ta phải từng bước tiến hành đổi mới chính trị, nhằm thực hiện mục tiêu dân chủ xã hội chủ nghĩa phát huy đầy đủ quyền làm chủ và sức mạnh của nhân dân, thúc đẩy công cuộc đổi mới, thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Trong khi đổi mới tổ chức và hoạt động của cả hệ thống chính trị, chúng ta đã coi trọng xây dựng Đảng thật sự trong sạch, vững mạnh, không ngừng nâng cao năng lực và hiệu quả lãnh đạo đối với toàn bộ hệ thống chính trị và cả xã hội. Đảng phải thường xuyên tự đổi mới, tự chỉnh đốn, ra sức nâng cao trình độ trí tuệ và năng lực lãnh đạo. Đại hội IX xác định xây dựng, chỉnh đốn Đảng và đẩy mạnh cải cách tổ chức hoạt động của Nhà nước là vấn đề đặc biệt quan trọng để thực hiện thành công các mục tiêu, nhiệm vụ đề ra cho Đảng và đất nước trong thời kỳ 2001-2005. Đại hội IX của Đảng còn khẳng định tiếp tục các quan điểm, chủ trương lớn để xây dựng, chỉnh đốn Đảng và cải cách tổ chức, hoạt động của Nhà nước mà các nghị quyết Trung ương khóa VIII đã đề ra.
Thực hiện các nội dung quan trọng trong Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ IX, lần thứ X và các Nghị quyết Trung ương về xây dựng và chỉnh đốn Đảng, chính là thiết thực thực hiện lời căn dặn của Chủ tịch Hồ Chí Minh về Đảng trong Di chúc.
… Trong bản Di chúc lịch sử ấy, cùng với việc tổng kết một cách khái quát, khoa học về quá trình đấu tranh cách mạng của nhân dân ta dưới sự lãnh đạo của Đảng, khẳng định quyết tâm sắt đá và sự tất thắng của quân và dân ta trong sự nghiệp kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ những công việc mà toàn Đảng, toàn quân và toàn dân ta phải làm sau khi cuộc chống Mỹ, cứu nước của nhân dân ta đã hoàn toàn thắng lợi... Một vấn đề chiến lược quan trọng, được Người đặc biệt nhấn mạnh và cũng là mong muốn thiết tha của Người là: “Toàn Đảng, toàn dân ta đoàn kết phấn đấu, xây dựng một nước Việt Nam hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh, và góp phần xứng đáng vào sự nghiệp cách mạng thế giới”.
Đọc Di chúc của Chủ tịch Hồ chí Minh, từ bản thảo đầu tiên (tháng 5-1965), đến những dòng sửa chữa, những trang viết bổ sung (các năm 1967, 1968, 1969), chúng ta thấy, Người luôn nhấn mạnh đến vấn đề đoàn kết, đoàn kết trong Đảng, đoàn kết dân tộc, đoàn kết quốc tế… để phát huy sức mạnh vô cùng vô tận của nhân dân trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc cũng như trong công cuộc xây dựng đất nước.
Ngay trong lời căn dặn đầu tiên “TRƯỚC HẾT NÓI VỀ ĐẢNG”, chỉ với đoạn văn ngắn gọn (hơn 100 từ), Chủ tịch Hồ Chí Minh sử dụng tới 5 lần cụm từ “đoàn kết”. Bằng sự lặp lại nhiều lần cụm từ này, Người khẳng định vai trò, vị trí to lớn của sự đoàn kết trong Đảng đối với mọi thắng lợi mà nhân dân ta đã giành được suốt gần nửa thế kỷ đấu tranh cách mạng, sự cần thiết phải giữ gìn sự đoàn kết và chỉ ra biện pháp tốt nhất để giữ gìn sự đoàn kết: “Nhờ đoàn kết chặt chẽ, một lòng một dạ phục vụgiai cấp, phục vụ nhân dân, phục vụ Tổ quốc, cho nên từ ngày thành lập đến nay, Đảng ta đã đoàn kết, tổ chức và lãnh đạo nhân dân ta hăng hái đấu tranh tiến từ thắng lợi này đến thắng lợi khác.
Đoàn kết là một truyền thống cực kỳ quý báu của Đảng và của dân ta. Các đồng chí từ Trung ương đến các chi bộ cần phải giữ gìn sự đoàn kết nhất trí của Đảng như giữ gìn con ngươi của mắt mình.
Trong Đảng thực hành dân chủ rộng rãi, thường xuyên và nghiêm chỉnh tự phê bình và phê bình là cách tốt nhất để củng cố và phát triển sự đoàn kết và thống nhất của Đảng. Phải có tình đồng chí thương yêu lẫn nhau"...
Điều cao hơn, lớn hơn mà Chủ tịch Hồ Chí Minh quan tâm, trăn trở trong suốt cuộc đời Người và dặn lại trong Di chúc là, đoàn kết để phát triển kinh tế và văn hóa, để không ngừng nâng cao đời sống cho các tầng lớp nhân dân. Trong Di chúc, không chỉ một lần Người nhấn mạnh điều này: "Nhân dân lao động ta ở miền xuôi cũng như ở miền núi, đã bao đời chịu đựng gian khổ, bị chế độ phong kiến và thực dân áp bức bóc lột, lại kinh qua nhiều năm chiến tranh.
Tuy vậy, nhân dân ta rất anh hùng, dũng cảm, hăng hái, cần cù. Từ ngày có Đảng, nhân dân ta luôn luôn đi theo Đảng, rất trung thành với Đảng.
Đảng cần phải có kế hoạch thật tốt để phát triển kinh tế và văn hóa, nhằm không ngừng nâng cao đời sống của nhân dân".
Trong phần viết bổ sung, tháng 5-1968, tuy "không đi sâu vào chi tiết", nhưng Chủ tịch Hồ Chí Minh thấy "cần phải viết thêm mấy điểm". Trong "mấy điểm" ấy, Người đã đề cập đến nhiều vấn đề cụ thể mà Đảng phải làm, để mỗi người dân đều nhận được sự quan tâm chăm sóc của Đảng và Nhà nước, đều được tham gia đóng góp sức mình vào công cuộc xây dựng và phát triển đất nước.
Từ những lời căn dặn trong Di chúc, nổi lên mấy vấn đề cơ bản sau đây:
Một là, đoàn kết là một truyền thống cực kỳ quý báu của Đảng và của dân ta, là sức mạnh, là then chốt của thành công trong mọi sự nghiệp cách mạng. Vì vậy, phải giữ gìn và không ngừng tăng cường sự đoàn kết nhất trí trong Đảng, để Đảng trở thành hạt nhân của khối đại đoàn kết dân tộc,
Hai là, đại đoàn kết dân tộc chỉ có thể xây dựng được trên cơ sở thống nhất giữa quyền lợi của quốcgia, dân tộc với việc đem lại và bảo đảm quyền lợi thiết thực, chính đáng của các tầng lớp nhân dân lao động. Vì vậy, Đảng cần phải có kế hoạch thật tốt để phát triển kinh tế và văn hóa, nhằm không ngừng nâng cao đời sống của nhân dân, xứng đáng với lòng tin cậy và yêu mến của nhân dân đã luôn luôn đi theo Đảng, rất trung thành với Đảng,
Ba là, hàn gắn vết thương sau chiến tranh, xây dựng và phát triển đất nước là một công việc cực kỳ to lớn, nặng nề và phức tạp, vì vậy, Đảng và Chính phủ phải mở rộng khối đại đoàn kết dân tộc để động viên toàn dân, tổ chức và giáo dục toàn dân, dựa vào lực lượng vĩ đại của toàn dân cho sự nghiệp vẻ vang ấy.
Đó không chỉ là "muôn vàn tình thân yêu" của Người để lại cho các thế hệ chúng ta hôm nay và muôn đời con cháu mai sau, mà là sự kết tinh những giá trị văn hóa truyền thống quý báu của dân tộc được hun đúc từ hàng nghìn năm lịch sử dựng nước và giữ nước, là sự tổng kết những kinh nghiệm hoạt động sôi nổi và phong phú của Người trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam...
Ngay từ đầu những năm 20 của thế kỷ trước, khi hiểu rõ nguyên nhân thất bại của phong trào yêu nước đấu tranh chống thực dân Pháp xâm lược của nhân dân ta và phong trào cách mạng ở các nước thuộc địa và phụ thuộc, là vì “chưa hiểu giá trị của sự đoàn kết", "chưa biết đoàn kết nhau lại để đấu tranh” chống kẻ thù chung,... Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhận rõ trách nhiệm của mình là phải đưa những hiểu biết và kinh nghiệm hoạt động cách mạng vào trong phong trào quần chúng, để "thức tỉnh họ, tổ chức họ, đoàn kết họ, huấn luyện họ, đưa họ ra đấu tranh giành tự do độc lập".
Từ nhận thức ấy, bài học đầu tiên Người giảng tại các lớp huấn luyện chính trị, đào tạo đội ngũ cán bộ cách mạng đầu tiên của Đảng ở Quảng Châu, Trung Quốc (những năm 1925-1927), là bài học về đoàn kết, trong đó chỉ rõ: “Cách mạng là việc chung của cả dân chúng chứ không phải việc của một hai người”, vì vậy cần đến sự “đồng tâm hiệp lực” của nhiều người, "ai ai cũng phải gánh vác một vai... không nên người này ngồi chờ người khác..."; Nhiệm vụ của những người cách mạng là phải “làm cho dân chúng giác ngộ”, và "sức cách mệnh phải tập trung". Muốn sức cách mệnh tập trung, "trước hết phải có đảng cách mệnh, để trong thì vận động và tổ chức dân chúng, ngoài thì liên lạc với dân tộc bị áp bức và vô sản giai cấp mọi nơi"..., nếu không sẽ không làm tròn sứ mệnh lịch sử là người lãnh đạo cách mạng, lãnh đạo các đoàn thể quần chúng, không thể thống nhất được lực lượng cách mạng, không thể đoàn kết được toàn dân tộc...
Và, các văn kiện do Người soạn thảo được thông qua tại Hội nghị hợp nhất các tổ chức cộng sản, thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam, tháng 2-1930, (Chính cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt, Điều lệ vắn tắt và Chương trình tóm tắt của Đảng), tuy rất vắn tắt, nhưng đã vạch ra những nguyên tắc cơ bản về chiến lược, sách lược xây dựng Mặt trận dân tộc thống nhất dưới sự lãnh đạo của Đảng, với các nội dung cơ bản là: "Đảng... phải thu phục cho được đại bộ phận giai cấp của mình, phải làm cho giai cấp mình lãnh đạo được dân chúng. Đảng phải thu phục cho được đại đa số dân cày và phải dựa vào hạng dân cày nghèo...", "Đảng phải hết sức liên lạc với tiểu tư sản, trí thức, trung nông... để kéo họ đi về phe vô sản giai cấp. Còn đối với bọn phú nông, trung, tiểu địa chủ và tư bản An Nam mà chưa rõ phản cách mạng thì phải lợi dụng, ít lâu mới làm cho họ đứng trung lập"... Luận điểm cơ bản này đã mở đường cho quá trình vận động, xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc trong công cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc và xây dựng đất nước.
Trong thời kỳ 1930-1945, dưới sự chỉ đạo của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Đảng ta đề ra mục tiêu và có những chính sách, biện pháp phù hợp với tình hình thực tế, đã gây được phong trào quần chúng mạnh mẽ và rộng khắp, nhất là từ khi Người về nước, trực tiếp lãnh đạo phong trào cách mạng Việt Nam (28-01-1941). Dưới sự chỉ đạo của Chủ tịch Hồ Chí Minh, cùng với việc đề ra đường lối giải phóng dân tộc, Hội nghị Trung ương Tám (tháng 5-1941) đã quyết định thành lập Mặt trận dân tộc thống nhất rộng rãi mang tên Việt Nam độc lập đồng minh (gọi tắt là Mặt trận Việt Minh), nhằm “liên hiệp hết thảy các giới đồng bào yêu nước, không phân biệt giàu nghèo, già trẻ, gái trai, không phân biệt tôn giáo và xu hướng chính trị, đặng cùng nhau mưu cuộc dân tộc giải phóng và sinh tồn... dựng lên một nước Việt Nam tự do và độc lập”. Những chủ trương, chính sách đoàn kết đúng đắn, rộng rãi của Đảng về Mặt trận trong giai đoạn này phù hợp với quyền lợi và nguyện vọng của mọi tầng lớp nhân dân, được nhân dân ta nhiệt liệt hưởng ứng và đã thực hiện được mục tiêu "Toàn dân đoàn kết”, đưa phong trào Việt Minh phát triển "rộng rãi đến một trình độ xưa nay chưa từng thấy trong lịch sử cách mạng nước ta". Nhờ đó, sức mạnh của mỗi người đã được quy tụ thành sức mạnh chung của cả dân tộc, đưa cuộc đấu tranh của nhân dân ta tới thắng lợi "nhanh chóng đến mức làm cho người ta sững sờ"trong Cách mạng tháng Tám 1945.
Những kinh nghiệm về xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân trong quá trình vận động giải phóng dân tộc, nhất là trong Cách mạng tháng Tám, được Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta phát triển lên một tầm cao mới trong công cuộc kháng chiến và kiến quốc. 6 nhiệm vụ cấp bách mà Người đề ra trong phiên họp đầu tiên của Hội đồng Chính phủ (3-9-1945) không chỉ nhằm đáp ứng những đòi hỏi trước mắt là diệt giặc đói, diệt giặc dốt, diệt giặc ngoại xâm... trong những ngày đầu độc lập, mà là một chương trình kinh tế, chính trị, văn hóa - xã hội tổng thể để xây dựng một nước Việt Nam mới, nhằm đem lại cuộc sống ấm no, hạnh phúc cho mỗi người dân. Những chính sách và việc làm cụ thể, thiết thực của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong thời kỳ này đã đáp ứng nguyện vọng ngàn đời của các tầng lớp nhân dân ta, đã quy tụ được sức mạnh tổng hợp cả về vật chất và tinh thần của toàn dân tộc, từng bước đưa cách mạng Việt Nam vượt qua cơn sóng dữ trong những ngày đầu lập nước và sau đó đưa cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp đến thắng lợi. Từ những kinh nghiệm và thực tiễn quá trình xây dựng và phát huy sức mạnh của khối đại đoàn kết dân tộc trong những năm đầu kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã tổng kết và khái quát thành tư tưởng chỉ đạo chiến lược: "Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết. Thành công, thành công, đại thành công”.
Sau năm 1954, tư tưởng chiến lược đại đoàn kết Hồ Chí Minh và sự chỉ đạo trực tiếp của Người một lần nữa hóa thân một cách sâu rộng vào từng nhiệm vụ cách mạng, từng chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước ta. Cùng với các chính sách kinh tế - xã hội cụ thể, với nhiều hình thức tổ chức phong phú, linh hoạt và sáng tạo trong việc xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc, Mặt trận dân tộc thống nhất đã giác ngộ, lôi kéo và tập hợp được đông đảo các tầng lớp nhân dân ta từ Bắc đến Nam "đoàn kết chặt chẽ thành một khối khổng lồ" trong các phong trào thi đua yêu nước trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội,... đưa cách mạng nước ta vượt qua muôn vàn khó khăn, gian khổ, thực hiện thắng lợi nhiệm vụ xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và tiếp tục cuộc đấu tranh giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước...
Như vậy, ngay từ khi tìm thấy con đường cứu nước và giải phóng dân tộc, từ những bài giảng trong các lớp huấn luyện cán bộ đầu tiên cho phong trào cách mạng Việt Nam, đến Chính cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt, Điều lệ vắn tắt và Chương trình tóm tắt của Đảng, từ Mặt trận Việt Minh và những chính sách, việc làm cụ thể cùng sự quan tâm chỉ đạo sát sao việc xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong những ngày đầu lập nước, những năm kháng chiến chống thực dân Pháp và chống đế quốc Mỹ xâm lược,... đến những lời căn dặn thiết tha trong Di chúc của Người, đã hình thành tư tưởng chiến lược đại đoàn kết Hồ Chí Minh, và trở thành ánh sáng soi đường trong việc động viên và phát huy sức mạnh tổng hợp của khối đại đoàn kết dân tộc trong mọi thời kỳ cách mạng, đưa cách mạng Việt Nam liên tiếp đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác.
Sau thắng lợi hoàn toàn của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước mùa Xuân năm 1975, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản, các dân tộc Việt Nam cùng chung một ý chí, phấn khởi vươn lên trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Nhớ lời căn dặn của Chủ tịch Hồ Chí Minh: "Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết. Thành công, thành công, đại thành công", Đảng và Nhà nước ta luôn coi "Đoàn kết dân tộc... là đường lối chiến lược của cách mạng Việt Nam, là nguồn sức mạnh, động lực chủ yếu và là nhân tố có ý nghĩa quyết định bảo đảm thắng lợi bền vững của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc".
Trong giai đoạn cách mạng mới, trọng tâm công tác lãnh đạo của Đảng hướng vào các mục tiêu trực tiếp là xây dựng, phát triển kinh tế và văn hóa, nhằm không ngừng nâng cao đời sống của nhân dân. Trên cơ sở đánh giá tình hình thế giới và thực tiễn đất nước, khắc phục ý chí chủ quan, nóng vội trong những năm đầu sau chiến tranh, đặc biệt là việc phân tích kỹ những tiềm năng tuy phân tán nhưng rất quan trọng trong nhân dân, cả về sức lao động, kỹ thuật, tiền vốn, khả năng tạo việc làm... Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI và các Đại hội sau đó của Đảng luôn khẳng định chủ trương xây dựng và phát triển "một nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa”, nhằm khai thác mọi khả năng của các thành phần kinh tế xã hội cho sự ổn định và phát triển. Cùng với việc "cởi trói" này, Đảng và Nhà nước ta đã thực hiện những chính sách nhất quán đối với các thành phần kinh tế, như: đầu tư, hỗ trợ vốn, kỹ thuật, nguyên vật liệu, cho phép tự hạch toán,... tạo mọi điều kiện thuận lợi cho các thành phần kinh tế có thể phát huy được tiềm năng sẵn có của mình, góp phần thúc đẩy các thành phần kinh tế khác cùng phát triển. Sự đổi mới kịp thời này đã mở đường cho việc hình thành những nhân tố mới, tạo cơ sở cho sự kết hợp chặt chẽ giữa việc giữ vững quyền lợi của quốc gia, dân tộc với việc bảo đảm lợi ích của các tầng lớp nhân dân lao động và tăng cường hơn nữa mối quan hệ gắn bó giữa nhân dân với Đảng, với cách mạng. Nhờ đó, mặc dù phải vượt qua bao khó khăn chồng chất do hậu quả chiến tranh và thiên tai để lại, trong bối cảnh quốc tế có nhiều diễn biến phức tạp, Đảng ta đã quy tụ được cả dân tộc đoàn kết thành một khối vững chắc, phát huy được sức mạnh to lớn của toàn dân, đưa sự nghiệp đổi mới đất nước tiến những bước dài chưa từng có, làm cho đất nước và con người đều đổi mới.
Bước vào thế kỷ XXI, cùng với những thuận lợi, sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, Đảng và nhân dân ta hiện nay đang đứng trước nhiều khó khăn, thách thức lớn trước những biến động phức tạp của tình hình thế giới và sự tác động nhiều mặt của nền kinh tế thị trường trong xu thế hội nhập và toàn cầu hóa, đặc biệt là âm mưu "diễn biến hòa bình", các chiêu bài “dân chủ”, "nhân quyền" của các thế lực thù địch, hòng làm thay đổi chế độ chính trị ở nước ta... Trước tình hình đó, để phát huy được sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân, đưa sự nghiệp đổi mới vững bước đi lên, Đảng và Nhà nước ta luôn "lấy mục tiêu giữ vững độc lập dân tộc, thống nhất Tổ quốc, vì dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ văn minh làm điểm tương đồng để gắn bó đồng bào các dân tộc, các tôn giáo, các tầng lớp nhân dân ở trong nước và người Việt Nam định cư ở nước ngoài; xóa bỏ mặc cảm, định kiến, phân biệt đối xử về quá khứ thành phần giai cấp... xây dựng tinh thần cởi mở, tin cậy lẫn nhau vì sự ổn định chính trị và đồng thuận xã hội", để tổ chức và động viên được các tầng lớp nhân dân cùng thống nhất hành động theo một chương trình chung, thực hiện thắng lợi mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ văn minh, với tinh thần ấy, thông qua các chương trình kinh tế, xã hội cụ thể và việc thực hiện nhất quán chính sách bình đẳng, đoàn kết, tương trợ, giúp đỡ lẫn nhau giữa các dân tộc, tạo mọi điều kiện để các dân tộc phát triển đi lên con đường văn minh, tiến bộ, gắn bó mật thiết với sự phát triển chung của cộng đồng các dân tộc Việt Nam,... Đảng và Nhà nước ta đã không ngừng mở rộng khối đại đoàn kết dân tộc trong Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và cổ vũ được toàn dân nêu cao tinh thần cách mạng, tham gia tích cực các phong trào thi đua yêu nước, vừa xây dựng kinh tế vừa phát triển văn hóa, vừa làm giàu cho mình, cho cộng đồng và cho đất nước... cùng góp phần giữ vững sự ổn định và phát triển, bảo đảm thắng lợi bền vững của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Cũng như các giai đoạn cách mạng trước, đứng ở trung tâm của khối đại đoàn kết dân tộc trong giai đoạn cách mạng mới, để giữ vững vai trò tiên phong của mình, xứng đáng là đại biểu cho lợi ích của cả giai cấp và dân tộc, Đảng ta luôn coi việc "giữ gìn và phát huy truyền thống đoàn kết thống nhất của Đảng, thực hiện đầy đủ nguyên tắc tập trung dân chủ, tiến hành phê và tự phê bình thường xuyên trong sinh hoạt Đảng" là nền tảng cơ sở sức mạnh của mình. Trong những năm qua, mặc dù “tình trạng suy thoái về tư tưởng, chính trị, đạo đức, lối sống, bệnh cơ hội, chủ nghĩa cá nhân và tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí trong một bộ phận cán bộ, công chức diễn ra nghiêm trọng”,  nhưng với tinh thần đoàn kết nhất trí được xây dựng trên cơ sở đấu tranh bảo vệ đường lối, quan điểm và những nguyên tắc sinh hoạt của Đảng, và được củng cố bằng tình cảm cách mạng trong sáng của những người cùng chung lý tưởng với "tình đồng chí thương yêu lẫn nhau", Đảng ta thường xuyên tiến hành các cuộc vận động xây dựng và chỉnh đốn Đảng, học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh,... để không ngừng củng cố sự đoàn kết nhất trí trong Đảng và tăng cường mối quan hệ giữa Đảng và nhân dân. Nhờ đó, chẳng những lúc cách mạng phát triển bình thường, thuận lợi mà cả những khi sóng gió, ở những khúc quanh của lịch sử, Đảng ta luôn là một khối thống nhất về tư tưởng và hành động, xứng đáng với vai trò là hạt nhân của khối đại đoàn kết dân tộc, tiếp tục mở đường và dẫn dắt toàn dân ta vượt qua thách thức, vững bước tiến vào thời kỳ hội nhập và phát triển...
