THƯ MỤC ĐỊA CHÍ GIA LAI
Mô tả Số lần tải Tải về
TM Địa chí GL T.3 139
TM Địa chí GL T.1 171
TM Địa chí GL T.2 102
Ý kiến - Góp ý
      

Tra cứu từ điển
 
Liên kết website
Giới thiệu sách online
Văn bản pháp quy
Nhạc phố núi
Ảnh Tây Nguyên
Thống kê truy cập
Tổng số truy cập: 2,722,745
Hôm nay: 816
Đang xem: 406
Thư mục toàn văn chuyên đề: "Kỷ niệm 40 năm Ngày Nhà giáo Việt Nam (20/11/1982 - 20/11/2022) (05/12/2022)
LỜI NÓI ĐẦU

Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh từng khẳng định: “Không có giáo dục, không có cán bộ thì cũng không nói gì đến kinh tế văn hóa. Trong việc đào tạo cán bộ, giáo dục là bước đầu”. Từ đó, Người nhắc đến phương châm: “Vì lợi ích mười năm thì phải trồng cây, vì lợi ích trăm năm thì phải trồng người”.

Tôn sư trọng đạo là truyền thống văn hóa của dân tộc Việt Nam. Vai trò của người thầy và ơn sâu nghĩa nặng đối với thầy cô đã được dành riêng một vị trí xứng đáng trong trái tim của người học trò đang học cũng như đã tốt nghiệp ra trường. Mối quan hệ thầy trò đã có từ mấy nghìn năm nay, có thể kể từ thời đại Hùng Vương dựng nước.

Thấm nhuần đạo lý “uống nước nhớ nguồn”, Ngày Nhà giáo Việt Nam 20-11 trở thành ngày hội “tôn vinh người thầy” của toàn dân. Vào ngày này, trên khắp mọi miền từ Bắc đến Nam, các em học sinh, sinh viên lại cùng nhau mang hoa, quà đến chúc mừng các thầy cô giáo, bày tỏ lòng biết ơn đối với những người có công dạy dỗ mình, trong đó có không ít người đã trưởng thành. Thật là cảm động khi được chứng kiến những cuộc sum họp và quan hệ thầy trò trong tình cảm thân thương.

                Nhân kỷ niệm 40 năm Ngày Nhà giáo Việt Nam (20/11/1982 - 20/11/2022), Thư viện tỉnh Gia Lai biên soạn và phát hành Thư mục toàn văn chuyên đề: “Kỷ niệm 40 năm Ngày Nhà giáo Việt Nam (20/11/1982 - 20/11/2022)”.

                Nội dung gồm có 3 phần chính:

                Phần I. Một số bài nói chuyện, thư của Bác Hồ với nhà giáo và các bài viết về Chủ tịch Hồ Chí Minh với sự nghiệp giáo dục

                Phần II. Nghề dạy học

                Phần III. Những thầy giáo nổi tiếng trong lịch sử từ xưa đến nay

Các bài viết đưa vào tập Thư mục toàn văn chuyên đề: “Kỷ niệm 40 năm Ngày Nhà giáo Việt Nam (20/11/1982 - 20/11/2022)” được chúng tôi chọn lọc từ các sách lưu trữ trong Thư viện tỉnh Gia Lai. Trên mỗi bài trích, chúng tôi đều có mô tả thư mục về hình thức của tài liệu.

Bạn đọc muốn tìm hiểu thêm từ tài liệu gốc, xin vui lòng liên hệ với Thư viện chúng tôi để được phục vụ. Bạn đọc cũng có thể truy cập  vào trang Website: “thuvientinhgialai.vn” để đọc tài liệu về “Kỷ niệm 40 năm Ngày Nhà giáo Việt Nam (20/11/1982 - 20/11/2022), trong mục “Thư mục chuyên đề” .

Trong quá trình biên soạn, chúng tôi đã hết sức cố gắng, nhưng chắc chắn không tránh được sai sót xảy ra. Thư viện tỉnh Gia Lai mong nhận được ý kiến của bạn đọc cho “Thư mục toàn văn chuyên đề” ngày càng có chất lượng, phục vụ tốt nhu cầu đọc của bạn đọc.                                                                                                                                                                         

                                  THƯ VIỆN TỈNH GIA LAI 

 

 PHẦN I

MỘT SỐ BÀI NÓI CHUYỆN, THƯ CỦA BÁC HỒ VỚI NHÀ GIÁO VÀ CÁC BÀI VIẾT VỀ CHỦ TỊCH HỒ CHÍ MINH VỚI SỰ NGHIỆP GIÁO DỤC

 

Bài nói tại Hội nghị tổng kết phong trào thi đua “Dạy tốt, học tốt” của ngành giáo dục phổ thông và sư phạm / Tăng Bình, Ái Phương sưu tầm // Sách Chủ tịch Hồ Chí Minh với sự nghiệp giáo dục Việt Nam. - H.: Hồng Đức, 2021. - Tr.8-9

                Hiện nay ở miền Bắc, chúng ta đang xây dựng chủ nghĩa xã hội. Chúng ta đang phát triển thắng lợi kinh tế và văn hóa, nâng cao dần đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân. Chúng ta đã thu được nhiều thành tích to lớn về kinh tế.

                Về ngành văn hóa giáo dục, chúng ta đã xóa xong nạn mù chữ. Ngành giáo dục đã phát triển nhanh về số lượng. Chưa kể các ngành đại học, chuyên nghiệp, bổ túc văn hóa..., số học sinh phổ thông hiện nay đã hơn 3 triệu và gần 1 triệu các cháu học vỡ lòng. Con số đó nhiều gấp 10 lần so với tổng số học sinh cả nước dưới thời thuộc Pháp.

                Về chất lượng thì hoàn toàn khác trước. Rất nhiều cháu chăm học và học giỏi. Nhiều cháu vừa học giỏi vừa sản xuất giỏi. Phong trào thi đua làm “nghìn việc tốt” phát triển mạnh. Nhiều cháu mới 11,12 tuổi mà đã dũng cảm cứu bạn khỏi chết đuối. Nhiều cháu đã nêu gương thật thà, nhặt được của rơi đều đem trả lại. Có cháu đã cõng bạn bị tàn tật đi học suốt mấy năm liền. Cháu Nguyễn Ngọc Ký tàn tật cả hai tay, dùng chân để viết mà đã cố gắng phấn đấu trở thành một học sinh giỏi. Nhiều cháu học sinh lớp 7 và lớp 10 hăng hái xung phong lên miền núi tham gia phát triển kinh tế.

                Những kết quả đó là do có Đảng lãnh đạo, được đồng bào nhiệt tình ủng hộ và do tinh thần cố gắng rất nhiều của các chiến sĩ ngành giáo dục mà tiêu biểu là Trường Bắc Lý.

                Nhân dịp này Bác đề nghị cùng các đại biểu ở Hội nghị gửi lời khen ngợi các cô giáo, thầy giáo trẻ tuổi đã không ngại khó khăn gian khổ xung phong lên miền núi giúp đồng bào các dân tộc nâng cao trình độ văn hóa mà đại biểu là Anh hùng Lao động Nguyễn Văn Bôn hiện có mặt ở đây.

                Sau đây Bác nêu mấy ý kiến về giáo dục:

                - Cần phát triển kiểu dạy, kiểu học của Trường Bắc Lý và các trường thanh niên lao động xã hội chủ nghĩa, cần nêu cao tinh thần tự lực cánh sinh, cần kiệm xây dựng nhà trường, thực hiện tốt phương châm nhà trường gắn chặt với xã hội, học đi đôi với hành.

                - Nội dung giáo dục cần chú trọng hơn nữa về mặt đức dục. Dạy cho các cháu đạo đức cách mạng, biết yêu Tổ quốc, yêu chủ nghĩa xã hội, yêu khoa học, yêu lao động và người lao động, thật thà, dũng cảm, sẵn sàng tham gia lao động và bảo vệ Tổ quốc. Trong khi giảng dạy và học tập, thầy giáo và học trò cần phải luôn luôn nhớ đến cuộc đấu tranh gian khổ và anh dũng của đồng bào ta ở miền Nam.

                - Về học tập và giảng dạy, phải thực hiện tốt phương châm giáo dục kết hợp với lao động sản xuất, về lao động, cần chú ý tổ chức cho thích hợp với lứa tuổi và sức khỏe của học sinh, về giảng dạy, tránh lối dạy nhồi sọ. Chương trình dạy học hiện nay còn có chỗ quá nhiều, quá nặng, về học tập tránh lối học như vẹt. Ngoài ra cần chú ý tránh nói tiếng nước ngoài quá nhiều. Bác thấy nhiều cháu nói chữ như ông già. Như thế là không tốt. Ví dụ có cháu nói mà Bác không hiểu: "Phụ đạo đến giúp cháu tu bổ giáo cụ trực quan". Hoặc dùng những danh từ: kiện tướng, nỗ lực, niên khóa, tam cá nguyệt. Những tiếng ta có thì không nên dùng tiếng nước ngoài.

                - Việc hội họp còn quá nhiều, hại đến sức khỏe và thì giờ của thầy giáo và học trò.

                - Bài dạy phải chuẩn bị cho tốt và cần chọn lọc những bài thích hợp với tuổi của học sinh.

                - Phải cần kiệm xây dựng nhà trường. 8 vạn thầy giáo và hơn 3 triệu học sinh của ta là một lực lượng lớn, nếu khéo tổ chức lao động sản xuất cho thích hợp ở nhà trường, ở hợp tác xã và gia đình, thì có thể làm ra nhiều của cải cho xã hội.

                Hiện nay đang có phong trào học sinh lớp 7 và lớp 10 xung phong lên miền núi công tác, góp phần xây dựng miền núi giàu mạnh. Đó là điều rất tốt. Các địa phương cần giúp đỡ khuyến khích những học sinh đó vừa lao động tốt vừa tiếp tục học tập tốt. Trước đây các cháu đã học kết hợp với hành. Bây giờ cần tổ chức cho các cháu hành kết hợp với học.

                Nhiệm vụ của các cô giáo, thầy giáo rất nặng nề nhưng rất vẻ vang. Muốn làm tròn nhiệm vụ đó thì phải luôn luôn gương mẫu về mọi mặt, không ngừng bồi dưỡng đạo đức cách mạng, lập trường chính trị; phải ra sức đoàn kết giúp đỡ nhau cùng tiến bộ.

                Trường học phải liên hệ chặt chẽ với gia đình, với xã hội. Các đoàn thể thanh niên, phụ nữ, các cơ quan chính quyền và các cấp ủy đảng phải thật sự quan tâm đến nhà trường, đến việc học tập của con em mình hơn nữa.

                Ngành giáo dục phải thiết thực tham gia cuộc vận động "Ba xây, ba chống" và cuộc vận động "Cải tiến quản lý hợp tác xã, cải tiến kỹ thuật nhằm phát triển nông nghiệp toàn diện, mạnh mẽ và vững chắc".

                                                                                                                                                               Nói tháng 8-1963

Nói chuyện tại hội Hghị toàn quốc lần thứ nhất về công tác huấn luyện và học tập / Tăng Bình, Ái Phương sưu tầm // Sách Chủ tịch Hồ Chí Minh với sự nghiệp giáo dục Việt Nam. - H.: Hồng Đức, 2021. - Tr. 30-35

                I. PHẢI THIẾT THỰC, CHU ĐÁO TRONG CÔNG VIỆC HUẤN LUYỆN

                Việc huấn luyện học tập không phải là một việc đơn giản, muốn làm được thì phải hiểu cho rõ. Bây giờ, Bác lần lượt trả lời mấy câu hỏi về việc đó.

                1. Từ trước đến nay Đoàn thể đã huấn luyện được mấy người?

                Chưa biết được con số đích xác, nhưng cũng có thể tính sơ qua được: trong báo cáo của Thanh niên Khu V có nói đã mở được 2.713 lóp huấn luyện. Con số này có vẻ “khoa học” quá, nên chúng ta chưa thể tin hoàn toàn được. Vậy cứ “bỏ xâu” đi 713 và lấy 2.000 lớp thôi. Các đoàn thể khác trong Khu V (công nhân, nông dân, phụ nữ, v.v.) cộng lại cũng có thể mở được 3.000 lớp nữa. Như thế là riêng Khu V là một khu dân ít người thưa, cũng đã mở được 5.000 lớp huấn luyện. Cho mỗi lớp có 10 người học thì số người đã được huấn luyện trong cả khu là 50.000 người. Nam Bộ, Khu IV, Khu III và khu Việt Bắc, tuy dân đông hơn và việc huấn luyện có nơi làm được nhiều hơn, nhưng cứ tính đổ đồng cho mỗi khu 50.000 thì toàn quốc cũng đã có đến 25 vạn người được huấn luyện, nghĩa là 25 vạn cán bộ. Thế mà cứ kêu là thiếu cán bộ. Vì sao? Vì việc huấn luyện còn hữu danh vô thực, làm chỉ cốt nhiều mà không thiết thực chu đáo.

                2. Huấn luyện ai?

                Ta phải:

                - Huấn luyện cán bộ.

                - Huấn luyện hội viên của Đoàn thể.

                - Huấn luyện cán bộ các ngành chuyên môn của chính quyền.

                - Huấn luyện nhân dân.

                Nói đến cán bộ trước hết, vì “cán bộ là tiền vốn của Đoàn thể”.

                Có vốn mới làm ra lãi. Bất cứ chính sách, công tác gì nếu có cán bộ tốt thì thành công, tức là có lãi. Không có cán bộ tốt thì hỏng việc, tức là lỗ vốn.

                3. Ai huấn luyện?

                Không phải ai cũng huấn luyện được.

                - Muốn huấn luyện thợ rèn, thợ nguội thì người huấn luyện phải thạo nghề rèn, nghề nguội. Người huấn luyện của Đoàn thể phải làm kiểu mẫu về mọi mặt: tư tưởng, đạo đức, lối làm việc. 

                - Người huấn luyện phải học thêm mãi thì mới làm được công việc huấn luyện của mình. Lênin khuyên chúng ta: “Học, học nữa, học mãi”. Mỗi người đều phải ghi nhớ và thực hành điều đó, những người huấn luyện lại càng phải ghi nhớ hơn ai hết. Người huấn luyện nào tự cho là mình đã biết đủ cả rồi, thì người đó dốt nhất. Khẩu hiệu “Học không biết chán, dạy không biết mỏi” treo trong phòng họp chính là của Khổng Tử. Tuy Khổng Tử là phong kiến và tuy trong học thuyết của Khổng Tử có nhiều điều không đúng song những điều hay trong đó thì chúng ta nên học.

                “Chỉ có những người cách mạng chân chính mới thu hái được những điều hiểu biết quý báu của các đời trước để lại”. Lênin dạy chúng ta như vậy.

                4. Huấn luyện gì?

                a) Lý luận: Phải dạy lý luận Mác - Lênin cho mọi người. Người biết lý luận mà không thực hành thì cũng vô ích.

                Học lý luận không phải để nói mép, nhưng biết lý luận mà không thực hành là lý luận suông. Học là để áp dụng vào việc làm. Làm mà không có lý luận thì không khác gì đi mò trong đêm tối, vừa chậm chạp vừa hay vấp váp. Có lý luận thì mới hiểu được mọi việc trong xã hội, trong phong trào để chủ trương cho đúng, làm cho đúng.

                b) Công tác: Ngoài lý luận phải dạy công tác. Ví dụ: về các việc tổng động viên, thi đua ái quốc, thu thuế bằng thóc, v.v. phải giải thích thế nào cho dân hiểu, phải động viên thế nào, sắp đặt công việc thế nào. Việc thắng lợi ngoại giao vừa rồi, phải xem xét ảnh hưởng đối với ta thế nào, đối với địch thế nào, đối với trong nước thế nào, đối với quốc tế thế nào, làm thế nào để lợi dụng được hết ảnh hưởng của thắng lợi đó. Những việc như thế đều phải dạy cho cán bộ và đồng chí biết.

                c) Văn hóa: Phải chú ý dạy văn hóa cho những đồng chí kém văn hóa để giúp cho họ tiến bộ về lý luận, công tác.

                d) Chuyên môn: Mỗi người phải biết một nghề để sinh hoạt. Riêng về cán bộ, ai lãnh đạo trong ngành hoạt động nào thì phải biết chuyên môn về ngành ấy. Ví dụ: những đồng chí lãnh đạo hỏa xa phải biết chuyên môn về hỏa xa, có thế lãnh đạo mới sát.

                5. Huấn luyện thế nào?

                a) Cốt thiết thực chu đáo hơn tham nhiều

                Việc cốt yếu là phải làm cho người học hiểu thấu vấn đề. Nhưng hiểu thấu cũng có nhiều cách: có cách hiểu thấu thật tỉ mỉ, nhưng dạy theo cách đó thì phải tốn nhiều thì giờ. Trái lại cũng có cách dạy bao quát mà vẫn làm cho người học hiểu thấu được. Ví dụ: muốn dạy cho người ta biết con voi là thế nào thì có thể nói tỉ mỉ bộ xương của nó ra sao, nó có mấy cái răng, nó sống thế nào, sống được mấy năm, v.v.. Nhưng nếu chưa thể dạy kỹ như thế được thì cũng có thể nói cho người ta biết bao quát hình thù của con voi như: mình nó to bằng ba bốn con trâu, nó có chân lớn như cột nhà, hai tai to như hai cái quạt, một cái vòi và hai cái ngà ở đầu, v.v.. Như thế, người học không thể lầm con voi với con tôm, con mèo hay con bò được. Hơn nữa, khi nói đến chuyện săn voi hay bắt voi, người ta cũng không nghĩ lầm được rằng có thể dùng lưỡi câu mà móc hay dùng roi, dùng gậy mà đánh. Như thế là người học dùng được sự hiểu biết của mình vào việc làm một phần nào. Trái lại, nếu thì giờ ít, trình độ còn kém, mà cứ cặm cụi lo nghiên cứu tỉ mỉ cái ngà voi không chẳng hạn, thì khi trở về lại tưởng lầm con voi là cái ngà, không ích lợi gì cả.

                b) Huấn luyện từ dưới lên trên

                Các ban huấn luyện không nên ôm đồm. Phải lấy người ở cấp dưới lên huấn luyện rồi trở lại cấp dưới để họ huấn luvện cho cấp dưới nữa. Trung ương huấn luyện cán bộ cho các khu, các tỉnh, cán bộ ở khu và tỉnh phải huấn luyện cho cán bộ huyện, xã. Như thế đỡ tốn công, đỡ tốn thì giờ, và cán bộ huấn luyện cho cấp dưới gần mình lại sát hơn. Nhưng muốn huấn luyện theo lối này thì phải huấn luyện cho chu đáo. Đừng bôi bác, nếu ở trên bôi bác thì càng xuống dưới càng sai lệch.

                c) Phải gắn liền lý luận với công tác thực tế

                Trung ương có những chỉ thị về chủ trương chính sách, Ban huấn luyện phải có những tài liệu dựa theo tình hình cụ thể, kinh nghiệm công tác để giải thích những chủ trương chính sách đó. Như thế thì lý luận mới khỏi bị tách rời thực tế.

                d) Huấn luyện phải nhằm đúng nhu cầu

                Ban huấn luyện phải liên lạc mật thiết với các cơ quan tuyên truyền, dân vận, chính quyền. Huấn luyện cán bộ là cốt để cung cấp cán bộ cho các ngành công tác: Đoàn thể, Mặt trận, Chính quyền, Quân đội. Các ngành công tác như là người tiêu thụ hàng. Ban huấn luyện như là người làm ra hàng. Làm ra hàng phải đúng với nhu cầu của người tiêu thụ. Nếu người ta cần nhiều xe mà mình làm ra nhiều bình tích thì hàng ế.

                đ) Huấn luyện phải chú trọng việc cải tạo tư tưởng

                Huấn luyện thì phải hiểu rõ người học để nâng cao khả năng và tẩy rửa khuyết điểm cho họ. Phải huấn và luyện. Huấn là dạy dỗ, luyện là rèn giũa cho sạch những vết xấu xa trong đầu óc. Ví dụ: Hiện nay, cán bộ ta có một khuyết điểm lớn là tự kiêu, tự mãn. Phải đập cho tan khuyết điểm ấy đi. Nếu còn tự kiêu, tự mãn thì học biết nhiều chỉ thêm hại. Do tự kiêu, tự mãn mà cán bộ có một khuyết điểm lớn nữa là óc địa vị. Ví dụ: đang làm việc ở khu, mà Đoàn thể điều động về công tác ở tỉnh thì phàn nàn, chán nản cho rằng làm như thế là không xứng đáng tài mình, đáng lẽ là mình ở cấp trên kia! Phải gột sạch đầu óc địa vị đi. Việc gì có lợi cho cách mạng, có lợi cho Đoàn thể là làm hết, không có việc gì sang, việc gì hèn cả.

                6. Tài liệu huấn luyện:

                a) Trước hết phải lấy những tài liệu về chủ nghĩa Mác - Lênin làm gốc. Nhưng tài liệu phải lựa chọn, xếp đặt lại, vì trình độ người học không đều nhau, cần có tài liệu thích hợp với từng hạng. Tài liệu không thích hợp thì học không có ích lợi gì. Có một lần đi dự hội nghị về, Bác gặp một đoàn thanh niên và phụ nữ thôn quê ngồi nghỉ ở một đầu dốc. Bác hỏi họ đi đâu, thì họ bảo là đi dự lớp huấn luyện về, tuy đang giữa ngày mùa nhưng họ cũng cố thu xếp để đi học, mỗi người mang theo mười ngày gạo. Bác hỏi: “Học có vui không?”.

                - Vui lắm.

                - Thế học những gì?

                - Các Mác

                - Học thế rồi có biết gì không?

                Họ ấp úng: “Không ạ”.

                Thế là phí công, phí của, vô ích.

                b) Ngoài những tài liệu về chủ nghĩa Mác - Lênin, còn có những tài liệu thiết thực. Đó là những kinh nghiệm do những người đi học mang đến, kinh nghiệm thành công cũng như kinh nghiệm thất bại. Những kinh nghiệm đó đem trao đổi, gom góp lại tức là những bài học quý, không phải cứ chờ đồng chí cấp trên đến nói chuyện thì mới là bài, là học. Việc trao đổi gom góp kinh nghiệm này phải có tổ chức hẳn hoi chứ không phải mạnh ai nấy nói.

                c) Những chỉ thị, nghị quyết, luật, lệnh của Đoàn thể và Chính phủ đều là những tài liệu cần phải học tập nghiên cứu.

                II- PHẢI NÂNG CAO VÀ HƯỚNG DẪN VIỆC TỰ HỌC

                Học tập ở trường của Đoàn thể không phải như học ở các trường lối cũ, không phải có thầy thì học, thầy không đến thì đùa. Phải biết tự động học tập. Vì vậy:

                1. Học để làm gì?

                a) Học để sửa chữa tư tưởng: Hăng hái theo cách mạng điều đó rất hay. Nhưng tư tưởng chưa thật đúng là tư tưởng cách mạng, vì thế cần phải học tập để sửa chữa cho đúng. Tư tưởng đúng thì hành động mới khỏi sai lạc và mới làm trọn nhiệm vụ cách mạng được.

                b) Học để tu dưỡng đạo đức cách mạng: Có đạo đức cách mạng thì mới hy sinh tận tụy với cách mạng, mới lãnh đạo được quần chúng đưa cách mạng tới thắng lợi hoàn toàn.

                c) Học để tin tưởng:

                Tin tưởng vào Đoàn thể.

                Tin tưởng vào nhân dân.

                Tin tưởng vào tương lai của dân tộc.

                Tin tưởng vào tương lai cách mạng.

                Có tin tưởng thì lúc ra thực hành mới vững chắc, hăng hái, lúc gặp khó khăn mới kiên quyết, hy sinh.

                d) Học để hành: Học với hành phải đi đôi. Học mà không hành thì học vô ích.

                Hành mà không học thì hành không trôi chảy.

                2. Học ở đâu?

                Học ở trường, học ở sách vở, học lẫn nhau và học nhân dân, không học nhân dân là một thiếu sót rất lớn. Sau đây là câu chuyện học nhân dân rất hay của một nữ đồng chí Thái quê ở Sơn La: Hồi đồng chí ấy mới 15, 16 tuổi thì các cán bộ cách mạng bảo cho làm công tác tuyên truyền, nhưng bảo sao thì nói vậy, chưa hiểu biết mấy. Một năm sau, giặc chiếm Sơn La. Dân chúng và cán bộ Sơn La chạy bạt sang Hòa Bình, bị đồng bào ở đó khinh miệt là sợ giặc nên quyết tâm trở về giành lại làng mạc. Trên đường về phải trải qua rất nhiều bước khó khăn, vất vả, nhưng cán bộ vẫn một niềm thương yêu, đùm bọc nhau. Có lần, một chị cán bộ ốm nặng, anh em trong đội hết sức săn sóc và giặt hộ cả quần áo. Cán bộ lại ra sức giúp nhân dân làm mọi việc, nhân dân thấy thế rất cảm phục. Nhờ đó mà nhân dân với cán bộ khăng khít với nhau, cơ sở gây lại được, cán bộ sống hòa lẫn với dân, dần dần tổ chức lại việc sản xuất và chiến đấu. Một hôm bốn dõng đến làng, phụ nữ trong làng ăn mặc chải chuốt ra chuốc rượu. Dõng mắc mưu, uống phải rượu có thuốc mê, ngã quay ra cả. Phụ nữ gọi du kích vào tước súng. Dõng tỉnh dậy, mất súng, bỏ trốn, cán bộ đoán biết thế nào giặc cũng kéo trả thù, nên bàn với dân cất giấu thóc lúa, của cải vào rừng, tuy thế cũng chưa dám chủ trương tiêu thổ. Chính phụ lão trong làng lại là những người đầu tiên đưa ra ý kiến phải đốt nhà để giặc có đến cũng không có chỗ ở, ý kiến đó được dân làng nghe theo. Khi giặc kéo đến làng, nhân dân dùng súng giặc bắn lại giặc, giặc bỏ chạy.

                Từ đó, nhân dân tin cán bộ và tự tin sức mình, nên phong trào mỗi ngày một lên cao.

                Nữ đồng chí Thái năm nay mới hai mươi tuổi và cũng chưa được học hành gì mấy, nhưng đã kể lại câu chuyện trên đây một cách rành mạch và kết luận một cách rất mácxít trong ba điểm:

                “Một là chúng cháu rất đoàn kết.

                Hai là chúng cháu được dân yêu.

                Ba là chúng cháu học được kinh nghiệm của dân".

                Ba điểm đó tức là:

                - Cán bộ đoàn kết, mọi việc đều làm được.

                - Cán bộ phải được dân yêu, dân tin, dân phục.

                - Cán bộ phải đi sát dân, học dân.

                III- MỘT KHUYẾT ĐIẾM CẦN SỬA CHỮA NGAY TRONG VIỆC HUẤN LUYỆN

                Khuyết điểm chung là tham làm nhiều mà làm không chu đáo, không biết “quý hồ tinh, bất quý hồ đa”. Rõ ràng nhất là trong việc mở lớp huấn luyện.

                1. Lớp quá đông. Đông quá thì dạy và học ít kết quả vì trình độ lý luận của người học chênh lệch, nên thu nhận không đều. Trình độ công tác thực tế của người học cũng khác nhau, nên chương trình không sát.

                2. Mở lớp lung tung. Hiện đang có một cái dịch mở trường. Ví dụ: đã có trường Đoàn thể rồi lại có trường Dân vận, rồi trường Nông vận, Phụ vận, Thanh vận. Công vận. Trường nào của Đoàn thể lại không dạy dân vận mà còn phải mở riêng?

                Vì mở nhiều lóp nên thiếu người giảng. Thiếu người giảng thì học viên đâm chán nản. Thiếu người giảng thì phải đi “bắt phu”, vì thế người đến giảng khi nào cũng hấp tấp, lướt qua lớp này một chút, lớp khác một chút như chuồn chuồn đạp nước, dạy không được chu đáo. Thiếu người giảng thì thường khi lại phải “bịt lỗ”, người “bịt lỗ” năng lực kém, nói sai, có hại cho học sinh, nghĩa là có hại cho Đoàn thể.

                Rốt cuộc chỉ tốn gạo mà học thì học táp nhoang.

                Vậy phải làm thế nào? Phải hợp lý hóa, nghĩa là:

                - Mở lớp nào cho ra lớp ấy.

                - Lựa chọn người dạy và người đến học cho cẩn thận.

                - Đừng mở lớp lung tung.

                Nhưng không phải chỉ nói riêng việc mở lớp. Báo chí cũng phải hợp lý hóa. Đừng bày biện ra nhiều thứ. Làm ít nhưng làm cho hẳn hoi. Không hợp lý hóa lại như thế thì rốt cuộc báo viết ra không ai muốn đọc mà tốn kém một trăm thứ. Đoàn thể cứ co cổ lại chịu tiền để mấy chú làm báo ngồi vẽ voi, vẽ ngựa mà không ai đọc.

                Tóm tắt Bác nói chừng đó các chú nghiên cứu lại.

Nói chuyện tại Hội nghị cán bộ Đảng ngành giáo dục / Tăng Bình, Ái Phương sưu tầm // Sách Chủ tịch Hồ Chí Minh với sự nghiệp giáo dục Việt Nam. - H.: Hồng Đức, 2021. - Tr. 92-94

                Nhiệm vụ của cán bộ Đảng trong ngành giáo dục phải như thế nào? Trước hết phải đoàn kết với cán bộ ngoài Đảng. Phải biết rằng đảng viên là thiểu số so với tổng số nhân dân, nếu không có người ngoài Đảng ủng hộ, giúp đỡ thì Đảng không làm gì được. Vì vậy, cán bộ Đảng nói chung và cán bộ Đảng trong ngành giáo dục nói riêng phải đoàn kết với cán bộ ngoài Đảng. Phải mật thiết liên hệ với gia đình học trò. Bởi vì giáo dục trong nhà trường, chỉ là một phần, còn cần có sự giáo dục ngoài xã hội và trong gia đình để giúp cho việc giáo dục trong nhà trường được tốt hơn. Giáo dục trong nhà trường dù tốt mấy nhưng thiếu giáo dục trong gia đình và ngoài xã hội thì kết quả cũng không hoàn toàn.

                Giáo dục bây giờ không phải như giáo dục thời trước. Trước kia thì "vạn ban giai hạ phẩm, duy hữu độc thư cao", nghĩa là tất cả mọi tầng lớp ở dưới thấp cả, chỉ có người đọc sách, người trí thức, mới là cao hơn hết. Đó là giáo dục của phong kiến. Vì sao?

                "Nhất tử thu quân ngâu, toàn gia tề thiên lộc". Nghĩa là một người con mà làm nên, được vua dùng thì cả nhà được ăn lộc trời. Vì người đi học thi đỗ thì một người làm quan, cả họ được nhờ.

                Nhưng trong nhân dân cũng có phản ứng lại: "Nhất sĩ nhì nông, tiền hết gạo không, thì nhất nông nhì sĩ". Đến bây giờ tư tưởng cho lao động trí óc hơn lao động chân tay, cũng đang còn nhiều. Cái đó không đúng. Lao động trí óc có quý không? - Quý. Lao động chân tay có quý không? - Cũng quý. Người lao động trí óc, mà không liên hệ với lao động chân tay thì chỉ mới là trí thức một nửa. Còn người lao động chân tay mà văn hóa kém, không biết lao động trí óc thì cũng là người không hoàn toàn, cũng chỉ được một nửa. Vì vậy, chẳng những người lao động trí óc và người lao động chân tay phải đoàn kết với nhau, mà mỗi người lao động trí óc muốn là người hoàn toàn phải có lao động chân tay và người lao động chân tay muốn là người lao động hoàn toàn phải vừa biết lao động trí óc, vừa phải biết lao động chân tay. Người trí thức phải biết làm lao động chân tay. Người công nhân, nông dân phải có trình độ văn hóa.

                Các cô, các chú đều hiểu biết về chủ nghĩa xã hội, đều tán thành tiến lên chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản cả? (Tất cả đều trả lời: Tán thành). Tốt lắm. Tiến lên chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản thì sự phân biệt giữa thành thị và nông thôn bị xóa bỏ, sự phân biệt giữa lao động chân tay và lao động trí óc cũng bị xóa bỏ, ở Liên Xô ngày nay bắt đầu như thế. Trong một xưởng máy tự động chỉ có mấy người công nhân, như xưởng máy làm píttông, từ một quặng sắt nấu ra, đổ vào khuôn, bôi dầu, cho đến lúc thử lại có đúng kích thước không rồi bỏ vào thùng dán lại gửi đi đều làm bằng máy, người công nhân điều khiển nhà máy đó phải có trình độ không kém kỹ sư, vì phải tính toán nhiều. Một thí dụ nữa. Bây giờ ở gần khắp Liên Xô đều thi hành giáo dục phổ thông nghĩa vụ 10 năm. Bên ta gọi là thi đỗ tú tài. Bên ta đỗ tú tài thì muốn ra làm cán bộ cấp này, cấp kia. Nhưng ở Liên Xô các cô tú, cậu tú vào nhà máy, vào nông trường. Công nhân, nông dân đều là cô tú, cậu tú. Lao động chân tay và trí óc hợp lại trong một người.

                Ta muốn tiến lên như thế. Nhưng phải đi dần dần. Cách mạng thành công ở Liên Xô đã trải qua 40 năm. Muốn như thế, trong việc giáo dục phải có môn giáo dục về lao động. Trong thời kỳ kháng chiến, ta có đề ra cho học sinh tham gia lao động sản xuất, có một thời kỳ ta có nhiều tiến bộ. Nhưng ta chưa kết hợp được chặt chẽ giáo dục văn hóa với lao động sản xuất. Mấy năm gần đây, việc giáo dục tinh thần lao động, kỷ luật lao động và giáo dục lao động có sút kém. Bây giờ phải sửa.

                Còn một điều nữa khá phổ biến trong cán bộ giáo dục cũng như cán bộ các ngành khác, là băn khoăn về tiền đồ của mình. Tiền đồ là cái gi? (Có tiếng trả lời: Tiền đồ của cháu là ăn no, mặc ấm). Thế là quên một điều: tiền đồ của mọi người phải nằm trong tiền đồ chung của toàn dân.

                Nói một thí dụ: Trước Cách mạng Tháng Tám, hay gần đây, trước ngày kháng chiến thắng lợi, ở trong vùng địch tạm chiếm, có người được ăn no mặc ấm, nhưng thân phận thế nào?

                - Nô lệ. Dù cá nhân có ăn no mặc ấm cũng là thân nô lệ vì dân tộc còn bị nô lệ. Bây giờ đuổi thực dân rồi, đánh bẹp phong kiến rồi, có người dù ăn chưa được no, mặc chưa được ấm, nhưng thân phận mình thế nào?

                - Là chủ đất nước, là tự do. Mọi người góp phần vào xây dựng đất nước giàu mạnh. Đó là xây dựng tiền đồ. Tiền đồ của mọi người không tách ra ngoài tiền đồ chung của dân tộc được. Ai cũng muốn ăn no mặc ấm. Nhưng chỉ muốn một mình ăn no mặc ấm, có đúng không?

                - Không đúng. Muốn ăn no mặc ấm, mọi người phải ra sức tăng gia sản xuất, thực hành tiết kiệm, đẩy mạnh kinh tế nước nhà tiến lên. Đảng ta đấu tranh để làm gì?

                - Là muốn cho tất cả mọi người được ăn no mặc ấm, được tự do. Mỗi một đảng viên đấu tranh để làm gì?

                - Cũng để mọi người được ăn no mặc ấm, được tự do. Chủ nghĩa xã hội là cái gì? Là mọi người được ăn no mặc ấm, sung sướng, tự do. Nhưng nếu muốn tách riêng một mình mà ngồi ăn no mặc ấm, người khác mặc kệ, thế là không tốt. Mình muốn ăn no mặc ấm, cũng cần làm sao cho tất cả mọi người được ăn no mặc ấm, như thế mới đúng. Muốn như vậy, phải ra sức công tác, ra sức lao động sản xuất.

                Tiền đồ của mỗi người nằm trong tiền đồ chung của dân tộc. Nhưng có người muốn tiền đồ của mình tiến mau hơn tiền đồ của dân tộc. Trong khi kinh tế tài chính của ta có khó khăn lại muốn một mình ăn no mặc ấm. Ví dụ, ngoài đường kia có tàu điện chạy qua. Trong tàu điện có gái, trai, già, trẻ. Tàu điện đi đến đâu thì mọi người đi đến đó. Nhưng có người nói tàu điện chạy chậm quá muốn riêng mình đi cho mau, muốn nhảy ra khỏi tàu điện để chạy lên trước. Kết quả sẽ thế nào? Có thể là què chân, gãy tay. Vì vậy, không thể tách rời tiền đồ của cá nhân mình với tiền đồ của toàn dân, toàn Đảng.

                Các cô, các chú nhớ tiêu chuẩn của đảng viên không? (Có). Có mấy điều? (Thưa, có sáu điều). Một trong sáu điều là gì? Là phải đặt lợi ích của Đảng lên trên hết. Mà lợi ích của Đảng không có gì riêng tức là lợi ích của giai cấp, của dân tộc.

                Có khi nào lợi ích của Đảng và lợi ích riêng của đảng viên có mâu thuẫn không? - Có. Có khi đảng viên có gia đình, cần ở gần gia đình, nhưng Đảng có việc cần, phải đi xa, thế là lợi ích của cá nhân và lợi ích chung có mâu thuẫn. Lúc đó lợi ích cá nhân phải phục tùng vô điều kiện lợi ích chung của Đảng. Những đồng chí chúng ta khi trước hoạt động cách mạng bị tù đày, bị hy sinh, những chiến sĩ anh dũng lấy thân mình lấp lỗ châu mai, hy sinh trong kháng chiến, đã làm đúng những điều đó.

                Bây giờ đây, hoàn cảnh đấu tranh không đòi hỏi lấy thân mình lấp lỗ châu mai nữa, nhưng người cán bộ, đảng viên vẫn luôn luôn phải cố gắng rèn luyện cho đúng với tiêu chuẩn của đảng viên.

                Có khi các cô, các chú lo nghĩ cho cá nhân, cái đó cũng dễ hiểu. Vì người ta không phải là thần thánh gì. Vả lại, khuyết điểm trong xã hội ảnh hưởng đến các cô, các chú. Nhưng nếu các cô, các chú cố gắng làm đúng tiêu chuẩn đảng viên thì giải quyết được nhiều thắc mắc.

                Cuối cùng Bác nhắc lại: Nội bộ chúng ta phải đoàn kết, đoàn kết thật chặt chẽ, do đoàn kết thật chặt chẽ trong Đảng mà đoàn kết ngoài Đảng, đoàn kết với nhân dân. Có như thế, khó khăn gì cũng vượt qua, việc gì cũng làm được.                                                                                               

Bài nói tại lớp học chính trị của giáo viên / Tăng Bình, Ái Phương sưu tầm // Sách Chủ tịch Hồ Chí Minh với sự nghiệp giáo dục Việt Nam. - H.: Hồng Đức, 2021. - Tr. 106-109

                Các cô, các chú đều biết, giáo viên ngày nay không phải là "gõ đầu trẻ kiếm cơm", mà là người phụ trách đào tạo những công dân tiến bộ, những cán bộ tiến bộ cho dân tộc. Nhiệm vụ ấy rất là vẻ vang. Các cô, các chú phải ngày càng tiến bộ để dạy cho con em ngày càng tiến bộ, nếu không thì sẽ ảnh hưởng không tốt đến con em.

                Nhưng phải làm thế nào cho xứng đáng với trách nhiệm vẻ vang ấy?

                Các cô, các chú đến đây học được nhiều điều bổ ích, nói chung có tiến bộ. Nhưng xã hội loài người ngày nay tiến lên nắm lấy nguyên tử. Người ta chinh phục thiên nhiên, chiếm cả cung trăng nữa. Tất cả tiến bộ rất nhanh. Cán bộ và giáo viên cũng phải tiến bộ cho kịp thời đại thì mới làm được nhiệm vụ. Chớ tự túc, tự mãn, cho là giỏi rồi thì dừng lại. Mà dừng lại là lùi bước, là lạc hậu, mình tự đào thải trước. Cho nên phải cố gắng học tập để cải tạo mình, cải tạo tư tưởng của mình, cải tạo con em và giúp vào việc cải tạo xã hội.

                Cải tạo tư tưởng không phải là khó, nếu quyết tâm là được. Muốn cải tạo tư tưởng thì phải nắm lấy vũ khí của chủ nghĩa Mác - Lênin, mà ở trong xã hội cũ không thể có được, đó là thật thà tự phê bình và phê bình.

                Các cô, các chú đều là cán bộ, thì phải thi hành chính sách của Đảng và Chính phủ để phục vụ nhân dân, vì vậy các cô, các chú đối với những vấn đề quốc tế cũng như trong nước phải bàn bạc với nhau để cho có lập trường vững và cách xem xét đúng đắn.

                Có người ngờ lực lượng của phe xã hội chủ nghĩa mạnh hay yếu, có người cho Mỹ là mạnh lắm. Có người nửa ngờ nửa tin. Đó là chưa xem sự thật. Lịch sử gần đây không xa, độ 40 năm nay, đã chứng tỏ bên nào mạnh. Bốn mươi mốt năm trước, ai thống trị trên thế giới này? Chủ nghĩa tư bản. Ngày nay thế giới này là của ai? Chưa phải của chủ nghĩa xã hội, nhưng sức xã hội chủ nghĩa càng ngày càng mạnh, sức tư bản chủ nghĩa ngày càng yếu.

                Trước kia Pháp có mạnh không? Mạnh. Bắt đầu kháng chiến nó cũng mạnh, nhưng nó mạnh mà yếu, mình yếu mà mạnh. Nó mạnh nhờ có xe tăng, tàu chiến, có bộ đội có kinh nghiệm. Mình mạnh mà mạnh gấp mấy nó vì mình có tinh thần, có chính nghĩa, có lòng yêu nước. Cuối cùng ai thắng? Ta thắng.

                Lại ví dụ Trung Quốc, năm 1945, Tưởng rất mạnh, nó có 5 triệu quân, lại được Mỹ giúp. Còn quân đội của Đảng Cộng sản là Giải phóng quân không đầy 1 triệu, khí giới lại thiếu. Nhưng ai thắng? Cách mạng thắng, nhân dân thắng.