HOÀNG CHÍ BẢO. Di chúc Hồ Chí Minh - một mẫu mực về đạo đức, một đặc sắc về phong cách / Hoàng Chí Bảo // Báo Quân đội nhân dân. - 2019. - Số 20882. - Ngày 27/5. - Tr. 1,2
Tư tưởng-Đạo đức-Phong cách Hồ Chí Minh là một hệ thống chỉnh thể không tách rời, từ đặc trưng đến giá trị, từ nội dung đến hình thức, từ tinh thần đến phương pháp. Người biểu đạt bằng lời văn, ngôn ngữ giản dị, trong sáng, có sức truyền cảm lớn, rất đỗi chân thành, đúng với con người, đời sống và cốt cách Hồ Chí Minh - một nhà tư tưởng Mác xít hiện đại, một bậc hiền triết, minh triết phương Đông, đậm bản sắc dân tộc Việt Nam.
Tấm gương mẫu mực về đạo đức cách mạng của Hồ Chí Minh được thể hiện chân thực và cảm động trong toàn bộ cuộc đời và sự nghiệp hoạt động cách mạng vì nước vì dân, trọn đời dâng hiến và hy sinh vì lý tưởng cộng sản, vì độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, vì tự do và hạnh phúc của nhân dân.
Chúng ta hiểu vì sao, Người chú trọng thực hành đạo đức trong các công việc thực tế hằng ngày, dày công giáo dục, rèn luyện cán bộ, đảng viên về đạo đức, tự mình làm gương, nêu gương, “nói ít làm nhiều”, chủ yếu là hành động, nhất là nói đi đôi với làm, đã nói thì phải làm. Đây là việc khó khăn nhất của đời người và làm người, là thước đo về tính trung thực và lòng trung thành. Người từng căn dặn, sự chân thành, lòng thành thật là quý nhất để cảm hóa, thuyết phục và thúc đẩy con người.
Là đạo đức cách mạng, đạo đức hành động nên người cách mạng suốt đời phải tự mình rèn luyện “cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư”, suốt đời chống chủ nghĩa cá nhân - giặc nội xâm ẩn nấp trong lòng mỗi người.
Trong các văn phẩm lý luận của Người, đạo đức cách mạng là chủ đề nổi bật nhất và quét sạch chủ nghĩa cá nhân là mối quan tâm thường trực, thường xuyên của Người. Mở đầu “Đường kách mệnh” (1927), khi Đảng còn chưa ra đời, Người đưa lên hàng đầu “Tư cách của người cách mệnh”. Phải cần, kiệm, liêm, chính, nghiêm với mình, rộng lòng khoan thứ với người, phải giữ chủ nghĩa cho vững, lại phải ít lòng ham muốn về vật chất. Hơn 60 năm trước, Người dồn tâm huyết và tinh lực để viết tác phẩm “Đạo đức cách mạng”, năm 1958.
Tác phẩm lý luận cuối cùng của Người, công bố đúng dịp sinh nhật Đảng 3/2/1969 cũng vẫn là chủ đề đạo đức cách mạng. Người đặt vấn đề phải quét sạch chủ nghĩa cá nhân để nâng cao đạo đức cách mạng, bởi chủ nghĩa cá nhân là bệnh gốc, bệnh “mẹ”, đẻ ra hàng trăm thứ bệnh “con”, làm hỏng nhân cách của người cách mạng và làm suy yếu Đảng; nếu không chống được thì Đảng xa dân, dân suy giảm niềm tin vào Đảng chỉ vì cán bộ đảng viên suy thoái biến chất. Đạo đức cách mạng xa lạ, đối lập với chủ nghĩa cá nhân cho nên, để có đạo đức cách mạng, mỗi người, trước hết là cán bộ, đảng viên phải có đủ dũng khí và bản lĩnh “không màng danh lợi”, “tuyệt đối đứng ngoài vòng danh lợi” mà với Người, cả cuộc đời là như vậy, một tấm gương trong sáng, cao thượng, không một vết gợn.
Đạo đức Hồ Chí Minh kết tinh trong bản Di chúc của Người.
Nói về Đảng, Người nhấn mạnh trước hết về đạo đức của Đảng cầm quyền, của mỗi tế bào của Đảng là chi bộ và đảng viên. Phải suốt đời rèn luyện cần, kiệm, liêm, chính, chống chủ nghĩa cá nhân để làm tròn nhiệm vụ vẻ vang của Đảng là phụng sự Tổ quốc và nhân dân.
Trong Di chúc, lời căn dặn của Người về đạo đức thấm nhuần trong toàn bộ mọi nhiệm vụ, mọi công việc, phải dũng cảm hy sinh, vượt qua mọi khó khăn thử thách để đi tới thắng lợi hoàn toàn trong cuộc chống Mỹ, cứu nước.
Người đặc biệt quan tâm tới giáo dục đạo đức cho thế hệ trẻ, lớp người kế tục sự nghiệp cha anh, xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội trên đất nước ta. Đảng ta, như Người khẳng định “là một Đảng cầm quyền”, nên đạo đức trong Đảng, trước hết là đoàn kết thống nhất phải giữ gìn như giữ gìn con ngươi của mắt mình là điều hệ trọng, để dân tin, dân phục, dân yêu. Mối quan hệ máu thịt giữa Đảng với dân làm nên sức mạnh bền vững của Đảng, thắng lợi của sự nghiệp cách mạng.
Quan tâm của Đảng, Nhà nước và Chính phủ đến cuộc sống của nhân dân là đạo đức và cũng là trách nhiệm. Nó phải thấm vào trong ý thức tư tưởng và tình cảm, biến thành hành động của mọi đảng viên, cán bộ, công chức, đoàn viên, hội viên của mọi tổ chức, đoàn thể.
Các chủ trương, chính sách, biện pháp, các việc làm lớn nhỏ, trước mắt cũng như lâu dài mà Người nêu ra trong Di chúc, Người căn dặn chúng ta thực hiện, đều thể hiện đạo đức của người cách mạng, thực hành trong lẽ sống, lối sống vì dân, như Người đã từng nói, “làm điều lợi cho dân, tránh điều hại tới dân”, “không làm điều gì trái ý dân”, “làm đầy tớ trung thành và công bộc tận tụy của dân là lẽ sống cao thượng nhất”.
Khi nhấn mạnh “đầu tiên là công việc với con người”, trong Di chúc, Người căn dặn Đảng và Chính phủ cũng như mọi cán bộ, đảng viên phải hết lòng quan tâm chăm sóc nhân dân ở khắp mọi đối tượng, không quên, không sót một ai, nhất là phải thi hành các chính sách đền ơn đáp nghĩa đối với thương binh, liệt sĩ và gia đình của họ, tuyệt đối không để thân nhân và gia đình họ rơi vào cảnh đói khổ, túng thiếu. Phải giáo dục truyền thống cho lớp trẻ. Phải có tình đồng chí thương yêu lẫn nhau trong tự phê bình và phê bình.
Bản thân Hồ Chí Minh, những lời Người “nói về việc riêng” cũng thể hiện những phẩm chất đạo đức cao quý, thương dân, không muốn lãng phí thì giờ tiền bạc của dân, khi Người qua đời. Đó là mong muốn, sự quan tâm chu đáo của Người và cao quý nhất là Người đã quên mình, hóa thân vào dân vào nước.
Nỗi niềm tiếc nuối của Người chỉ là “không được phục vụ Tổ quốc, phục vụ nhân dân lâu hơn nữa, nhiều hơn nữa”, qua đó Người thể hiện rõ đạo đức của người cách mạng, suốt đời phục vụ Tổ quốc, nhân dân với tất cả tình thương và trách nhiệm. Cả cuộc đời gắn bó sâu nặng, tình nghĩa với dân với nước, Người là hiện thân cao quý của đạo đức cách mạng cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư, là tấm gương sáng cho mọi thế hệ, cho muôn đời noi theo.
Phong cách Hồ Chí Minh là nơi thể hiện và kết tinh cả tư tưởng và đạo đức của Người
“Phong cách chính là con người”. Nhận xét ấy của Buýp Phông, nhà văn và triết gia Pháp đã nói được tính tổng hòa các giá trị, các phẩm chất, đặc trưng làm nên phong cách của một con người. Bậc vĩ nhân Hồ Chí Minh - con người, cuộc đời, sự nghiệp, tư tưởng, đạo đức của Người tạc lên phong cách của Người - giản dị mà vĩ đại, vĩ đại thực sự nên giản dị đến mức tự nhiên - như đời sống của Người, không một chút nào gượng ép. Người giản dị chứ không hề giản đơn. Giản dị - đặc trưng điển hình cho phong cách của Người là nơi thể hiện tất cả sự phong phú, sâu sắc của Người, đúng như một danh ngôn của một nhà tư tưởng đã nói: Giản dị là nỗ lực cao nhất và cuối cùng của một bậc thiên tài.
Trong lối sống hằng ngày, Người thực hành tiết kiệm đến mức khắc khổ, để nêu gương suốt đời phải ơn dân, thương dân mà phải tiết kiệm, vì mỗi đồng tiền bát gạo mà chúng ta tiêu dùng đều từ mồ hôi, nước mắt của dân làm ra.
Nâng cao trách nhiệm, một lòng tận tụy cũng vì ơn dân và thương dân. Người từng nói, dân đóng thuế để chính phủ có tiền trả lương cho công chức. Nếu làm việc cẩu thả, lười biếng, tắc trách là lừa gạt dân. Còn tham ô, tham nhũng là có tội với dân với nước nên phải diệt trừ tham nhũng như diệt trừ một tội ác, trừng trị tất cả những kẻ bất liêm, bất kể chúng là ai, bất kể ở cương vị nào.
Viết Di chúc, Người viết trên mặt sau tờ tin tham khảo hằng ngày của “Việt Nam thông tấn xã”. Vậy mà, “Sau bản tin một đêm Người ký thác chuyện muôn đời” (Việt Phương).
Phong cách Hồ Chí Minh là phong cách của một con người ở bậc Đại trí-Đại nhân-Đại dũng, con người Việt Nam đẹp nhất. Phong cách ấy xét đến cùng là văn hóa, một bản lĩnh văn hóa của Hồ Chí Minh: Khiêm nhường và nhân ái, vị tha và bao dung, quên mình để nghĩ về tất cả. Dấn thân-Dâng hiến-Hy sinh và Hóa thân-đó là Hồ Chí Minh, văn hóa Hồ Chí Minh.
Người thanh thản ra đi, về cõi vĩnh hằng, gặp tổ tiên và Các Mác, Lênin-nơi thế giới người Hiền. Người luôn lạc quan tin tưởng mãnh liệt, thương yêu vô hạn. Người chỉ một lòng một dạ vì dân vì nước, vì quốc tế và nhân loại, tuyệt nhiên không màng công danh, phú quý, không ham danh lợi, không chủ trương “một thứ lập” gì hết. Vậy mà Người đã “lập đức” cao quý cần, kiệm, liêm, chính, “lập công” vì độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, vì độc lập-tự do-hạnh phúc cho nhân dân. Người - một nhà văn, nhà thơ, nhà báo, danh nhân văn hóa, tâm hồn lộng gió thời đại cũng là “người lập ngôn” để lại dấu ấn không phai mờ trong lịch sử “Không có gì quý hơn độc lập tự do”, “Đảng là đạo đức, là văn minh”…
Cũng không thể quên rằng, trong Di chúc với hơn 1.000 từ, Người dành hết cho dân, cho nước, cho Đảng, cho dân tộc và quốc tế. Người chỉ dành cho mình đúng 79 từ. Vậy là Người đã lấy cái ít nhất về ngôn từ (tối thiểu) để tải một cái lớn nhất, nhiều nhất (tối đa) về tư tưởng. Văn học là nhân học, Hồ Chí Minh đã dùng “chữ” ít nhất để biểu đạt “nghĩa” nhiều nhất trong văn và trong đời. Xét về chữ thì Di chúc nói ít nhất về chủ nghĩa xã hội. Nhưng xét về nghĩa thì Di chúc lại nói được nhiều nhất với những tư tưởng lớn và phương pháp sáng tạo về chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa xã hội Việt Nam. Đó là phong cách, là bản lĩnh Hồ Chí Minh.
Nửa thế kỷ đã qua kể từ khi Người ra đi, cũng là nửa thế kỷ chúng ta học tập và làm theo Di chúc của Người, thực hiện 5 lời thề thiêng liêng khi vĩnh biệt Người.
Hai điều nổi bật nhất trong Di chúc, từ lời văn, câu chữ của Người cô đọng lại, mãi nhắc nhở chúng ta không bao giờ quên, không thể nào quên: “Trước hết nói về Đảng” và “Đầu tiên là công việc với con người”.
Phải ra sức làm cho Đảng thực sự trong sạch, vững mạnh, xứng đáng là Đảng lãnh đạo, cầm quyền. Phải làm tất cả vì độc lập-tự do-hạnh phúc của nhân dân, “Tổ quốc trên hết”, “Dân tộc trên hết”. Đó là điều thôi thúc lớn nhất đối với mỗi chúng ta. Niềm tin của dân đối với Đảng, với chế độ phải được củng cố bền chặt, bởi đó là tài sản to lớn nhất, quý giá nhất của Đảng, của cách mạng-Đảng do Bác Hồ sáng lập và rèn luyện, cách mạng do Người dẫn dắt từ buổi đầu của “Đường kách mệnh”.
NGUYỄN VIẾT THƯ. Quán triệt những căn dặncủa người về đạo đứccách mạng trong Di chúc, thiết thực học tập vàlàm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh / Nguyễn Viết Thư // Sách Giá trị nhân văn của Di chúc Hồ Chí Minh. - H. : Thanh niên, 2017. - Tr. 224 - 236
Trước khi đi xa, về với thế giới người hiền, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã để lại cho toàn Đảng, toàn quân, toàn dân ta bản Di chúc lịch sử. Đó là những điều dặn lại cuối cùng của người. Trong nội dung, người cũng chỉ khiêm tốn viết là "để lại mấy lời này, chỉ nói tóm tắt vài việc thôi.", nhưng hàm chứa trong đó là tâm hồn, trí tuệ, niềm tin, là khí phách củamột nhân cách cao đẹp, là tình cảm sâu nặng và vô cùng lớn lao của vị cha già dân tộc, đó cũng là những điều người suy nghĩ, trăn trở, những kinh nghiệm đã đúc kết bằng cả cuộc đời phấn đấu hy sinh của mình. Có một điều người đặc biệt nhấn mạnh, đó là vấn đề đạo đức của cán bộ, đảng viên: "Đảng ta là một Đảng cầm quyền. Mỗi đảng viên và cán bộ phải thật sự thấm nhuần đạo đức cách mạng, thật sự cần kiệm liêm chính, chí công vô tư. Phải giữ gìn Đảng ta thật trong sạch, phải xứng đáng là người lãnh đạo, là người đầy tớ trung thành của nhân dân" quán triệt những lời căn dặn này của Bác chính là thiết thực học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh.
1. Những yêu cầu của Hồ Chí Minh về cách mạng và rèn luyện đạo đức cách mạng đối với đội ngũ cán bộ, đảng viên của một Đảng cầm quyền.
 Chủ tịch Hồ Chí Minh là lãnh tụ cách mạng quan tâm hàng đầu đến đạo đức. Ngay từ khi bắt đầu hoạt động cách mạng, Hồ Chí Minh đã có ý thức rất rõ ràng về vai trò và sức mạnh của đạo đức cách mạng. Người không ngừng chăm lo giáo dục, rèn luyện đạo đức cách mạng cho cán bộ, đảng viên và nhân dân ta. Người nói: "Cũng như sông thì có nguồn mới có nước, không có nguồn thì sông cạn. Cây phải có gốc, không có gốc thì cây héo. Người cách mạng phải có đạo đức, không có đạo đức thì dù tài giỏi mấy cũng không lãnh đạo được nhân dân". Như vậy, Người quan niệm đạo đức là gốc là nguồn, là nền tảng, bởi đạo đức chính là sức mạnh tinh thần, là vũ khí sắc bén của người cách mạng.
Chính đạo đức yêu nước thương dân của Chủ tịch Hồ Chí Minh là động lực to lớn góp phần làm nên sự nghiệp cách mạng phi thường của Người, và Người được toàn dân yêu mến, ủng hộ. Vì vậy ta mới hiểu vì sao suốt đời mình, Chủ tịch Hồ Chí Minh chăm lo bồi dưỡng đạo đức cách mạng cho cán bộ,đảng viên.
Trong tác phẩm "Đường Kách mệnh", xuất bản năm 1927, người đề cập trước tiên đến 23 điểm về "tư cách người cách mệnh" và xác định đây là những chuẩn mực đạo đức của những chiến sỹ cách mạng. Với quan niệm mới, Hồ Chí Minh đã đề ra nội dung đạo đức cách mạng bao hàm những vấn đề cơ bản về nhân sinh quan, thế giới quan cách mạng về ý thức và phương pháp tư tưởng của giai cấp công nhân. Người coi việc giáo dục đạo đức cách mạng là một trong những nguyên tắc cơ bản nhằm xây dựng con người cách mạng chân chính để tiến lên xây dựng một đảng cách mạng chân chính của giai cấp công nhân Việt Nam. Đây là bài học hàng đầu đối với tổ chức tiền thân của Đảng - Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên, vì số đông cán bộ thuộc thành phần tiểu tư sản trí thức hoạt động trong hoàn cảnh cách mạng Việt Nam vô cùng khó khăn gian khổ.
Sau khi giành được chính quyền, Hồ Chí Minh càng quan tâm nhiều đến đạo đức của cán bộ, đảng viên của đảng cầm quyền, không để chức, quyền, danh, lợi làm hoen ố lương tâm, bôi nhọ danh dự, dẫn đến suy thoái, biến chất, có thể làm tan nát cả sự nghiệp. Chính vì vậy, những thập kỷ bốn mươi, năm mươi, sáu mươi, Hồ Chí Minh đều có những bài viết ngắn gọn, súc tích về đạo đức cách mạng, như cuốn "Con đường giải phóng" năm 1940; cuốn "Sửa đổi lối làm việc" năm 1947; và cả loạt bài về "cần, kiệm, liêm, chính" năm 1949, "Đạo đức cách mạng'' năm 1958, "Nâng cao đạo đức cách mạng, quét sạch chủ nghĩa cá nhân" năm 1969. Trong các bài viết Người chỉ rõ: người đảng viên, người cán bộ tốt muốn trở nên người cách mạng chân chính hoàn toàn do lòng mình mà ra. Lòng mình chỉ biết có Đảng, vì tổ quốc, vì đồng bào sẽ tiến đến chỗ chí công vô tư và đã chí công vô tư thì khuyết điểm sẽ càng ngày càng ít, mà những tính tốt ngày càng nhiều thêm. Theo người, đạo đức cách mạng là bất kỳ ở cương vị nào, bất kỳ làm công việc gì đều không sợ khó không sợ khổ; nhận rõ phải trái, giữ vững lập trường; quyết tâm suốt đời đấu tranh cho Đảng, cho cách mạng; ra sức làm việc cho Đảng, giữ vững kỷ luật của Đảng, thực hiện đường lối chính sách của Đảng, tận trung với nước, tận hiếu với dân.
Đến cuối đời, trước lúc đi xa, trong Di chúc vấn đề đạo đức lại được Người đặc biệt quan tâm, trong đó nhấn mạnh cán bộ, đảng viên phải thực hành đạo đức: “Đảng ta là một đảng cầm quyền, mỗi đảng viên và cán bộ phải thật sự thấm nhuần đạo đức cách mạng, thật sự cần kiệm liêm chính, chí công vô tư. Phải giữ gìn Đảng ta thật trong sạch, phải xứngđáng là người lãnh đạo, là người đầy tớ thật trungthành của nhân dân”.
Cũng không phải ngẫu nhiên mà trong mộtđoạn văn ngắn chỉ có 57 từ, Bác Hồ đã nhấn mạnh bốn lần chữ "thật" và "thật sự". Chắc chắn người đã cân nhắc rất nhiều. Thật có nghĩa là đối lập với giả, với dối. Thật sự là đối lập với qua loa, nửa vời, không đến nơi đến chốn. Chủ tịch Hồ Chí Minh dạy chúng ta rèn luyện đạo đức mới, đạo đức cách mạng, tức là đạo đức phục vụ cách mạng, phụng sự tổ quốc, phụng sự nhân dân. Chữ "thật" là biểu hiện của chữ "chính" trong tứ đức: cần, kiệm, liêm, chính tức là trung thực, thật thà, đúng đắn. Chữ "thật" cũng là chữ "liêm". Có thật thà thì mới có "liêm". Có thật thà mới không tham lam. Chữ "thật" người dạy Đảng ta, dạy mỗi cán bộ, đảng viên là cốt lõi của văn hóa cầm quyền, của một đảng cộng sản chân chính cầm quyền, có sứ mệnh lãnh đạo nhân dân xây dựng một xã hội tốt đẹp, công bằng, dân chủ, văn minh. Rèn luyện thật sự là để chống lại thói nói mà không làm, nói nhiều làm ít, nói một đằng làm một nẻo. Và chính Chủ tịch Hồ Chí Minh từng nói: đối với các dân tộc phương Đông thì, một tấm gương sống còn có giá trị hơn một trăm bài diễn văn tuyên truyền. "Trước mặt quần chúng, không phải ta cứ viết lên trán chữ "cộng sản" mà ta được họ yêu mến. Quần chúng chỉ quý mến những người có tư cách, đạo đức. Muốn hướng dẫn nhân dân, mình phải làm mực thước cho người ta bắt chước", và "giải phóng cho dân tộc, giải phóng cho loài người là một công việc to tát, mà tự mình không có đạo đức, không có căn bản, tự mình đã hủ hóa, xấu xa thì còn làm nổi việc gì?.
Với trí tuệ uyên bác và tầm vượt thời gian, Bác Hồ đã sớm tiên lượng những căn bệnh của những người có chức, có quyền và sớm chỉ ra những biện pháp cần đề phòng và khắc phục, trong đó Bác đặt lên hàng đầu việc thường xuyên giáo dục, rèn luyện đạo đức cho cán bộ, đảng viên. Người đã từng cảnh báo: “một dân tộc, một đảng và mỗi con người, ngày hôm qua là vĩ đại, có sức hấp dẫn lớn, không nhất định hôm nay và ngày mai vẫn được mọi người yêumến và ca ngợi, nếu lòng dạ không trong sáng nữa, nếu sa vào chủ nghĩa cá nhân”. Thực tiễn cho thấy, cán bộ, đảng viên, đặc biệt là cánbộ đứng đầu, cánbộ chủ chốt có chức, có quyền mà không tu dưỡng rèn luyện đạo đức, để trở thành những tấm gương sáng trong xã hội, thì sự nghiệp cách mạng củaĐảng và dân tộc sẽ gặp muôn vàn khó khăn.
2. Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh là một yêu cầu bức thiết.