                Hôm 15 tháng 5 vừa qua, Liên Xô lại phóng vệ tinh lần thứ 3. Các cô, các chú có thích không? Có. Vệ tinh thứ 3 nặng hơn 1 tấn 3, mà Mỹ thì chỉ mới phóng một quả bưởi. Về khoa học kỹ thuật như thế là ai mạnh? Liên Xô. Liên Xô mạnh là mình mạnh, của Liên Xô là của phe ta.

                Có người nghi ngờ sự đoàn kết giữa các nước trong phe xã hội chủ nghĩa. Các cô, các chú có đọc Tuyên ngôn của các đảng cộng sản và công nhân họp năm ngoái ở Mátxcơva không? Thế có thấm thía không? Có đoàn kết không?

                Ở nước ta, ai giúp ta (mà là cho không ta) để ta xây dựng kinh tế? Liên Xô, Trung Quốc và các nước anh em khác. Nếu không đoàn kết thì có giúp như thế không? Chừng ấy đủ tỏ rõ ta đoàn kết.

                Về phong trào đấu tranh cho hòa bình, có người ngờ chiến tranh sẽ xảy ra, nhất là Mỹ vẫn cứ thử bom nguyên tử. Nếu không có phe xã hội chủ nghĩa vững chắc, không có phong trào hòa bình thế giới rộng lớn thì chiến tranh sẽ nổ hoặc thế giới lại trở lại như 41 năm về trước. Nhờ có Liên Xô, nhờ có nhân dân thế giới đoàn kết, nhân dân các nước tư bản đoàn kết, chính các nhà khoa học tư sản của Mỹ và Tây Đức cũng đưa ra bản kêu gọi chống việc thử bom nguyên tử, chính các bạn của ta trong ruột địch cũng chống lại chiến tranh. Nếu không có phong trào hòa bình rộng lớn thì Ai Cập bị nuốt rồi, Xyri và Inđônêxia cũng thế. Nếu 1 người hoài nghi, 100 người hoài nghi, hàng vạn người hoài nghi thì hòa bình sẽ thất bại.

                Có người hoài nghi sự lãnh đạo của Đảng, có đúng không? Nếu Đảng lãnh đạo không đúng thì Cách mạng Tháng Tám có thành công không? Kháng chiến có thắng lợi không? Hơn 8 triệu nông dân miền Bắc có ruộng cày không? 3 năm khôi phục kinh tế có hoàn thành được không? Và ngày nay, đang vào thời kỳ quá độ tiến lên chủ nghĩa xã hội có được không? Đảng là người, Đảng là cán bộ, là đảng viên, tất nhiên có sai lầm. Nhưng trong cải cách ruộng đất, thắng lợi vẫn là chủ yếu. Các chú lớn tuổi chắc biết có lúc nào miền Bắc lại đủ thóc ăn như ngày nay, lại còn có thừa để bán ra ngoài và để dự trữ. Đó là nhờ đâu? Nhờ cải cách ruộng đất. Nhưng sai lầm của Đảng và của chúng ta khác hẳn với sai lầm của những bọn khác. Đảng thấy sai thì quyết tâm sửa chữa. Thời đế quốc, tư bản có bao giờ nó nói có sai lầm, xin sửa chữa đâu. Đảng là người, nên có sai lầm, nhưng vì có chủ nghĩa Mác - Lênin, có mục đích phục vụ nhân dân, có phê bình và tự phê bình, cho nên kiên quyết sửa chữa. Lúc Đảng phát hiện sai lầm thì ở nông thôn và thành thị lúc đầu có hoang mang, nhưng sau nhân dân hiểu và tin tưởng nên đã quyết tâm hoàn thành những công tác lớn.

                Nói về cán bộ trong Đảng cũng như ngoài Đảng, có một số người giữ thái độ bàng quan. Họ như con ốc tù, chui vào vỏ rồi mặc. Cái đó là chủ nghĩa cá nhân, là tư tưởng tiểu tư sản xấu. Người cách mạng là chí công vô tư, bất kỳ việc lớn việc nhỏ phải nghĩ đến nhân dân, Tổ quốc và giai cấp, thế thì không thể bàng quan được.

                Ví dụ: Ai cũng muốn ăn ngon, mặc đẹp, nhưng trong lúc này nhiều người còn thiếu thốn, mình chỉ nghĩ đến ăn ngon, mặc đẹp thì có đúng không? Mình phải nghĩ đến đồng bào.

                Vì bàng quan mà không chú ý gì đến đấu tranh chính trị và tư tưởng, ai cứ mặc ai. Ăn xôi chùa thì đánh chuông, hết xôi chùa thì không đánh chuông. Ta là cán bộ chuyên môn, có chuyên môn mà không có chính trị giỏi thì dù học giỏi mấy dạy trẻ con cũng hỏng. Chính trị là linh hồn, chuyên môn là cái xác. Có chuyên môn mà không có chính trị thì chỉ còn cái xác không hồn. Phải có chính trị trước rồi có chuyên môn. Nếu thầy giáo, cô giáo bàng quan thì lại đúc ra một số công dân không tốt, cán bộ không tốt. Nói tóm lại, chính trị là đức, chuyên môn là tài. Có tài mà không có đức là hỏng. Có đức mà chỉ i, tờ thì dạy thế nào? Đức phải có trước tài. Trước hết phải dạy trẻ yêu Tổ quốc, yêu lao động, yêu đồng bào và yêu chủ nghĩa xã hội. Nhưng có người ra bài toán, bày cho trẻ con so sánh ta với Mỹ, Mỹ có những cái gì, có bao nhiêu, Mỹ hơn ta những gì? Có phải đấy là bài học phản quốc không? Trẻ em như cái gương trong sáng, thầy tốt thì ảnh hưởng tốt, thầy xấu thì ảnh hưởng xấu, cho nên phải chú ý giáo dục chính trị tư tưởng trước, chính thầy giáo, cô giáo cũng phải tiến bộ về tư tưởng.

                Bây giờ Bác lại nói đến thầy giáo, trường học, cách dạy và học trò. Học trò tốt hay xấu là do thầy giáo, cô giáo tốt hay xấu. Các cô, các chú phải nhận rõ trách nhiệm của mình. Phải luôn luôn đặt câu hỏi: Dạy ai? Nói chung là học trò. Dạy để làm gì? Dạy cho nó yêu nước, yêu nhân dân, yêu lao động, yêu chủ nghĩa xã hội, hay đào tạo thành một lũ cao bồi. Lúc đó mới tìm cách dạy, về cách dạy thì quần chúng công nhân, nông dân, trí thức có nhiều kinh nghiệm. Giáo viên nên khêu gợi những kinh nghiệm để tìm cách dạy tốt. Không phải ngồi chờ Bộ Giáo dục nghĩ ra. Hãy xem công nhân thi đua sản xuất nhiều, nhanh, tốt, rẻ. Tất cả mọi ngành muốn tiến lên chủ nghĩa xã hội, muốn cho dân giàu nước mạnh thì phải thi đua. Giáo viên ta cũng phải thi đua dạy nhanh, trước kia lu bù nhồi sọ, bây giờ phải tìm cách dạy nhanh, nhiều, tốt và rẻ. Giáo viên phải chú ý cả tài, cả đức, tài là văn hóa, chuyên môn, đức là chính trị. Muốn cho học sinh có đức thì giáo viên phải có đức. Ví như bảo học trò phải dậy sớm mà giáo viên thì trưa mới dậy. Cho nên thầy giáo, cô giáo phải gương mẫu, nhất là đối với trẻ con. Trách nhiệm đó rất là vẻ vang, quan trọng.

                Nội dung dạy của ta phải thiên về lao động. Trước kia thì đào tạo thành các cậu tú, cô tú xem khinh lao động. Bây giờ thì phải yêu lao động, thực sự lao động. Ta làm dần dần, "tả" quá cũng không được, nhưng phải đi đến một chế độ học tập bao gồm văn hóa, kỹ thuật và lao động. Trước kia có câu: "Vạn ban giai hạ phẩm, duy hữu độc thư cao". Các cô, các chú có hiểu không? Câu ấy có nghĩa: Tất cả mọi ngành đều ở dưới, duy có việc học là cao... Đó là thời phong kiến, học cốt để làm quan. Ngày nay phải vừa học vừa lao động.

                Về vấn đề này Trung Quốc có nhiều kinh nghiệm hay. Hiện nay ở Trung Quốc, có một số trường đại học (sau này thì sẽ thi hành khắp cả), một số trường trung học tự cấp tự túc lấy chi phí trong trường không xin tiền Chính phủ, một nửa ngày làm, một nửa ngày học. Bác có đến thăm một trường trung học chuyên khoa làm máy bay, có 1.000 học sinh, họ vừa học vừa làm những máy móc bán cho Chính phủ. Lại có trường trung học chuyên khoa nông lâm vỡ hoang, trồng lúa, ngô, nuôi lợn, trâu; họ gặt lấy lúa, ngô để ăn, bán lợn, trâu để tự túc. Chính phủ không phải xuất tiền, để tiền xây dựng công nghiệp.

                Ở ta, Bác có đi về nông thôn thăm một vài trường học, Bác thấy có trường không có cây, vách thì đã rơi, đất thì có mà không trồng lấy một cây rau, một cây ớt. Có đất, có người mà để không, như thế có đau ruột không? Sửa sang trường lớp, đó là việc của thầy, của trò, có thể làm được nhưng không chịu làm.

                Bác nghe nói một số giáo viên phàn nàn là không được chính quyền địa phương coi trọng. Người ta có câu: "Hữu xạ tự nhiên hương". Giáo viên chưa được coi trọng là vì chưa có hương, còn xa rời quần chúng. Có nhiều giáo viên được quần chúng coi trọng, như chiến sĩ thi đua, giáo viên bình dân học vụ, họ cùng với nhân dân kết thành một khối nên được quần chúng yêu mến. Nếu giáo viên tách rời ra, tự cho mình là trí thức, thì làm sao quần chúng coi trọng được. Không phải riêng thầy giáo, mà các cán bộ khác cũng thế, phải cùng với quần chúng làm thành một khối, không phải nói lý luận mà thực sự. Hồi bí mật, không có quần chủng ủng hộ thì cán bộ không có cơm ăn, không làm công tác được, có khi lại bị địch bắt. Muốn quần chúng yêu thương thì phải cùng với quần chúng kết thành một khối. Như thế thì phải khó nhọc, chứ không phải gặp ai cứ nói tôi yêu, tôi yêu... Phải giúp đỡ nhân dân, việc lớn, việc nhỏ đều tỏ ra yêu đồng bào thực sự.

                Thầy giáo phải gương mẫu, trực tiếp làm nhiệm vụ: Đào tạo những công dân tốt, những cán bộ tốt sau này, góp phần xây dựng chủ nghĩa xã hội, làm cho miền Bắc vững mạnh thành hậu thuẫn cho cuộc đấu tranh thống nhất nước nhà.

                Bác chúc các cô, các chú vui vẻ, đoàn kết, tiến bộ. 

Đào tạo thế hệ trẻ tương lai là trách nhiệm nặng nề nhưng rất vẻ vang / Phan Tuyết sưu tầm, tuyển chọn // Sách Chuyện kể Bác Hồ với nhà giáo. - H.: Dân trí, 2018. - Tr. 76

                Vì lơi ích mười năm thì phải trồng cây, vì lợi ích trăm năm thì phải trồng người. Chúng ta phải đào tạo ra những công dân tốt và cán bộ tốt cho nước nhà. Nhân  dân, Đảng, Chính phủ giao các nhiệm vụ đào tạo thế hệ tương lai cho các cô, các chú. Đó là một trách nhiệm nặng nề, nhưng rất vẻ vang. Mong mọi người phải cố gắng làm trọn nhiệm vụ.

                Tất cả các giáo viên chớ nên cho học thế này đã là đủ, mà phải tiếp tục học tập thêm để tiến bộ mãi.

                                                                                                                                                              Nói ngày 13-9-1958

Thiếp mừng năm học mới / Tăng Bình, Ái Phương sưu tầm // Sách Chủ tịch Hồ Chí Minh với sự nghiệp giáo dục Việt Nam. - H.: Hồng Đức, 2021. - Tr. 168

                Thân ái gửi các trường học,

                Nhân dịp năm học mới,

                Bác mong các cháu học sinh thi đua học hành, kính thầy yêu bạn, và tiến bộ nhiều.

                Tôi mong các giáo viên thi đua dạy bảo cho các cháu mau tiến bộ.

                Tôi mong cha mẹ học trò hết sức giúp đỡ nhà trường trong việc giáo dục con em chúng ta cho có kết quả tốt đẹp.

                                                                                                                                                Chào thân ái                                                                                                                                                                      Ngày 20 tháng 9 năm 1956                                                                                                                                                                           HỒ CHÍ MINH

Thư gửi giáo viên, học sinh, cán bộ thanh niên và nhi đồng / Phan Tuyết sưu tầm, tuyển chọn // Sách Chuyện kể Bác Hồ với nhà giáo. - H. : Dân trí, 2018. - Tr. 48-49

                Thân ái gửi toàn thể thầy giáo, học trò và cán bộ thanh niên và nhi đồng,

                Nhân dịp các trường bước vào năm học mới, tôi có mấy lời gửi anh chị em và các cháu:

Trong năm học vừa qua, từ khi miền Bắc hoàn toàn giải phóng, các thầy giáo và cán bộ đã cố gắng nhiều. Các cháu học trò đã có những tiến bộ khá. Nhà trường đông đúc vui vẻ. Đó là một thành tích đáng mừng.

Nhưng đó mới là bước đầu.

Trường học của chúng ta là trường học của chế độ dân chủ nhân dân, nhằm mục đích đào tạo những công dân và cán bộ tốt, những người chủ tương lai tốt của nước nhà. Về mọi mặt, trường học của chúng ta phải hơn hẳn trường học của thực dân và phong kiến.

Muốn được như thế thì thầy giáo, học trò và cán bộ phải cố gắng hơn nữa để tiến bộ hơn nữa.

Trước hết phải ra sức tẩy sạch ảnh hưởng giáo dục nô dịch của thực dân còn sót lại, như: Thái độ thờ ơ đối với xã hội, xa rời đời sống lao động và đấu trang của nhân dân; học để lấy bằng cấp, dạy theo lối nhồi sọ. Và cần xây dựng tư tưởng: dạy và học để phục vụ Tổ quốc, phục vụ nhân dân. Nhà trường phải gắn liền với thực tế của nước nhà, với đời sống của nhân dân. Thầy giáo và học trò, tùy hoàn cảnh và khả năng, cần tham gia những công tác xã hội, ích nước lợi dân.

Ngoài ra, mỗi một cấp giáo dục cần nhận rõ nhiệm vụ của mình trong lúc này:

- Đại học thì cần kết hợp lý luận khoa học với thực hành, ra sức học tập lý luận và khoa học tiên tiến của nước bạn, kết hợp với thực tiễn của nước ta, để thiết thực giúp ích cho công cuộc xây dựng nước nhà.

- Trung học thì cần đảm bảo cho học trò những tri thức phổ thông chắc chắn, thiết thực, thích hợp với nhu cầu và tiền đồ xây dựng nước nhà, bỏ những phần nào không cần thiết cho đời sống thực tế.

- Tiểu học thì cần giáo dục các cháu thiếu nhi: yêu Tổ quốc, yêu nhân dân, yêu lao động, yêu khoa học, trọng của công. Cách dạy phải nhẹ nhàng và vui vẻ, chớ gò ép thiếu nhi vào khuôn khổ của người lớn. Phải đặc biệt chú ý giữ gìn sức khỏe của các cháu.

Tôi cũng mong các gia đình liên lạc chặt chẽ với nhà trường, giúp nhà trường giáo dục và khuyến khích con em chăm chỉ học tập, sinh hoạt lành mạnh và hăng hái giúp ích nhân dân.

Chúc các thầy giáo, cán bộ và các cháu năm học mới: Đoàn kết, cố gắng, tiến bộ.

Chào thân ái.

Hà Nội, ngày 31 tháng 10 năm 1955

                                                                                                                                                                 HỒ CHÍ MINH

Gửi các em học sinh / Tăng Bình, Ái Phương sưu tầm // Sách Chủ tịch Hồ Chí Minh với sự nghiệp giáo dục Việt Nam. - H.: Hồng Đức, 2021. - Tr. 167

                Nhân dịp ngày mở trường, báo Nhân dân thân ái chào mừng các em và có mấy lời nhắn nhủ các em:

                Biết rằng bố mẹ, thầy giáo, Đảng và Chính phủ đều quan tâm đến mình - chắc các em sẽ vui vẻ và hăng hái học tập.

                Giáo dục các em là việc CHUNG của gia đình, trường học và xã hội. Bố mẹ, thầy giáo và người lớn phải cùng nhau phụ trách; trước hết là phải làm gương mẫu cho các em trước mọi việc.

                Nước ta mới giải phóng được một năm, chế độ cũ của thực dân và phong kiến không khỏi còn để lại ít nhiều ảnh hưởng không tốt trong những đầu óc trẻ non. Vậy chúng ta phải dùng tinh thần và đạo đức mới để rửa gọt những ảnh hưởng ấy. Đối với các em, việc giáo dục gồm có:

                - Thể dục: Để làm cho thân thể mạnh khỏe, đồng thời cần giữ gìn vệ sinh riêng và vệ sinh chung.

                - Trí dục: Ôn lại những điều đã học, học thêm những tri thức mới.

                - Mỹ dục: Để phân biệt cái gì là đẹp, cái gì là không đẹp.

                - Đức dục: Là yêu Tổ quốc, yêu nhân dân, yêu lao động, yêu khoa học, yêu trọng của công (5 cái yêu).

                Các em cần rèn luyện cái đức tính thành thật và dũng cảm.

                Ở trường, thì kính thầy, yêu bạn, đoàn kết và giúp đỡ lẫn nhau.

                Ở nhà, thì yêu kính và giúp đỡ cha mẹ.

                Ở xã hội, thì tùy sức mình mà tham gia những việc có ích lợi chung.

                Đảng, Chính phủ và nhân dân ta lo cải cách ruộng đất, khôi phục kinh tế, tăng cường quốc phòng, củng cố miền Bắc... để thống nhất nước nhà - đều nhằm mục đích xây dựng cho các em một đời sống tươi vui, sung sướng. Gia đình, trường học và xã hội chăm lo giáo dục, đều nhằm mục đích làm cho các em mai sau trở nên những công dân tốt, những cán bộ tốt, những người chủ tốt của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.

                Chúc các em thi đua học tập và tiến bộ, cho xứng đáng là cháu ngoan của Bác Hồ!

                (Sẵn đây, chúng tôi đề nghị Bộ Giáo dục cùng các thầy giáo và các đại biểu của học sinh xét lại "10 điều ghi nhớ" của tiểu học và "12 điều ghi nhớ" của trung học, để cho các em học sinh dễ ghi nhớ và dễ thực hành hơn).

Thư gửi Hội nghị cán bộ phụ trách nhi đồng / Phan Tuyết sưu tầm, tuyển chọn // Sách Chuyện kể Bác Hồ với nhà giáo. - H.: Dân trí, 2018. - Tr. 24, 25

                Nhân dịp Hội nghị, tôi gửi lời thân ái chúc các cô các chú mạnh khỏe và Hội nghị có kết quả tốt. Sau đây là vài ý kiến để giúp các bạn thảo luận:

                - Cách dạy trẻ, cần làm cho chúng biết: Yêu Tổ quốc, thương đồng bào, chuộng lao động, giữ kỷ luật, biết vệ sinh, học văn hóa.

                - Đồng thời phải giữ toàn vẹn cái tính vui vẻ, hoạt bát, tự nhiên, tự động, trẻ trung của chúng (chớ nên làm cho chúng hóa ra những "người già sớm". Nhiều thư các cháu gửi cho Bác Hồ, viết như người lớn viết; đó là một triệu chứng già sớm nên tránh).

                - Trong lúc học, cũng cần cho chúng vui, trong lúc vui cũng cần làm cho chúng học. Ở trong nhà, ở trường học, ở xã hội, chúng đều vui đều học. Muốn vậy thì các ban phụ trách nhi đồng cần phải liên lạc mật thiết với cha mẹ và thầy giáo của nhi đồng.

                - Ngày nay chúng là nhi đồng, 11 năm sau chúng sẽ là công dân, cán bộ. Vì vậy, Chính phủ, các đoàn thể, và tất cả các đồng bào có trách nhiệm giúp sức vào việc giáo dục nhi đồng. Công việc ấy phụ nữ và thanh niên phải là người phụ trách chính, nhất là thanh niên.

                - Giáo dục nhi đồng là một khoa học. Vậy các bạn phải cố gắng học tập, nghiên cứu, trao đổi kinh nghiệm, để tiến bộ mãi. Nhất là phải làm kiểu mẫu trong mọi việc. Như vậy, thì các bạn sẽ thành công.

                Chào thân ái và quyết thắng

                                                                                                                                           Tháng 11 năm 1949                                                                                                                                                                               HỒ CHÍ MINH

HÀ HUY THÔNG. Rèn luyện phẩm chất, năng lực nhà giáo theo tư tưởng Hồ Chí Minh / Hà Huy Thông // Sách Chủ tịch Hồ Chí Minh với sự nghiệp giáo dục Việt Nam. - H.: Hồng Đức, 2021. - Tr. 235-236

                Hồ Chí Minh đã nhiều lần khẳng định: nghề giáo là nghề rất cao quý, rất vẻ vang. Người nói: "Nhiệm vụ giáo dục rất quan trọng và vẻ vang, vì nếu không có thầy giáo thì không có giáo dục... Không có giáo dục, không có cán bộ thì cũng không nói gì đến kinh tế văn hóa”. Đặc biệt, Người đã khẳng định: "Người thầy giáo tốt - thầy giáo xứng đáng là thầy giáo - là người vẻ vang nhất. Dù là tên tuổi không đăng trên báo, không được thưởng huân chương, song những người thầy giáo tốt là những anh hùng vô danh”.

                Để hoàn thành tốt nhiệm vụ vẻ vang ấy, theo Người, mỗi nhà giáo phải không ngừng học tập, rèn luyện, nâng cao năng lực, trình độ và phẩm chất đạo đức của người giáo viên.

                Trước hết, phải không ngừng nỗ lực học tập, nâng cao trình độ, kiến thức, năng lực toàn diện

                Trên tinh thần nắm vững quan điểm của Chủ nghĩa Mác - Lênin "bản thân nhà giáo dục cũng cần phải được giáo dục”, Hồ Chí Minh nhấn mạnh: "Người huấn luyện phải học thêm mãi thì mới làm được công việc huấn luyện của mình... Người huấn luyện nào tự cho là mình đã biết đủ cả rồi, thì người đó dốt nhất”. Người dẫn lại câu nói của Khổng Tử: “Học không biết chán, dạy không biết mỏi” và lời dạy của V.I.Lênin: “Học, học nữa, học mãi” để nhấn mạnh rằng người huấn luyện nào tự mãn cho mình giỏi rồi mà dừng việc học lại là lùi bước, là lạc hậu, là tự đào thải mình. Phải thường xuyên tự bồi dưỡng, nâng cao trình độ chuyên môn, phương pháp sư phạm để thực sự là tấm gương sáng cho học sinh noi theo.

                Ngoài việc nhắc nhở các thầy giáo phải không ngừng học tập nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, Người thường xuyên nhắc nhở mỗi thầy giáo, cô giáo phải thường xuyên rèn luyện đạo đức nhà giáo mẫu mực. Người nhấn mạnh: "Dạy cũng như học phải biết chú trọng cả tài lẫn đức. Đức là đạo đức cách mạng. Đó là cái gốc, rất là quan trọng. Nếu không có đạo đức cách mạng thì có tài cũng vô dụng. Đạo đức cách mạng là triệt để trung thành với cách mạng, một lòng một dạ phục vụ nhân dân".

                Để rèn luyện đạo đức, Người luôn nhắc nhở các nhà giáo phải thanh liêm, trung thực, biết đặt lợi ích của đất nước, của nhà trường lên trên lợi ích cá nhân. "Cô giáo, thầy giáo trong chế độ ta cần phải góp phần vào công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội. Phải có chí khí cao thượng, phải "tiên ưu hậu lạc" nghĩa là khó khăn thì phải chịu trước thiên hạ, sung sướng thì hưởng sau thiên hạ. Đây là đạo đức cách mạng". Và "Thầy và trò phải luôn luôn nâng cao tinh thần yêu Tổ quốc, yêu chủ nghĩa xã hội, tăng cường tình cảm cách mạng đối với công nông, tuyệt đối trung thành với sự nghiệp cách mạng, triệt để tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng, sẵn sàng nhận bất kỳ nhiệm vụ nào mà Đảng và nhân dân giao cho".

                Trong tu dưỡng, rèn luyện đạo đức nhà giáo, Người hết sức coi trọng việc xây dựng tình đoàn kết. Người dặn dò: "Trước hết là phải đoàn kết. Đoàn kết thật sự, giữa thầy và thầy, giữa thầy và trò, giữa trò và trò, giữa cán bộ và công nhân. Toàn thể nhà trường phải đoàn kết thành một khối, đoàn kết phải thật sự trăm phần trăm chứ không phải chỉ là đoàn kết miệng”.

                Phải thật sự yêu nghề, yêu trò

                Yêu nghề, yêu trò là phẩm chất, là yêu cầu quan trọng hàng đầu đối với mỗi nhà giáo. Bởi đây là cơ sở, là động lực thôi thúc trách nhiệm và nhiệt huyết để mỗi nhà giáo phấn đấu hoàn thành sự nghiệp vẻ vang của mình. Đó là cái tâm trong sáng và cao thượng của các nhà giáo. Mỗi cô giáo, thầy giáo phải yêu nghề, yêu trò sâu sắc thì mới có thể trở thành nhà giáo tốt, nhà giáo mẫu mực, được xã hội tôn vinh và kính trọng. Người căn dặn: "Thầy cũng như trò, cán bộ cũng như nhân viên, phải thật thà yêu nghề mình. Có gì vẻ vang hơn là nghề đào tạo những thế hệ sau này tích cực góp phần xây dựng chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản?". Yêu trò - là tất cả vì sự tiến bộ của trò, "Phải thương yêu các cháu như con em ruột thịt của mình, không nên phân biệt bỉ thử các cháu vùng này hay các cháu vùng khác. Cháu nào cũng là con em đại gia đình ta, cũng là do Đảng và Chính phủ giao cho các cô, các chú phụ trách nuôi dạy". Yêu nghề, yêu trò còn thể hiện trong cách quan tâm, chăm lo, tổ chức tốt đời sống vật chất, tinh thần trong trường học. Bác dặn "Các cô, các chú, các cháu phải cùng nhau tổ chức và quản lý đời sống vật chất và tinh thần ở các trường học ngày một tốt hơn, tăng cường bảo đảm sức khỏe và an toàn".

                Hiện nay, trong bối cảnh nền giáo dục nước nhà đang có nhiều tiêu cực, nhất là về nạn bằng cấp, hiện tượng tiêu cực thi cử, dạy thêm, học thêm, một số nhà giáo vì những lợi ích vật chất tầm thường mà đánh mất phẩm giá cao đẹp. Đặc biệt sự nghiệp đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo theo tinh thần Nghị quyết Trung ương 8 (khóa XI) đang đặt ra những yêu cầu mới, đòi hỏi phải tiếp tục xây dựng đội ngũ nhà giáo có đủ đức tài, nhằm đáp ứng yêu cầu của công cuộc đổi mới. Trước tình hình ấy, việc nghiên cứu, quán triệt và thực hiện đúng đắn những lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh về rèn luyện phẩm chất, năng lực của đội ngũ nhà giáo càng quan trọng và cấp thiết đối với mỗi nhà giáo.

PHAN THỊ HOÀI. Nghĩ về lời Bác dạy: "Giáo viên phải chú ý cả tài, cả đức” / Phan Thị Hoài, Hoàng Trung Thành // Sách Chủ tịch Hồ Chí Minh với sự nghiệp giáo dục Việt  Nam. - H.: Hồng Đức, 2021. - Tr. 249-254

                Có thể nói, ở bất cứ xã hội nào nghề dạy học luôn được coi là nghề cao quý nhất trong các nghề cao quý, nghề sáng tạo nhất trong các nghề sáng tạo. Do vậy, người thầy phải không ngừng rèn đức luyện tài để hoàn thành trọng trách vẻ vang mà xã hội tin tưởng trao gửi. Trong Bài nói chuyện tại Lớp học Chính trị của giáo viên, tháng 8-1959. Bác dạy: “Giáo viên phải chú ý cả tài, cả đức, tài là văn hóa, chuyên môn, đức là chính trị. Muốn cho học sinh có đức thì giáo viên phải có đức... Thầy giáo, cô giáo phải gương mẫu, nhất là đối với trẻ con. Trách nhiệm đó rất là vẻ vang, quan trọng”.

                “Tôn sư trọng đạo” là truyền thống tốt đẹp của dân tộc Việt Nam. Vị trí, vai trò của người thầy luôn được xã hội tôn vinh với sự kính trọng, tin tưởng: “nhất tự vi sư, bán tự vi sư”. Nhà giáo dục học người Séc (Tiệp Khắc) Comenxki đã từng nói: “Dưới ánh mặt trời, không có nghề nào cao quý hơn nghề dạy học”. Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn luôn đề cao sứ mệnh của người thầy giáo. Phát biểu tại Lớp học Chính trị của giáo viên năm 1959, Người đã khẳng định: “Giáo viên là người phụ trách đào tạo những công dân tiến bộ, những cán bộ tiến bộ cho dân tộc. Nhiệm vụ ấy rất vẻ vang”. Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, trong nền giáo dục cách mạng, người giáo viên có nhiệm vụ nặng nề và vẻ vang là đào tạo cán bộ cho nước nhà, là những chiến sĩ tiên phong trên mặt trận tư tưởng, văn hóa; có trách nhiệm truyền bá cho thế hệ trẻ lý tưởng đạo đức chân chính, hệ thống các giá trị, tinh hoa văn hóa của dân tộc và nhân loại; bồi dưỡng cho họ những phẩm chất cao quý và năng lực sáng tạo phù hợp với sự phát triển và tiến bộ xã hội. Người thầy là yếu tố quyết định đến chất lượng giáo dục, sản phẩm của dạy học là tương lai của dân tộc. Mọi tài liệu, giáo trình dù hay đến đâu nếu không có thầy giáo hướng dẫn thì không phát huy hết tác dụng. Khi đến thăm trường Đại học Sư phạm Hà Nội, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định vai trò không thể thay thế của người giáo viên: “Còn gì vẻ vang hơn nghề đào tạo những thế hệ sau này tích cực góp phần xây dựng chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản. Người thầy giáo tốt, người thầy giáo xứng đáng là người thầy vẻ vang nhất, dù tên tuổi không đăng trên báo, không được thưởng Huân chương. Song những người thầy giáo tốt là những người anh hùng vô danh... Nếu không có thầy giáo dạy dỗ cho con em nhân dân, thì làm sao mà xây dựng chủ nghĩa xã hội được? Vì vậy nghề thầy giáo rất là quan trọng, rất là vẻ vang”. Giá trị, tầm quan trọng của người thầy được thể hiện trong câu nói rất đổi bình dị của Hồ Chí Minh: “Không có thầy giáo thì không có giáo dục... Không có giáo dục, không có cán bộ thì không nói gì đến kinh tế - văn hóa”.

                Để làm tròn sứ mệnh vẻ vang ấy, theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, mỗi nhà giáo phải là người có đức và có tài. Trong tư tưởng của Người, chúng ta luôn tìm thấy những trăn trở, những yêu cầu, những lời dặn dò và kỳ vọng to lớn đối với việc xây dựng đội ngũ giáo viên phải vừa hồng vừa chuyên, toàn diện cả đức lẫn tài để gánh vác trách nhiệm đào tạo những thế hệ công dân, cán bộ có tài, có đức cho xã hội. Theo Hồ Chí Minh, đức và tài là một thể thống nhất, không thể tách rời. Vì vậy, không thể chỉ có đức mà không cần tài, càng không thể coi trọng tài mà xem nhẹ đức, chúng phải tương hỗ cùng nhau, thống nhất hữu cơ với nhau mới giúp cho con người, nhất là người giáo viên hoàn thành nhiệm vụ cách mạng cũng như hoàn thiện nhân cách bản thân. Trong mối quan hệ biện chứng đó, đức là nền tảng của tài, định hướng cho tài năng phát triển và phát triển đúng hướng - tức phục vụ nhân dân và cách mạng. Ngược lại, tài là thành tố góp phần tạo nên đức, phát huy tác dụng của đức, hoàn thiện đức.

                Theo Hồ Chí Minh trong mối quan hệ tương hỗ đức và tài thì “đức phải có trước tài”, đức là "nền tảng”, là “cái gốc” của người giáo viên. Trong bài nói tại Lớp học Chính trị của giáo viên năm 1959, Bác nhắc nhở: “Có chuyên môn mà không có chính trị giỏi thì dù học giỏi mấy dạy trẻ con cũng hỏng. Chính trị là linh hồn, chuyên môn là cái xác. Có chuyên môn mà không có chính trị thì chỉ còn cái xác không hồn. Phải có chính trị trước rồi có chuyên môn, nếu thầy giáo, cô giáo bàng quan thì lại đúc ra một số công dân không tốt, cán bộ không tốt. Nói tóm lại, chính trị là đức, chuyên môn là tài. Có tài mà không có đức là hỏng. Có đức mà chỉ i, tờ thì dạy thế nào? Đức phải có trước tài”. Đức là cái gốc giúp người cán bộ cách mạng vượt qua mọi khó khăn, gian khổ, hy sinh để hoàn thành tốt nhiệm vụ của Đảng và nhân dân giao phó. Người khẳng định: “Cũng như sông thì có nguồn mới có nước, không có nguồn thì sông cạn. Cây phải có gốc, không có gốc thì cây héo. Người cách mạng phải có đạo đức, không có đạo đức thì tài giỏi mấy cũng không lãnh đạo được nhân dân”. Cũng trong Bài nói chuyện tại Lớp học Chính trị của giáo viên. Người nhấn mạnh: “Giáo viên phải chú ý cả tài, cả đức, tài là văn hóa, chuyên môn, đức là chính trị. Muốn cho học sinh có đức thì giáo viên phải có đức”.

                Bác Hồ luôn đề cao và yêu cầu cao đối với nghề dạy học xuất phát từ việc trồng cây đã khó, trồng người còn khó hơn. “Vì lợi ích mười năm phải trồng cây. Vì lợi ích trăm năm phải trồng người”. Sản phẩm của “trồng người” là tạo ra con người của thế hệ tương lai, do đó không được phép làm ra “phế phẩm”. Một người cán bộ, một công nhân tồi có thể làm hỏng một vài sản phẩm, vài công trình, nhưng một người giáo viên tồi có thể làm hỏng cả một thế hệ, đó là hậu quả khôn lường mà cả xã hội phải gánh chịu. Người nói: “Giáo dục được người thầy giáo, được cả một thế hệ”, thầy tốt thì ảnh hưởng tốt, thầy xấu thì ảnh hưởng xấu; một tấm gương sáng của người thầy sẽ có cả một thế hệ noi theo, ngược lại một hành vi xấu của người thầy có thể làm tổn thương, làm mất niềm tin cả một lớp người. Sách Tam tự kinh có câu: “Giáo bất nghiêm/ sư chi đọa - giáo dục không nghiêm là lỗi ở thầy giáo”. Hồ Chí Minh cũng chỉ rõ: “Học trò tốt hay xấu là do thầy giáo, cô giáo tốt hay xấu”. Đặc biệt, Người rất quan tâm đến phương pháp nêu gương. Theo Hồ Chí Minh: “Một tấm gương sống còn có giá trị hơn 100 bài diễn văn tuyên truyền”, thầy cô giáo là những người đi khai sáng trí tuệ, mở mang tri thức, thắp sáng ngọn lửa tâm hồn cho học sinh. Người nhắc nhở: “Các thầy, cô giáo phải trở thành tấm sương sáng, thành kiểu mẫu cho các em noi theo, phải là kiểu mẫu về mọi mặt, tư tưởng, đạo đức, lề lối làm việc”. Người còn ví: “Trẻ em như cái gương trong sáng, thầy tốt thì ảnh hưởng tốt, thầy xấu thì ảnh hưởng xấu, cho nên phải chú ý giáo dục chính trị tư tưởng trước, chính thầy giáo, cô giáo cũng phải tiến bộ về tư tưởng”. Người không tán thành hiện tượng nói không đi đôi với làm, nói một đường nhưng làm một nẻo, nói nhưng không làm. Người cho rằng, nếu người làm công tác giáo dục mà như thế thì giáo dục lại thành ra phản giáo dục, bởi: “Trẻ em hay bắt chước, cho nên thầy giáo, cán bộ phụ trách v.v... phải gương mẫu từ lời nói đến việc làm. Nếu các cô các chú bảo: “Các em phải siêng làm” nhưng các cô, các chú lại đi ngủ, hoặc dạy “các em phải thật thà”, nhưng các cô, các chủ lại nói sai, hay bảo “các em phải giữ vệ sinh chung”, nhưng các cô, các chú bẩn, như thế là không được. Dạy các cháu thì nói với các cháu chỉ là một phần, cái chính là phải cho các cháu nhìn thấy, cho nên những tấm gương thực tế là rất quan trọng. Muốn dạy cho trẻ em thành người tốt thì trước hết các cô, các chú phải là người tốt”.

                Theo luận điểm của Hồ Chí Minh, có tài mà không có đức là người vô dụng; nó nguy hiểm hơn có đức mà không có tài. Bởi lẽ, tài năng đó không phục vụ cho cái chung, cho nhân dân mà chỉ mưu cầu lợi ích cho mỗi cá nhân thì cũng thành vô giá trị. Người có tài mà đi ngược lại lợi ích chân chính của tập thể, của nhân dân, phản bội Tổ quốc thì chẳng những vô dụng mà còn có tội, tài đó đáng bỏ đi. không đáng trân trọng. Thực tiễn cho thấy, người càng có tài mà kém đức thì tác hại mang đến cho xã hội càng lớn. Một cán bộ, đảng viên với đầu óc sắc sảo, nắm giữ vị trí quan trọng trong xã hội mà suy thoái đạo đức, không có đạo đức thì nguy hiểm khôn lường. Một kẻ trộm cắp không đáng sợ, tác hại không to lớn bằng một kẻ cầm cân nảy mực mà không công chính nghiêm minh. Đã là một giáo viên, nếu không có đạo đức tốt, không yêu trường, mến nghề, tận tụy với học sinh thì khó lòng mà say mê, toàn tâm toàn ý với công việc, phấn đấu vươn lên để nâng cao năng lực chuyên môn. Đạo đức của người giáo viên là một đòi hỏi cao, bao gồm ngoài đạo đức công dân nói chung họ còn phải có đạo đức người thầy giáo. Trong đạo đức người thầy giáo, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhiều lần nhấn mạnh rằng, để giáo dục học sinh thì người giáo viên trước hết phải gương mẫu, tận tâm với trẻ, với nghề bởi đây là cơ sở, động lực thôi thúc trách nhiệm và nhiệt huyết để mỗi nhà giáo phấn đấu hoàn thành sự nghiệp vẻ vang của mình. Người căn dặn: “Thầy cũng như trò, cán bộ cũng như nhân viên, phải thật thà yêu nghề mình. Có gì vẻ vang hơn là nghề đào tạo những thế hệ sau này tích cực góp phần xây dựng chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản?”. Yêu trò - là phải tất cả vì học sinh thân yêu, vì sự tiến bộ của học trò, “Phải thương yêu các cháu như con em ruột thịt của mình, không nên phân biệt các cháu vùng này hay các cháu vùng khác. Cháu nào cũng là con em đại gia đình ta, cũng là do Đảng và Chính phủ giao cho các cô, các chú phụ trách nuôi dạy”. Yêu nghề, yêu trò còn thể hiện trong cách quan tâm, chăm lo, tổ chức tốt đời sống vật chất, tinh thần trong trường học. Bác dặn “Các cô, các chú, các cháu phải cùng nhau tổ chức và quản lý đời sống vật chất và tinh thần ở các trường học ngày một tốt hơn, tăng cường bảo đảm sức khỏe và an toàn”. Đây là cơ sở để các thầy, cô yên tâm công tác, say mê, toàn tâm, toàn ý với công việc; biết vươn lên, nâng cao năng lực, đáp ứng yêu cầu nghề nghiệp, chung sức đồng lòng vì tương lai của con em ta, dân tộc ta.

                Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, đạo đức cách mạng không phải trên trời rơi xuống, nó do đấu tranh, rèn luvện bền bỉ hàng ngày mà được hình thành, củng cố và phát triển. Để rèn luyện đạo đức, Người luôn nhắc nhở các nhà giáo phải thanh liêm, trung thực, biết đặt lợi ích của đất nước, của nhà trường lên trên lợi ích cá nhân. “Cô giáo, thầy giáo trong chế độ ta cần phải góp phần vào công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội. Phải có chí khí cao thượng, phải tiên ưu hậu lạc nghĩa là khó khăn thì phải chịu trước thiên hạ, sung sướng thì hưởng sau thiên hạ. Đây là đạo đức cách mạng” và “Thầy và trò phải luôn luôn nâng cao tinh thần yêu Tổ quốc, yêu chủ nghĩa xã hội, tăng cường tình cảm cách mạng đối với công nông, tuyệt đối trung thành với sự nghiệp cách mạng, triệt để tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng, sẵn sàng nhận bất kỳ nhiệm vụ nào mà Đảng và nhân dân giao cho”.

                Người nhắc nhở mỗi thầy giáo, cô giáo phải thường xuyên rèn luyện đạo đức nhà giáo mẫu mực. Người nhấn mạnh: “Dạy cũng như học phải biết chú trọng cả tài lẫn đức. Đức là đạo đức cách mạng. Đó là cái gốc, rất là quan trọng. Nếu không có đạo đức cách mạng thì có tài cũng vô dụng. Đạo đức cách mạng là triệt để trung thành với cách mạng, một lòng một dạ phục vụ nhân dân". Có thể nói, đạo đức là nền tảng quan trọng vậy nên trong giáo dục mặc dù giáo viên vẫn còn thiếu nhưng để bảo đảm chất lượng giáo dục - đào tạo và vì lợi ích lâu dài của sự nghiệp trồng người, Đảng ta kiên quyết yêu cầu: “Không bố trí người kém phẩm chất làm giáo viên, kể cả giáo viên hợp đồng”. Đây là quan điểm rất quan trọng khi tuyển chọn và bố trí cán bộ, trong đó có nhà giáo.