Có thể khẳng định rằng, đến nay, phần lớn cán bộ,đảng viên và nhân dân được rèn luyện, thử tháchtrong quá trình đấu tranh cách mạng lâu dài, giankhổ, nên có bản lĩnh chính trị vững vàng, kiên địnhmục tiêu con đường mà Đảng, Bác Hồ đã chọn. Họlà những người năng động sáng tạo, hăng hái thực hiện đường lối chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước, có trình độ kiếnthức và năng lực quảnlý kinh tế, quản lý xã hội ngày càng được nâng cao. Số đông giữ được đạo đức phẩm chất cách mạng,có lối sống giản dị, lành mạnh gắn bó với nhândân. Tuy nhiên, điều đáng lo ngại hiện nay là có sự suy thoái về đạo đức, lối sống ở một bộ phận cánbộ đảng viên, trong đó có cả cán bộ có chức cóquyền. Báo cáo chính trị tại đại hội X của Đảng đã khẳng định: tình trạng suy thoái về tư tưởng chínhtrị, phẩm chất đạo đức, lốisống, bệnh cơ hội, giáođiều, bảo thủ, chủ nghĩa cá nhân và tệ quan liêu,tham nhũng, lãng phí, trong một bộ phận khôngnhỏ cán bộ, đảng viên, côngchứccòndiễn ranghiêm trọng. Đó là một trong những nguy cơ liênquan đến sự sống còn của Đảng của chế độ.
Một trong những nguyên nhân dẫn tới tình trạngsuy thoái đạo đức trong một bộ phận cán bộ, đảngviên hiện nay là do cơ chế thị trường và mở cửa hộinhập quốc tế. Bên cạnh những tác động tích cực tolớn, kinh tế thị trường cũngcó những tác động tiêucực, và Đảng ta chưa lường hết những tác động tiêucực và mặt trái của cơ chế thị trường, thiếu nhữngbiện pháp hữu hiệu cả xây và chống, trên lĩnh vựcđạo đức. Bên cạnh những nguyên nhân khách quan này còn phải nhấn mạnh đến những nguyên nhânchủ quan, đó là những tưtưởng, thói quen và truyềnthống lạc hậu, mà trong đó nguy hiểm nhất là chủ nghĩa cá nhân.
Trước sự hấp dẫn của chức quyền, địa vị danhvọng và bổng lộc, lợi ích vật chất chủ nghĩa cá nhâncàng nảy nở, một bộ phận cán bộ đảng viên đã khônggắn lợi ích của mình với lợi ích tập thể cơ quan và lợiích của nhân dân lao động. Họ sẵn sàng phạm tội ác, chà đạp lên lợi ích của tập thể của Nhà nước để thu vén cá nhân, họ lợi dụng khe hở của cơ chế để tham nhũng. Một số cán bộ đảng viên nắm quyền không muốn rời ghế quyền hành, không còn lòng tự trọng khi làm những việc sai trái: "Họ không quan tâm đến đời sống nhân dân mà chỉ lo nghĩ đến lợi ích riêng của mình. Họ quên rằng mỗi đồng tiền, hạt gạo đều là mồ hôi nước mắt của nhân dân, do đó mà sinh ra phô trương, lãng phí. Họ tự cho mình có quyền sống xa hoa hưởng lạc, từ đó mà đi đến tham ô, truy lạc, thậm chí sa vào tội lỗi. Tất cả những lỗi lầm nói trên đều là con đẻ của chủ nghĩa cá nhân".
Một nguyên nhân nữa dẫn tới tình trạng sa sút của một bộ phận cán bộ, đảng viên là có lúc có nơi đã xem nhẹviệc tuyên truyền giáo dục, tu dưỡng,rèn luyện đạo đức của con người. Một công việc mà từ trong Đảng cho đến cơ quan Nhà nước, các đoàn thể xã hội, nhà trường và cả gia đình đều phải quantâm, tôn trọng và thực hiện.
Thực tế cũng cho thấy, việc quản lý xã hội bằng pháp luật còn có sơ hở, mặt khác tổ chức và kỷ luật của Đảng còn lỏng lẻo, chưa coi trọng công tác quản lý và rèn luyện đảng viên, chưa thực hiện tốt phê bình và tự phê bình, chưa xử lý nghiêm minh và kịp thời những cán bộ đảng viên có sai phạm. Thực tếcho thấy hầu hết các vụ tham nhũng, buôn lậu... bị phanh phui là do công luận chứ không phải do chi bộ, hoặc tổ chức cơ sở Đảng phát hiện đấu tranhtìm ra.
Chủ tịch Hồ Chí Minh không chỉ giáo dục đạo đức cách mạng cho cán bộ, đảng viên bằng lời nói, mà còn bằng chính tấm gương sống của bản thânmình. Tấm gương đạo đức của Người là tuyệt vời trong sáng và toàn vẹn, nói đi đôi với làm, gắn liền lý luận với thực tiễn, gắn đạo đức với cuộc sống. Cuộcsống đòi hỏi phải làm trong sạch Đảng và làm lành mạnh đời sống đạo đức xã hội, và việc quán triệt những căn dặn của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong di chúc trở nên cấp thiết, đã được thể hiện rõ qua chỉ thị số 06/CT- TƯ ngày 07-11-2006 của Bộ chính trị trung ương Đảng về tổ chức cuộc vận động"Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”.
Đây là sự thể hiện quyết tâm mới của Đảng ta trong vấn đề giáo dục đạo đức cách mạng, nhằm đẩy lùi tiêu cực và thực hiện tốt hơn nữa Di chúc thiêngliêng của Chủ tịch Hồ Chí Minh về: Đảng ta là một Đảng cầm quyền. Mỗi đảng viên và cán bộ phải thật sự thấm nhuần đạo đức cách mạng, thật sự cần kiệm,liêm chính chí công vô tư, giữ gìn Đảng ta thật trong sạch, xứng đáng là người lãnh đạo, người đầy tớ thật trung thành của nhân dân.
Điểm quan trọng nhất của cuộc vận động lần này là "làm theo'' tấm gương của Chủ tịch Hồ Chí Minh chứ không phải chỉ có "noi" theo và phải làm"thật sự", phải đưa cuộc vận động đi vào chiều sâu, trở thành nội dung quan trọng trong mọi hoạt động của các cơ quan Đảng, chính quyền, đoàn thể ở mọicấp, mọi ngành. Chú trọng nhiệm vụ cụ thể hóa các chuẩn mực đạo đức trong tư tưởng, tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh phù hợp với điều kiện của mỗi cơ quan, đơn vị, địa phương để cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức, và mỗi người tự giác làm theo. Mọi cơ quan, đơn vị từ trung ương đến địa phươngthường xuyên giám sát, kiểm tra việc thực hiện cuộc vận động, mỗi người phải luôn luôn tự phê bình việc thực hiện cuộc vận động của bản thân mình. Chúngta cũng phải thống nhất về mặt nhận thức, học tập và làm theo tấm gương đạo đức cách mạng của Bác là học cái tinh thần là chính, như vậy, mới có sáng tạo trong vận dụng vào từng điều kiện, từng môi trường cụ thể. Phải hết sức tránh kiểu học giáo điều, máy móc thành ra bắt chước. Chính vì vậy, thắng lợi của cuộc vận động này tùy thuộc trước hết vào nhận thức, tinh thần trách nhiệm, quyết tâm hành động sự chỉ đạo thường xuyên của các cấp ủy, sự phấn đấu tự giác của từng cán bộ, đảng viên và mỗi người chúng ta.
Phải triển khai sâu rộng việc giáo dục tư tưởng Hồ Chí Minh nói chung, giáo dục tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh từ trong gia đình đến nhà trường, tậpthể và toàn xã hội, phải tăng cường, mở rộng và kết hợp các hình thức tuyên truyền giáo dục tư tưởng và tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh thông qua nhữnghoạt động thực tiễn của các tổ chức xã hội như: tổ chức các hình thức sinh hoạt, học tập, nói chuyện về tấm gương đạo đức cách mạng của Bác Hồ; mở cácdiễn đàn sinh hoạt, hội nghị, hội thảo, tổ chức kỷ niệm ngày lễ, đi tham quan các di tích về Chủ tịch Hồ Chí Minh trong địa bàn cả nước; tham quan Bảotàng Hồ Chí Minh tại Hà Nội và các chi nhánh của Bảo tàng Hồ Chí Minh ở các địa phương là những nơi có nhiều tài liệu, hiện vật quý giá của Chủ tịch Hồ Chí Minh để lại, và có một đội ngũ cán bộ nghiên cứu, tuyên truyền đông đảo. Đây là những nơi có trách nhiệm và lợi thế rất lớn trong việc tuyên truyền tư tưởng và tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh.
Mấy năm trở lại đây, nhiều trường Đại học ở Hà Nội và các tỉnh lân cận đã chọn Bảo tàng Hồ chí Minh để tham quan học tập, sau khi học xong môn tư tưởng Hồ Chí Minh. Sau khi tham quan bảo tàng và di tích, các em cảm nhận được nơi đây thực sự là trường học lớn về đạo lý làm người mà Người đã để lại cho chúng ta, thực sự là trường khoa học xã hội và nhân văn giáo dục tấm gương đạo đức cách mạng trong sáng của Người cho các thế hệ người Việt Nam, đặc biệt là thế hệ trẻ. Đây cũng chính là một việc làm thiết thực, góp phần thực hiện thắng lợi cuộc vận động Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh.
Tóm lại, trên bước đường phát triển của mỗi quốc gia nói chung, của nước ta nói riêng, bao giờ cũng vậy, thuận lợi đi liền khó khăn, thành tựu đi liền yếu kém (tuy nhiên mỗi nơi có mức độ khác nhau). Điều quan trọng đối với chúng ta là phải thực hiện phương châm, theo tinh thần Người căn dặn trong Di chúc. Từ thực trạng thoái hóa về phẩm chất, đạo đức của một bộ phận cán bộ, đảng viên, tình trạng tham nhũng và tệ nạn xã hội lan rộng ở nước ta hiện nay, chúng ta càng thấy những điều căn dặn về đạo đức cách mạng trong Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh sâu sắc biết nhường nào.
Và những điều căn dặn tâm huyết của Người về đạo đức và rèn luyện đạo đức cách mạng vẫn còn nguyên tính thời sự, vẫn tiếp tục tỏa sáng và là những nội dung thiết yếu mà đội ngũ cán bộ, đảng viên cần quán triệt sâu sắc và thực hiện triệt để, nhằm nâng cao phẩm chất và năng lực của mình, để Đảng ta có đủ sức mạnh nội lực, có đủ niềm tin của nhân dân, đủ năng lực để lãnh đạo cách mạng Việt Nam kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, phát huy mạnh mẽ sức mạnh của dân tộc, của Đảng, vững bước tiến lên trong công cuộc đổi mới, xây dựng thành công CNXH và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam XHCN như mong muốn của Người.
 
TRẦN THỊ PHÚC AN. Thực hành dân chủ theo Di chúc của Bác Hồ yếu tố quyết định thắng lợi của Đảng / Trần Thị Phúc An // Tạp chí Xây dựng Đảng. - 2019. - Số 5. - Tr. 7-10
Để nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, bảo đảm cho Đảng đủ sức hoàn thành thắng lợi mọi nhiệm vụ cách mạng, Đảng phải thường xuyên tiến hành tự đổi mới, tự chỉnh đốn và đặc biệt là phải thực hành dân chủ trong Đảng. Đây là một trong những yếu tố tạo nên sự đoàn kết, thống nhất, quyết định thắng lợi của đảng cầm quyền. 50 năm đã trôi qua, những chỉ dẫn quý báu của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong Di chúc vẫn tiếp tục soi sáng cho Đảng và nhân dân Việt Nam trong công cuộc xây dựng xã hội dân chủ, công bằng, tiến bộ và văn minh.
Với tầm nhìn xa, Hồ Chí Minh xác định sau khi cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của nhân dân ta giành được thắng lợi hoàn toàn, Đảng và toàn dân phải tiến hành nhiệm vụ hàn gắn vết thương nghiêm trọng do đế quốc Mỹ gây ra, “đó là một công việc cực kỳ to lớn, phức tạp và khó khăn”. Người cho rằng đây là “một cuộc chiến đấu chống lại những gì đã cũ kỹ, hư hỏng, để tạo ra những cái mới mẻ, tốt tươi”. Người khẳng định: “Chúng ta phải có kế hoạch sẵn sàng, rõ ràng và chu đáo, để tránh khỏi bị động, thiếu sót và sai lầm”. Muốn vậy, trong Di chúc Hồ Chí Minh căn dặn, “việc cần phải làm trước tiên là chỉnh đốn lại Đảng, làm cho mỗi đảng viên, mỗi đoàn viên, mỗi chi bộ đều ra sức làm tròn nhiệm vụ Đảng giao phó cho mình, toàn tâm toàn ý phục vụ nhân dân”. Để củng cố và phát triển sự đoàn kết, thống nhất của Đảng, để Đảng “xứng đáng là người lãnh đạo, là người đày tớ thật trung thành của nhân dân” thì trong Đảng phải “thực hành dân chủ rộng rãi, thường xuyên và nghiêm chỉnh tự phê bình và phê bình”. Có như vậy thì “công việc to lớn mấy, khó khăn mấy chúng ta cũng nhất định thắng lợi”.
1. Dân chủ trong Đảng là phương thức cần thiết để phát huy rộng rãi trí tuệ, tinh thần xây dựng và tính chiến đấu của tất cả đảng viên. Đó phải là kiểu mẫu, là lực đẩy dân chủ trong xã hội. Là người sáng lập và trực tiếp lãnh đạo, rèn luyện, xây dựng Đảng Cộng sản Việt Nam, Hồ Chí Minh dành sự quan tâm sâu sắc nhất cho việc thực hành dân chủ trong Đảng. Theo Người, “phải thật sự mở rộng dân chủ để tất cả đảng viên bày tỏ hết ý kiến của mình”. Nếu không thực hiện quyền dân chủ trong Đảng sẽ làm cho “nội bộ của Đảng âm u”, sinh hoạt đảng không còn trong sáng nữa và không tạo nên sức mạnh của Đảng. Do vậy, sớm hay muộn Đảng cũng mất quyền lãnh đạo, mất đi vị trí cầm quyền.
Vấn đề mấu chốt của thực hành dân chủ trong Đảng, theo Hồ Chí Minh là thực hiện tốt nguyên tắc tập trung dân chủ. Người khẳng định: “Lãnh đạo không tập thể, thì sẽ đi đến cái tệ bao biện, độc đoán, chủ quan. Kết quả là hỏng việc. Tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách cần phải luôn luôn đi đôi với nhau”. Bởi lẽ “Tập thể lãnh đạo là dân chủ. Cá nhân phụ trách là tập trung. Tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách, tức là dân chủ tập trung”. Từ đó, Người kết luận: “Làm việc mà không theo đúng cách đó, tức là làm trái dân chủ tập trung”. Tập trung đúng đắn, hợp lý sẽ làm tăng sức mạnh của dân chủ. Vì tập trung do toàn thể đảng viên kiến lập nên, không phải một nhóm nào đó có quyền lực thâu tóm, là sự tập trung của ý chí, trí tuệ và quyền lực của đa số tạo nên một cách thống nhất và tự giác, không phải tập trung được thiết lập một cách hình thức hoặc cưỡng bức. Nó hoàn toàn đối lập với quan liêu, chuyên chế, độc tài, đối lập với sự phân tán, cục bộ, bè phái, tự do, vô chính phủ. Dân chủ lành mạnh phải dựa trên cơ sở tập trung, không tách rời tập trung. Có nghĩa là bảo vệ và tôn trọng quyền bình đẳng của các đảng viên trong bàn bạc, thảo luận và quyết định các công việc của Đảng. Đó là con đường tạo nên sức mạnh bằng sự đoàn kết thống nhất, hướng vào thực hiện mục tiêu, lý tưởng chung của Đảng vì lợi ích của nhân dân, vận mệnh, tương lai của Tổ quốc. Tập trung càng hiệu quả thì dân chủ càng cao. Dân chủ càng rộng rãi thì tập trung càng đúng đắn, lành mạnh. Do đó, tách rời dân chủ với tập trung, tuyệt đối hóa mặt này để xem nhẹ mặt kia, đối lập chúng với nhau một cách siêu hình và giả tạo đều làm suy yếu cả dân chủ lẫn tập trung. Muốn có tập trung dân chủ thì phải bảo đảm dân chủ thực chất, đồng thời đề cao kỷ luật, tăng cường chế độ trách nhiệm của từng cá nhân đảng viên.
Muốn thực hành dân chủ trong Đảng thì kỷ luật của Đảng phải chặt chẽ, nghiêm minh. Theo Hồ Chí Minh “trong nội bộ Đảng có dân chủ rộng rãi, đồng thời có kỷ luật nghiêm khắc”. Việc xử lý công minh, chính xác, kịp thời kỷ luật đảng chính là thực hiện tốt dân chủ. Nó vừa có tác dụng cảnh tỉnh, răn đe, ngăn ngừa vi phạm, làm cho đảng viên không bị “nhờn” kỷ luật đảng, vừa có tác dụng giáo dục đảng viên tự giác chấp hành nghiêm kỷ luật và thực hành nghiêm dân chủ. Điều đó đòi hỏi kỷ luật phải dân chủ, chính xác, hình thức kỷ luật phải đúng với nội dung, tính chất, mức độ, tác hại, nghiêm khắc với những kẻ ngoan cố, cố tình vi phạm, nhưng khoan dung độ lượng đối với những người biết hối lỗi, nhận ra sai lầm và sửa chữa khuyết điểm. “Kỷ luật trong dân chủ, dân chủ phải có kỷ luật”. Có như vậy mới tạo ra sự tự giác, thống nhất giúp huy động được một cách có hiệu quả tiềm năng và sự nhiệt huyết của cá nhân đóng góp cho tập thể. Kỷ luật chính là phương tiện để bảo vệ dân chủ, bảo vệ lợi ích của nhân dân, của đảng viên, của tập thể. Chủ tịch Hồ Chí Minh nêu rõ: “Ở trong Đảng, mọi đảng viên có quyền nêu ý kiến, đặt đề nghị, tham gia giải quyết vấn đề. Nhưng quyết không được trái sự lãnh đạo tập trung của Đảng, trái nghị quyết và trái kỷ luật của Đảng. Quyết chống: không xét thời gian, địa điểm, điều kiện mà nói lung tung; tự do hành động; dân chủ quá trớn”.
Để dân chủ được bảo đảm và mở rộng, kỷ luật chặt chẽ, nghiêm minh, đoàn kết được giữ vững thì cán bộ, đảng viên phải gương mẫu tự phê bình và phê bình. Hồ Chí Minh xác định: “Chủ trương của Đảng ta là: Trong nội bộ thì mở rộng dân chủ, tự phê bình và phê bình”. Người đòi hỏi, phải thật sự mở rộng dân chủ, luôn dùng cách thật thà tự phê bình và thẳng thắn phê bình, phải kiên quyết chống lại thói “cả vú lấp miệng em”, ngăn cản quần chúng phê bình. Đảng viên ở địa vị càng cao, thì càng phải giữ đúng kỷ luật của Đảng, càng phải làm gương dân chủ. Chủ tịch Hồ Chí Minh phê phán nghiêm khắc tình trạng không thực hiện nghiêm túc chế độ dân chủ tập trung, phớt lờ kỷ luật, không muốn nghe phê bình dẫn đến dân chủ không được bảo đảm, kỷ luật không được nghiêm minh. Đó là: “Ở trong Đảng thì không thực hiện chế độ dân chủ tập trung, không tuân theo nguyên tắc tập thể lãnh đạo. Phớt kỷ luật và chính sách của Đảng và của Chính phủ. Khinh rẻ ý kiến của cấp dưới. Xem thường chỉ thị của cấp trên. Không muốn chịu kiểm tra, không muốn nghe phê bình”. Thực hành tốt dân chủ trong Đảng sẽ khiến cho mọi cán bộ, đảng viên đều tự giác thực hiện tự phê bình và phê bình trên cơ sở đó mà thêm sự hiểu biết về nhau, thông cảm, giúp đỡ nhau trên tinh thần đồng chí, cởi mở. Chủ tịch Hồ Chí Minh viết: “Trên con đường phát triển cách mạng của mình, Đảng ta và Quân đội ta cũng như mỗi đồng chí chúng ta luôn luôn có ưu điểm và không tránh khỏi có khuyết điểm. Chỉ có không ngừng đấu tranh phê bình và tự phê bình, nhận rõ đúng, sai, phát huy cái đúng, khắc phục cái sai, mới có thể làm cho mình, cho Đảng, cho cách mạng tiến bộ mãi”.
Uy tín của người lãnh đạo là ở chỗ mạnh dạn thực hiện tự phê bình và phê bình, biết học hỏi quần chúng, sửa chữa những khuyết điểm để đưa công việc ngày càng tiến bộ. Sở dĩ phải thực hiện tự phê bình và phê bình là bởi theo Người, “Một Đảng mà giấu giếm khuyết điểm của mình là một Đảng hỏng. Một Đảng có gan thừa nhận khuyết điểm của mình, vạch rõ những cái đó, vì đâu mà có những khuyết điểm đó, xét rõ hoàn cảnh sinh ra khuyết điểm đó, rồi tìm kiếm mọi cách để sửa chữa khuyết điểm đó. Như thế là một Đảng tiến bộ, mạnh dạn, chắc chắn, chân chính”. Người chỉ ra những “khuyết điểm khá phổ thông và nghiêm trọng” trong cơ quan lãnh đạo các cấp là “những bệnh chủ quan, quan liêu, mệnh lệnh, hẹp hòi, công thần” mà nguyên nhân là do “dân chủ trong Đảng chưa được thực hiện rộng rãi. Phê bình và tự phê bình chưa thành nền nếp thường xuyên”. Người yêu cầu: “Phải mở rộng phong trào phê bình và tự phê bình ở trong Đảng, ở các cơ quan, các đoàn thể, trên các báo chí cho đến nhân dân. Phê bình và tự phê bình phải thường xuyên, thiết thực, dân chủ, từ trên xuống dưới và từ dưới lên”. Đây là vũ khí sắc bén và rất cần thiết để thực hành dân chủ và cũng là yếu tố cơ bản để hoàn thiện nhân cách người đảng viên. Thực hiện được tự phê bình và phê bình sẽ giúp cho mỗi người làm chủ và điều chỉnh được hành động của bản thân; giải quyết hài hòa các mối quan hệ xã hội. Người cũng chỉ rõ, tự phê bình và phê bình phải đi đôi với nhau, trong đó, tự phê bình phải được thực hiện thường xuyên và nghiêm chỉnh để tự nhìn lại được bản thân, thấy ưu điểm phát huy, thấy nhược điểm sửa chữa. Phê bình cũng là để tự phê bình. Bởi, qua phê bình đồng chí mà mỗi người có thể nhìn lại mình một cách đầy đủ hơn. Tiếp thu phê bình một cách chân thành cũng là tự phê bình một cách nghiêm túc. Chủ tịch Hồ Chí Minh viết: “Muốn sửa chữa cho tốt thì phải sẵn sàng nghe quần chúng phê bình và thật thà tự phê bình. Không chịu nghe phê bình và không tự phê bình thì nhất định lạc hậu, thoái bộ”. Từ đó Người yêu cầu: “Để làm cho-Đảng mạnh, thì phải mở rộng dân chủ (thật thà tự phê bình và phê bình), thực hành lãnh đạo tập trung, nâng cao tính tổ chức và tính kỷ luật”. Người kết luận: “Muốn dân chủ tốt, kỷ luật cao, cán bộ phải gương mẫu phê bình và tự phê bình”.