                Ngược lại, có đức mà không có tài “thì làm việc gì cũng khó”. Một giáo viên yếu kém về năng lực sư phạm, hạn chế về tri thức chuyên môn, kỹ năng kỹ xảo nghề nghiệp thì khó lòng mang lại bài học hiệu quả, kích thích tư duy, trí tuệ của người học. Học trò trước hết là sản phẩm của thầy giáo. Học trò “ngồi nhầm lớp” được xem có cội nguồn từ việc thầy “đứng nhầm lớp”, thực trạng đó không chỉ gây nên bức xúc cho ngành giáo dục mà còn làm suy giảm lòng tin của xã hội đối với người thầy giáo, với ngành nghề vốn dĩ được coi là cao quý nhất. Có thầy giỏi mới có trò giỏi. Người giáo viên phải có trí tuệ và tài năng mới có thể đào tạo được những thế hệ công dân, cán bộ có tài cho xã hội. Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng, một người thầy giáo giỏi không có nghĩa là phải tinh thông tất cả mọi lĩnh vực, hiếu trọn tri thức nhân loại, vì tri thức nhân loại vô cùng rộng lớn, tuy nhiên, người giáo viên cần không ngừng trau dồi kiến thức, đặc biệt phải thạo lĩnh vực chuyên môn của mình, đáp ứng ngày càng tốt hơn yêu cầu của sự nghiệp giáo dục - đào tạo. Trên tinh thần nắm vững quan điểm của Chủ nghĩa Mác - Lênin “bản thân nhà giáo dục cũng cần phải được giáo dục", nhằm nâng cao chất lượng dạy và học, để xứng đáng là “người chiến sĩ trên mặt trận tư tưởng văn hóa", Hồ Chí Minh nhấn mạnh: ''Người huấn luyện phải học tập mãi thì mới làm tốt được công việc của mình. Người huấn luyện nào tự cho mình là biết đủ cả rồi thì người đó là dốt nhất". Người dẫn lại câu nói của Khổng Tử: “Học không biết chán, dạy không biết mỏi" và lời dạy của V.I.Lênin: “Học, học nữa, học mãi" để nhấn mạnh rằng người huấn luyện nào tự mãn cho mình giỏi rồi mà dừng việc học lại là lùi bước, là lạc hậu, là tự đào thải mình. Phải thường xuyên tự bồi dưỡng, nâng cao trình độ chuyên môn, phương pháp sư phạm để thực sự là tấm gương sáng cho học sinh noi theo. Muốn có tri thức thì phải học. Về thăm thầy và trò Trường Đảng cao cấp Nguyễn Ái Quốc tháng 9-1949 (nay là Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh), Người đã đặt bút ghi trong trang đầu quyển sổ vàng của nhà trường “Học để làm việc, làm người, làm cán bộ. Học để phụng sự đoàn thể, giai cấp và nhân dân, Tổ quốc và nhân loại". Theo Bác, học ở đây không phải là làm quan to, quan nhỏ mà là học để có tri thức, học để có đạo đức cách mạng, “học để làm việc", để nuôi sống bản thân mình, nuôi sống gia đình và làm giàu cho xã hội. Người thầy cũng vậy, phải học những tri thức tự nhiên, xã hội,... tiếp thu tích lũy những kiến thức trong quá trình học tập, từ đó áp dụng linh hoạt, sáng tạo những tri thức mình đã học vào thực tiễn làm việc thì mới gặt hái được kết quả. Người thầy nêu gương rõ nét nhất khi có trách nhiệm đi tiên phong trong việc tự học, tự nghiên cứu nâng cao năng lực công tác, trình độ chuyên môn để đáp ứng yêu cầu của nhiệm vụ được phân công. Đây không chỉ là một trong những đặc thù của người trí thức, mà theo Chủ tịch Hồ Chí Minh đó còn là nhiệm vụ hàng đầu của trí thức, của nhà giáo - “chỉ có một thứ ham là ham học, ham làm, ham tiến bộ”.

                Ngoài việc nhắc nhở các thầy giáo phải không ngừng học tập nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, Người cũng lưu ý một vấn đề hết sức quan trọng đó là học tập chính trị, vì “có học tập lý luận Mác - Lênin thì mới củng cố được đạo đức cách mạng, giữ vững lập trường, nâng cao sự hiểu biết về trình độ chính trị mới làm nòng cốt công tác Đảng giao phó”. Trong giáo dục, Người nhắc nhở các thầy giáo và các nhà quản lý giáo dục cần quan tâm đến phương pháp giáo dục, phải am hiểu sâu sắc lĩnh vực chuyên môn giảng dạy, bởi vì: “muốn huấn luyện thợ rèn, thợ nguội thì người huấn luyện phải thạo nghề rèn, nghề nguội". Tài của người giáo viên còn thể hiện ở chỗ linh hoạt, mềm dẻo, sáng tạo trong phương pháp giảng dạy không được phép “câu nệ”, “hình thức”, “nhồi sọ” mà phải biết “quý hồ tinh bất quý hồ đa” và “việc cốt yếu là phải làm cho học sinh thấu hiểu vấn đề”. Tài của thầy giáo còn thể hiện ở khả năng biên soạn giáo án, tài liệu, cập nhật tài liệu học tập, hiểu biết sâu sắc người học. Đây là năng lực quan trọng, nhờ có sự gia công về mặt sư phạm mà nội dung tri thức, bài học được chuyển tải phù hợp với đặc điểm tâm lý, trình độ, kinh nghiệm của người học và tri thức được mang tính mới mẻ, hiện đại. Vì vậy, để nâng cao chất lượng của hoạt động dạy và học thì thầy giáo phải rèn luyện mình thêm trong thực tiễn đấu tranh của xã hội, tiếp thu lấy chất lượng sống ở đó mà truyền lại cho thế hệ trẻ: “Thầy giáo và học trò, tùy hoàn cảnh và khả năng cần tham gia vào những công tác xã hội ích nước lợi dân”. Những kiến thức thực tiễn đó mới thật là dòng sữa ngọt lành nuôi dưỡng thế hệ đang lớn lên.

                Lời Bác dạy: “Giáo viên phải chú ý cả tài, cả đức” cách đây hơn nửa thế kỷ vẫn tươi mới, thiết thực đối với ngành Giáo dục - Đào tạo, là kim chỉ nam cho các thế hệ những người làm công tác “trồng người”. Đảng, Nhà nước và nhân dân đang tạo điều kiện tốt để ngành Giáo dục - Đào tạo thực hiện tốt nhiệm vụ cao cả của mình. Thiết nghĩ, để xứng đáng là “người thầy” theo tư tưởng Hồ Chí Minh, mỗi thầy giáo, cô giáo cần luôn có ý thức rèn đức - luyện tài, tự tu dưỡng, trau dồi phẩm chất đạo đức cách mạng, yêu nghề - yêu người, nâng cao năng lực chuyên môn đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ của cách mạng. Đồng thời, kiên quyết đấu tranh loại bỏ những hiện tượng tiêu cực, sai trái trong giáo dục. Tự mình phấn đấu trở thành người nhà giáo tốt, thực sự là hình mẫu cho người học, để nghề dạy học xứng đáng là nghề cao quý nhất trong những nghề cao quý mà Bác Hồ đã dành tặng.

ĐẶNG CÔNG THÀNH. Quan điểm Hồ Chí Minh về vai trò của người thầy và ý nghĩa trong tình hình hiện nay / Đặng Công Thành // Sách Chủ tịch Hồ Chí Minh với sự nghiệp giáo dục Việt Nam. - H.: Hồng Đức, 2021. - Tr. 273-277

                 Trong suốt cuộc đời hoạt động cách mạng, từ một thầy giáo Nguyễn Tất Thành cho đến khi trở thành lãnh tụ của Đảng, Nhà nước - Hồ Chí Minh rất quan tâm đến giáo dục và đào tạo, về vai trò, nhiệm vụ của người thầy giáo trong sự nghiệp cách mạng của dân tộc Việt Nam. Chính vì vậy, việc học tập, nghiên cứu và vận dụng những quan điểm của Hồ Chí Minh về vai trò người thầy để bồi dưỡng đội ngũ nhà giáo đáp ứng yêu cầu đổi mới giáo dục và đào tạo của nước nhà càng có ý nghĩa quan trọng, cấp thiết trong giai đoạn hiện nay.

                1. Quan điểm Hồ Chí Minh về vai trò của người thầy

                Người thầy giáo giữ vai trò quan trọng trong sự nghiệp giáo dục.

                Mục đích cao cả của Chủ tịch Hồ Chí Minh là mong cho dân tộc, nhân dân có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc. Người khẳng định: “Một dân tộc dốt là một dân tộc yếu”. Trong sự nghiệp giáo dục mà Hồ Chí Minh và Đảng ta dày công thực hiện, người thầy giáo giữ vị trí trung tâm trong hệ thống giáo dục, quyết định đến sự vận hành của cả hệ thống giáo dục. Nhiệm vụ của người thầy gắn liền với nhiệm vụ chính trị. Người thầy vừa mang phẩm chất đạo đức chung của người cách mạng, vừa mang phẩm chất đạo đức của nghề dạy học.

                Hồ Chí Minh luôn đề cao vai trò của các nhà giáo đối với xã hội. Người nhấn mạnh: “...người thầy giáo tốt là những anh hùng vô danh. Đây là một điều rất vẻ vang. Nếu không có thầy giáo dạy dỗ cho con em nhân dân, thì làm sao mà xây dựng chủ nghĩa xã hội được? Vì vậy nghề thầy giáo rất là quan trọng, rất là vẻ vang”. Sách vở, giáo trình, tài liệu dù tốt, dù hay đến đâu chăng nữa nếu không có người thầy hướng dẫn, giảng giải, phân tích, đúc kết cũng không thể phát huy hết tác dụng. Người khẳng định: “Không có thầy giáo thì không có giáo dục”.

                Với tầm nhìn chiến lược của một vĩ nhân, một nhà chính trị, một hiền triết, Hồ Chí Minh đánh giá rất cao vai trò người thầy trong công cuộc kiến thiết nước nhà. Theo Người, người thầy, người trí thức, người chiến sĩ trên mặt trận tư tưởng - văn hóa có sứ mệnh quan trọng là hun đúc nguyên khí quốc gia, đào tạo lớp người tài - đức kế tục sự nghiệp cách mạng của dân tộc và nhân dân ta. Và Hồ Chí Minh đã giao phó nhiệm vụ quan trọng, khó khăn cho đội ngũ nhà giáo. Đây là nhiệm vụ rất vẻ vang nhưng rất nặng nề của những người theo đuổi sự nghiệp trồng người.

                Người thầy là tấm gương sáng cho học sinh, cho nhân dân.

                Hồ Chí Minh nhấn mạnh: ‘‘Một tấm gương sống còn có giá trị hơn 100 bài diễn văn tuyên truyền”, do đó tấm gương nhà giáo có tác dụng giáo dục học sinh rất lớn. Thầy tốt thì ảnh hưởng tốt, thầy xấu thì ảnh hưởng xấu; một tấm gương sáng của người thầy sẽ có cả một thế hệ noi theo, ngược lại một hành vi xấu của người thầy có thể làm tổn thương, làm mất niềm tin cả một lớp người. Người luôn dặn dò các thầy, cô giáo không được đánh mất phẩm chất của mình, dù hoàn cảnh nào cũng phải là tấm gương cho học sinh noi theo, tránh thái độ thờ ơ đối với xã hội, xa rời đời sống thực tế, lười biếng trong học tập....

                Nhà giáo là tấm gương cho nhân dân. cho thế hệ trẻ của đất nước noi theo. Người thầy nêu gương rõ nét nhất khi có trách nhiệm đi tiên phong trong việc tự học, tự nghiên cứu nâng cao năng lực công tác, trình độ chuyên môn để đáp ứng yêu cầu của nhiệm vụ được phân công. Đây không chỉ là một trong những đặc thù của người thầy, mà theo Hồ Chí Minh đó còn là nhiệm vụ hàng đầu của nhà giáo - “chỉ có một thứ ham là ham học, ham làm, ham tiến bộ”. Người thầy phải gương mẫu thực hiện tốt các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, đi đầu trong mọi công việc của cơ quan, đơn vị, công tác được đoàn thể giao phó, làm việc hết sức mình, làm việc chất lượng, làm việc có hiệu quả, có năng suất. Bản thân mỗi người thầy giáo phải xây dựng cho mình một phong cách sống khiêm tốn, giản dị, điều độ, ngăn nắp, vệ sinh, yêu lao động, không ham danh lợi, chức quyền.

                Lối sống mẫu mực mà mỗi người thầy thể hiện không chỉ bảo tồn những giá trị văn hóa tốt đẹp của dân tộc Việt Nam, mà còn góp phần nâng cao ý thức tôn trọng pháp luật, hình thành tác phong công nghiệp cho người lao động; đưa lối sống văn hóa thấm sâu vào từng người, từng gia đình, khu dân cư, công sở, doanh nghiệp... góp phần tạo sự thống nhất về tư tưởng và hành động trong mọi tầng lớp nhân dân để xây dựng và phát triển đất nước. Người thầy không chỉ chọn lọc, tiếp thu những tinh hoa, trí tuệ của nhân loại, mà còn có trách nhiệm giới thiệu, thể hiện và phổ biến với loài người tiến bộ trên toàn thế giới về truyền thống văn hóa của dân tộc ta, tinh thần yêu nước của nhân dân ta đã được hun đúc qua hàng nghìn năm văn hiến. Đó chính là sự kết tinh tinh thần và trí tuệ của cả dân tộc Việt Nam - dân tộc yêu chuộng hòa bình, công lý, là người bạn đáng tin cậy cho sự hợp tác và phát triển. Tất cả những giá trị đó cần được thể hiện qua chính phong cách, lối sống, tư duy, hành động, chất lượng, hiệu quả của công việc mà người thầy đảm nhận trách nhiệm trước Tổ quốc và nhân dân.

                Phẩm chất và năng lực người thầy quyết định chất lượng đào tạo con người.

                Hồ Chí Minh đặt người thầy ở vị trí cao quý nhưng Người cũng đòi hỏi ở các thầy, cô giáo một trách nhiệm rất nặng nề. Người đã nhấn mạnh chuyên môn, nghiệp vụ của người thầy: “Có tài mà không có đức là hỏng, có đức mà chỉ i tờ thì dạy thế nào". Theo Người, người thầy phải có kiến thức vừng vàng, sâu rộng về chuyên môn, trong đó kết hợp nhuần nhuyễn giữa lý thuyết, thực tế và kinh nghiệm. Hơn nữa. người thầy không chỉ cần có vốn sống, vốn hiểu biết rộng rãi về con người, về tự nhiên và xã hội mà còn phải có óc sáng tạo, nhạy bén, luôn đi tìm cái mới thì hiệu quả giảng dạỵ, giáo dục mới được đảm bảo, mới thực sự trở thành người thầy giỏi. Vì thế, Người mong muốn "giáo viên cũng phải tiến bộ cho kịp thời đại thì mới làm được nhiệm vụ. Chớ tự túc, tự mãn, cho là giỏi rồi thì dừng lại. Mà dừng lại là lùi bước, là lạc hậu, mình tự đào thải trước. Cho nên phải cố gắng học tập để cải tạo mình, cải tạo tư tưởng của mình, cải tạo con em và giúp vào việc cải tạo xã hội”. Do vậy, Hồ Chí Minh yêu cầu người thầy phải chú ý rèn luyện cả đức và tài. Người nhấn mạnh đạo đức của người thầy, phải có chính trị trước rồi có chuyên môn, đức phải có trước tài, đạo đức nền tảng để tài năng phát huy, tỏa sáng.

                Gắn liền với tình cảm thương yêu học trò là phẩm chất đạo đức “thật thà yêu nghề” của người thầy. Nó được biểu hiện trước hết là sự gắn bó, thiết tha với nghề nghiệp trong bất cứ hoàn cảnh nào. Hồ Chí Minh thường căn dặn những người làm thầy: “Nên yên tâm công tác”, không nên "đứng núi này trông núi nọ, muốn thay đổi công tác, kèn cựa vì địa vị”. Người thầy yêu nghề phải có tinh thần khắc phục mọi khó khăn, gian khổ để hoàn thành tốt nhiệm vụ, góp phần đưa sự nghiệp giáo dục nước nhà phát triển.

                Người yêu cầu: “Người huấn luyện phải học tập mãi thì mới làm tốt được công việc của mình. Người huấn luyện nào tự cho mình là biết đủ cả rồi thì người đó là dốt nhất”. Người dẫn lại câu nói của Khổng Tử: “Học không biết chán, dạy không biết mỏi” và lời dạy của V.I.Lênin: “Học, học nữa, học mãi” để nhấn mạnh rằng, người thầy giáo nào tự mãn cho mình giỏi rồi mà dừng việc học lại là lùi bước, là lạc hậu, là tự đào thải mình. Phải thường xuyên tự bồi dưỡng, nâng cao trình độ chuyên môn, phương pháp sư phạm để thực sự là tấm gương sáng cho người học noi theo.

                Người thầy có tinh thần đoàn kết, kỷ luật, phát huy dân chủ trong nhà trường.

                Trong môi trường sư phạm, Hồ Chí Minh hiểu rất rõ giá trị của sự đoàn kết. Đoàn kết sẽ tạo ra bầu không khí vui vẻ, thoải mái, kích thích sự khám phá trong giảng dạy và nghiên cứu; đồng thời sẽ tạo ra môi trường thi đua lành mạnh, phát huy được khả năng của cá nhân và sức mạnh của tập thể, cống hiến cho sự nghiệp giáo dục. Chính vì vậy, Người luôn giáo dục tinh thần đoàn kết trong đội ngũ thầy cô giáo và coi đây là phẩm chất đạo đức quan trọng của người thầy. Người yêu cầu: “Trước hết là phải đoàn kết. Đoàn kết thật sự, giữa thầy và thầy, giữa thầy và trò, giữa trò và trò, giữa cán bộ và công nhân. Toàn thể nhà trường phải đoàn kết thành một khối, đoàn kết phải thật sự trăm phần trăm chứ không phải chỉ là đoàn kết miệng”.

                Người có thái độ rất kiên quyết với chủ nghĩa cá nhân, coi nó là mầm độc đẻ ra hàng trăm thứ bệnh nguy hiểm, quái ác như: quan liêu, bè phái, tham ô, lãng phí, trục lợi, địa vị, tự cao tự đại... Theo Người, muốn chống chủ nghĩa cá nhân trong ngành giáo dục, người thầy phải là "người trí thức của giai cấp công nhân, hết lòng hết sức phục vụ công nông”, làm việc gì phải nghĩ đến lợi ích chung trước, lợi ích riêng sau.

                Theo Hồ Chí Minh, người thầy còn phải có tinh thần dân chủ, phát huy cao độ tinh thần dân chủ xã hội chủ nghĩa trong nhà trường: Với đồng chí, đồng nghiệp cần mạnh dạn phê bình và thật thà phê bình. Mỗi thầy cô giáo phải tự đánh giá mình để thấy mình có ưu điểm và hạn chế, từ đó tự điều chỉnh trước. Tự phê bình là công việc thường xuyên hàng ngày và phải xuất phát từ ý muốn đoàn kết. Tự phê bình và phê bình là phải thật thà, trung thực, không được che đậy khuyết điểm, không được lợi dụng nguyên tắc tự phê bình và phê bình để công kích, đả phá nhau. Không được né tránh, nể nang, dĩ hòa vi quý, mà phải nhìn nhận, đánh giá người khác một cách khách quan, công bằng. Tự phê bình và phê bình phải khéo và tinh tế, phải có tình đồng chí, đồng nghiệp. Tự phê bình và phê bình là để xây dựng tập thể đoàn kết, phát triển. Với người học, Người nói: “Trong trường, cần có dân chủ. Đối với mọi vấn đề, thầy và trò cùng nhau thảo luận, ai có ý kiến gì đều thật thà phát biểu. Điều gì chưa thông suốt, thì hỏi, bàn cho thông suốt. Dân chủ nhưng trò phải kính thầy, thầy phải quý trò, chứ không phải là "cá đối bằng đầu”. Đây là mối quan hệ tốt đẹp của thầy và trò trong xã hội dân chủ, đó là sự kế thừa những giá trị đạo lý tôn sư trọng đạo của dân tộc ta.

                2. Ý nghĩa của quan điểm Hồ Chí Minh về vai trò người thầy trong tình hình hiện nay

                Thấm nhuần tư tưởng Hồ Chí Minh, Đảng và Nhà nước đã nhận thức rõ vị trí, vai trò, năng lực và phẩm chất của người thầy trong sự nghiệp cách mạng của dân tộc Việt Nam. Văn kiện Hội nghị Trung ương 2 khóa VIII của Đảng chỉ rõ: Giáo viên là nhân tố quyết định chất lượng của giáo dục và được xã hội tôn vinh.

                Gần đây, Nghị quyết Hội nghị Trung ương 8 khóa XI (Nghị quyết số 29- NQ/TW) về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo đã tiếp tục khẳng định quan điểm “Giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu, là sự nghiệp của Đảng, Nhà nước và của toàn dân” và đề ra 9 nhiệm vụ; trong đó có nhiệm vụ về “Phát triển đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý, đáp ứng yêu cầu đổi mới giáo dục và đào tạo" nhằm chuẩn hóa đội ngũ nhà giáo theo từng cấp học và trình độ đào tạo, đồng thời có cơ chế kiên quyết đưa ra khỏi ngành đối với những người không đủ phẩm chất, năng lực, không đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ, khuyến khích đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ... Cùng với đó bản thân ngành giáo dục cần đặc biệt coi trọng vấn đề xây dựng đội ngũ giáo viên và đề ra nhiệm vụ, giải pháp nâng cao chất lượng đội ngũ giáo viên và cán bộ quản lý giáo dục các cấp như: thực hiện chương trình bồi dưỡng thường xuyên, đổi mới phương pháp giảng dạy; mở nhiều lớp bồi dưỡng phương pháp dạy học tích cực cho cán bộ, giáo viên ở các cấp học; các trường học thường xuyên tổ chức thao giảng, dự giờ để đánh giá rút kinh nghiệm, nhắc nhở tinh thần trách nhiệm của giáo viên nhằm nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ. Việc áp dụng các phương pháp dạy học tích cực vào công tác giảng dạy đã kích thích tính năng động, sáng tạo của học sinh trong chiếm lĩnh tri thức...

                Đất nước ta đang trong thời kỳ đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa tiến tới toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế, đòi hỏi sự nghiệp giáo dục, đào tạo phải đi trước một bước nhằm chuẩn bị nhân tài, lực lượng lao động đáp ứng yêu cầu trong giai đoạn mới. Trước những đòi hỏi đó, hơn ai hết mỗi giáo viên, cán bộ quản lý giáo dục cần thấm nhuần sâu sắc tư tưởng của người thầy vĩ đại Hồ Chí Minh kính yêu về nghề dạy học; từ đó vận dụng sáng tạo và tổ chức tốt việc học tập và làm theo tư tưởng, tấm gương đạo đức và phong cách của Người.

TRẦN NAM CHUÂN. Tư tưởng Hồ Chí Minh về vai trò, trách nhiệm của nhà giáo Việt Nam trong sự nghiệp trồng người / Trần Nam Chuân // Sách Chủ tịch Hồ Chí Minh với sự nghiệp giáo dục Việt Nam. - H.: Hồng Đức, 2021. - Tr. 291-293

                Sự nghiệp trồng người - giáo dục đào tạo được xác định rõ là sự nghiệp chung của Đảng, Nhà nước và toàn xã hội, nhưng người trực tiếp thực hiện nhiệm vụ là nhà giáo. Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, vấn đề then chốt quyết định chất lượng giáo dục đào tạo chính là đội ngũ những người thầy giáo và cán bộ quản lý giáo dục.

                Việt Nam là một quốc gia, dân tộc có truyền thống hiếu học, tôn sư trọng đạo. Là người Việt Nam, có lẽ không ai không nhớ câu châm ngôn "Nhất tự vi sư, bán tự vi sư”. Các thế hệ học sinh và nhà giáo chúng ta đều thấm nhuần truyền thống đó. Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Nhiệm vụ của giáo dục là rất quan trọng và vẻ vang, vì nếu không có thầy giáo thì không có giáo dục. Không có giáo dục, không có cán bộ thì cũng không nói gì đến kinh tế văn-hóa". Thầy giáo là người định hướng, dẫn dắt thế hệ trẻ từng bước lĩnh hội kiến thức, cho nên thời nào cũng vậy, vai trò của thầy giáo là đặc biệt quan trọng trong sự nghiệp trồng người.

                Từ thuở xa xưa, cha ông ta đã coi việc học như quốc kế sinh tồn, hưng thịnh của đất nước. Người thầy giáo, cô giáo từ xưa đến nay đã là một biểu tượng của tri thức, trí tuệ, tài năng và là nhân tố quyết định sự phát triển giáo dục và đào tạo nhân tài cho đất nước. Truyền thống hiếu học, “tôn sư trọng đạo” từ mạch nguồn như một lẽ tất yếu đã là nét đẹp văn hóa ngàn đời của dân tộc Việt Nam. Truyền thống ấy thể hiện bằng thành tích học tập, tình cảm, sự kính trọng, lòng biết ơn của lớp lớp thế hệ học trò dành cho người thầy và còn được đúc kết thành tục ngữ, thành ngữ lưu giữ suốt chiều dài lịch sử dân tộc: “Không thầy đố mày làm nên”; “Muốn sang thì bắc cầu Kiều/Muốn con hay chữ thì yêu kính thầy”... để tỏ sự trân trọng, lòng thành kính của xã hội dành cho nhà giáo. Vì vậy, Ngày Nhà giáo Việt Nam được tổ chức hằng năm vào ngày 20/11 không chỉ là dịp để Ngành Giáo dục tôn vinh những người hoạt động trong ngành, học trò thể hiện lòng thành kính “tôn sư trọng đạo” mà còn là dịp để xã hội tôn vinh, tri ân những người đã, đang gắn bó với nghề dạy học. Cố Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Phạm Văn Đồng đã nói: “Nghề dạy học là nghề cao quý nhất trong những nghề cao quý, nghề sáng tạo nhất trong những nghề sáng tạo”. Đảng và Nhà nước ta cũng thường xuyên hết lòng chăm lo đến ngành giáo dục và đội ngũ giáo viên và cán bộ quản lý giáo dục. Đảng và Nhà nước ta đặt giáo dục và người thầy ở vị trí cao nhất: “Giáo dục là quốc sách hàng đầu”. Và xem đầu tư cho giáo dục trở thành đầu tư cơ bản quan trọng nhất cho sự phát triển toàn diện của đất nước.

                Trong bài nói chuyện tại trường Đại học Sư phạm Hà Nội (10-1964), Người căn dặn: “Có gì vẻ vang hơn là nghề đào tạo những thế hệ sau này tích cực góp phần xây dựng chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản? Người thầy giáo tốt - thầy giáo xứng đáng là thầy giáo - là người vẻ vang nhất. Dù là tên tuổi không đăng trên báo, không được thưởng huân chương, song những người thầy giáo tốt là những anh hùng vô danh. Đây là một điều rất vẻ vang. “Nếu không có thầy giáo dạy dỗ cho con em nhân dân, thì làm sao mà xây dựng chủ nghĩa xã hội được? Vì vậy, nghề thầy giáo rất là quan trọng, rất là vẻ vang”. Vị thế của người thầy vô cùng quan trọng và thiêng liêng, cho nên Người nhắc nhở mọi người cần có quan niệm đúng về nghề dạy học, về vị thế của người thầy trong xã hội: “Ai có ý kiến không đúng về người thầy giáo thì phải sửa chữa”. Lời Bác dạy đã cho chúng ta hiểu thêm về vai trò của người thầy giáo đối với sự nghiệp giáo dục đào tạo của nước nhà.

                Nhận thức sâu sắc vị trí, vai trò của nhà giáo là một yếu tố đặc biệt quan trọng để mỗi giảng viên không ngừng vươn lên tự hoàn thiện bản thân mình, xứng đáng với trọng trách cao cả của người thầy. Để xứng đáng với vai trò người kỹ sư “trồng người”, người thầy phải không ngừng tu dưỡng rèn luyện trau dồi phẩm chất chính trị, đạo đức lối sống, phẩm chất nghề nghiệp, trình độ năng lực, tri thức và kĩ năng sư phạm. Phải thường xuyên tự bồi dưỡng, nâng cao trình độ chuyên môn, phương pháp sư phạm để thực sự là tấm gương sáng cho học sinh noi theo. Trong Đại hội Chiến sĩ thi đua toàn ngành Giáo dục ngày 21-2-1956, Người căn dặn: “Các cô, các chú là những thầy giáo, những cán bộ giáo dục đều phải luôn luôn cố gắng học thêm, học chính trị, học chuyên môn. Nếu không tiến bộ mãi thì sẽ không theo kịp đà tiến chung, sẽ trở thành lạc hậu”. Thấm nhuần lời dạy của Bác Hồ, kế thừa truyền thống “tôn sư trọng đạo” của dân tộc, Đảng và Nhà nước ta luôn khẳng định “Giáo dục là quốc sách hàng đầu. Phát triển giáo dục và đào tạo nhằm nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài”, phát huy mọi tiềm năng của con người, trong đó có vai trò của đội ngũ nhà giáo và những người làm công tác quản lý giáo dục. Trong nhiều kỳ đại hội, Đảng ta luôn xác định, phát triển đội ngũ nhà giáo là một nhiệm vụ quan trọng. Nghị quyết Đại hội XII của Đảng khẳng định: “Phát triển đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý, đáp ứng yêu cầu đổi mới giáo dục và đào tạo. Thực hiện chuẩn hóa đội ngũ nhà giáo theo từng cấp học và trình độ đào tạo”.

                Ngày nay, nhiệm vụ giáo dục, đào tạo với quy mô, chất lượng ngày càng tăng, đòi hỏi sự nỗ lực vượt bậc của cả gia đình và nhà trường. Trong đó khâu đột phá mang tính chất quyết định đến chất lượng giáo dục - đào tạo đó là đổi mới và nâng cao chất lượng đội ngũ nhà giáo. Tuy nhiên, việc xây dựng đội ngũ giáo viên luôn luôn gắn liền với việc nâng cao chất lượng của từng thầy, cô giáo và cũng chỉ có từng giáo viên tự phấn đấu vươn lên hoàn thiện mình, vượt qua chính mình thì mới có những tập thể sư phạm giỏi, đáp ứng yêu cầu nền giáo dục, đào tạo mới hiện nay.

                Điều đó đặt ra cho mỗi nhà giáo, phải không ngừng nâng cao bản lĩnh chính trị, trau dồi đạo đức cách mạng; tác phong chính quy mẫu mực của người thầy giáo; xây dựng động cơ đúng, trách nhiệm cao, sẵn sàng nhận và hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ được giao. Mỗi giáo viên phải nêu cao tinh thần tự học tập, nghiên cứu để mở rộng hiểu biết của mình về cả kiến thức chuyên ngành, liên ngành, khoa học xã hội cũng như văn học, lịch sử, văn hóa, đặc biệt là những tri thức mới về khoa học sư phạm hiện đại, kỹ năng giảng dạy theo phương pháp tích cực, có phương pháp sư phạm tốt bao giờ cũng có kết quả giảng dạy cao. Và khẳng định được vị thế của người thầy trong sự nghiệp trồng người.

                Trong điều kiện mới, mỗi thầy, cô giáo cần quán triệt sâu sắc và thực hiện tốt Phong trào thi đua “Dạy giỏi, học thực chất, đánh giá thực chất, kỷ luật nghiêm, chính quy, mẫu mực, an toàn tuyệt đối”. Mỗi giáo viên cần chú trọng đổi mới phương pháp, ứng dụng các phương tiện kỹ thuật tiên tiến, công nghệ thông tin nâng cao chất lượng, hiệu quả giảng dạy. Biết kết hợp chặt chẽ giữa dạy-học với rèn luyện, dạy chữ, dạy nghề với dạy làm người. Tích cực giúp đỡ, dạy bảo học sinh với tinh thần và trách nhiệm thật cao, đảm bảo cho người học khi ra trường có phẩm chất chính trị, đạo đức tốt, trình độ quản lý, chỉ huy khá và giỏi.

                Ngày nay, đất nước ta đang trong thời kỳ đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế, đòi hỏi sự nghiệp giáo dục - đào tạo phải đi trước một bước nhằm chuẩn bị nhân tài, nguồn nhân lực chất lượng cao cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới. Trước những đòi hỏi mới, hơn bao giờ hết, mỗi giáo viên, cán bộ quản lý giáo dục Việt Nam cần thấm nhuần sâu sắc, tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh về phát huy hơn nữa vai trò, trách nhiệm của người thầy giáo trong sự nghiệp trồng người.

PHẦN II

NGHỀ DẠY HỌC

Chủ nghĩa nhân đạo trong quan điểm giáo dục của Chủ tịch Hồ Chí Minh / Nguyễn Đăng Tiến, Nguyễn Phú Tuấn biên soạn // Sách Danh nhân giáo dục Việt Nam và Thế giới. - H.: Văn hóa Thông tin, 2011. - Tr. 9-14

Trong tiến trình phát triển của nhân loại, nhiều nhà tư tưởng giáo dục, nhiều nhà triết học đã bàn đến chủ nghĩa nhân đạo trên những bình diện và mức độ khác nhau.

Ở nước ta, từ xưa, các sĩ phu phong kiến vẫn lấy chữ Nhân làm gốc. Nó được biểu thị trong "Hịch tướng sĩ" của Trần Hưng Đạo, "Bình Ngô đại cáo" của Nguyễn Trãi, trong "Truyện Kiều" của Nguyễn Du, cũng như nhiều tác phẩm khác. Trong lịch sử tư tưởng Việt Nam, chủ nghĩa nhân đạo được thể hiện ở hai dòng lớn: Dòng thứ nhất là tình thương đối với con người; dòng thứ hai, cao hơn, trực tiếp đặt ra yêu cầu phát triển các năng lực và phẩm chất của con người.

Hồ Chủ tịch là người đã kế thừa những nét ưu việt của chủ nghĩa nhân đạo Việt Nam và thế giới, được nâng lên ở một tầm cao mới.

Lòng nhân ái của Hồ Chủ tịch đã được thể hiện trong toàn bộ sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc và xây dựng chủ nghĩa xã hội. Lòng nhân ái đó được Người dành cho tất cả mọi người, đặc biệt là cho thế hệ trẻ. Nó bắt nguồn từ nỗi khổ đau của người dân mất nước, nỗi bần cùng, cay đắng của bản thân, gia đình, quê hương, của quần chúng cần lao bị áp bức, bóc lột muốn vùng lên để giành lại quyền sống và giá trị của con người.

Trong hơn 30 năm bôn ba nơi hải ngoại để "tìm đường cứu nước", cùng với việc đấu tranh trên mặt trận chính trị, quân sự, Người đã đặt giáo dục ở một vị trí quan trọng như một phương tiện tiến công vào dinh lũy của kẻ thù xâm lược. Từ "Bản yêu sách của nhân dân Việt Nam" năm 1919 đến "Bản án chế độ thực dân Pháp" năm 1925, Người đã kịch liệt lên án chính sách giáo dục của Pháp nhằm đẩy dân tộc ta tới 95% dân số mù chữ, lên án mục đích và phương pháp giáo dục chỉ nhằm phục vụ cho tầng lớp thống trị xâm lược. Người chỉ rõ đó là một nền giáo dục chỉ nhằm "đào tạo tùy phái, thông ngôn và viên chức nhỏ đủ số cần thiết phục vụ cho bọn xâm lược"; chỉ nhằm "gieo rắc một nền giáo dục đồi bại, xảo trá và nguy hiểm hơn sự dốt nát", chỉ dạy cho người học một lòng "trung thực giả dối", "sùng bái những kẻ mạnh hơn mình", "khinh rẻ nguồn gốc giống nòi mình và trở nên ngu ngốc thêm".

Cùng với sự tố cáo, Người đã bằng hành động, đưa đơn, viết báo yêu cầu thực dân Pháp phải nới rộng "quyền được học tập của nhân dân ta, trước hết là của thanh thiếu niên"

Tiếp xúc với "Luận cương của Lênin về các vấn đề dân tộc và thuộc địa" và trường Đại học Đông phương, Người đã tìm thấy ở đây hình ảnh một nhà trường dân chủ, tiến bộ của Việt Nam trong tương lai khi đất nước thoát khỏi vòng nô lệ - Và khi trở về hoạt động cách mạng ở Trung Quốc, ở Xiêm cũng như trong thời kì tiền khởi nghĩa ở chiến khu Việt Bắc, Người đã chuẩn bị những tiền đề cho một nền giáo dục dân tộc, dân chủ. Đó chính là những đốm lửa đầu tiên của chủ nghĩa nhân đạo cộng sản trong quan điểm giáo dục của Người.

Cách mạng Tháng Tám thành công chẳng những là bước ngoặt vĩ đại của lịch sử dân tộc mà còn là điều kiện thực hiện để đem lại ánh sáng trí tuệ cho con người.

Lòng nhân ái được ấp ủ từ thuở thiếu thời, nay được Hồ Chủ tịch biểu thị bằng nhiều lời lẽ thiết tha:

"Tôi chỉ có một ham muốn, ham muốn tột bậc là làm sao cho nước ta được hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ta ai cũng có cơm ăn, áo mặc, ai cũng được học hành".

Trong thư "Gửi Ủy ban nhân dân các kì, tỉnh, huyện và làng" tháng 10-1945, Hồ Chủ tịch nhấn mạnh: "Ngày nay, chúng ta đã xây dựng nên nước Việt Nam dân chủ cộng hòa. Nhưng nếu nước độc lập mà dân không được hưởng hạnh phúc tự do, thì độc lập cũng chẳng có nghĩa lí gì".

Chính vì vậy, chúng ta càng hiểu rõ hơn vì sao trong tình thế cấp bách sau Cách mạng tháng 8-1945, Người lại chủ trương "chống giặc đói, giặc dốt và giặc ngoại xâm".

Chủ nghĩa nhân đạo trong quan điểm giáo dục của Hồ Chủ tịch còn được thể hiện nhất quán trong mọi sắc lệnh, chỉ thị và hoạt động thực tiễn của Người suốt từ đầu cho tới lúc Người đi xa - Chiến dịch diệt dốt thần kì là một trong những minh chứng rõ ràng. Thật vậy, với phong trào bình dân học vụ, Hồ Chủ tịch đã trả lại gia tài văn hóa cho nhân dân, đem lại quyền làm chủ thật sự về chính trị, kinh tế, xã hội... cho mọi người. Bình dân học vụ còn là nền tảng ban đầu cho việc từng bước nâng cao dân trí, điều kiện tất yếu để bảo đảm thực hiện khẩu hiệu "dân tộc độc lập, dân quyền tự do, dân sinh hạnh phúc". Ở đây, chủ nghĩa nhân đạo của Người mang đậm tính dân tộc, tính giai cấp, tính chiến đấu, tính quần chúng, tính thực tiễn và vì thế nó đã nhanh chóng đưa đất nước ta từ chỗ có 95% số dân mù chữ trở thành biết chữ, có trình độ văn hóa mỗi ngày một cao.

Chủ nghĩa nhân đạo trong quan điểm giáo dục của Hồ Chủ tịch được đặc biệt dành cho thế thệ trẻ.

Nhân ngày khai trường đầu tiên của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, Người nói:

"Ngày nay các em được cái may mắn hơn cha anh là được hấp thụ một nền giáo dục của một nước độc lập, một nền giáo dục nó sẽ đào tạo các em nên những người công dân hữu ích cho nước Việt Nam,- một nền giáo dục làm phát triển hoàn toàn những năng lực sẵn có của các em".

Người căn dặn học sinh phải “cố gắng, siêng năng học tập, ngoan ngoãn, nghe thầy, yêu bạn”, Người kì vọng ở thế hệ trẻ sẽ làm cho Tổ quốc Việt Nam “theo kịp các nước khác trên toàn cầu”, Người chỉ rõ "Non sông Việt Nam có trở nên tươi đẹp hay không, dân tộc Việt Nam có bước tới đài vinh quang để sánh vai với các cường quốc năm châu được hay không, chính là nhờ một phần lớn ở công học tập của các em".

Trong những dịp khai trường, tết Trung thu, ngày Thiếu nhi quốc tế, v.v... Người đều gửi thư ân cần dạy bảo, căn dặn các thầy cô giáo, các bậc cha mẹ, các anh chị phụ trách và mọi người phải hết sức quan tâm, chăm sóc thế hệ trẻ.

Trước lúc đi xa, Người cũng không quên di chúc lại: "Bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau là một việc rất quan trọng và rất cần thiết" và Người còn "để lại muôn vàn tình thương yêu cho toàn dân, toàn Đảng, cho toàn thể bộ đội, cho các cháu thanh niên và nhi đồng".

Khác với quan điểm của giai cấp phong kiến và giai cấp tư sản, chủ nghĩa nhân đạo trong quan điểm giáo dục của Hồ Chủ tịch là sự phát triển toàn diện của toàn xã hội hòa nhập với phát triển nhân cách toàn diện ở mỗi con người. Nó còn là sự bình đẳng giáo dục đối với tất cả mọi người, không phân biệt dân tộc, tuổi tác, trai gái, không phân biệt Bắc - Nam, xuôi ngược. Nó được cụ thể hóa trên mọi ngành giáo dục, từ mẫu giáo, phổ thông, sư phạm đến các bậc đại học và chuyên nghiệp. Nó được quán triệt ở mục đích, nội dung, phương pháp giáo dục, ở tổ chức quản lí đến các lực lượng giáo dục.

Có thể nói, chủ nghĩa nhân đạo nói chung và trong quan điểm giáo dục nói riêng của Hồ Chủ tịch là sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa đạo đức cổ truyền của dân tộc, tư tưởng tiến bộ của nhân loại và thế giới quan, nhân sinh quan Mác-Lênin, được vận dụng khéo léo, sáng tạo trong hoàn cảnh cụ thể của nước ta.

Để thực hiện đến cùng Chủ nghĩa nhân đạo cao cả này, Hồ Chủ tịch luôn nhắc nhở, căn dặn toàn Đảng, toàn dân:

"Hễ còn có một người Việt Nam bị bóc lột, bị nghèo nàn, thì Đảng vẫn đau thương, cho đó là vì mình chưa làm tròn nhiệm vụ. Cho nên Đảng vừa lo tích công việc lớn như đổi nền kinh tế và văn hóa tiên tiến, đồng thời lại luôn luôn quan tâm đến những việc nhỏ như tương cà mắm muối cần thiết cho đời sống hàng ngày của nhân dân".