Thật vậy, “thực hành dân chủ là cái chìa khóa vạn năng có thể giải quyết mọi khó khăn”. Ở đâu Đảng thực hiện tốt quyền dân chủ thì ở đó tránh được những biểu hiện tiêu cực trong Đảng nói riêng, trong xã hội nói chung và ở đó uy tín của Đảng, niềm tin của quần chúng đối với Đảng được nâng cao.
2. Trong những năm qua, dân chủ trong Đảng ngày càng được nâng cao, dân chủ hóa phương thức lãnh đạo, coi trọng lãnh đạo thể chế hóa nghị quyết, xây dựng luật và pháp lệnh để toàn dân thực hiện. Điều đó góp phần giảm bớt tình trạng bao biện, làm thay, áp đặt. Việc quy chế hóa hoạt động của cơ quan lãnh đạo các cấp đã đưa sự lãnh đạo của Đảng ngày càng vào nền nếp, dân chủ tốt hơn. Sự tham gia của các TCCSĐ và đảng viên vào việc hoạch định, triển khai đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước ngày càng rộng rãi và có hiệu quả. Những bước tiến đó đã có tác động mạnh mẽ đến việc phát huy dân chủ trong xã hội. Đại hội XII của Đảng chỉ rõ: Trước hết phải bảo đảm phát huy dân chủ trong Đảng là hạt nhân để phát huy đầy đủ dân chủ trong xã hội. Sau khi nhận diện những biểu hiện của suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ, Hội nghị Trung ương 4 (khóa XII) của Đảng nhấn mạnh: Tiếp tục đổi mới nội dung, hình thức để nâng cao chất lượng sinh hoạt chi bộ. Xây dựng quy định tự phê bình và phê bình, khắc phục tình trạng nể nang, né tránh, ngại va chạm và bảo vệ người thẳng thắn, dám đấu tranh.
Trong giai đoạn hiện nay, phát huy dân chủ trong Đảng để thúc đẩy dân chủ trong xã hội có ý nghĩa đặc biệt quan trọng giúp củng cố niềm tin, tăng cường sự nhận thức đúng, đầy đủ về thực hành, phát huy dân chủ, nâng cao vai trò, vị trí của người dân trong các hoạt động xã hội. Tuy nhiên, dân chủ trong Đảng chưa được thực hiện đầy đủ, vẫn còn tình trạng dân chủ hình thức. Tình trạng thiếu dân chủ trong Đảng thường đi đôi với việc lãnh đạo, quản lý độc đoán, chuyên quyền, thậm chí gia trưởng; nhiều nơi, nhiều lúc đã xảy ra tình trạng mất đoàn kết, lục đục trong nội bộ, chia bè phái, né tránh, mất sức chiến đấu trong các tổ chức đảng. Ngược lại, có tình trạng dân chủ không đi đôi với kỷ luật, kỷ cương, nói không đi đôi với làm, nói nhiều làm ít; chấp hành nghị quyết của Đảng, pháp luật của Nhà nước không nghiêm. Còn nhiều vi phạm trong việc thực hiện chế độ tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách. Chế độ trách nhiệm của người đứng đầu tổ chức đảng, chính quyền quy định chưa rõ ràng, thực hiện chưa nghiêm. Trong tự phê bình còn giấu giếm, không dám nhận khuyết điểm; khi có khuyết điểm thì thiếu thành khẩn, không tự giác nhận kỷ luật. Trong phê bình thì nể nang, né tránh, ngại va chạm, thấy đúng không bảo vệ, thấy sai không đấu tranh... Điều đó đã phần nào làm mất lòng tin của nhân dân đối với Đảng, làm ảnh hưởng đến an ninh, trật tự, chính trị, xã hội. Thực hiện quyền dân chủ thực sự là một trong những biện pháp tăng cường sự đoàn kết nhất trí và làm cho Đảng trong sạch, vững mạnh.
Dân chủ trong Đảng không chỉ là vấn đề cốt tử, sống còn của Đảng, mà còn là nhân tố bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước và xã hội được bền vững và có hiệu quả. Lời căn dặn của Chủ tịch Hồ Chí Minh về thực hành dân chủ trong Đảng đã và đang được Đảng, Nhà nước và nhân dân kế thừa, phát huy mạnh mẽ trong suốt 50 năm qua. Đó chính là tài sản tinh thần to lớn của Đảng và dân tộc, là nguồn sức mạnh động viên các tầng lớp nhân dân cùng thi đua góp sức mình phát huy sức mạnh của khối đại đoàn kết dân tộc, tạo nguồn sức mạnh mới vượt qua thách thức để thực hiện thành công điều mong muốn cuối cùng của Người là “toàn Đảng, toàn dân ta đoàn kết phấn đấu, xây dựng một nước Việt Nam hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh, và góp phần xứng đáng vào sự nghiệp cách mạng thế giới”.
 
VŨ TRUNG KIÊN. 50 năm thực hiện di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh: Dân chủ trong Đảng / Vũ Trung Kiên // Báo Sài Gòn giải phóng. - 2019. - Số 15074. - Ngày 15/5. - Tr. 3
Trong Di chúc để lại, Chủ tịch Hồ Chí Minh dành sự quan tâm đặc biệt về công tác xây dựng và chỉnh đốn Đảng. Trong đó, Người căn dặn “trong Đảng thực hành dân chủ rộng rãi, thường xuyên và nghiêm chỉnh tự phê bình và phê bình” để củng cố, phát triển đoàn kết, thống nhất trong Đảng.
Nhiều vi phạm tập trung dân chủ bị xử lý
Đảng Cộng sản Việt Nam luôn lấy tập trung dân chủ làm nguyên tắc tổ chức cơ bản của Đảng. Nguyên tắc tập trung dân chủ chỉ đạo toàn bộ hoạt động xây dựng tổ chức và hoạt động của Đảng, vừa bảo đảm cho Đảng thống nhất ý chí và hành động vừa phát huy dân chủ, tạo nên sức mạnh của Đảng. Có thể thấy nguyên tắc tập trung dân chủ là sự kết hợp hài hòa và khoa học giữa hai mặt tập trung và dân chủ, tạo thành chỉnh thể thống nhất của một nguyên tắc. Dân chủ là điều kiện, là tiền đề của tập trung; cũng như tập trung là cơ sở, là cái bảo đảm cho dân chủ được thực hiện.
Kể từ khi ra đời đến nay, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn giữ vững và thực hiện nghiêm nguyên tắc tập trung dân chủ. Chế độ tập trung, kỷ cương, kỷ luật trong Đảng được giữ vững. Những quyết sách lớn của Đảng đều được tổ chức thảo luận rộng rãi, lấy ý kiến của đảng viên và tổ chức đảng từ cơ sở. Sinh hoạt chi bộ, các hội nghị Đảng được tiến hành dân chủ. Dân chủ trong Đảng ngày càng được mở rộng. Việc bầu cử trong Đảng ngày càng theo hướng dân chủ, công khai, minh bạch. Đặc biệt, bầu cử tại Đại hội XII của Đảng đã thể hiện rõ nguyên tắc tập trung dân chủ. Công tác tổ chức và cán bộ, nhất là đánh giá tuyển chọn, bổ nhiệm cán bộ đã được tiến hành cơ bản công khai, dân chủ. Tình trạng cục bộ, mất đoàn kết trong cán bộ được chấn chỉnh; những tổ chức, cá nhân vi phạm bị xử lý kịp thời.
            Những năm gần đây, khi Đảng đẩy mạnh xây dựng và chỉnh đốn, rất nhiều vụ việc tham nhũng, lãng phí lớn đã được lôi ra ánh sáng. Rất nhiều cán bộ, đảng viên; trong đó có những cán bộ, đảng viên giữ chức vụ cao đã bị kỷ luật. Không phải tất cả, nhưng có thể thấy đa phần cán bộ bị kỷ luật đều vi phạm nguyên tắc tập trung dân chủ trong công tác chỉ đạo, lãnh đạo, điều hành và trong sinh hoạt Đảng. Ví dụ mới đây, Ủy ban Kiểm tra Trung ương đã xem xét, thi hành kỷ luật Trung tướng Nguyễn Hoàng Thủy, Phó Bí thư Đảng ủy, Tư lệnh Quân khu 9 và Đại tá Trương Thanh Nam, Đảng ủy viên, Phó Tham mưu Trưởng Quân khu 9, nguyên Phó Bí thư Đảng ủy, Sư đoàn trưởng Sư đoàn 8, Quân khu 9. Trong các vi phạm có vi phạm nguyên tắc tập trung dân chủ. Trong đó, Đại tá Trương Thanh Nam bị kỷ luật bằng hình thức cách tất cả các chức vụ trong Đảng; Trung tướng Nguyễn Hoàng Thủy bị cảnh cáo.
Làm rõ tập trung dân chủ trong tình hình mới
Về vấn đề dân chủ trong Đảng, thực tiễn cho thấy thời gian qua đã bộc lộ những hạn chế, nếu không kịp thời khắc phục sẽ gây ra hậu quả rất lớn. Đây là những nội dung đã được Đại hội XII của Đảng chỉ ra. Những khuyết điểm, hạn chế cũng được nhận diện như một số cấp ủy vẫn chưa nhận thức đầy đủ tầm quan trọng của nguyên tắc tập trung dân chủ. Còn tình trạng dân chủ hình thức, thống nhất một chiều, thiếu sự tranh luận, thảo luận thấu đáo hoặc hiểu không đúng nguyên tắc này, dẫn đến mất đoàn kết nội bộ ở một số nơi. Nguyên tắc tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách ở nhiều nơi còn mang tính hình thức…
Hệ quả dẫn đến là vừa có hiện tượng dựa dẫm vào tập thể, không rõ trách nhiệm cá nhân vừa không khuyến khích người đứng đầu nhiệt tình, tâm huyết, dám nghĩ, dám làm. Điều này tạo kẽ hở cho cách làm việc tắc trách, vô trách nhiệm, trì trệ; lợi dụng cơ chế tập thể để thực hiện ý đồ cá nhân, hoặc lạm dụng quyền lực một cách tinh vi để mưu cầu lợi ích cá nhân như Nghị quyết Trung ương 4 khóa XI đã nêu.
50 năm thực hiện Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh, nhìn lại những ưu, khuyết điểm của việc thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ của Đảng thời gian qua và để thực hiện tốt nguyên tắc tập trung dân chủ hiện nay nhằm xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh cần triển khai nhiều giải pháp đồng bộ, cụ thể; cần phải nâng cao nhận thức trong cán bộ, đảng viên về tầm quan trọng của việc thực hiện nguyên tắc này. Cụ thể hóa, làm rõ nội dung, yêu cầu của nguyên tắc tập trung dân chủ trong tình hình mới; đấu tranh chống những luận điệu xuyên tạc, phủ nhận nguyên tắc tập trung dân chủ. Mở rộng dân chủ đi cùng với tăng cường kỷ luật chặt chẽ, nghiêm minh trong Đảng.
Muốn dân chủ trong xã hội thì trong Đảng phải thực hành dân chủ rộng rãi. Vì vậy, Đảng cần xây dựng các thiết chế, cơ chế cho phép phát huy thật sự mạnh mẽ dân chủ, trước hết là bảo đảm thực hiện các quyền của đảng viên, nhất là quyền được thảo luận, chất vấn, phê bình, thông tin, bảo lưu ý kiến. Cùng đó là việc hoàn thiện, cụ thể hóa, quy chế hóa nguyên tắc tập trung dân chủ cho từng lĩnh vực, từng mặt công tác xây dựng Đảng. Đặc biệt là cần thực hiện nghiêm túc chế độ tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách và giải quyết tốt mối quan hệ giữa cấp ủy với chính quyền và các tổ chức khác trong hệ thống chính trị.
VŨ THU HẰNG. Tư tưởng nhân văn trong Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh / Vũ Thu Hằng // Sách Hồ Chí Minh và bản di chúc trường tồn lịch sử. - H. : Thanh niên, 2017. - Tr. 163-176
Chủ tịch Hồ Chí Minh - Anh hùng giải phóng dân tộc, nhà văn hóa lớn, lãnh tụ vĩ đại và kính yêu của Đảng và dân tộc Việt Nam, người chiến sĩ đấu tranh không mệt mỏi, nhà hoạt động lỗi lạc của phong trào cộng sản và công nhân quốc tế, trước khi đi xa đã để lại cho dân tộc ta, đất nước ta một di sản vô cùng quý giá - đó là bản Di chúc chứa đựng tư tưởng, đạo đức cao cả và tình yêu bao la đối với con người. Đó là những lời căn dặn cuối cùng thắm đượm tình nhân ái, lòng yêu thương vô hạn đối với đồng bào, chiến sĩ và nhân dân. Chuẩn bị cho sự ra đi của mình, Người đã dành nhiều thời gian, tâm huyết để suy nghĩ những việc cần dặn lại với toàn Đảng, toàn dân và bạn bè quốc tế. Tất cả những nỗi lo của Người, trước hết và trên hết vẫn là dành cho con người. Bởi Người không chỉ là vị lãnh tụ vĩ đại của nhân dân Việt Nam mà còn là vị cha già dân tộc. Đọclại Di chúc của Người, càng đọc, càng suy ngẫm, càng thấy Di chúc của Người như vẫn đang động viên, nhắc nhở chúng ta phải làm tốt hơn những việc của mình để không ngừng hoàn thiện bản thân, để xứng đáng với tình thương yêu Người để lại cho chúng ta.
1. Nội dung của Di chúc thấm đẫm quan điểm vì con người và giải phóng con người.
Trong Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh, điều làm nên giá trị tinh thần lớn lao và mang ý nghĩa sâu sắc là quan điểm vì con người và giải phóng con người thấm đượm chủ nghĩa nhân đạo cao cả, một triết lý nhân sinh mà Người dày công vun đắp. Sức sống lớn lao của Di chúc, ánh sáng kỳ diệu tỏa ra trong toàn bộ Di chúc đó là những tư tưởng nhân văn cách mạng ngời sáng và đầy giá trị nhân bản của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Sự gắn bó của Chủ tịch Hồ Chí Minh với con người, tấm lòng nhân ái, bao la của Người với con người bắt nguồn từ một lòng tin mãnh liệt vào chính bản thân con người, vào cái thiện của con người. Đó là chủ nghĩa nhân văn Hồ Chí Minh. Trong Di chúc, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định toàn bộ những việc lớn của xã hội, của cách mạng đều gắn với con người, cho nên Người viết rằng: "Đầu tiên là công việc đối với con người”. Đây là sự tổng kết quan trọng về chủ nghĩa nhân văn mà Hồ Chí Minh đã đúc kết trong quá trình hoạt động cách mạng của mình.
Trong suốt cuộc đời hoạt động cách mạng của mình, Chủ tịch Hồ Chí Minh coi công việc đối với con người là mục tiêu quan trọng, lớn lao và cao cả của cả đời mình. Vấn đề con người trong tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh được thể hiện trong Di chúc đó là tình thương yêu đối với tất cả mọi tầng lớp người trong xã hội. Mở đầu bản Di chúc, Người viết: "Khi người ta đã ngoài 70 xuân, thì tuổi tác càng cao, sức khỏe càng thấp. Điều đó cũng không có gì lạ.
Nhưng ai mà đoán biết tôi còn phục vụ cách mạng, phục vụ Tổ quốc, phục vụ nhân dân được bao lâu nữa?
Vì vậy, tôi để sẵn mấy lời này, phòng khi tôi sẽ đi gặp cụ Các Mác, cụ Lênin và các vị cách mạng đàn anh khác, thì đồng bào cả nước, đồng chí trong Đảng và bầu bạn khắp nơi đều khỏi cảm thấy đột ngột”. Đó là những tình cảm sâu lắng đối với con người của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Người muốn làm nhẹ nỗi đau của đồng bào, đồng chí trước cảnh sinh ly, tử biệt.
Người căn dặn chúng ta phải sống có tình có nghĩa, “phải có tình đồng chí thương yêu lẫn nhau”. Người muốn nhắc nhở mỗi người: tình thương yêu lẫn nhau là bao trùm lên mối quan hệ giữa người với người. Người là tiêu biểu cho tình thương bao la, lòng nhân ái cao cả. Khi đi xa, Người “để lại muôn vàn tình thân yêu cho toàn dân, toàn Đảng, cho toàn thể bộ đội cho các cháu thanh niên và nhi đồng”. Cả cuộc đời Người đã dành cho dân tộc Việt Nam. Mong muốn lớn nhất của Người là làm cho nước ta được hoàn toàn độc lập, đồng bào ta được hoàn toàn tự do, ai cũng có cơm ăn, áo mặc, ai cũng được học hành.
2.Di chúc thể hiện lòng tin sâu sắc của Người đối với nhân dân.
Trong Di chúc, chủ nghĩa nhân văn Hồ Chí Minh là chủ nghĩa nhân văn cách mạng, ngời sáng lý tưởng cộng sản. Tính nhân văn cao cả được thể hiện trong Di chúc còn là lòng tin tưởng tuyệt đối của Chủ tịch Hồ Chí Minh vào sức mạnh của nhân dân cả ở miền xuôi và miền núi. Người tin tưởng nhân dân sẽ là một lực lượng khổng lồ, sức mạnh chiến đấu vô địch và nhất định sẽ chiến thắng mọi cái xấu, cái ác trong xã hội để xây dựng những cái mới, văn minh, văn hóa. Vì vậy, Chủ tịch Hồ Chí Minh nói nhiều đến vấn đề chăm lo lợi ích của con người: "Đảng cần phải có kế hoạch thật tốt để phát triển kinh tế và văn hóa, nhằm không ngừng nâng cao đời sống của nhân dân”. Trong cuộc sống đời thường, Người luôn quan tâm, nâng đỡ mọi người, lo lắng đến quyền lợi của dân tộc, đến lợi ích hàng ngày của nhân dân, đặc biệt là nhân dân lao động. Con người ở đây là con người cụ thể, là toàn thể các tầng lớp nhân dân, là toàn dân tộc. Người dặn lại: “Nhân dân lao động ta ở miền xuôi cũng như ở miền núi, đã bao đời chịu đựng gian khổ bị chế độ phong kiến và thực dân áp bức bóc lột, lại kinh qua nhiều năm chiến tranh”.
Tuy vậy, nhân dân ta rất anh hùng, dũng cảm, hăng hái, cần cù. Từ ngày có Đảng, nhân dân ta luôn luôn đi theo Đảng, rất trung thành với Đảng". Vấn đề mà Hồ Chí Minh nêu ra trong Di chúc và đòi hỏi Đảng phải có kế hoạch thật tốt, chính là kế hoạch phát triển kinh tế, xã hội một cách toàn diện, nhằm thỏa mãn ngày càng cao hơn những nhu cầu, lợi ích chính đáng của mỗi con người và điều đó cũng phù hợp với mục tiêu lý tưởng của chủ nghĩa xã hội, mang ý nghĩa nhân văn sâu sắc.
3. Di chúc thể hiện rõ Hồ Chí Minh bao dung, nhân ái.
Chủ tịch Hồ Chí Minh là hình ảnh của người Cha, người Bác, người Anh, là hình ảnh của dân tộc, gắn sâu vào trái tim của mỗi người Việt Nam. Từ một thanh niên yêu nước, Người đã quyết chí ra đi tìm đường cứu nước, cứu dân. Người đã đến với chủ nghĩa Mác - Lênin và đem học thuyết cách mạng của thời đại áp dụng vào thực tiễn cách mạng Việt Nam. Ở Người, tình yêu nhân dân là vĩnh cửu, mọi suy nghĩ, việc làm của Người đều xuất phát từ lợi ích của nhân dân và vì nhân dân. Người nói: Ở đời và làm người là phải yêu nước, thương dân, yêu nhân loại bị đau khổ và áp bức.
Cũng xuất phát từ lòng bao dung, nhân ái, vì cuộc sống tự do và hạnh phúc của con người, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã quan tâm đến những người cùng khổ nhất trong xã hội, đó là những người công nhân và nông dân. Lòng nhân ái đó không phải là lòng thương hại của những người đứng trên nhìn xuống, lòng yêu nước, yêu dân chung chung, lòng nhân ái của Người là một niềm cảm thông sâu sắc. Lòng yêu thương con người, yêu thương đồng bào của Người trên cơ sở chủ nghĩa Mác - Lênin và lập trường của giai cấp công nhân đã trở thành sức mạnh kêu gọi toàn dân đoàn kết đấu tranh. Người viết trong Di chúc. "Cuộc kháng chiến chống Mỹ có thể sẽ kéo dài mấy năm nữa. Đồng bào ta có thể phải hy sinh nhiều của nhiều người. Dù sao, chúng ta phải quyết tâm đánh giặc Mỹ đến thắng lợi hoàn toàn". Vì vậy, cả dân tộc Việt Nam đoàn kết, nhất trí xung quanh Người, dưới lá cờ của Đảng Lao động Việt Nam quyết tâm chiến đấu, và quyết tâm chiến thắng mọi kẻ thù, trăm trận trăm thắng.
Yêu thương con người, Người còn dành tình cảm, sự quan tâm đến những kẻ lầm đường lạc lối. Người dạy phải khoan hồng, vui mừng đón rước những đứa con vì cảnh ngộ mà phải lạc bầy. Người tin rằng người Việt Nam nào cũng yêu nước, muốn đất nước thống nhất, độc lập, ta khéo nhen chút than hồng ấy, nó sẽ cháy lên thành ngọn lửa. Người viết: "Đối với những nạn nhân của chế độ xã hội cũ, như trộm cắp, gái điếm, cờ bạc, buôn lậu,v.v... thì Nhà nước phải dùng vừa giáo dục, vừa dùng pháp luật để cải tạo họ, giúp họ trở nên những người lao động lương thiện". Vì lòng nhân ái cao cả đó, Người đã giáo dục, cảm hóa được mọi người, đoàn kết toàn thể dân tộc. Chủ tịch Hồ Chí Minh tiêu biểu cho sự đoàn kết ấy, Người là linh hồn của khối đại đoàn kết đó.
Trong Di chúc, Người dặn tỉ mỉ những việc cần làm đối với những người đã hy sinh một phần xương máu của mình (cán bộ, binh sĩ, dân quân, du kích, thanh niên xung phong...). Đảng, Chính phủ, đồng bào phải tìm mọi cách làm cho họ có nơi ăn, chốn ở yên ổn, đồng thời phải mở những lớp dạy nghề thích hợp với mỗi người để họ có thể dần dần tự lực cánh sinh. Đối với các liệt sĩ thì phải xây dựng tượng đài, vườn hoa để ghi nhớ công ơn và đời đời giáo dục lòng yêu nước cho nhân dân. Đối với cha mẹ, vợ concủa thương binh, liệt sĩ thì phải quan tâm, giúp đỡ không để họ bị đói rét. Thực hiện Di chúc của Người nhiều năm qua, Đảng và Nhà nước đã phát động phong trào "uống nước nhớ nguồn”, "Đền ơn đáp nghĩa" để phần nào làm vơi đi nỗi đau buồn đó. Nhiều căn nhà tình nghĩa được dựng lên, việc nhận phụng dưỡng Bà mẹ Việt Nam anh hùng được thực hiện - đó là những nghĩa cử cao đẹp của nhân dân ta với người có công với cách mạng.
Lòng nhân ái bao la của Chủ tịch Hồ Chí Minh còn là sự quan tâm đến việc bồi dưỡng đạo đức và tài năng của các thế hệ thanh niên, lớp người kế tục sự nghiệp cách mạng, làm cho họ trở thành lực lượng nòng cốt xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội. Người yêu cầu sửa đổi chế độ giáo dục cho phù hợp với hoàn cảnh và đặc biệt là phải chăm lo giáo dục đạo đức cách mạng, giáo dục tinh thần yêu nước cho đoàn viên và thanh niên, đào tạo họ trở thành những người kế thừa xây dựng xã hội chủ nghĩa vừa “hồng” vừa "chuyên". Trong Di chúc, Người viết: “Đảng và Chính phủ cần chọn một số ưu tú nhất, cho các cháu ấy học thêm các ngành, các nghề, để đào tạo thành những cán bộ và công nhân có kỹ thuật giỏi, tư tưởng tốt, lập trường cách mạng vững chắc”.
Với phụ nữ Việt Nam, Người đặc biệt quan tâm đến vấn đề giúp đỡ chị em tham gia công tác xã hội để tiến tới một sự bình đẳng thật sự cho phụ nữ. Điều mong muốn của Nguời đến nay đã trở thành sự thật, khi hàng ngàn phụ nữ đã đạt trình độ học vấn cao và một số người đã được trao giữ những trọng trách của Đảng và Nhà nước.
Yêu nước, thương dân nên ngày đêm Người lo lắng đến quyền lợi tối cao của dân tộc, của đất nước, đến lợi ích của nhân dân. Người nhắc nhở chúng ta: "Hễ còn một người Việt Nam bị bóc lột, bị nghèo nàn thì Đảng vẫn đau thương, cho đó là vì mình chưa làm tròn nhiệm vụ". Với đối tượng là nông dân chiếm đa phần dân số nước ta, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khen ngợi sự đóng góp của họ cho thắng lợi của nước nhà và đề xuất "miễn thuế nông nghiệp 1 năm cho các hợp tác xã nông nghiệp”. Mặc dù mong muốn của Người chưa thực hiện được ngay tại thời điểm đó, nhưng nó thể hiện tấm lòng của Người với bà con nông dân, những người vất vả một nắng hai sương. Đó là đạo lý, là lẽ sống của dân tộc ta được lưu truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đúc kết lại truyền thống đó của dân tộc là: "Nhân dân ta từ lâu sống với nhau có tình có nghĩa như thế. Từ khi có Đảng lãnh đạo và giáo dục, tình nghĩa ấy càng cao đẹp hơn, trở thành tình nghĩa đồng bào, đồng chí, tình nghĩa năm châu bốn biển một nhà".
Lòng nhân ái của Người không chỉ bó hẹp trong tình yêu thương đồng bào, nhân dân trong nước. Lòng nhân ái của Người còn rộng mở với nhân dân lao động, với phong trào cộng sản và công nhân quốc tế. Ngay từ khi còn trẻ tuổi, Người đã lên tiếng tố cáo tội ác của chủ nghĩa thực dân ở các thuộc địa và những bất công trong xã hội tư bản. Trong Di chúc, Người tỏ rõ sự đau xót về mối bất hòa giữa các đảng anh em. Người cũng mong mỏi và tin tưởng rằng, các đảng anh em và các nước anh em nhất định phải đoàn kết lại.
Khi nói về việc riêng, Di chúc của Người vẫn là sự quan tâm, lo lắng đến đồng bào. Người lo tốn thời gian, tiền bạc, ruộng đất của nhân dân. Người yêu cầu thi hài được đốt đi "vì như thế đối với người sống đã tốt về mặt vệ sinh, lại không tốn đất'”. Người còn dặn lại: “Nếu tôi qua đời trước ngày nước ta được thống nhất, thì nên gửi một ít tro xương cho đồng bào miền Nam”. Lo đồng bào đi thăm viếng mình không có chỗ nghỉ ngơi, Người đề nghị xây một cái nhà đơn giản, rộng rãi, xung quanh trồng cây có bóng mát sẽ tốt cho phong cảnh và lợi cho nông nghiệp.
Người không hề nghĩ đến cái riêng, ở Người tình thương yêu nhân dân sâu sắc bao nhiêu thì Người càng quan tâm đến lợi ích của nhân dân bấy nhiêu.
Triết lý nhân sinh của Chủ tịch Hồ Chí Minh là sự gắn kết giữa chủ nghĩa nhân đạo cao cả với tư tưởng nhân văn sâu sắc. Cội nguồn của chủ nghĩa nhân đạo và tư tưởng nhân văn ấy là truyền thống nhân ái của dân tộc Việt Nam kết hợp với truyền thống nhân ái của nhân loại, nội dung cốt lõi của chủ nghĩa nhân đạo và tư tưởng nhân văn ấy là lòng yêu thương, tôn trọng con người gắn với lòng yêu nước, yêu dân nồng nàn. Mục tiêu cao cả của chủ nghĩa nhân đạo và tư tưởng nhân văn ấy là giải phóng dân tộc, giải phóng xã hội, giải phóng con người. Chủ nghĩa nhân văn Hồ Chí Minh thể hiện trong Di chúc là chủ nghĩa nhân văn cách mạng sáng ngời lý tưởng cộng sản.
4. Di chúc và lời căn dặn về chỉnh đốn Đảng.
Bao trùm nhất, quan trọng nhất trong tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh được thể hiện trong Di chúc là sự quan tâm đến người cộng sản, đến Đảng. Đây thực sự là nét độc đáo trong tư tưởng nhân văn của Người. Tháng 5-1968, khi soạn thảo Di chúc, Người viết: "Theo ý tôi, việc cần phải làm trước tiên là chỉnh đốn lại Đảng”. Quan tâm đến Đảng đầu tiên, hướng đến vai trò lãnh đạo của Đảng, ý nghĩa nhân văn sâu sắc trong tư tưởng của Người chính là: việc Đảng vừa là người lãnh đạo, vừa là người đầy tớ trung thành với nhân dân. Xã hội mới lấy con người làm trung tâm, trong tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh phải do Đảng Cộng sản lãnh đạo. Lý tưởng của Đảng Cộng sản là chống áp bức bóc lột, và xã hội lấy con người làm trung tâm hòa quyện và thống nhất với mục đích lý tưởng Đảng, với lý tưởng tiên tiến và đạo đức cao đẹp, nhân cách người cộng sản phải trở thành biểu tượng trung tâm của xã hội mới. Đó là những con người biết đặt lợi ích của Đảng, của nhân dân lên trên hết.
Trong tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh, xã hội lấy con người làm trung tâm đòi hỏi trước hết mỗi đảng viên là cán bộ phải thật sự thấm nhuần đạo đức cách mạng. Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, người cán bộ, đảng viên có đạo đức cách mạng là những người có văn hóa, phải xung phong gương mẫu làm trước thiên hạ và phải hưởng bổng lộc sau thiên hạ. Việc gì lợi cho Đảng, cho dân thì khó mấy cũng làm, cái gì hại đến Đảng, đến dân thì kiên quyết chống lại. Đổi mới sự lãnh đạo và chỉnh đốn Đảng theo tư tưởng Hồ Chí Minh và Di chúc của Người để xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh đang là một yêu cầu bức xúc của toàn Đảng, toàn dân ta trong sự nghiệp đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Là người sáng lập, lãnh đạo và rèn luyện Đảng ta, tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh về Đảng trong bản Di chúc lịch sử của Người mãi mãi là một di sản vô giá để xây dựng Đảng ngày càng to lớn, vững mạnh, ngang tầm với nhiệm vụ của đất nước.
Mong muốn cuối cùng của Người là: "Toàn Đảng, toàn dân ta đoàn kết phấn đấu, xây dựng một nước Việt Nam hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh, và góp phần xứng đáng vào sự nghiệp cách mạng thế giới”… Từ Di chúc càng thấy rõ Người vẫn luôn luôn ở bên cạnh, dẫn dắt chúng ta giành chiến thắng trong cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, tiếp tục xây dựng một nước Việt Nam hòa bình, hạnh phúc và giàu mạnh, đoàn kết xung quanh Đảng Cộng sản Việt Nam anh hùng.
Đọc lại bản Di chúc lịch sử của Chủ tịch Hồ Chí Minh, chúng ta càng thấy thấm nhuần hơn nữa tư tưởng và tình cảm của Người, và niềm tin Người dành cho chúng ta. Di chúc của Người - ngoài những giá trị lịch sử, chính trị, còn thể hiện rõ chủ nghĩa nhân văn, nhân đạo của dân tộc ta, của nhân dân ta mà Hồ Chí Minh là người đại diện tiêu biểu nhất. Thực hiện Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh, ngày nay, trong sự nghiệp đổi mới, nhân dân ta đã đạt được nhiều thành tựu đáng tự hào. Đời sống của nhân dân đã được nâng cao cả về vật chất và tinh thần. Nội dung tư tưởng và ánh sáng nhân văn cao - cả trong Di chúc luôn soi sáng con đường đi đến dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh của dân tộc ta. Tưởng nhớ Người, chúng ta nguyện suốt đời học tập và làm theo tấm gương đạo đức, tác phong của Người, bồi dưỡng phẩm chất cách mạng, không sợ gian khổ, không sợ hy sinh, rèn luyện mình thành những chiến sĩ trung thành với Đảng, xứng đáng với sự tin yêu và kỳ vọng của Người.
NGUYỄN THẾ THẮNG. Niềm tin vào sức mạnh của nhân dân trong Di chúc của Hồ Chí Minh / Nguyễn Thế Thắng // Tạp chí Lý luận chính trị. - 2019. - Số 5. - Tr. 13-17
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã vận dụng, phát triển sáng tạo truyền thống dân tộc và chủ nghĩa Mác - Lênin về vai trò, sức mạnh của quần chúng nhân dân. Người đã đoàn kết toàn Đảng, toàn dân, phát huy sức mạnh của nhân dân trong công cuộc giải phóng dân tộc và phát triển đất nước. Trong Di chúc, Hồ Chí Minh đặt trọn niềm tin vào sức mạnh của nhân dân với cách mạng. Đảng ta đã và đang vận dụng phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh về sức mạnh, vai trò của nhân dân trong sự nghiệp xây dựng bảo vệ Tổ quốc hiện nay.
1. Hồ Chí Minh đã vận dụng, phát triển sáng tạo truyền thống dân tộc và chủ nghĩa Mác - Lênin về vai trò, sức mạnh của quần chúng nhân dân
            Chủ nghĩa yêu nước là giá trị hàng đầu xuyên suốt truyền thống tốt đẹp của dân tộc Việt Nam. Đó là động lực, sức mạnh giúp cho dân tộc Việt Nam tồn tại vượt qua mọi khó khăn trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc để phát triển. Hồ Chí Minh đã chú ý khơi dậy, phát huy vai trò, sức mạnh nhân dân trong chủ nghĩa yêu nước Việt Nam trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng. Nhiều nhà yêu nước vĩ đại trong lịch sử dân tộc ta khẳng định: Khoan thư sức dân, làm kế sâu rễ, bền gốc là thượng sách giữ nước. Dân như nước. Chở thuyền hay lật thuyền cũng là dân. Đến Hồ Chí Minh, tinh thần yêu nước, trọng dân trong chủ nghĩa yêu nước Việt Nam đã được đoàn kết toàn Đảng, toàn dân, xây dựng và nâng lên một tầm cao mới bởi sự vận dụng và phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin về vai trò của quần chúng nhân dân trong lịch sử. Chủ nghĩa Mác - Lênin khẳng định: Quần chúng nhân dân là chủ thể sáng tạo ra lịch sử, là lực lượng sản xuất cơ bản của mọi xã hội, sản xuất và sáng tạo ra của cải vật chất, tinh thần của xã hội, là lực lượng và động lực cơ bản của các cuộc cách mạng.
Trong quá trình lãnh đạo cách mạng lật đổ chế độ cũ ở nước ta, Hồ Chí Minh khẳng định rõ vai trò và sức mạnh có tính quyết định của quần chúng nhân dân dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản: “Cách mạng là sự nghiệp của quần chúng chứ không phải là sự nghiệp của cá nhân anh hùng nào. Thành công của Đảng ta là ở nơi Đảng ta đã tổ chức và phát huy lực lượng cách mạng vô tận của nhân dân, đã lãnh đạo nhân dân phấn đấu dưới lá cờ tất thắng của chủ nghĩa Mác - Lênin”. Cái mới và sáng tạo trong tư tưởng Hồ Chí Minh là gắn sức mạnh của quần chúng nhân dân với vai trò lãnh đạo của Đảng. Và, khi xét nguyên nhân thắng lợi của cách mạng, đồng thời chỉ ra vai trò, công lao của quần chúng nhân dân cùng với vai trò, công lao của Đảng lãnh đạo. Hồ Chí Minh chỉ rõ rằng: “Tất cả những thắng lợi đó không phải là công lao riêng của Đảng ta. Đó là công lao chung của toàn thể đồng bào ta trong cả nước. Cách mạng là sự nghiệp của quần chúng, chứ không phải là sự nghiệp của cá nhân anh hùng nào”. Đề cao vai trò, sức mạnh của nhân dân là một đặc điểm lớn trong tư tưởng, đạo đức và phong cách lãnh đạo Hồ Chí Minh.
Chủ tịch Hồ Chí Minh chủ trương phát huy sức mạnh của nhân dân để xây dựng, phát triển đất nước: “Chúng ta phải xây dựng Việt Nam thành một nước hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh. Thành công ấy đã được khẳng định bởi vì đó là sức mạnh của nhân dân, là yêu cầu của thời đại, vì vậy không một dòng nước ngược nào có thể ngăn cản được nó”. “Lực lượng toàn dân là lực lượng vĩ đại hơn hết. Không ai chiến thắng được lực lượng đó”. Đảng cầm quyền phải biết dựa vào nhân dân thì việc gì, dù khó đến đâu cũng có thể làm được. Đảng đoàn kết được toàn thể nhân dân dưới sự lãnh đạo của Đảng thì sức mạnh của nhân dân trở thành vô địch. Hồ Chí Minh khẳng định: “Trong bầu trời không gì quý bằng nhân dân. Trong thế giới không gì mạnh bằng lực lượng đoàn kết của nhân dân”. Và “Chúng ta phải tin tưởng rằng sức mạnh của nhân dân đoàn kết đấu tranh là một sức mạnh tất thắng, một sức mạnh vô địch”. Sức mạnh, sự vĩ đại, sự bền bỉ của nhân dân Việt Nam cơ bản là ở sự đoàn kết của nhân dân.
Trong xây dựng xã hội mới, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: chế độ ta là chế độ dân chủ, tức là nhân dân làm chủ. Đảng cầm quyền, mỗi cán bộ, đảng viên đều phải hiểu rõ: “Nước ta là nước dân chủ, địa vị cao nhất là dân, vì dân là chủ”. Sức mạnh của nhân dân chính là sức mạnh của dân tộc, bao gồm cả truyền thống trí lực, tinh thần, ý chí, của cải vật lực. Đó là nhân tố quyết định sự phát triển quốc gia. Tất cả tinh thần trọng dân, gần dân, hiểu dân, tin dân của Hồ Chí Minh được kết tinh trong các bản Di chúc.
2. Trong Di chúc, Hồ Chí Minh khẳng định sức mạnh, vai trò quyết định của quần chúng nhân dân trong xây dựng, phát triển đất nước
Hồ Chí Minh đã từng sinh sống, làm việc, hoạt động ở gần 30 nước trên thế giới trước khi trở thành Chủ tịch nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Người đã từng sống ở những trung tâm lớn về chính trị, kinh tế, văn hóa của các nước phát triển nhất, của các cường quốc trên thế giới nên cảm thông sâu sắc những nỗi vất vả, cực nhọc, khổ sở, thiếu thốn về cơ sở vật chất, kinh tế, văn hóa, sức khỏe của nhân dân Việt Nam. Người nêu rõ trong Di chúc: “Nhân dân lao động ta ở miền xuôi cũng như ở miền núi, đã bao đời chịu đựng gian khổ bị chế độ phong kiến và thực dân áp bức bóc lột, lại kinh qua nhiều năm chiến tranh”.
Đi ra thế giới, hiểu biết sâu sắc đất nước, con người nhiều nơi trên thế giới, trở về Hồ Chí Minh càng hiểu rõ hơn đất nước, con người Việt Nam, thấy rõ những ưu điểm quý giá của nhân dân ta. Nên Hồ Chí Minh khẳng định: “Nhân dân ta rất anh hùng, dũng cảm, hăng hái, cần cù”. Những phẩm chất quý giá đó vốn luôn tiềm ẩn trong lòng nhân dân Việt Nam, song chưa được khơi dậy đầy đủ trong các phong trào yêu nước chống đế quốc và phong kiến trước khi Đảng ta ra đời. Nên các phong trào yêu nước đó cuối cùng đều thất bại. Ngày nay, sức mạnh, vai trò quyết định thắng lợi của quần chúng nhân dân chỉ xuất hiện khi được giác ngộ, đoàn kết dưới sự lãnh đạo của Đảng cách mạng toàn tâm, toàn ý phục vụ nhân dân. Điều đó đã xuất hiện khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời vào ngày 3-2-1930 do Hồ Chí Minh sáng lập, với đường lối và phương pháp cách mạng đúng đắn cho nhân dân. Trong Di chúc, Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Từ ngày có Đảng, nhân dân ta luôn luôn đi theo Đảng, rất trung thành với Đảng”. Đảng đã lãnh đạo nhân dân ta tiến hành cuộc cách mạng Tháng Tám năm 1945, lật đổ chế độ phong kiến hơn nghìn năm, lật đổ chế độ thuộc địa hơn 80 năm ở nước ta và sau đó tiến hành cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược thắng lợi.
Năm 1965, Chủ tịch Hồ Chí Minh đang lãnh đạo Đảng ta thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược của cách mạng ở Việt Nam. Thực hiện xây dựng CNXH ở miền Bắc; tiếp tục cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam. Cảm thấy trong người có chuyển biến về sức khỏe, Hồ Chí Minh viết bản Di chúc đầu tiên, đề phòng khi Người đi gặp cụ Các Mác, cụ Lênin và các vị cách mạng đàn anh khác, thì đồng bào trong nước và đồng chí trong Đảng khỏi cảm thấy đột ngột. Hồ Chí Minh chỉ rõ, với tư cách là một Đảng cầm quyền, trách nhiệm hàng đầu của Đảng là: “Cần phải có kế hoạch thật tốt để phát triển kinh tế và văn hóa, nhằm không ngừng nâng cao đời sống của nhân dân”. Đời sống của nhân dân không ngừng được nâng cao, miền Bắc XHCN thật sự vững mạnh về mọi mặt, cách mạng Việt Nam mới có đủ sức mạnh đi tới thắng lợi.
Khi đó, cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước đang ở vào giai đoạn gay go, quyết liệt. Chủ tịch Hồ Chí Minh dự đoán: Cuộc kháng chiến chống Mỹ có thể sẽ kéo dài mấy năm nữa. Đồng bào ta có thể phải hy sinh nhiều của, nhiều người. Dù sao, chúng ta phải quyết tâm đánh giặc Mỹ đến thắng lợi hoàn toàn. Đặt trọn niềm tin vào sức mạnh và vai trò của nhân dân trong xây dựng và phát triển đất nước, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Dù khó khăn gian khổ đến mấy, nhân dân ta nhất định sẽ hoàn toàn thắng lợi. Đế quốc Mỹ nhất định phải cút khỏi nước ta. Tổ quốc ta nhất định sẽ thống nhất. Đồng bào Nam, Bắc nhất định sẽ sum họp một nhà. Nước ta sẽ có vinh dự lớn là một nước nhỏ mà đã anh dũng đánh thắng 2 đế quốc to - là Pháp và Mỹ; và đã góp phần xứng đáng vào phong trào giải phóng dân tộc”. Thực tế lịch sử đã diễn ra đúng như niềm tin cách mạng và khoa học của Hồ Chí Minh.
Trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng, Hồ Chí Minh luôn tin tưởng vào sức mạnh đoàn kết của nhân dân dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản. Cho nên, trong Di chúc, Hồ Chí Minh đặc biệt coi trọng việc vạch ra phương hướng, biện pháp đoàn kết toàn dân dưới sự lãnh đạo của Đảng để nhằm đạt được mục đích cuối cùng của Người là: “Toàn Đảng toàn dân ta đoàn kết phấn đấu, xây dựng một nước Việt Nam hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh, và góp phần xứng đáng vào sự nghiệp cách mạng thế giới”.
Không chỉ có niềm tin mãnh liệt, Hồ Chí Minh còn có giải pháp khoa học và cách mạng để biến niềm tin vào sức mạnh của nhân dân trở thành hiện thực. Để đoàn kết toàn dân, theo Hồ Chí Minh trước hết phải Đoàn kết thống nhất trong toàn Đảng. Đoàn kết trong toàn Đảng là tiền đề để thực hiện được đoàn kết toàn dân tộc. Người chỉ rõ: Nhờ đoàn kết chặt chẽ, một lòng một dạ phục vụ giai cấp, phục vụ nhân dân, phục vụ Tổ quốc, cho nên từ ngày thành lập đến nay, Đảng ta đã đoàn kết, tổ chức và lãnh đạo nhân dân ta hăng hái đấu tranh tiến từ thắng lợi này đến thắng lợi khác. Người nhấn mạnh nhiệm vụ cốt tử là xây dựng sự đoàn kết nhất trí trong Đảng: “Đoàn kết là một truyền thống cực kỳ quý báu của Đảng và của dân ta. Các đồng chí từ Trung ương đến các chi bộ cần phải giữ gìn sự đoàn kết nhất trí của Đảng như giữ gìn con ngươi của mắt mình”.
Để xây dựng thành công khối đoàn kết nhất trí trong toàn Đảng, Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ ra biện pháp cơ bản là: “Trong Đảng thực hành dân chủ rộng rãi, thường xuyên và nghiêm chỉnh tự phê bình và phê bình là cách tốt nhất để củng cố và phát triển sự đoàn kết và thống nhất của Đảng. Phải có tình đồng chí thương yêu lẫn nhau”. Nghĩa là để có đoàn kết nhất trí trong Đảng, các nguyên tắc tập trung dân chủ, tự phê bình và phê bình phải được thực hiện đúng đắn, nghiêm chỉnh trên cơ sở phải có đủ tình đồng chí thương yêu lẫn nhau của cán bộ, đảng viên trong Đảng.