Ở một dịp khác, Người lại nhấn mạnh: "Nếu dân đói là Đảng và Chính phủ có lỗi; nếu dân rét là Đảng và Chính phủ có lỗi; nếu dân dốt là Đảng và Chính phủ có lỗi; nếu dân ốm là Đảng và Chính phủ có lỗi".

                Chủ nghĩa nhân đạo cao cả đó, lí tưởng nhân văn đó còn được biểu thị ở chính nhân cách vĩ đại của Người, ở tấm gương ngời sáng trong đạo đức, tác phong, trong sinh hoạt giản dị thường ngày, ở chỗ quên mình vì mọi người, "lo trước thiên hạ, vui sau thiên hạ". Lí tưởng đó thật giản dị, trong sáng, song để thực hiện được, đòi hỏi cả xã hội và mỗi người chúng ta cho đến hôm nay vẫn phải cùng nhau phấn đấu, kiên trì vươn tới một cách gian khổ, lâu dài.

Vài nét lịch sử ngày Nhà giáo Việt Nam / Nguyễn Đăng Tiến, Nguyễn Phú Tuấn biên soạn // Sách Danh nhân giáo dục Việt Nam và Thế giới. - H.: Văn hóa Thông tin, 2011. - Tr. 15-26

Ngày Nhà giáo Việt Nam có nguồn gốc từ các phong trào trên thế giới. Năm 1946 "Liên đoàn quốc tế các nhà giáo" (FISE) được thành lập tại Pa-ri. Năm 1949, tại Vác-xa-va, Ba Lan, hội nghị FISE đưa ra dự thảo "Hiến chương các nhà giáo" nhằm đấu tranh cho một nền giáo dục dân chủ, tiến bộ và quyền lợi của giáo giới trong xã hội, tới năm 1954 mới được thông qua. Năm 1953 hội nghị FISE tại Béc-lin thống nhất giáo giới toàn thế giới, đoàn kết với các tổ chức dân chủ đấu tranh đòi nâng cao đời sống, cải thiện nền giáo dục và bảo vệ hòa bình. Tháng 8-1957, Hội nghị các nhà giáo thế giới bao gồm 57 nước, họp tại Vác-xa-va, đại diện cho hơn 10,5 triệu giáo viên quyết định lấy ngày 20-11 hàng năm làm ngày "Quốc tế Hiến chương các nhà giáo"

Ở nước ta hoạt động của giáo giới đã có từ trước CM Tháng Tám với các dòng yêu nước và cách mạng. Sau tháng 8-1945 tổ chức và hoạt động của giáo giới đã góp phần to lớn trong sự nghiệp xây dựng nền giáo dục dân tộc dân chủ, giáo dục xã hội chủ nghĩa.

Từ 25 đến 27-8-1946, Bộ Giáo dục đã triệu tập Đại hội giáo giới toàn quốc tại Hà Nội, bầu BCH liên đoàn giáo giới, vận động thành lập các liên đoàn địa phương. Các đại biểu đã trao đổi nhiều vấn đề quan trọng về giáo dục, khẳng định ba nguyên tắc: dân tộc, khoa học, đại chúng.

Tháng 7-1951, công đoàn Giáo dục VN thành lập với 11.000 đoàn viên.

Tháng 7-1953, tại Hội nghị giáo dục quốc tế Béc-lin, VN trở thành một thành viên của Liên đoàn giáo giới quốc tế. Miền Bắc hoàn toàn giải phóng, đội ngũ cán bộ giáo dục đạt những thành tựu to lớn.

Ngày 20-11-1958 là lần tổ chức trọng thể đầu tiên "Ngày Quốc tế Hiến chương các nhà giáo" tại Hà Nội.

Ngày 28-9-1982, Hội đồng Bộ trưởng (nay là Chính phủ) quyết định lấy ngày 20-11 hàng năm là "Ngày nhà giáo Việt Nam", UBND và Hội đồng giáo dục các cấp có nhiệm vụ đứng ra tổ chức kỷ niệm.

Xin nhắc lại lời nói sâu sắc của Chủ tịch Hồ Chí Minh: "Cớ gì vẻ vang hơn là đào tạo những thế hệ sau này tích cực góp phần xây dựng xã hội chủ nghĩa... Người thầy giáo tốt - thầy giáo xứng đáng là thầy giáo - là người vẻ vang nhất, dù tên tuổi không đăng trên báo, không được thưởng huân chương song những người thầy giáo tốt là những người anh hùng vô danh".

TRUYỀN THỐNG TÔN SƯ TRỌNG ĐẠO

Không phải chỉ có dân tộc ta mới có truyền thống tôn sư trọng đạo, song ở nước ta, ngoài những nét chung của nhiều nước trên thế giới, còn có những điểm riêng của mình. Đối với nước ta có thể nêu một số đặc điểm như sau:

-  Coi trọng ông thầy

-  Người thầy được đặt ở vị trí cao trong xã hội

-  Người thầy là chỗ dựa tinh thần của người dân

-  Yêu cầu cao về nhân cách đối với người thầy.

2.1. Coi trọng thầy

Tục ngữ có câu "Không thầy đố mày làm nên". Cùng suy nghĩ đó, ca dao cũng có câu:

"Muốn khôn thì phải có thầy

Không thầy dạy đố mày làm nên"

Bởi vậy, mọi người đều khuyên nhủ con em mình phải kính trọng thầy:  

“Trọng thầy mới được làm thầy

Những phường bội bạc sau này ra chi”

Còn các bậc cha mẹ thì khuyên nhủ:

"Muốn sang thì bắc cầu kiều

Muốn con hay chữ thì yêu lấy thầy"

Ngay cả khi công thành danh toại, vinh hoa phú quý cũng không được phép quên công ơn dạy dỗ của thầy:

"Mười năm rèn luyện sách đèn,

Công danh gặp bước chớ quên ơn thầy"

Ở đây, thái độ trọng thầy bắt gặp quan niệm của nho giáo. Trong sách Lễ ký có ghi:

"Làm thầy được rồi sau mới làm kẻ lớn được; làm kẻ lớn được rồi sau mới làm vua được. Cho nên ông thầy ấy là ông vua của sự học đó". (Năng vi sư nhiên hậu năng vi trưởng, năng vi trưởng nhiên hậu năng vi quan. Cố sư dã giả sở dĩ vi học chi quân dã).

Còn Tuân tử, một danh nho thời Chiến quốc nói:

"Có thầy, có phương pháp, đó là của quý của người ta, không có thầy, không có phương pháp, đó là cái vạ lớn của người ta".

Sở dĩ ông thầy được coi trọng vì từ vua đến dân, ai cũng coi thầy là người tượng trưng cho đạo lý làm người, đạo lý thánh hiền. Không những nắm vững đạo lý mà thầy còn có trách nhiệm cao quý là truyền đạo lý đó cho mọi người, nhất là cho các thế hệ học trò của mình khiến cho họ trở nên con người có học vấn, có nhân cách tốt đẹp, có năng lực giúp ích cho dân, cho nước. Người ta coi trọng ông thầy vì coi đó là một tấm gương mô phạm, mẫu mực, ai cũng cần lấy đó để noi theo.

Trong sử sách còn ghi lại nhiều câu chuyện tôn kính thầy học thật là xúc động. Xin kể vài dẫn chứng cổ kim sau:

- Đại tướng Các-nô (Carnot) nước Pháp nhân dịp về thăm nhà đã ghé qua trường học cũ thời thơ ấu thăm thầy xưa rất cung kính rồi nói với các học sinh nhỏ rằng “Suốt đời ta, nhất là ơn cha mẹ, sau đến ơn thầy ta đấy”!

- Tử Cống - một học trò của Khổng Tử - khi nói đến thầy mình đã đề cao đến mức như sau:

"Phu tử thì không ai sánh kịp được, như Trời kia không ai bắc thang mà lên được. Nếu Phu tử được có nước mà trị thì có thể nói là gây dựng cho dân được nên người, dạy đâu thì dân làm theo đấy, yêu dân thì dân đến, thúc đẩy dân làm, thì dân được hòa; khi sống thì vẻ vang, khi chết thì người ta thương tiếc. Ai là người sánh được!"

Khi Khổng tử mất, Tử cống đã để tang thầy 3 năm, lại làm nhà ngay tại mộ để sống bên thầy thêm 3 năm nữa.

- Ở nước ta, Lê Quát, Phạm Sư Mạnh, học trò của Chu Văn An, làm đến các chức đại thần, khi về thăm thầy vẫn cung kính cúi lạy dưới giường. Gần đây nhất, đồng chí Trường Chinh - khi làm Tổng Bí thư Trung ương Đảng, vẫn thường xuyên tôn kính thăm nom thầy học của mình là Giáo sư Song An Hoàng Ngọc Phách.

Sự coi trọng thầy học đó đã lý giải vì sao người thầy có vị trí rất cao trong xã hội.

2.2. Người thầy được đặt ở vị trí cao trong xã hội

Chế độ phong kiến xưa ở Trung Quốc và Việt Nam đã đặt vị trí người thầy trong cấu trúc Quân - Sư - Phụ. Mối tương quan này nếu đặt theo chiều dọc, ta có thể hình dung theo quan niệm tôn ti trật tự là Thầy đặt ở vị trí dưới Vua và trên cha đẻ. Nếu đặt theo chiều ngang, cấu trúc có thể hiểu ba ngôi này ngang bằng nhau theo quan hệ Vua - Tôi; Thầy - Trò; Cha - Con. Vua - Thầy - Cha đều ở vị trí trên, vị trí cao trong quan hệ tương ứng với bầy tôi - học trò và con cái.

Có một giai thoại vui về quan hệ này như sau:

Một nho sĩ một bữa nọ trong lúc chuyện trò, có người hỏi: Giả dụ trên một chuyến đò chở cả Vua, thầy giáo và cha đẻ qua sông. Chẳng may đò đắm, cả 3 người đều không biết bơi. Lúc đó anh sẽ cứu ai? Nho sĩ không cần suy nghĩ, trả lời ngay rằng: Tôi không chủ định cứu ai cả mà cứ nhảy xuống sông, gặp ai cứu người ấy. Câu chuyện này chứng tỏ cả 3 ngôi Vua - Thầy - Cha đều quan trọng như nhau. Học trò là hoàng tử hoặc làm Vua, thầy vẫn không phải quỳ lạy, tung hô theo đạo thần tử, vua tôi. Nếu có việc gì cần thiết, trò được cắp tráp theo hầu thì không được đi trước hoặc ngang hàng mà phải đi lùi sau thầy một vài bước. Trong làng xã, vị trí của người thầy cũng được sắp xếp ở chỗ cao khi có việc hiếu, hỉ hoặc lễ tết. Ngay cha mẹ học sinh hoặc các hàng chức sắc trong làng cũng phải có thái độ cung kính, tôn trọng thầy. Vì coi thầy như cha thứ hai, nên mỗi khi thầy hoặc gia đình thầy có công việc gì, học trò phải cùng chung lo phục vụ, giải quyết. Hội đồng môn xưa chính là một tổ chức nhằm thể hiện lòng tôn kính, biết ơn thầy không phải chỉ lúc đang học mà còn cả khi bước vào đời nữa. Nó có trách nhiệm "sống tết chết giỗ" đối với thầy học của mình. Ngày nay, dù có nhiều sự biến đổi về kinh tế - xã hội, về quan niệm nhân sinh, thậm chí đó đây còn có những hiện tượng sai trái đáng buồn, song truyền thống tôn sư trọng đạo vẫn được xã hội, nhân dân ta kế thừa và phát triển.

Chủ tịch Hồ Chí Minh đánh giá rất cao vai trò của người thầy giáo. Người nói:

"Có gì vẻ vang hơn là đào tạo thế hệ sau này tích cực góp phần xây dựng xã hội chủ nghĩa và cộng sản chủ nghĩa. Người thầy giáo tốt - thầy giáo xứng đáng là thầy giáo - là người vẻ vang nhất. Dù tên tuổi không đăng trên báo, không được thưởng huân chương, song những thầy giáo tốt là những người anh hùng vô danh".

Cố thủ tướng Phạm Văn Đồng cũng có lần nói:

"Nghề dạy học là một nghề cao quý vào bậc nhất trong các nghề cao quý của xã hội xã hội chủ nghĩa, nghề dạy học là một nghề sáng tạo vào bậc nhất trong những nghề sáng tạo... vì nó sáng tạo ra những con người sáng tạo".

Có lẽ không còn lời nào cao quý hơn thế khi đánh giá về thầy giáo và vị trí của ông thầy trong xã hội.

2.3. Người thầy là chỗ dựa tinh thần của người dân

Trong xã hội phong kiến xưa, đa số các thầy đồ ở các lớp tiểu học, vỡ lòng sống liền với dân trong làng, xã. Đó là các lớp học tự do thầy tự mở hay do dân tổ chức rồi mời thầy đến dạy. Thầy được dân nuôi, trả lương, thậm chí may quần áo và chu cấp tiền đi đường về gia đình khi có việc giỗ tết, vui buồn.

Hơn nữa, thầy được coi như người thân thiết, là chỗ dựa tinh thần của dân trong mọi công việc lớn nhỏ. Đối với công việc chung của làng, xã, thầy thường có chân trong hội tư văn. Có khi cùng các vị nho học trong làng tham gia soạn văn tế, sớ, tổ chức các ngày lễ hội, sóc, vọng hoặc tang lễ, cưới xin. Các gia đình nông dân trong mọi chuyện vui buồn thường đến thầy mong có lời tham góp. Tết đến, lại đến xin thầy một vài câu đối để dán ở nhà. Khi có chuyện kiện tụng, thầy thường giúp dân thảo đơn hoặc đấu tranh chống bọn tham quan, ô lại.

Ta có thể bắt gặp vô số các giai thoại văn học này của các nhà khoa bảng hoặc thầy đồ qua những mẫu chuyện, câu đối, thơ văn… gắn bó chặt chẽ với niềm vui, nỗi buồn của người dân trong cuộc sống thường ngày.

2.4. Yêu cầu cao về nhân cách đối với người thầy.

Xã hội, nhân dân coi trọng và đề cao người thầy, song cũng chính vì vậy mà đòi hỏi rất cao ở người thầy về nhân cách, tức là vừa có tài vừa có đức.

- Trước hết, người thầy giáo phải là người yêu nghề, mến trẻ. Phải nói rằng không có bất cứ công việc nào, nghề nghiệp nào, con người ta lại cần đến lòng yêu nghề như vậy vì công việc dạy người là công việc hết sức khó khăn, tế nhị. Tiền bạc, của cải là những thứ cần yếu để con người ta tồn tại và phát triển. Ai cũng muốn có cuộc sống ngày một đầy đủ, phong lưu hơn, đó là yêu cầu chính đáng. Song nghề giáo - hơn bất cứ nghề nào - nếu lấy tiền bạc làm cứu cánh duy nhất hoặc cao nhất thì giá trị của người thầy khó có thể được đề cao, thậm chí còn có tác hại đến nhân cách nữa. Người thầy giáo không yêu nghề tất nhiên sẽ không có nhiệt tình, hứng thú đối với môn mình dạy và không truyền cảm được vào tâm hồn học sinh. Thầy đã vậy thì trò làm sao mà yêu thích, chăm chỉ học tập được.

Khổng tử sở dĩ được môn đệ và hậu thế yêu kính, được coi là người thầy "vạn thế sư biểu" vì Đức Phu tử đã suốt đời "học không biết chán, dạy không biết mỏi" (Học nhi bất yếm, hối nhân bất quyện). Ở Châu Âu, những tấm gương yêu nghề, mến trẻ tuyệt vời của các thầy giáo J.A.Komenxki (1592 - 1670) và J.H.Pét-xta-lô-di (1746 -1827) suốt đời hiến dâng cho sự nghiệp giáo dục... có thể coi là những tấm gương mẫu mực.

Ở nước ta cũng có bao nhiêu bậc thầy cao quý đó. Đó là Chu Văn An, Nguyễn Trãi, Nguyễn Bỉnh Khiêm, Trần Ích Phát, Vũ Công Đạo, Nguyễn Siêu, Võ Trường Toàn... Đó là Hồ Chủ Tịch, Phạm Văn Đồng, Võ Nguyễn Giáp, Lê Thước, Dương Quảng Hàm, Đặng Thai Mai, Nguyễn Văn Huyên, Nguyễn Lân, Hoàng Ngọc Phách, Tạ Quang Bửu... Đó còn là các nhà giáo nhân dân, nhà giáo ưu tú và hàng vạn giáo viên chân chính khác hết lòng vì sự nghiệp "trăm năm trồng người".

Nhân dân ta vô cùng biết ơn và quý trọng những người thầy như thế.

Người thầy phải là tấm gương mẫu mực toàn diện để mọi người và nhất là học trò noi theo. Trẻ em thường rất quan tâm đến những lời thầy nói, những việc thầy làm. Chúng tin cậy và ưa bắt chước thầy hơn ai hết. Nhà giáo dục Harold W.Bernard đã viết: "...Học trò tiêm nhiễm dáng dấp bộ điệu của thầy, phản ánh tư tưởng của thầy, và dẫn chứng toàn bằng những lời tuyên bố, phê phán của ông thầy. Những trường sở đồ sộ nhất, những học liệu đẹp đẽ nhất, cũng không lấn át được uy tín của ông thầy".

Sự gương mẫu ấy không phải chỉ thể hiện ở học đường, ở giờ lên lớp mà ở khắp mọi nơi, mọi lúc, ở gia đình cũng như ở ngoài xã hội, không phải chỉ bằng vào lời nói mà ở trong hành động, việc làm. Bởi vậy, không phải vô cớ ông bà ta xưa thường khuyên nhủ người đi học:

"Chọn người đức hạnh hiền hòa

 Tôn làm thầy học để mà noi gương"

Người thầy giáo phải là người có lòng trung với nước, quan tâm đến lợi ích, cuộc sống của dân. Trong xã hội phong kiến, đó là những người thầy sống theo chuẩn mực của người quân tử, tức là sống có Nhân - Trí - Dũng. Họ vui với cuộc sống thanh bạch, bên cạnh sách đèn và các môn đệ, không quan tâm đến lợi danh, chức vụ. Đa số không ra làm quan. Một khi buộc phải tham gia chính sự thì họ giữ vững khí tiết thanh cao, cương trực, không sợ quyền thế, đấu tranh không khoan nhượng với bọn nịnh thần xảo quyệt, sẵn sàng rũ áo từ quan không sợ mang họa vào thân. Một số dẫn chứng sau chứng tỏ về phẩm chất của những người thầy cao quý đó:

- Lý Công Uẩn - dòng dõi tôn thất, học rộng tài cao, nhưng đã từ chối mọi tước vị, chỉ mở trường dạy học ở phường Bái Ân, Hà Nội. Các thầy giáo Đỗ Xuân Cát, Nguyễn Sĩ Duyên, Ngô Thì Úc, Nguyễn Trịnh Hoằng... là những người thầy như thế.

-  Một số thầy giáo đã ra làm quan, nhưng rồi tìm cách cáo về như Nhữ Bá Sĩ, Vũ Tông Phan, Vũ Thạnh, Nguyễn Đình Trụ.

-  Những thầy giáo không chịu a dua với bọn xiểm nịnh như Chu Văn An dâng sớ chém 7 tên nịnh thần; Vũ Công Đạo thẳng thắn kháng cự chúa Trịnh; Bùi Sĩ Tiêm dâng 10 điều đề nghị phê phán, chê trách phủ liêu nên đã bị cách chức đuổi về...

-  Thời Pháp thuộc, nhiều thầy giáo đã đấu tranh chống bọn xâm lược, người thì giáo dục tinh thần yêu nước chống giặc trên bục giảng, người thì dùng ngòi bút sáng tác thơ để lên án giặc, tập hợp nhân dân dưới ngọn cờ khởi nghĩa như Nguyễn Đình Chiểu, Phan Văn Trị, Bùi Hữu Nghĩa, Dương Quảng Hàm, Đặng Thai Mai...

-  Dưới ngọn cờ Cách mạng của Đảng cộng sản, dưới sự lãnh đạo, giáo dục của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc (Hồ Chí Minh), bao nhiêu thầy giáo đã trở thành lãnh tụ, số khác đã dâng hiến trọn đời cho sự nghiệp độc lập, tự do của dân tộc.

Nhân dân ta còn yêu cầu cao đối với người thầy về trình độ hiểu biết sâu rộng, tài năng sư phạm khéo léo trong việc giáo dục và dạy dỗ học trò nữa. Sức học uyên bác, phương pháp giảng dạy, truyền thụ khéo léo, có sức thu hút, lôi cuốn học sinh, đạt kết quả, thành tựu tốt đẹp cả về đức lẫn tài.

Coi trọng và yêu cầu cao, đó là hai cách nhân dân ta đưa vai trò, vị trí của người thầy lên đỉnh cao của xã hội. 

Cũng chính vì vậy mà nhân dân ta đã đả kích, phê phán mạnh mẽ, từ chỗ châm biếm nhẹ nhàng đến đấu tranh quyết liệt với những ông thầy dốt nát, không đủ phẩm chất để làm thầy.