Đặc biệt trong điều kiện Đảng cầm quyền, Hồ Chí Minh chỉ rõ, Đảng phải quan tâm xây dựng Đảng về đạo đức, làm cho cán bộ đảng viên giữ vững được đạo đức cách mạng: “Đảng ta là một đảng cầm quyền. Mỗi đảng viên và cán bộ phải thật sự thấm nhuần đạo đức cách mạng, thật sự cần kiệm liêm chính, chí công vô tư. Phải giữ gìn Đảng ta thật trong sạch, phải xứng đáng là người lãnh đạo, là người đầy tớ thật trung thành của nhân dân”. Đảng có đạo đức cách mạng mới thật sự trong sạch vững mạnh, mới có thể toàn tâm, toàn ý phục vụ nhân dân, mới củng cố được mối quan hệ gắn bó máu thịt giữa Đảng với nhân dân. Do đó, Đảng mới có thể giữ vững vai trò, vị trí là một Đảng cầm quyền trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Hồ Chí Minh đã suốt đời hết lòng, hết sức phục vụ nhân dân, phục vụ Tổ quốc và cách mạng, đến khi phải từ biệt thế giới này, Người cũng vẫn chỉ nghĩ đến việc không làm hao tổn thì giờ và tiền bạc của nhân dân. Trong Di chúc, Người căn dặn: “Sau khi tôi đã qua đời, chớ nên tổ chức điếu phúng linh đình, để khỏi lãng phí thì giờ và tiền bạc của nhân dân”.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã không chỉ để lại muôn vàn tình thân yêu cho toàn dân, toàn Đảng, cho toàn thể bộ đội, cho các cháu thanh niên và nhi đồng, mà Người còn vạch ra một Cương lĩnh cho Đảng, Nhà nước ta trong việc không ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của tất cả các tầng lớp nhân dân ta sau khi cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước thắng lợi. Người chỉ ra phương hướng chính sách của Đảng, Nhà nước đối với những người có công với cách mạng, với các gia đình thương binh liệt sĩ, với những người đã trải qua các lực lượng vũ trang, thanh niên xung phong, với thanh niên, phụ nữ, đồng bào nông dân, với cả những nạn nhân của chế độ xã hội cũ như trộm cắp, gái điếm, cờ bạc, buôn lậu,v.v.. “Nhà nước phải dùng vừa giáo dục, vừa phải dùng pháp luật để cải tạo họ, giúp họ trở nên những người lao động lương thiện”. Không được để sót người dân nào trong công tác dân vận của Đảng.
Trong Di chúc, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ ra phương hướng phát triển đất nước trên tất cả các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, và khẳng định: “Công việc trên đây là rất to lớn, nặng nề, và phức tạp, mà cũng là rất vẻ vang. Đây là một cuộc chiến đấu chống lại những gì đã cũ kỹ, hư hỏng, để tạo ra những cái mới mẻ, tốt tươi”. Đối với những công việc cách mạng to lớn, nặng nề và vẻ vang, Chủ tịch Hồ Chí Minh vẫn nhất quán đặt trọn niềm tin vào sức mạnh và vai trò quyết định của nhân dân. Do đó, Người khẳng định trong Di chúc: “Để giành lấy thắng lợi trong cuộc chiến đấu khổng lồ này cần phải động viên toàn dân, tổ chức và giáo dục toàn dân, dựa vào lực lượng vĩ đại của toàn dân”. Điều đó cũng như là cuộc chống Mỹ, cứu nước của nhân dân ta dù phải kinh qua gian khổ hy sinh nhiều hơn nữa, song nhất định thắng lợi hoàn toàn. “Đó là một điều chắc chắn”! Tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống mở được Đảng Cộng sản Việt Nam không ngừng vận dụng và phát triển sáng tạo trong quá trình Đảng lãnh đạo cách mạng Việt Nam.
3. Vận dụng, phát triển tư tương Hồ Chí Minh về sức mạnh, vai trò của nhân dân trong sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc hiện nay
Theo Di chúc của Hồ Chí Minh, tại Đại hội XII, Đảng ta khẳng định chủ trương: “Phát huy mạnh mẽ mọi nguồn lực, mọi tiềm năng sáng tạo của nhân dân để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”. Đảng ta chủ trưong lấy mục tiêu xây dựng một nước Việt Nam hòa bình, độc lập, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” làm điểm tương đồng; tôn trọng những điểm khác biệt không trái với lợi ích chung của quốc gia - dân tộc; đề cao tinh thần dân tộc, truyền thống yêu nước, nhân nghĩa, khoan dung để tập hợp, đoàn kết mọi người Việt Nam ở trong và ngoài nước, tăng cường quan hệ mật thiết giữa nhân dân với Đảng, Nhà nước, tạo sinh lực mới của khối đại đoàn kết toàn dân tộc trong giai đoạn hiện nay.
Để phát huy sức mạnh và vai trò của nhân dân trong xây dựng và phát triển đất nước, Đảng ta chủ trưong tiếp tục thể chế hóa và cụ thể hóa các quan điểm, đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng nhằm: “Hoàn thiện và thực hiện có hiệu quả các cơ chế, chính sách phát huy vai trò của nhân dân trong việc quyết định những vấn đề lớn của đất nước; bảo đảm tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân”. Đảng ta khẳng định chiến lược Đại đoàn kết toàn dân tộc Việt Nam hiện nay: “Phải dựa trên cơ sở giải quyết hài hòa quan hệ lợi ích giữa các thành viên trong xã hội; bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của nhân dân; không ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân, bảo đảm mỗi người dân đều được thụ hưởng những thành quả của công cuộc đổi mới. Mọi chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước đều vì lợi ích của nhân dân. Đoàn kết trong Đảng là hạt nhân, là cơ sở vững chắc để xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc”.
Quán triệt tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng ta về sức mạnh và vai trò của nhân dân trong xây dựng và phát triển đất nước, các cấp ủy đảng và chính quyền cần thường xuyên đối thoại, lắng nghe, học hỏi, tiếp thu ý kiến, giải quyết các khó khăn, vướng mắc và yêu cầu chính đáng của nhân dân. Cán bộ, đảng viên cần biết tin dân, tôn trọng, lắng nghe những ý kiến khác nhau. Các cấp ủy Đảng, chính quyền cần có hình thức, cơ chế, biện pháp cụ thể, thích hợp để nhân dân bày tỏ chính kiến, nguyện vọng và thực hiện quyền làm chủ của mình thông qua Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân; trân trọng, tôn vinh những đóng góp, cống hiến của nhân dân.
DOÃN THỊ CHÍN. “Vấn đề xây dựng con người” trong Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh và sự vận dụng của Đảng ta / Doãn Thị Chín // Tạp chí Lý luận chính trị và truyền thông. - 2019. - Số 5. - Tr. 26-30
Nét đặc sắc trong Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh chính là vấn đề con người nói chung, xây dựng con người nói riêng. Đây cũng là vấn đề trung tâm, xuyên suốt trong toàn bộ di sản tư tưởng của Người để lại cho Đảng và nhân dân ta. Hiện nay, trong công cuộc đổi mới đất nước, vấn đề xây dựng con người được Đảng Cộng sản Việt Nam đặc biệt quan tâm nhất là việc vận dụng tư tưởng “xây dựng con người ” theo Di chúc của Người.
1. Vấn đề xây dựng con người trong Di chúc - nét đặc sắc trong tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh
Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh là một văn kiện lịch sử vô giá, kết tinh những tư tưởng, tình cảm, đạo đức, nhân cách, tâm hồn cao đẹp của một vĩ nhân; xuyên suốt và bao trùm trong đó là vấn đề con người và chính sách xã hội đối với con người. Trong Di chúc, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Đầu tiên là công việc đối với con người”. Tính chất nhân văn cao cả trong Di chúc của Người là sự đánh giá đúng nhân tố con người và lòng tin tưởng tuyệt đối của Người vào sức mạnh của nhân dân. Trong suốt cuộc đời hoạt động cách mạng, Người luôn coi trọng con người - tức là mọi tầng lớp nhân dân - là động lực của cách mạng, đồng thời là mục tiêu, đối tượng phục vụ của sự nghiệp cách mạng.
Dựa trên truyền thống “uống nước nhớ nguồn”, “ăn quả nhớ người trồng cây” của dân tộc, thấu hiểu, tôn trọng và tôn vinh những người có công với nước, trước hết, Chủ tịch Hồ Chí Minh quan tâm đặc biệt đến thương binh, bệnh binh, gia đình liệt sĩ. Người căn dặn: “Đảng, Chính phủ và đồng bào phải tìm mọi cách làm cho họ có nơi ăn chốn ở yên ổn, đồng thời phải mở những lớp dạy nghề thích hợp với mỗi người để họ có thể dần dần “tự lực cánh sinh”. Đối với các liệt sĩ và gia đình liệt sĩ, Người yêu cầu: “Đối với các liệt sĩ, mỗi địa phương (thành phố, làng xã) cần xây dựng vườn hoa và bia kỷ niệm ghi sự hy sinh anh dũng của các liệt sĩ, để đời đời giáo dục tinh thần yêu nước cho nhân dân ta”. Đối với cha mẹ, vợ con của thương binh, liệt sĩ mà thiếu sức lao động và túng thiếu, Người căn dặn: “chính quyền địa phương (nếu ở nông thôn thì chính quyền xã cùng hợp tác xã nông nghiệp) phải giúp đỡ họ có công việc làm ăn thích hợp, quyết không để họ bị đói rét”.
Đặc biệt, đối với phụ nữ, Chủ tịch Hồ Chí Minh không chỉ thấu hiểu sự hy sinh to lớn của họ ở hậu phương và cả ở chiến trường, mà còn rất quan tâm đến sự tiến bộ, quyền bình đẳng và hạnh phúc của họ trong cuộc sống. Trong Di chúc, Người yêu cầu và căn dặn: “Đảng và Chính phủ cần phải có kế hoạch thiết thực để bồi dưỡng, cất nhắc và giúp đỡ để ngày thêm nhiều phụ nữ phụ trách mọi công việc kể cả công việc lãnh đạo. Bản thân phụ nữ thì phải cố gắng vươn lên”. Theo Người, đây là cuộc cách mạng đưa đến quyền bình đẳng thực sự cho phụ nữ.
Theo Hồ Chí Minh, xây dựng chủ nghĩa xã hội ở một nước tiểu nông như nước ta, với dân cư đa phần là nông dân, thực chất là một cuộc cách mạng to lớn không chỉ đối với nông dân, mà còn đối với toàn Đảng, toàn dân tộc. Trong hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược, nông dân nước ta đã trung thành với Đảng, ra sức đóng góp sức người, sức của, sẵn sàng chịu đựng mọi khó khăn, gian khổ, hy sinh. Trước lúc đi xa, Người vẫn chưa yên lòng, vì biết rằng sau ngày đất nước thống nhất, nông dân ta còn gặp những khó khăn do phải khắc phục những hậu quả nặng nề của chiến tranh để lại. Vì thế, Người đề nghị Đảng và Chính phủ miễn thuế nông nghiệp một năm cho nông dân để “đồng bào hỉ hả, mát lòng, mát dạ, thêm nhiều phấn khởi, đẩy mạnh sản xuất”.
Tình thương bao la của Chủ tịch Hồ Chí Minh đối với con người không chỉ bó hẹp ở những thành phần xã hội nêu trên, mà đối với cả các nạn nhân của chế độ cũ, những người lầm đường lạc lối… Người căn dặn: “Nhà nước phải dùng vừa giáo dục vừa phải dùng pháp luật để cải tạo họ, giúp họ trở nên những người lao động lương thiện”. Theo Hồ Chí Minh, đối với những người do hoàn cảnh đưa đẩy mà lầm đường, lạc lối Người cũng muốn cảm hóa họ, lôi cuốn họ về với nhân dân. Sự cảm hóa của Người đối với những người lầm đường, lạc lối rất giản dị, mộc mạc nhưng chân tình, thấm đượm lòng nhân ái, khoan dung, đức độ. Người viết: “Năm ngón tay cũng có ngón vắn ngón dài. Nhưng vắn dài đều họp nhau lại nơi bàn tay. Trong mấy triệu người cũng có người thế này thế khác, nhưng thế này hay thế khác đều dòng dõi của tổ tiên ta. Vậy nên ta phải khoan hồng đại độ. Ta phải nhận rằng đã là con lạc cháu Hồng thì ai cũng có ít hay nhiều lòng ái quốc. Đối với những đồng bào lạc lối, lầm đường, ta phải lấy tình thân ái mà cảm hóa họ”. Với ngụy binh, Người cũng thể hiện sự bao dung, độ lượng, muốn họ bỏ Pháp quay về với nhân dân, Tổ quốc.
Vấn đề giáo dục đạo đức cách mạng cho thế hệ thanh niên, lớp người kế tục sự nghiệp cách mạng được Chủ tịch Hồ Chí Minh rất quan tâm. Trong Di chúc Người khẳng định: “Đoàn viên và thanh niên ta nói chung là tốt, mọi việc đều hăng hái xung phong, không ngại khó khăn, có chí tiến thủ. Đảng cần phải chăm lo giáo dục đạo đức cách mạng cho họ, đào tạo họ thành những người thừa kế xây dựng chủ nghĩa xã hội vừa “hồng”, vừa “chuyên”. Bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau là một việc rất quan trọng và rất cần thiết”.
Như vậy, có thể khẳng định một trong vấn đề quan trọng hàng đầu mà cũng là mục tiêu trong suốt cuộc đời của Chủ tịch Hồ Chí Minh, chính là vấn đề con người. Điều này lý giải tại sao trong Di chúc, Người khẳng định: “đầu tiên là công việc đối với con người”. Vấn đề con người trong tư tưởng của Người, không chỉ biểu hiện ở tình yêu thương con người, thương yêu nhân dân hết sức rộng lớn và sâu sắc, mà còn biểu hiện ở việc chăm lo, bồi dưỡng, sử dụng phát huy sức mạnh của con người, của nhân dân và giải phóng con người, mang lại hạnh phúc cho con người. Đây cũng là nét đặc sắc nhất trong tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh.
2. Đảng Cộng sản Việt Nam vận dụng tư tưởng “xây dựng con người” trong Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh vào thực tiễn đổi mới đất nước
Đảng Cộng sản Việt Nam khẳng định, Đảng lấy chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho mọi hành động. Chính vì vậy, Đảng đã vận dụng và phát triển di sản tư tưởng Hồ Chí Minh, trong đó có tư tưởng xây dựng con người vào thực tiễn lãnh đạo công cuộc đổi mới toàn diện đất nước. Khi bước vào thời kỳ đổi mới, Đảng tập trung vào đổi mới kinh tế, đồng thời đã nhấn mạnh tới việc phát triển kinh tế phải chú ý đến hiệu quả văn hóa và xã hội, quan tâm tới việc xây dựng con người.
Thực tiễn hơn 30 năm qua cho thấy, tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng con người đã được Đảng triển khai tích cực, quyết liệt, với ý thức và quyết tâm chính trị cao khi Đảng nhận thức: “Con người là chủ thể sáng tạo, truyền bá, thụ hưởng văn hóa, là trung tâm của chiến lược phát triển. Xây dựng con người có nhân cách, lối sống tốt đẹp là trọng tâm, cốt lõi của phát triển văn hóa; mọi hoạt động văn hóa đều phải hướng tới xây dựng, phát triển con người;.... định hướng phát triển con người toàn diện về tư tưởng, trí tuệ, tâm hồn, về đạo đức, nhân cách, lối sống với các đặc trưng cơ bản: yêu nước, nhân ái, nghĩa tình, trung thực, đoàn kết, cần cù, sáng tạo. Xây dựng, phát triển con người gắn kết chặt chẽ với việc thực hiện, bảo đảm quyền con người, quyền và nghĩa vụ công dân; với thực hiện hiệu quả tiến bộ, công bằng xã hội”.
Ba mươi năm đổi mới là quá trình xây dựng và không ngừng hoàn thiện thể chế dân chủ nhằm đảm bảo các quyền cơ bản và sự phát triển toàn diện của người dân với nhiều bài học kinh nghiệm quý báu. Trong thực tiễn, việc gắn quyền con người với lợi ích quốc gia, lợi ích dân tộc, bảo vệ mọi quyền và lợi ích của người dân vì sự phát triển của chính người dân là mục tiêu cao cả của Đảng và Nhà nước.
Xuyên suốt thời kỳ đổi mới, dưới sự lãnh đạo của Đảng, các thành tựu xây dựng con người của Việt Nam được thể hiện rõ nét qua chỉ số phát triển con người (HDI) có xu hướng tăng đều và khá ổn định, cả về giá trị tuyệt đối cũng như thứ hạng. Với những thành quả đạt được về phát triển con người, trong Báo cáo phát triển con người năm 2013 của UNDP, Việt Nam đã được xếp vào danh sách hơn 40 quốc gia đang phát triển đạt được những tiến bộ hơn cả mong đợi về phát triển con người trong những thập kỷ gần đây. Từ năm 2010 đến nay, chỉ số HDI của Việt Nam luôn tăng (Việt Nam năm 2010 đứng thứ 129/187; năm 2011, đứng thứ 128/187; năm 2012, ở vị trí 127/186; năm 2013, xếp thứ 121/187; năm 2014, xếp thứ 116/188 quốc gia công bố HDI). “Việt Nam là một trong những nước rất năng động và đạt được tiến bộ phát triển con người rất nhanh”.
Đặc biệt, sau hơn 15 năm thực hiện xây dựng con người theo Nghị quyết TW 5 khóa VIII và triển khai Nghị quyết Trung ương 9 (khóa XI), Việt Nam đã thu được các thành tựu to lớn trên nhiều phương diện. Tinh thần yêu nước của con người Việt Nam không hề suy giảm mà trái lại rất mãnh liệt, được thể hiện dưới nhiều hình thức phong phú, đa dạng, theo từng lứa tuổi, nghề nghiệp, công việc, địa bàn, vị trí khác nhau. Những thành quả phát triển đất nước hiện nay không thể tách khỏi tinh thần lao động yêu nước, ý thức phấn đấu rút ngắn khoảng cách tụt hậu của đất nước và của sự phát triển con người Việt Nam. Ý thức tập thể trong lao động, ý thức cộng đồng được nâng cao; tinh thần đoàn kết, vì lợi ích chung được củng cố và phát huy trong quảng đại quần chúng nhân dân. Điều này thể hiện rất rõ trong đời sống xã hội, đặc biệt trong những tình huống có vấn đề như bão lũ, hỏa hoạn, đói nghèo, bệnh tật, hoàn cảnh khó khăn,...
Con người Việt Nam ngày nay, đặc biệt là trong thanh niên, học sinh, sinh viên, ý thức bảo vệ môi trường tốt hơn. Nhận thức về mọi mặt cuộc sống nhiều chiều được nâng cao hơn. Họ ít ảo tưởng, thực tế, thực dụng (không phải là chủ nghĩa thực dụng), mức độ giao lưu, sự nhanh nhạy, tự chủ và tự lập tốt hơn các thế hệ trước đây. Năng lực hội nhập của các thế hệ hiện tại rõ ràng là hơn hẳn các thế hệ trước, không chỉ do các điều kiện thuận lợi hơn mà chủ yếu là do họ có nền tảng mọi mặt tốt hơn. Con người Việt Nam hiện nay có lối sống lành mạnh, nếp sống văn minh, cần kiệm, trung thực, nhân nghĩa, tôn trọng kỷ cương phép nước, quy ước của cộng đồng. Những phẩm chất này đang tồn tại thực, đang được phát huy có hiệu quả và tạo nên sự ổn định, phát triển của xã hội Việt Nam trong thời gian qua.
Con người Việt Nam thể hiện tinh thần lao động chăm chỉ với lương tâm nghề nghiệp, có kỹ thuật, sáng tạo, năng suất cao vì lợi ích của bản thân, gia đình, tập thể và xã hội. Trình độ kỹ thuật, năng suất lao động và tính sáng tạo của các thế hệ người Việt Nam hiện nay hơn hẳn trước đây. Họ làm việc không chỉ để xóa đói, giảm nghèo mà là để trở thành giàu có. Khả năng nắm bắt và làm chủ các công nghệ mới, hiện đại của thế giới ở các thế hệ hiện nay vừa nhanh, vừa tốt hơn nhiều.
            Tuy nhiên, so với yêu cầu phát triển đất nước, so với đòi hỏi hội nhập và đặc biệt là tình trạng tụt hậu so với nhiều nước trong khu vực và thế giới, thì việc xây dựng con người như trong thời gian qua là chưa đáp ứng được. Nếu không có nguồn lực con người đáp ứng được yêu cầu phát triển của đất nước trong bối cảnh mới thì Việt Nam sẽ ngày càng tụt hậu. Đây là một thách thức rất lớn đối với toàn thể dân tộc trong giai đoạn hiện nay và trong những thập kỷ tới. Nguồn lực con người Việt Nam đang bộc lộ nhiều bất cập. Nếu không nhanh chóng khắc phục được những bất cập này, đất nước sẽ rơi vào khủng hoảng về phát triển con người và nguồn nhân lực. Xét từ góc độ tiêu chí và giá trị con người Việt Nam hiện nay, có thể thấy một số vấn đề nổi cộm sau:
Một là, sự xuống cấp về văn hóa, đạo đức trong xã hội, đặc biệt tình trạng một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên, công chức suy thoái đang gây mất lòng tin nghiêm trọng vào chế độ, nhưng chậm được khắc phục.
Hai là, dù đạt được nhiều thành tựu, nhưng giáo dục đào tạo đang là lĩnh vực có nhiều bất cập, tiêu cực, chất lượng giáo dục chưa thực sự đáp ứng tốt yêu cầu của thực tiễn, nhu cầu của xã hội.
Ba là, tình trạng tội phạm gia tăng và có những diễn biến phức tạp thể hiện sự rối loạn của thang giá trị.
Bốn là, con người Việt Nam hiện nay, mặc dù có nhiều ưu điểm, nhưng đồng thời cũng đang bộc lộ rất nhiều hạn chế: tư duy hạn hẹp; thích phô trương thành tích, hình thức, học đòi, giả dối, tự ti; ý thức tổ chức kỷ luật, ý thức pháp luật kém, tùy tiện; thiếu tính chuyên nghiệp trong lao động sản xuất và hoạt động; ý thức trách nhiệm xã hội chưa cao và chưa đồng đều;...
Điều đáng lo ngại hơn là Việt Nam chậm đổi mới thể chế cho phù hợp với yêu cầu về việc xây dựng con người Việt Nam thích hợp với giai đoạn phát triển hiện nay. Thể chế nói chung (bao gồm cả chính sách, tổ chức thực hiện và chế tài) trong chừng mực nhất định không những không hạn chế, khắc phục hay xóa bỏ được những mặt hạn chế của người Việt Nam, mà thậm chí, có lúc, có nơi còn làm trầm trọng thêm tình hình.
Với tinh thần nhìn thẳng vào sự thật, cầu thị và khoa học, Đảng Cộng sản Việt Nam đã nhận thức rõ những tồn tại, hạn chế trên. Chính vì vậy, ngay trong Báo cáo tổng kết Một số vấn đề lý luận - thực tiễn qua 30 năm đổi mới, Đảng xem xây dựng con người Việt Nam là một trong những vấn đề lý luận đặt ra cần tiếp tục nghiên cứu, làm rõ: “... cần phải đẩy mạnh nghiên cứu xây dựng hệ giá trị văn hóa và con người Việt Nam... Tiếp tục nghiên cứu những tiêu chí cụ thể của con người có nhân cách, lối sống tốt đẹp với các đặc trưng cơ bản: yêu nước, nhân ái, nghĩa tình, trung thực, đoàn kết, cần cù, sáng tạo”.
Đại hội XII (2016) của Đảng Cộng sản Việt Nam đi vào lịch sử như một sự kiện đánh dấu quá trình 30 năm đổi mới toàn diện đất nước. Ba mươi năm đổi mới là một giai đoạn lịch sử quan trọng trong sự nghiệp phát triển của đất nước, khẳng định sự trưởng thành về mọi mặt của Đảng, Nhà nước và nhân dân Việt Nam. Đổi mới mang tầm vóc và ý nghĩa cách mạng, là quá trình cải biến sâu sắc, toàn diện, triệt để, là sự nghiệp cách mạng to lớn của toàn thể dân tộc vì mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”.
Tổng kết 30 năm đổi mới, Đảng khẳng định: “qua 30 năm đổi mới, đất nước ta đã đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử trên con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa. Đồng thời cũng còn nhiều vấn đề lớn, phức tạp, nhiều hạn chế, yếu kém cần phải tập trung giải quyết, khắc phục để đưa đất nước phát triển nhanh và bền vững”. Để khắc phục được những hạn chế, yếu kém đó, một trong những nhiệm vụ trọng tâm được Đảng vạch rõ là xây dựng con người mới đáp ứng được yêu cầu của thời đại: “Các cấp, các ngành phải nhận thức đầy đủ và thực hiện có kết quả mục tiêu: Xây dựng nền văn hóa và con người Việt Nam phát triển toàn diện, hướng đến chân - thiện - mỹ, thấm nhuần tinh thần dân tộc, nhân văn, dân chủ và khoa học”.
Vận dụng và phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng con người, tại Đại hội XII, Đảng đã khẳng định một tư duy mới: “Xây dựng con người Việt Nam phát triển toàn diện phải trở thành một mục tiêu của chiến lược phát triển”. Cần phải thấy rằng, xuyên suốt thời kỳ Đổi mới là quá trình Việt Nam đi tìm tòi, áp dụng một mô hình phát triển phù hợp với hoàn cảnh, điều kiện đất nước. Trong lý thuyết về mô hình phát triển Việt Nam, vấn đề con người luôn được xem trọng. Với Đại hội XII, việc xây dựng con người Việt Nam phát triển toàn diện được đặt lên hàng đầu và đưa vào trung tâm của chiến lược phát triển đất nước.
Đảng xác định rõ trọng tâm của nhiệm vụ xây dựng con người Việt Nam phát triển toàn diện là: (1) Đúc kết, từng bước xây dựng trong thực tế các chuẩn mực giá trị văn hóa và con người Việt Nam, tạo môi trường và điều kiện để phát triển về nhân cách, đạo đức, trí tuệ, năng lực sáng tạo, thể chất, tâm hồn, trách nhiệm xã hội, nghĩa vụ công dân; (2) tạo chuyển biến mạnh mẽ về nhận thức, ý thức tôn trọng pháp luật; làm cho mọi người Việt Nam đều hiểu biết sâu sắc, tự hào, tôn vinh lịch sử, văn hóa dân tộc; khẳng định, tôn vinh cái đúng, cái tốt đẹp, tích cực, cao thượng; nhân rộng các giá trị cao đẹp, nhân văn; (3) Đấu tranh phê phán, đẩy lùi cái xấu, cái ác, thấp hèn, lạc hậu; chống các quan điểm, hành vi sai trái, tiêu cực ảnh hưởng xấu đến xây dựng nền văn hóa, làm tha hóa con người; ngăn chặn và đẩy lùi sự xuống cấp về đạo đức xã hội, khắc phục những mặt hạn chế của con người Việt Nam.
Bên cạnh đó, cần gắn xây dựng con người với xây dựng môi trường văn hóa lành mạnh, văn minh trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, phù hợp với bối cảnh phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế, trong đó chú trọng: (1) Xây dựng môi trường văn hóa, đời sống văn hóa lành mạnh trong hệ thống chính trị, trong mỗi địa phương, trong từng cộng đồng làng, bản, khu phố, cơ quan, đơn vị, doanh nghiệp và mỗi gia đình; (2) Phát huy vai trò văn hóa trong gia đình, nhà trường, cộng đồng; (3) Thường xuyên quan tâm xây dựng nếp sống văn hóa tiến bộ, văn minh, nhất là trong việc cưới, việc tang, lễ hội; nâng cao chất lượng, hiệu quả các cuộc vận động văn hóa, phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa”; (4) Từng bước thu hẹp khoảng cách về hưởng thụ văn hóa giữa thành thị và nông thôn, giữa các vùng, miền và các giai tầng xã hội; (5) Phát huy các giá trị, nhân tố tích cực trong văn hóa tôn giáo, tín ngưỡng.
Như vậy, vấn đề đổi mới và phát triển con người đã được Đảng Cộng sản Việt Nam đặt vào vị trí trung tâm của quá trình phát triển kinh tế - xã hội. Sự sáng tạo của Đảng trong quá trình vận dụng những quan điểm tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng con người, được biểu hiện đậm nét trong Di chúc trong quá trình xây dựng con người trong thời kỳ đổi mới hiện nay chính là triển khai vấn đề xây dựng con người trên nhiều bình diện khác nhau, gắn liền với nhiều nội dung khác nhau để phát triển con người thích ứng với đòi hỏi của cách mạng trong một bối cảnh mới, bối cảnh hội nhập quốc tế. Xây dựng con người mới là hướng tới các giá trị nhân văn, vì con người, cho con người, chăm lo vun đắp cho sự nghiệp “trồng người”.
TRẦN TRỌNG ĐĂNG ĐÀN. 50 năm thực hiện Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh: Bảo vệ văn hóa dân tộc thời hiện đại / Trần Trọng Đăng Đàn. - 2019. - Số 15078. - Ngày 19/5. - Tr. 3
Trong Di chúc, Người viết: “Đảng cần phải có kế hoạch thật tốt để phát triển kinh tế và văn hóa, nhằm không ngừng nâng cao đời sống của nhân dân”. Thực hiện Di chúc của Người, 50 năm qua, Việt Nam đã đạt thành tựu to lớn trong bảo tồn văn hóa dân tộc. Tuy nhiên, khối lượng thành tựu văn hóa hiện đại rất cần được bảo vệ, bởi nguy cơ mai một đã dần trở thành hiện thực…
Những áp lực tạo sự mai một
Trước hết là áp lực từ tư duy lý luận về văn hóa dân tộc. Trong khối lượng tác phẩm văn học, nghệ thuật và văn hóa mà chúng ta đã có trong 50 năm, những gì là thuộc về “văn hóa dân tộc”? Sự giao lưu, hội nhập phát triển siêu tốc giữa văn hóa, văn nghệ Việt Nam với văn hóa, văn nghệ thế giới thời hiện đại rất dễ tạo ra một sự ngộ nhận rằng văn hóa, văn nghệ hiện đại là không có bản sắc hoặc nhạt màu sắc, cạn bản sắc. Như vậy tức là đem thành tựu của thực tại văn hóa, văn nghệ Việt Nam đặt sóng đôi với màu sắc, bản sắc, dân tộc thời xưa để xem xét, như vậy thật khó chính xác. Cần phải hiểu rằng, dân tộc Việt Nam hiện nay, với cả một quá trình giao lưu, hội nhập với văn hóa thế giới đã tạo cho mình những tư duy sáng tạo, nhu cầu thưởng thức, khả năng tiếp nhận văn hóa, văn nghệ mới, khác với ngay cả những gì do giao lưu, hội nhập với văn hóa, văn nghệ thế giới mà tiếp nhận được, chuyển hóa được thành của ta. Chúng ta cần xem đó là thuộc bản sắc văn hóa dân tộc Việt Nam - Việt Nam thời hiện đại.
Tư duy lý luận về bảo vệ văn hóa, văn nghệ dân tộc cũng phải hết sức nhạy bén trong sự nhận thức tất yếu. Có những di sản tất yếu bị mai một, chúng ta cũng phải tìm cho chúng những vị trí xứng đáng trong bảo tàng, trong hệ thống tri thức của những lớp quần chúng thích hợp. Không nên phục hồi, phục hiện với hy vọng công chúng sẽ tiếp nhận hồ hởi.
Một áp lực khác tạo nên nguy cơ mai một kho tàng văn hóa Việt Nam hiện đại là sự tụt hậu về phương tiện bảo vệ. 50 năm qua, chúng ta đã tạo ra được rất nhiều tác phẩm văn hóa - nghệ thuật nhưng lại được lưu giữ thô sơ và lạc hậu. Phim qua mấy năm lưu trữ đem ra chiếu lại đã đỏ quạch, nhòe nhoẹt. Chúng ta có rất ít kịch bản văn học cho sân khấu được viết hoàn chỉnh, được in thành sách theo đúng chuẩn mực in ấn. Kịch sau khi dựng, thấy lỗ lã là thôi luôn. Các tác phẩm hội họa và điêu khắc, một phần còn nằm ở dạng phác thảo, một số đã hoàn chỉnh thì do eo hẹp về tiền bạc nên có quy mô khiêm tốn… Lạc hậu trong cuộc chạy đua chiếm lĩnh các đỉnh cao về khoa học - kỹ thuật, chúng ta khó lòng bảo vệ được các thành tựu về văn hóa, văn học, nghệ thuật đã có ở thời hiện đại.
Những người nắm chìa khóa tiền bạc trong cơ chế thị trường không phải luôn là người am hiểu các giá trị văn hóa, văn học, nghệ thuật. Một số chạy đua theo lợi nhuận thực hiện các dự án thấp kém mà kiếm được nhiều lời; một số khác, do quan điểm sai lầm, chống đối nên chủ trương thực hiện các tác phẩm xấu, làm bộ mặt thành tựu văn hóa, văn học, nghệ thuật bị méo mó.
Giữ gìn bản sắc dân tộc
Trong việc giao lưu, tiếp nhận văn hóa, đối với thực tế của Việt Nam, điều cần chú ý là chuẩn bị nội lực tiếp nhận văn hóa quốc tế vào mà có ích, có lợi cho ta và có được những gì gọi là “văn hóa mang bản sắc dân tộc Việt Nam” mà quốc tế chịu tiếp nhận vì có ích, có lợi chung. Sự chuẩn bị này cần mang tính chất toàn diện, nhưng trước hết là sự chuẩn bị một hệ thống lý luận về thế nào là “văn hóa” và thế nào là “văn hóa Việt Nam định hướng XHCN”; thế nào là “bản sắc dân tộc” và “bản sắc dân tộc của một Việt Nam” với 54 dân tộc hợp lại là như thế nào. Trong hệ thống lý luận mà Việt Nam cần hoàn chỉnh, lý luận về “định hướng” là đặc biệt quan trọng. Nếu chưa hoàn chỉnh tới một mức độ tương đối nào đó mà chúng ta cứ mở toang cánh cửa cho giao lưu, tiếp nhận văn hóa thì khó có thể tránh khỏi tình trạng hại nhiều hơn lợi.
Vấn đề đặt ra thuộc loại phức tạp nhất là chấp nhận sự giao lưu, tiếp nhận văn hóa trong sự tác động mạnh mẽ của cơ chế thị trường. Chúng ta phải phấn đấu đạt được cả hai điều: sản phẩm văn hóa xuất ra - nhập vào, kể cả sản phẩm kế thừa từ quá khứ đều phải vừa là sản phẩm thu “lời lãi” cao về mặt truyền bá tư tưởng, tình cảm, đạo đức, lối sống, nghệ thuật; vừa phải thu được lời lãi về tiền bạc theo nghĩa vật chất cụ thể. Chúng ta không chịu bó tay, không chịu thua thiệt về mặt hiệu quả tinh thần, đồng thời cũng không thể bao cấp cho văn hóa. Nghĩa là phải tiến hành giao lưu và tiếp nhận văn hóa có định hướng với những điều kiện vật chất khiêm tốn mà chúng ta có thể có.  
Ngay văn hóa quá khứ của bản thân nước ta muốn hội nhập vào văn hóa hiện đại cũng phải thông qua việc phục hồi, phục hiện, mới có thể lưu truyền, truyền bá - những công việc mà khoa học, kỹ thuật hiện đại giữ một vai trò cực lớn. Khoa học kỹ thuật ở nhiều nước trên thế giới đang hỗ trợ đắc lực cho việc phục hiện, lưu giữ, truyền bá… văn hóa quá khứ của họ nên không phải luôn luôn phù hợp với định hướng của ta. Mặt khác, thông qua phương tiện khoa học, kỹ thuật hiện đại, quá trình giao lưu đang chuyển tải vào văn hóa hiện đại quốc tế một khối lượng di sản lớn, quý mà phần đóng góp của văn hóa quá khứ Việt Nam vào đó xem chừng quá ít. Ít không phải vì di sản văn hóa quá khứ của ta nghèo nàn mà chủ yếu chúng ta nghèo và lạc hậu về phương tiện, khoa học và kỹ thuật để phục hồi, phục hiện, lưu giữ và nhất là truyền bá nó. Đây là vấn đề cần được đặt lên hàng đầu trong những nỗ lực sắp tới của đất nước.
Trong sự nghiệp bảo vệ văn hóa dân tộc nói chung, chúng ta không những không được bỏ quên mà còn phải tập trung cao độ cho việc bảo vệ văn hóa dân tộc thời hiện đại. Nói rộng hơn, thành tựu lý luận bảo vệ và xây dựng đất nước Việt Nam 50 năm nay của các lĩnh vực thuộc đời sống văn hóa - nghệ thuật đều thuộc phạm vi thành tựu văn hóa Việt Nam hiện đại, cần được bảo tồn và quan trọng hơn, cần được phát triển đúng hướng, đúng định hướng. 
NGUYỄN VIẾT CHỨC. 50 năm thực hiện di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh: Phải thực sự coi giáo dục là quốc sách hàng đầu / Nguyễn Viết Chức // Báo Sài Gòn giải phóng. - 2019. - Số 15079. - Ngày 20/5. - Tr. 3
1. Chủ tịch Hồ Chí Minh hết sức coi trọng sự nghiệp giáo dục - đào tạo (GD-ĐT), bởi GD-ĐT nâng cao dân đức và mở mang dân trí, đào tạo nhân lực và bồi dưỡng nhân tài cho đất nước phát triển, phồn vinh. Bác Hồ là người đặt nền tảng cho tư tưởng chiến lược “GD-ĐT là quốc sách hàng đầu” của Đảng và Nhà nước ta. Sinh thời, mỗi dịp vào năm học mới, Bác lại gửi thư cho ngành GD-ĐT hoặc đến thăm và nói chuyện với cán bộ quản lý giáo dục, giáo viên và học sinh, sinh viên ở các trường học.
Bác Hồ đã viết tất cả 23 bức thư gửi cho ngành giáo dục. Ngày 15-10-1968, Bác viết thư gửi các cô giáo, thầy giáo, công nhân, nhân viên, học sinh các cấp nhân dịp đầu năm học 1968-1969. Đây là bức thư cuối cùng của Bác gửi ngành GD-ĐT, chứa đựng những tư tưởng lớn của Bác về sự nghiệp “trồng người”. Bức thư cũng đã để lại muôn vàn tình cảm thân thương, quý báu của Bác đối với các cô giáo, thầy giáo và học sinh - sinh viên cả nước.
Giáo dục Việt Nam nhiều năm qua đã quán triệt được tinh thần giáo dục của Bác Hồ, đó là đào tạo thế hệ trẻ thành thế hệ đưa đất nước ta sánh vai các cường quốc năm châu. Thành tựu của nền giáo dục chúng ta đạt được có thể nhìn thấy rất rõ. Thứ nhất là đã thực sự đào tạo được nhiều thế hệ trẻ, nhiều lớp người khác nhau từ khi giải phóng đất nước đến nay. Rất nhiều người đã đóng góp lớn cho sự phát triển của đất nước. Giáo dục đã đào tạo biết bao lớp người, trong đó có các đồng chí lãnh đạo Đảng, Nhà nước. Nhiều học sinh của chúng ta xứng tầm với học sinh khu vực và thế giới, nhiều học sinh đạt những giải thưởng quốc tế danh giá, mà tiêu biểu là Giáo sư Ngô Bảo Châu - những học sinh được đào tạo nền tảng ban đầu ở Việt Nam. Thứ hai, đã phổ cập tiểu học, tiến tới phổ cập THCS, THPT. Thứ ba, đã xây dựng được một xã hội học tập, đó là một thành công lớn. Bác Hồ đã dạy làm sao để ai ai cũng được học hành, và xã hội chúng ta hiện nay đang làm được điều đó. Đó là những thành tựu rất đáng ghi nhận của giáo dục Việt Nam, mà bất cứ ai, dù khó tính đến đâu cũng phải thừa nhận. Hiện nay, trường, lớp, các cơ sở đào tạo của chúng ta ngày càng khang trang và hiện đại hơn. Vì vậy, nhìn tổng thể, giáo dục Việt Nam đã đạt được những thành tựu nổi bật suốt mấy chục năm qua.
2. Tuy nhiên, so với yêu cầu của sự nghiệp đổi mới, thì giáo dục chúng ta bị đánh giá là chưa theo kịp yêu cầu. Giáo dục hiện nay có những điều gây nuối tiếc so với trước đây. Những ảnh hưởng tiêu cực của kinh tế thị trường, của xã hội làm cho giáo dục hiện nay của chúng ta có nhiều vấn đề, từ quan hệ thầy trò đến thi cử, tiêu cực trong giáo dục… Chúng ta đã rất lo lắng về sự giả dối, bệnh thành tích trong giáo dục. Bên cạnh đó, chương trình giáo dục, sách giáo khoa, đội ngũ giáo viên cũng chưa được quan tâm đúng mức, làm cho giáo dục không theo kịp yêu cầu của sự nghiệp đổi mới, không theo kịp được nền giáo dục của khu vực cũng như của thế giới.
Chính từ những yếu kém đó, Đảng ta đã có Nghị quyết 29/NQ-TW về đổi mới căn bản, toàn tiện GD-ĐT. Sau hơn 5 năm thực hiện Nghị quyết 29/NQ-TW, mặc dù vẫn còn những tồn tại, hạn chế, nhưng về tổng thể GD-ĐT nước ta đã đạt được nhiều kết quả quan trọng, tích cực. Hệ thống cơ sở GD-ĐT phát triển cả về quy mô, số lượng và chất lượng, đáp ứng cơ bản nhu cầu học tập của nhân dân; đến nay đã có 63/63 tỉnh, thành phố đạt chuẩn phổ cập giáo dục mầm non cho trẻ em 5 tuổi, giáo dục tiểu học và giáo dục THCS. Giáo dục phổ thông đã có bước chuyển quan trọng từ trang bị kiến thức sang phát triển năng lực, phẩm chất, dạy làm người. Chất lượng giáo dục phổ thông thời gian qua được quốc tế ghi nhận, đánh giá cao. Theo đánh giá của Ngân hàng Thế giới, năng lực học sinh lứa tuổi 15 của nước ta, một nước có thu nhập trung bình thấp, nhưng có kết quả vượt mức trung bình của học sinh khối các nước có nền kinh tế phát triển OECD. Chất lượng giáo dục đại học đã được cải thiện một bước, được thế giới công nhận thông qua kiểm định chất lượng và xếp hạng đại học quốc tế. Việt Nam đã có 2 Đại học Quốc gia nằm trong nhóm 1.000 trường đại học tốt nhất thế giới và có 7 trường đại học được xếp vào nhóm 500 trường đại học tốt nhất châu Á.
Bên cạnh giáo dục đại trà, việc phát hiện và bồi dưỡng nhân tài cũng đạt kết quả đáng khích lệ. Chỉ tính riêng trong 5 năm gần đây, các đoàn học sinh Việt Nam tham gia các kỳ thi Olympic khu vực, quốc tế và cuộc thi khoa học kỹ thuật quốc tế đạt kết quả tốt, được bạn bè quốc tế ghi nhận, đánh giá cao. Từ 2014-2018, tăng 37 giải so với giai đoạn 5 năm trước đó; riêng số huy chương vàng tăng gấp 3 lần. Qua các kỳ thi quốc tế, các em học sinh đã góp phần làm vẻ vang cho đất nước, đưa vị thế của Việt Nam sánh vai cùng bè bạn năm châu. Tỷ lệ giáo viên đạt chuẩn, trên chuẩn với mầm non là 96,6%, tiểu học 99,7%, THCS 99%, THPT 99,6%, đại học 82,7%, tạo tiền đề để Bộ GD-ĐT đề xuất nâng chuẩn trình độ đào tạo cho giáo viên trong sửa đổi Luật Giáo dục.
3. Hiện tại, ngành giáo dục đang rất quyết tâm, xã hội cũng quyết tâm đổi mới giáo dục. Chính phủ cũng chỉ đạo quyết liệt để thực hiện đổi mới giáo dục. Ngành giáo dục lựa chọn đột phá đổi mới bắt đầu từ chương trình - sách giáo khoa, từ đổi mới thi cử, nhưng xã hội vẫn đang hết sức băn khoăn. Chúng ta ai cũng mong con đường đổi mới giáo dục khả thi và bài bản. Công cuộc đổi mới căn bản, toàn diện GD-ĐT phải được toàn xã hội quan tâm. Đồng thời, những người làm trong ngành phải nghiên cứu một cách kỹ lưỡng về việc đổi mới nên bắt đầu từ cái gì, đổi mới thế nào và lộ trình đổi mới ra sao. Đổi mới phải mang tính tổng thể, không được cắt khúc vì có thể khiến hiệu quả không cao.
Đất nước muốn phát triển bền vững thì giáo dục phải phát triển. Giáo dục là quốc sách hàng đầu, nên xã hội không thể khoán trắng cho ngành giáo dục. Từ gia đình, nhà trường đến toàn xã hội phải cùng chung sức chung lòng để đẩy mạnh giáo dục phát triển theo đúng hướng, để đáp ứng yêu cầu của công cuộc đổi mới. Gia đình không nên khoán trắng con em mình cho nhà trường, thầy cô giáo, mà phải cùng nhau giáo dục con em mình, đừng chạy điểm, mua điểm, làm hư con cái mình. Xã hội cũng cần đánh giá một cách công bằng những mặt được và chưa được của giáo dục để cùng nhau chung sức cùng ngành giáo dục nâng cao chất lượng GD-ĐT.
Đào tạo phải định hướng đào tạo con người, chứ không phải chỉ là nhồi nhét kiến thức không cần thiết. Con người phải có đủ năng lực để thích ứng với sự thay đổi của cuộc sống hiện đại, thích ứng với cuộc cách mạng 4.0. Các thầy cô giáo cũng phải được tôn trọng, chăm lo đầy đủ cả về vật chất và tinh thần, để thầy ra thầy, trò ra trò, trường ra trường, lớp ra lớp. Có như vậy giáo dục mới thực sự đáp ứng được yêu cầu ngày càng cao của thời đại mới - đó là tạo nguồn nhân lực khác xa so với ngày xưa. Học sinh, sinh viên phải được tiếp cận với những tri thức mới, kỹ năng mới để đáp ứng được yêu cầu của tình hình mới. Chỉ khi làm được như vậy, chúng ta mới thực hiện đầy đủ Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh về coi giáo dục là quốc sách hàng đầu.
LÊ THỊ THU HỒNG. “Mỗi cán bộ đảng viên phải thực sự thấm nhuần đạo đức cách mạng” theo Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh / Lê Thị Thu Hồng // Tạp chí Lý luận chính trị và truyền thông. - 2019. - Số 5. - Tr. 31-34
Chủ tịch Hồ Chí Minh là lãnh tụ thiên tài, sự nghiệp và tư tưởng của Người là di sản vô giá của dân tộc Việt Nam trên nhiều lĩnh vực, trong đó có tư tưởng về đạo đức cách mạng. Suốt cuộc đời, Người đã xây dựng, phát triển, thực thi một nền đạo đức mới - đạo đức cách mạng cho mọi người học tập, rèn luyện và noi theo. Đặc biệt, trong các bản Di chúc được viết từ năm 1965 đến 1969 (với khoảng 1.000 từ), Người đã để lại lời căn dặn tâm huyết: “Đảng ta là một Đảng cầm quyền. Mỗi đảng viên và cán bộ phải thật sự thấm nhuần đạo đức cách mạng, thật sự cần kiệm liêm chính, chí công vô tư”.
1. Đạo đức cách mạng là “gốc”, là “nền tảng” của cán bộ, đảng viên
Khi đánh giá vai trò, vị trí của đạo đức cách mạng, Hồ Chí Minh coi đạo đức là gốc, là nền tảng vì liên quan tới Đảng cầm quyền, trở thành Đảng cầm quyền thì Đảng nắm giữ quyền lực chính trị, lãnh đạo Nhà nước, lãnh đạo toàn xã hội, cán bộ, đảng viên không tu dưỡng, rèn luyện phẩm chất đạo đức cách mạng thì mặt trái của quyền lực có thể làm tha hóa con người nắm quyền lực.
Theo Hồ Chí Minh, đạo đức cách mạng giúp cho con người vững vàng trong mọi thử thách: “Có đạo đức cách mạng thì khi gặp khó khăn, gian khổ, thất bại, cũng không sợ sệt, rụt rè, lùi bước”; “khi gặp thuận lợi, thành công vẫn giữ vững tinh thần gian khổ, chất phác, khiêm tốn, “lo trước thiên hạ, vui sau thiên hạ”, lo hoàn thành nhiệm vụ cho tốt chứ không kèn cựa về mặt hưởng thụ, không công thần, không quan liêu, không kiêu ngạo, không hủ hóa”.
Chủ tịch Hồ Chí Minh từng nói: “Đạo đức cách mạng là ở bất kỳ cương vị nào, bất kỳ làm công việc gì, đều không sợ khó, không sợ khổ, đều một lòng, một dạ phục vụ lợi ích chung của giai cấp, của nhân dân đều nhằm mục đích xây dựng chủ nghĩa xã hội. Đạo đức cách mạng là đạo đức tập thể, nó phải đánh thắng và tiêu diệt đạo đức cá nhân”, có thể xem đó là một định nghĩa chung nhất về khái niệm đạo đức cách mạng. Khi bàn về tư cách của đảng viên và cán bộ, Người nói: “Người đảng viên, người cán bộ tốt muốn trở nên người cách mạng chân chính, không có gì là khó cả. Điều đó hoàn toàn do lòng mình mà ra, lòng mình chỉ biết vì Đảng, vì Tổ quốc, vì đồng bào thì mình sẽ tiến bộ đến chỗ chí công vô tư. Mình đã chí công vô tư thì khuyết điểm sẽ càng ít, mà những tính tốt như càng thêm”.
Thấy rõ vị trí vai trò của đạo đức cách mạng, suốt đời Hồ Chí Minh kiên trì giáo dục cán bộ, đảng viên phải giữ gìn đạo đức cách mạng. Người cho rằng trong đầu óc mọi người đều có sự đấu tranh giữa cái “thiện” và cái “ác” hoặc nói theo cách mới là sự đấu tranh giữa tư tưởng cộng sản và tư tưởng cá nhân. Người nói: “Người ta ai cũng có tính tốt và tính xấu”, “Trong xã hội cũng có thiện và ác”. Từ quan niệm về thiện và ác, chính và tà, Hồ Chí Minh đề ra yêu cầu tu dưỡng, rèn luyện đạo đức làm cho phần chính, phần thiện trong mỗi người tăng thêm, để phần tà, phần ác của mỗi người bớt dần đi: “Đạo đức cách mạng không phải từ trên trời rơi xuống. Nó do đấu tranh rèn luyện bền bỉ hàng ngày mà phát triển và củng cố. Cũng như ngọc càng mài càng sáng, vàng càng luyện càng trong”. Với quan điểm trên đây, ngay cả người có đạo đức cách mạng cũng không phải là cái bất biến, người có đạo đức cách mạng vẫn có thể trở thành người vô đạo đức nếu bản thân họ không kiên trì học tập, tu dưỡng và rèn luyện suốt đời. Cho nên, có người hôm qua còn là người cách mạng thể hiện rõ tấm gương hy sinh, gương mẫu về đạo đức thì hôm nay họ đã trở thành người có tội với cách mạng, mặc dù tài năng của họ vẫn còn đó, nhưng tài năng đó đã tỏ ra không có tác dụng, bởi lẽ họ quên mất phương pháp tu dưỡng rèn luyện đạo đức cách mạng của Hồ Chí Minh: “Một dân tộc, một đảng và mỗi con người, ngày hôm qua là vĩ đại, có sức hấp dẫn lớn, không nhất định hôm nay và ngày mai vẫn được mọi người yêu mến và ca ngợi, nếu lòng dạ không trong sáng nữa, nếu sa vào chủ nghĩa cá nhân”.
2. Nội dung cốt lõi của đạo đức cách mạng
Theo Hồ Chí Minh, nội dung cốt lõi của đạo đức cách mạng đó là trung với nước, hiếu với dân; yêu thương con người; cần kiệm liêm chính, chí công vô tư; tinh thần quốc tế trong sáng...
Trung với nước, hiếu với dân là nội dung cơ bản, đầu tiên, là phẩm chất mang tính bao trùm của đạo đức cách mạng. Khác với quan niệm đạo đức Nho giáo cũ, Hồ Chí Minh đưa vào nội dung mới cho nền đạo đức mới, “Trung với nước, hiếu với dân” là mối quan hệ với đất nước, với dân tộc, thể hiện trách nhiệm đối với sự nghiệp dựng nước, giữ nước và sự phát triển của đất nước, đó là phẩm chất đạo đức chủ chốt nhất. Trong Di chúc, Người khẳng định: “Nhờ đoàn kết chặt chẽ, một lòng một dạ phục vụ giai cấp, phục vụ nhân dân, phục vụ Tổ quốc, cho nên từ ngày thành lập đến nay, Đảng ta đã đoàn kết, tổ chức và lãnh đạo nhân dân ta hăng hái đấu tranh tiến từ thắng lợi này đến thắng lợi khác”.
Yêu thương con người là một trong những phẩm chất đạo đức cách mạng cao đẹp nhất. Hồ Chí Minh đã dành cả cuộc đời mình cho sự nghiệp giải phóng dân tộc, giải phóng con người, đem lại tự do, hạnh phúc cho những người lao động nghèo khổ. Theo Người, đạo đức cách mạng đi đến đích cuối cùng phải là để cho con người phát triển nhân cách toàn diện. Ham muốn lớn nhất của Người là nước Việt Nam được hoàn toàn độc lập, nhân dân được hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn, áo mặc, ai cũng được học hành.
Trong Di chúc, Người căn dặn đầu tiên là công việc đối với con người. Một trong những điều làm nên dấu ấn, sức sống lớn lao của Di chúc là những tư tưởng nhân văn cách mạng ngời sáng và đầy giá trị nhân bản của Chủ tịch Hồ Chí Minh, vấn đề con người trong tư tưởng Hồ Chí Minh đó là tình thương yêu đối với mọi tầng lớp người trong xã hội. Người căn dặn Đảng, Nhà nước cần quan tâm đến các đối tượng cụ thể: nông dân, thương binh, liệt sĩ, gia đình liệt sĩ, thanh niên, thiếu niên, phụ nữ, các nạn nhân của chế độ cũ ...
Trước lúc đi xa, Người “để lại muôn vàn tình thương yêu cho toàn dân, toàn Đảng, cho toàn thể bộ đội, cho các cháu thanh niên và nhi đồng” và Người “gửi lời chào thân ái đến các đồng chí, các bầu bạn, và các thanh niên nhi đồng quốc tế”, thể hiện tâm nguyện của Người về một thế giới không có chiến tranh, con người được sống trong một thế giới hòa bình, nhân ái, đầy tình yêu thương.
Cần kiệm liêm chính, chí công vô tư là các chuẩn đạo đức của người cách mạng, giải quyết mối quan hệ “với tự mình”. Đó là các đức tính cần có của người cách mạng, tất yếu như tự nhiên có bốn mùa của trời; có bốn phương của đất; người cách mạng cần có cần kiệm liêm chính, cần có chí công vô tư. Người cách mạng phải chí công vô tư, có chỗ Người dùng “dĩ công vi thượng”, “thiết diện vô tư”... không nên “tư thù, tư oán”, “kéo bè kéo cánh”, “địa phương chủ nghĩa”,... Trong Di chúc, Người căn dặn, mỗi đảng viên và cán bộ phải thật sự thấm nhuần đạo đức cách mạng, thật sự cần kiệm liêm chính, chí công vô tư. Đặt lợi ích của tập thể, đất nước lên trên lợi ích cá nhân, “chí công vô tư” là chuẩn mực đạo đức cao nhất mà Hồ Chí Minh yêu cầu ở mỗi đảng viên, đồng thời còn là thước đo, là tiêu chí để đánh giá phẩm chất cách mạng của người cán bộ, đảng viên trong các giai đoạn cách mạng, đặc biệt là trong sự nghiệp đổi mới, hội nhập và phát triển hiện nay.
Hồ Chí Minh không chỉ đề ra cần kiệm liêm chính, chí công vô tư mà Người còn thực hành chúng trên hết, trước hết. Cách mạng tháng Tám thành công, Người từ chối ở trong ngôi nhà sang trọng của Toàn quyền Đông Dương trước kia mà chỉ ở căn nhà của người thợ điện. Khi chuyển sang sống ở ngôi nhà sàn, ngôi nhà của Người chỉ là chiếc giường, một cái bàn, một cái ghế, một giá sách, một tủ quần áo trong có hai bộ kaki, một đôi dép, một máy thu thanh và chiếc đồng hồ để bàn. Khi đến thăm ngôi nhà sàn của Người trong Khu Di tích Hồ Chí Minh ở Phủ Chủ tịch, nhân dân Việt Nam và bạn bè quốc tế chứng kiến cảnh đơn sơ ấy mà xúc động nghẹn ngào, không tin đó là nơi sống và làm việc của một vị nguyên thủ quốc gia. Lúc sống thì thanh bạch và giản dị, lúc sắp đi xa, đối với việc hậu sự của mình, Người yêu cầu: “Sau khi tôi qua đời, chớ nên tổ chức điếu phúng linh đình, để khỏi phải lãng phí thời giờ và tiền bạc của nhân dân”, thi hài thì nên đốt đi để “đối với người sống tốt về mặt vệ sinh, lại không tốn đất”. Dầu sắp không còn trên đời này nữa, Người vẫn luôn quên mình và nghĩ đến nhân dân, đến những điều tích cực cho người sống, vẫn nhắc nhở đến việc trồng cây để “lâu ngày, cây nhiều thành rừng sẽ tốt cho phong cảnh và lợi cho nông nghiệp”. Trên mộ nên xây một cái nhà giản đơn, rộng rãi, chắc chắn, mát mẻ để những người đến thăm có chỗ nghỉ ngơi”.
Đạo đức cách mạng còn thể hiện ở tinh thần quốc tế trong sáng. Từ rất sớm, Hồ Chí Minh đã đặt cách mạng Việt Nam trong quỹ đạo của cách mạng vô sản thế giới, những năm cuối đời, trước những bất hòa giữa các nước xã hội chủ nghĩa Liên Xô và Trung Quốc, Người cảm thấy đau lòng “vì sự bất hòa hiện nay giữa các đảng anh em!”. Hồ Chí Minh đã có nhiều hoạt động tích cực (viết thư khuyên Mao Trạch Đông, điện đàm, trao đổi thư từ với Khơrútxốp) để hòa giải những bất hòa đó trong sự phức tạp của tình hình quốc tế. Với một tinh thần trong sáng, trước khi đi xa, Người hy vọng “Đảng ta sẽ ra sức hoạt động, góp phần đắc lực vào việc khôi phục lại khối đoàn kết giữa các đảng anh em trên nền tảng chủ nghĩa Mác - Lênin và chủ nghĩa quốc tế vô sản, có lý, có tình”. Người mong ước, sau khi chiến tranh kết thúc, có điều kiện, Người sẽ đi thăm và cám ơn các nước xã hội chủ nghĩa và bạn bè khắp năm châu đã ủng hộ và giúp đỡ cuộc kháng chiến của nhân dân Việt Nam và kỳ vọng Đảng, Chính phủ ta sẽ góp phần xứng đáng vào cách mạng thế giới. Đó cũng chính là quan điểm về hội nhập quốc tế, kết hợp sức mạnh dân tộc và sức mạnh thời đại trong một thế giới hòa bình, dân chủ và tiến bộ xã hội theo tinh thần “bốn phương vô sản đều là anh em”, “vàng, đen, trắng, đỏ đều là anh em”,...
            3. Hồ Chí Minh - ngôi sao sáng mãi trên bầu trời Việt Nam
Chủ tịch Hồ Chí Minh là vị lãnh tụ vĩ đại và kính yêu của nhân dân Việt Nam. Sự vĩ đại của Người không chỉ trên bình diện tư tưởng, mà còn thể hiện bởi chính tấm gương đạo đức “vô cùng cao đẹp và phong phú, vô cùng trong sáng và đẹp đẽ” của một con người vĩ đại “suốt đời hết lòng, hết sức phục vụ Tổ quốc, phục vụ cách mạng, phục vụ nhân dân”. Điếu văn của Đảng ta đã khẳng định: “Cả cuộc đời vĩ đại của Hồ Chủ tịch là tấm gương mãi mãi sáng ngời chí khí cách mạng kiên cường, tinh thần độc lập tự chủ, lòng yêu nhân dân thắm thiết, đạo đức chí công vô tư, tác phong khiêm tốn giản dị”.
Hồ Chí Minh luôn nhắc nhở cán bộ là người lãnh đạo, là công bộc, suốt đời phục vụ nhân dân. Trong Di chúc, khi nói về bản thân mình, Người dùng đến hơn 10 lần từ “phục vụ”, không hề dùng một từ nào có ý nói mình là người lãnh đạo, hay đứng cao hơn mọi người. Người chỉ tiếc một điều: “Nay dù phải từ biệt thế giới này, tôi không có điều gì phải hối hận, chỉ tiếc là tiếc rằng không được phục vụ lâu hơn nữa, nhiều hơn nữa”.
Những quan điểm, tư tưởng và tấm gương của Người về đạo đức cách mạng đã trở thành những chuẩn mực đạo đức của con người Việt Nam mới, là vũ khí chống lại sự tha hóa về đạo đức và các hiện tượng phi đạo đức trong xã hội hôm nay. Ở Chủ tịch Hồ Chí Minh, đạo đức đã đạt đến sự thống nhất chặt chẽ giữa nói và làm, giữa lý luận và thực tiễn, suy nghĩ với hành động, giữa việc công cũng như đời tư và Người làm trước tiên để nêu gương cho người khác, từ việc lớn đến việc nhỏ. Người nêu gương, tấm gương ấy có sức lan tỏa kỳ diệu, nó lay động người khác, làm chuyển biến người khác, làm thay đổi tâm tính con người.
Hồ Chí Minh dạy đạo đức chủ yếu bằng nêu gương, dạy chủ yếu bằng hành động, đưa con người vào tình huống để người ta suy ngẫm, thức tỉnh, nó tránh được cái gọi là lý thuyết suông, không có sức thuyết phục. Người căn dặn: chủ nghĩa Mác - Lênin không phải là kinh thánh mà là một phương pháp, là kim chỉ nam hành động, chúng ta học chủ nghĩa Mác - Lênin cốt là nắm lấy tinh thần và phương pháp để ứng xử với con người và công việc. Chủ nghĩa Mác là hệ thống lý luận, ý thức hệ, học thuyết, chủ nghĩa. Người nói, chủ nghĩa Mác - Lênin còn là đạo đức. Đọc hàng trăm, hàng nghìn quyển sách Mác - Lênin mà ăn ở với nhau không có tình, có nghĩa thì làm sao gọi là hiểu chủ nghĩa Mác - Lênin được. Trong lúc xem lại Di chúc, năm 1966, Người căn dặn thêm: phải có tình đồng chí thương yêu lẫn nhau. Cả một năm xem lại Di chúc, cân nhắc từng ý, từng lời, Người chỉ viết thêm câu này và thêm một cụm từ ‘‘phục vụ Tổ quốc” trong phần nói về Đảng.
4. Học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh
Gần 90 năm Đảng ta trải qua biết bao thăng trầm, đứng trước vô vàn thử thách, có lúc đứng trước những bước ngoặt mang tính sống còn nhưng dưới sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng, với tinh thần không ngừng đổi mới và sáng tạo, cách mạng Việt Nam đã giành được những thắng lợi to lớn có ý nghĩa lịch sử.
Đại hội XII của Đảng đã đặt nhiệm vụ xây dựng, chỉnh đốn Đảng lên hàng đầu với mục tiêu toàn diện là “Xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh về chính trị, tư tưởng, tổ chức và đạo đức”, xây dựng Đảng về đạo đức là điểm nhấn và sự bổ sung hết sức cần thiết trong đổi mới tư duy về xây dựng Đảng hiện nay, phù hợp với nhu cầu và nguyện vọng của đông đảo cán bộ, đảng viên và nhân dân. Điều đó cũng trở lại đúng với di sản đạo đức Hồ Chí Minh về giáo dục đạo đức cách mạng, để cán bộ, đảng viên thực sự thấm nhuần đạo đức cách mạng, thực sự cần kiệm liêm chính, chí công vô tư. Xây dựng Đảng về đạo đức gắn liền với việc thực hiện Chỉ thị số 05-CT/TW, ngày 15.5.2016, của Bộ Chính trị “về đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh”, trong đó quan trọng nhất là làm thế nào để việc học tập và làm theo đạo đức Hồ Chí Minh (trên cả hai bình diện tư tưởng và tấm gương đạo đức) trở thành một nhu cầu văn hóa, thành động lực tu dưỡng, rèn luyện của cán bộ, đảng viên. Đây cũng là công việc thường xuyên của các tổ chức đảng, các cấp chính quyền, các tổ chức chính trị-xã hội, địa phương, đơn vị, gắn với phòng, chống suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống và những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ.

Cuộc đời, sự nghiệp, tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh đã trở thành di sản văn hóa của dân tộc Việt Nam, nó thẩm thấu và lan tỏa sâu rộng theo tiến trình phát triển của dân tộc. Việc học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh cần được thực hiện một cách tích cực, chủ động và vận dụng phù hợp, sáng tạo. Sáng tạo lại không phải là bắt chước một cách máy móc, giản đơn hay thần thánh hóa Hồ Chí Minh, mà phải phù hợp với thực tiễn phức tạp, luôn biến chuyển không ngừng. Điều đó yêu cầu Đảng cầm quyền không ngừng đổi mới và phát triển trở thành “Đảng là đạo đức, là văn minh” và cán bộ, đảng viên là những nhân cách đạo đức, có lối sống giản dị, tiết kiệm, phong cách làm việc gần dân, hiểu dân, tôn trọng nhân dân, phát huy dân chủ và luôn quan tâm chăm lo đời sống nhân dân.

 

 

 


 

 

 

 
Các tin khác
NHẬN XÉT BẠN ĐỌC
(Chưa có ý kiến nào được viết)
Đăng nhập
Tên truy cập:
Mật khẩu:
Thành tích khen thưởng
Sách mới Bổ sung
Chọn trang
1. Tuyển tập Cao Bá Quát / Cao Bá Quát,Vũ Bình Lục,Trần Đăng Thao .- 2024 Chi tiết
2. Tuyển tập Nguyễn Huy Tưởng / Nguyễn Huy Tưởng,Nguyễn Quang Thiều,Nguyễn Huy Thắng .- 2024 Chi tiết
3. Tuyển tập Nguyễn Huy Tưởng / Nguyễn Huy Tưởng,Nguyễn Quang Thiều,Nguyễn Huy Thắng .- 2024 Chi tiết
4. Tuyển tập Thạch Lam / Thạch Lam,Nguyễn Quang Thiều,Đào Bá Đoàn .- 2024 Chi tiết
5. Tuyển tập Thạch Lam / Thạch Lam,Nguyễn Quang Thiều,Đào Bá Đoàn .- 2024 Chi tiết
Tài liệu số hoá mới
Chọn trang
1. Kết nối lưu trữ và chia sẻ di sản / Thảo Nguyên .-  Chi tiết
2. Cội nguồn nhà Rông Ba Na / Tạ Đức .-  Chi tiết
3. Bảo tồn giá trị văn hóa đặc sắc ở Tây Nguyên / Khắc Lịch .-  Chi tiết
4. Tây Nguyên, niềm tin và khát vọng / Biểu Lý Hòa .-  Chi tiết
5. “Lực lượng 04” và nỗi kinh hoàng của bọn phản động FULRO / Văn Thành .-  Chi tiết
Tài liệu của Thư viện
1. Sách lẻ: 80416 
2. Bài trích: 17657 
3. Sách tập: 9638 
4. Sách bộ: 2392 
5. Ấn phẩm định kỳ: 1302 
6. Đĩa CD-ROM: 832 
SÁCH HUYỆN
Tặng sách cho Việt Kiều ở Lào & CPC
Cơ quan chủ quản: SỞ VĂN HÓA, THỂ THAO VÀ DU LỊCH GIA LAI
Bản quyền: THƯ VIỆN TỈNH GIA LAI
30 - Phạm Văn Đồng - TP. Pleiku - Tỉnh Gia Lai. Điện thoại: (059).6250708.
 Website: http://www.thuvientinhgialai.vn ; E-mail:  thuvientinh_gli@vnn.vn ; gialaitv@yahoo.com
Chịu trách nhiệm chính: Bà Nguyễn Thị Thủy - Giám đốc Thư viện tỉnh Gia Lai

Giấy phép do Sở TT&TT Gia Lai cấp số: 05/GPTTĐT-STTTT, ngày 13 tháng 6 năm 2014.