Trong kho tàng tiếu lâm Việt Nam, những mẩu chuyện về “Tam đại con gà”, “Thầy đồ liếm mật”, “Bánh tao đâu”, “Không phải nuôi chó”... có tác dụng đả kích sâu cay sự dốt nát, tham ăn, thiếu nhân cách của kẻ nhân danh thầy nhưng không xứng đáng làm thầy.

Ngày nay, nền kinh tế - xã hội đã biến đổi và phát triển hơn xưa rất nhiều. Nhiều giá trị truyền thống đã trở nên lạc hậu, lỗi thời, song có những giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc cũng dần bị lãng quên hoặc làm cho đảo ngược.

Phân tích và minh chứng qua lịch sử những đặc điểm của truyền thống tôn sư trọng đạo để thấy rằng truyền thống đó có bản sắc riêng của dân tộc, có chiều dài lịch sử và bắt rễ sâu trong tâm hồn, phong tục Việt Nam. Bước vào thế kỷ XXI, sự nghiệp giáo dục nước ta đang đòi hỏi một sự đổi mới, chuyển mình toàn diện để theo kịp và “sánh vai cùng cường quốc năm châu”. Đảng, Nhà nước, ngành giáo dục và toàn dân đang rất lo lắng, băn khoăn tìm ra một con đường phát triển giáo dục tối ưu trong hoàn cảnh mới.

Bao nhiêu điều bất cập, thậm chí tiêu cực diễn ra trong học thêm, dạy thêm, thi cử gian dối, bằng cấp giả, hệ thống giáo dục thiếu đồng bộ và cân đối; sự đổi mới chương trình các cấp cũng còn nhiều ý kiến khác nhau; đó đây có những hiện tượng xâm phạm đến nhân phẩm và tính mệnh thầy cô giáo...

Tuy nhiên, cả xã hội ta trong đó có những nhà trí thức, các nhà khoa học tự nhiên, khoa học xã hội và nhân văn đang góp sức tìm ra những mô hình hợp lý, tối ưu cho hệ thống giáo dục quốc dân, cho việc đổi mới chương trình, nội dung, cho việc viết lại sách giáo khoa, cho việc nâng cao dân trí, phổ cập giáo dục đến tận vùng sâu, vùng xa của các đồng bào dân tộc...

                Chúng ta có thể tin rằng những bước đầu chập chững, chao đảo, thậm chí vấp ngã, nền giáo dục xã hội chủ nghĩa của chúng ta có thể tiếp cận được với trào lưu tiên tiến trên thế giới, đồng thời kế thừa, phát huy những nhân tố truyền thống giáo dục tốt đẹp của cha ông xưa trong đó có truyền thống tôn sư trọng đạo.

Quan hệ thầy trò xưa và nay / Nguyễn Đăng Tiến, Nguyễn Phú Tuấn biên soạn // Sách Danh nhân giáo dục Việt Nam và Thế giới. - H.: Văn hóa Thông tin, 2011. - Tr. 27-38

Từ xưa đến nay, ở phương Đông cũng như ở phương Tây, mối quan hệ thầy trò luôn giữ một vị trí quan trọng trong cuộc sống con người. Mối quan hệ này ảnh hưởng lớn lao đến sự phát triển nhân cách của mỗi học sinh, trong lúc đang học và thường in dấu sâu đậm suốt cuộc đời của mỗi con người. Trong mỗi thời kì và ở mỗi hoàn cảnh, nó luôn luôn phát triển, biến động, tùy thuộc vào cá nhân và xã hội.

Có thể kể hàng trăm chuyện, hàng trăm tấm gương cảm động về sự dạy dỗ, học hành, tình thầy trò sâu sắc ở khắp mọi nơi. Ở đây, chỉ xin dẫn ra một số chuyện điển hình.

Xô-cơ-rát (469-399 TCN) là nhà triết học duy tâm nổi tiếng thời cổ đại Hi Lạp. Ông sinh ra tại thành bang A-ten (A-thènes) trong một gia đình cha làm nghề điêu khắc, mẹ là một nữ khám hộ (bà đỡ). Ngay từ hồi thanh niên, ông đã rất hăng hái dự các buổi diễn thuyết của các triết gia hùng biện như Pácmênit (Parménide), Dênông (Zenon), Anaxago (Anaxagore), Gioóc-gi-át (Gorgias). Triết học Xô-cơ-rát là học thuyết dạy con người sống có đức hạnh. Luận điểm nổi tiếng của ông là "Con người, hãy nhận thức chính mình!". Muốn vậy, phải bắt đầu từ nghi ngờ sự hiểu biết của mình.

Ông thường khiêm tốn nói: "Tôi biết rằng tôi không biết gì hết". Từ đó, ông đưa ra phương pháp Xô-cơ-rát hay còn gọi là “thuật đỡ đẻ” (méthode maieutique), bao gồm 4 yếu tố gắn bó mật thiết với nhau:

-  Mỉa mai (Ironie)

-  Đỡ đẻ (Maĩeutique)

-  Qui nạp (Inducation)

-  Xác định hay định nghĩa (Définition)

Bằng phương pháp đó, ông đã tranh luận kịch liệt với phái "ngụy biện", dồn họ đến bước đường cùng và chấp nhận chân lí mà ông đưa ra, đồng thời cũng đào tạo ra rất nhiều môn sinh tài giỏi. Trong số các môn sinh đó, nổi bật lên là các học trò Criton, Platon và Apollodore. Ông chẳng những chống phái "ngụy biện" mà còn chống cả chính quyền đương thời. Vì vậy, ông bị chúng buộc tội là phản loạn, gieo tà thuyết và kết án tử hình, buộc phải uống thuốc độc tự tử.

Mặc dù các môn đệ khóc lóc, xót thương, song ông rất bình tĩnh, ung dung đi vào cái chết. Ông dặn dò học trò không được khóc và thay đổi sắc diện. Song khi thấy họ khóc, ông quát lên:

"Các con làm cái gì vậy? Sở dĩ thầy đuổi hết các cô các bà ra ngoài phòng mà chỉ để các con ở lại là cố ý tránh đi sự mất bình tĩnh. Các con phải cương nghị. Chúng ta phải chấm dứt cuộc đời một cách êm ái, thảnh thơi chứ".

Tuy vậy, không ngăn nổi nỗi xót thương, những học trò yêu quí của ông đã sụt sùi, kêu khóc.

Platon nói: "Từ đây thế là hết! Không phải mình khóc cho thầy vì một người như thầy không cần ai khóc khi qua đời mà mình khóc cho chính thân phận mình. Từ phút này mình đã vĩnh viễn mất đi một người cha, một người thầy, một người anh, một người bạn, gần như không làm sao kiếm được người thứ hai trên cõi đời này".

Có thể thấy rằng, suốt cả đời, Xô-rơ-rát đã thương yêu học sinh hết lòng, hết dạ, dạy dỗ và đối xử với học trò như cha với con, cũng như thầy mình, Pơ-la-tông (khoảng 427-347 TCN) có rất đông học trò, nhiều người rất nổi riếng sau này, trong đó có A-ri-xtốt xuất sắc nhất. Nhà học giả này nổi tiếng, trở thành một bộ óc bách khoa trên hầu hết các lĩnh vực khoa học tự nhiên cũng như khoa học xã hội và nhân văn thời cổ đại. Ông rất yêu kính Platông, sống bên cạnh thầy tới lúc thầy chết, song bất đồng và tranh luận với thầy rất nhiều vấn đề. Chính vì thế mà Pơ-la-tông lại vô cùng yêu quí người học trò đặc biệt này.

Pơ-la-tông thường đưa học trò tới một khu vườn rộng gọi là A-ca-đê-mốt (académos) để dạy dỗ. Khi ông mất, để ghi nhớ công ơn to lớn của thầy, các học trò đổi tên nó là "Tòa thánh học hiệu".

Còn phải kể đến - J.A.Komenxki (1592-1670) với chủ nghĩa nhân đạo kiệt xuất của ông trong giáo dục, với tác phẩm (trong hàng trăm tác phẩm) xuất sắc, tiêu biểu nhất là cuốn “Phép giảng dạy vĩ đại". Ông quan niệm "Thế giới là trường học đối với mọi thế hệ, tuổi đời là trường học đối với mỗi cá nhân... từ khi nằm trong nôi tới khi xuống mộ".

Chính vì vậy, ông đề xướng chủ trương "mọi người học, học tất cả, học toàn diện", kể cả phụ nữ và người khuyết tật. Trước hết theo ông là phải học đạo đức bởi vì không có đạo đức thì không thể thành đạt trong học vấn và “người thành đạt trong học thức nhưng không thành đạt trong đạo đức, coi như không thành đạt". Với kiến thức vượt xa thời đại đó, ông bị các nhà chức trách Tiệp Khắc săn đuổi, suốt cuộc đời phải sống lưu vong ở nước ngoài và cũng mất ở nước ngoài.

Ông tổ của "Lí luận dạy học" - tuy vậy - vẫn suốt đời tận tụy với lí tưởng cao quí của mình, đào tạo ra nhiều học trò tài năng và được họ vô cùng kính trọng, mến yêu.

Cũng phải kể đến người thầy giáo Pétxtalodi (Johann Heinrich Pestalozzi: 1746-1827 người Thụy Sĩ). Suốt cuộc đời ông cho tới lúc mất (81 tuổi), ông dâng hiến trọn vẹn cho sự nghiệp giáo dục, cho nhân dân lao động nghèo khổ, cho thế hệ trẻ, nhất là các trẻ em bị thiệt thòi, côi cút tất cả sức lực, tiền bạc, của cải của mình. Các thế hệ học trò gọi ông là "Cha Pestalozzi", mọi người tôn vinh ông là "Ông thầy của các ông thầy". Trên nấm mồ ông, nhân dân miền Ácgôvi dựng lên một tấm bia mang dòng chữ: "Tất cả cho người khác, không có gì cho mình".

Ở Đông phương, Khổng Tử (551-479 TCN) được đời sau tôn là "Vạn thế sư biểu". Suốt đời, ông đi chu du khắp các nước để truyền bá tư tưởng "Nhân Nghĩa", song ở thời Xuân Thu - Chiến Quốc, các nước gây chiến tranh liên miên để thôn tính lẫn nhau, nên chẳng ở đâu học thuyết của ông được tiếp nhận. Thất vọng, ông trở về quê hương, tiếp tục mở trường tư để dạy dỗ học trò.

Môn đệ của ông có tới hơn 3.000 người, trong đó có tới 72 học trò xuất sắc nhất gọi là "thất thập nhị hiền". Gắn bó và được ông yêu quí nhất là Nhan Hồi (Nhan Uyên), Tử Lộ, Tử Cống, Tử Hạ, Tăng Tử...

Từ quan điểm chính trị và triết học, ông đề ra quan điểm về giáo dục và phương pháp giảng dạy. Ở đây, chỉ tóm tắt một số nguyên tắc giáo dục trong phương pháp giáo dục và giảng dạy của ông như sau:

1- Nguyên tắc liên hệ giữa học và hành, kết hợp giữa học tập và động não suy nghĩ. Ông nói:

"Chỉ có đọc sách mà không suy nghĩ thì sẽ mắc lừa, chỉ có suy nghĩ mà không đọc sách thì mất lòng tin".

(Học nhi bất tư tắc võng, tư nhi bất học tắc đãi)

2- Nguyên tắc gợi mở trong phương pháp giảng dạy. Ông nói:

“Dạy học sinh, chưa đến lúc họ thấy lòng muốn hiểu mà không sao hiểu được, thì chưa truyền mở cho họ, chưa đến lúc họ cảm thấy muốn nói mà không nói nên lời, thì chưa gợi ý cho họ. Vật có bốn góc, giảng một góc mà họ không biết suy ra ba góc kia, thì không dạy họ nữa".

(Bất phẫn bất khải, bất phị bất phát. Cử nhất ngưng, bất dĩ tam ngung phản, tắc bất phục dã)

(Thiên thuật nhi - Luận ngữ)

3- Nguyên tắc kết hợp sự hứng thú với sự nỗ lực trong việc tự học của học sinh

+ Nguyên tắc tùy tài mà dạy.

+ Nguyên tắc lấy mình làm gương.

Giá trị của Khổng Tử về phương diện giáo dục là ở chỗ ông thường lấy cái nhân cách cao thượng, vĩ đại của mình làm tấm gương soi sáng, tác thành nên những nhân cách cao quí của học trò. Ông cũng là người "Học không biết chán, dạy không biết mỏi" (Học nhi bất yếm, hối nhân bất quyện), một tấm gương dạy và tự học tuyệt vời.

Đối với tất cả các môn đệ, Khổng Tử đều có tấm lòng thương yêu vô hạn. Ông rất thành thực với học trò, không làm điều gì mà không cho họ biết.

Ông thường có quan hệ, thái độ cảm thông sâu sắc nên được học trò rất tin yêu, kính phục. Họ đánh giá ông rất cao về tài năng, đức độ, song bản thân ông lại rất khiêm tốn.

Ông nói:

"Ta không phải là người sinh ra đã biết, chỉ là hiếu cổ, cố sức mà cầu lấy được"

(Ngã phi sinh nhi trí chi giả dã, hiếu cổ, mẫn dĩ cầu chi giả dã) (Thiên Thuật nhi - Luận ngữ), hoặc có lúc lại nói:

"Ta có biết gì không? Ta không biết gì cả!"

"Ngô hữu tri hồ tai? Vô tri dã" (Luận ngữ)

Việc dạy dỗ học trò, ông không cần câu nệ phải ngồi trong lớp học. Cũng giống như Xô-cơ-rát và Platông, Khổng Tử thường vừa đi dạo vừa dạy. Có lúc dạy xong, ông cầm đàn ca hát để học trò xướng họa theo. Trong cuộc chu du nhiều nước, thầy trò thường đi lang thang các nơi, vừa đi du lịch, tham quan, vừa nhân đấy mà dạy - học. Có lúc thấy mệt, nằm nghỉ dưới tán cây râm mát, trò kẻ thì đọc sách, kẻ thì lo việc nấu cơm... Việc đào tạo giữa thầy trò luôn diễn ra thân mật, chân thành và thâm thúy.

Ví dụ: Có lần Khổng Tử hỏi môn đệ về ước nguyện, trò trả lời mỗi người mỗi ý. Tử Cống nói: Mong giàu có bằng cách buôn bán. Tử Lộ nói: Mong có xe ngựa để đi, có của cải dư thừa, phong lưu để dùng và tiếp đãi bạn bè.

Tử Lộ hỏi lại thầy: Vậy, còn thầy thì mong gì ạ?

Khổng Tử đáp: Thân phận kẻ già được an, bằng hữu giữ chữ tín, tuổi trẻ đừng thất vọng.

Có lần đến nước Vệ, Khổng Tử đến thăm nàng Vệ Linh công (Vợ vua nước Vệ) nổi tiếng lẳng lơ. Lúc về, Tử Lộ trách thầy thiếu cẩn thận - Khổng Tử phải cam đoan với học trò là "Thầy mà làm gì bậy thì Trời hại thầy, Trời hại thầy" (Dư sở phủ giả, Thiên yếm chi! Thiên yếm chi!).

-  Mặc dù thấy học trò có nhiều thiếu sót, Khổng Tử vẫn luôn tìm ra ưu điểm của mỗi người để khen ngợi, động viên. Thí dụ ông nói với Tử Hạ rằng:

-  Nhan Hồi có đức tính hơn ông

-  Tử Cống thì lanh lợi hơn ông

-  Tử Lộ thì dũng cảm hơn ông

-  Tử Trương thì nghiêm chỉnh hơn ông.

Tử Hạ ngạc nhiên, hỏi: - Vậy thưa thầy, sao 4 anh đó còn phải theo học thầy? Khổng Tử ung dung đáp:

-  Nhan Hồi tin mà không biết tin

-  Tử Cống lanh mà không biết chậm

-  Tử Lộ dũng cảm mà không biết nhát

-  Tử Trương nghiêm mà không biết hòa dịu.

Trong các học trò, Khổng Tử yêu quí Nhan Hồi nhất, thường khen không tiếc lời. Ông coi trò này tương đắc như tri kỷ, như bè bạn. Khi Nhan Hồi mất, Khổng Tử dậm chân, kêu lên rằng: Trời hại ta! Trời hại ta!

Ở nước ta, truyền thống "tôn sư trọng đạo" đã có từ lâu đời. Nhân dân ta mặc dù cuộc sống rất bần cùng, nghèo khổ, song bậc cha mẹ nào cũng mong ước con cái được cắp sách đến trường, học dăm ba chữ để làm NGƯỜI. Mà muốn học chữ phải có THẦY. Bởi lẽ, "Không thầy đố mày làm nên" và dù học nửa chữ cũng phải coi trọng thầy. "Nhất tự vi sư, bán tự vi sư"

Người ta khuyên bảo nhau:

"Muốn sang thì bắc cầu kiều

Muốn con hay chữ thì yêu lấy thầy"

Ai cũng coi thầy giáo như ruột thịt, thân thiết trong nhà, nên ngày Tết thường dạy dỗ con cháu phải ăn ở cho có lễ nghĩa:

"Mồng một thì ở nhà cha

Mồng hai nhà vợ, mồng ba nhà thầy"

Giai cấp phong kiến cũng đặt vị trí người thầy giáo rất cao, chỉ sau Vua nhưng lại ở trên bậc cha đẻ. Đó là công thức Quân - Sư - Phụ.

Trong suốt tiến trình lịch sử giáo dục dân tộc, chúng ta có thể kể ra không biết bao nhiêu thầy giáo, cô giáo vừa tài giỏi, vừa có đức cao vọng trọng. Đó là Chu Văn An, Nguyễn Trãi, Nguyễn Bỉnh Khiêm, Bùi Dương Lịch, Võ Trường Toản, Nguyễn Đình Chiểu... Ở thời cận hiện đại, đó là Hồ Chủ Tịch, Dương Quảng Hàm, Đặng Thai Mai...

Xin dẫn ra đây vài mẩu chuyện:

Chu Văn An (1292-1370) là người thầy nổi tiếng về tài đức ở thời Trần

Cuộc đời ông có thể chia ra làm ba giai đoạn:

1 - Hồi nhỏ đi học rồi lập trường Huỳnh Cung, dạy ở quê nhà

2 - Giai đoạn vào kinh đô dạy thái tử học và giữ chức Tư nghiệp

3 - Giai đoạn về ẩn cư và dạy học ở núi Phượng Hoàng (huyện Chí Linh, tỉnh Hải Dương).

Ngôi trường của Chu Văn An ở quê nhà đặt bên dòng sông Tô Lịch, gần trường Quốc Tử Giám. Học trò có tới trên 3.000 người, từ kinh sư đến các bộ phủ tấp nập kéo về học tập. Chu Văn An là người thầy rất yêu nghề, tận tụy với trò, kể từ người lớn tuổi đến lớp thiếu niên mới học vỡ lòng. Ông uốn nắn từng nét chữ, lời văn, trau chuốt cho họ từng nhận thức. Thương yêu học trò như con đẻ, song ông cũng rất nghiêm khắc, đòi hỏi rất cao ở trò cũng như chính mình. Học trò của ông bất kì ở tuổi trẻ nào, trình độ nào, có sai phạm về ngôn ngữ hoặc hành vi, đều bị ông quở trách, quát mắng, đuổi đi không cho học. Ông đặc biệt quan tâm đến việc rèn luyện đạo đức cho học trò. Nhiều người đỗ đạt cao như Lê Quát, Phạm Sư Mạnh làm tới quan đại thần, mỗi khi về thăm thầy vẫn sụp lạy dưới chân giường, thái độ rất e sợ và kính trọng thầy. Danh tiếng của ông vang đội đến mức được phản ánh trong câu chuyện thần thoại: Thủy thần dầm Cung hoàng cũng đến theo học và theo lời thầy dạy đã hi sinh thân mình làm mưa để cứu dân khỏi nạn hạn hán. Khi được mời vào triều nội, ông dồn công sức dạy Thái tử, mong sao tạo ra được một minh quân để cải tạo lại triều đình đang ngày một suy thoái. Tiếc thay - người học trò mà ông kỳ vọng, thái tử đã sớm qua đời (Trần Hiển Tông). Trần Dụ Tông kế vị là một ông vua thích đánh bạc, háo sắc, nghiện rượu, triều chính toàn do bọn gian thần lũng đoạn. Các trung thần bị mưu hại, loại trừ.

Chu Văn An đau lòng, xót xa trước thế đạo, nhân tình, đã dâng "Thất trảm sớ", công khai đòi vua chém 7 tên nịnh thần. Tờ sớ không có hồi âm, ông liền treo mũ từ quan về ở ẩn và dạy học.

Chính sử gia Ngô Sĩ Liên đã ca ngợi Chu Văn An là bậc tôn sư "Nét mặt nghiêm nghị mà đạo thầy được tôn", "Lời nói lẫm liết mà kẻ nịnh phải sợ". Có thể nói Chu Văn An là bậc chí tôn cho đạo làm thầy, là một nhà nho đại quán thế".

Nguyễn Trãi, chẳng những là một anh hùng dân tộc trong công cuộc giúp Lê đuổi Minh, giành lại giang sơn gấm vóc, mà còn là một nhà giáo dục lớn của dân tộc. Ông có quan điểm giáo dục tiến bộ có thể tìm thấy ở nhiều tác phẩm như Bình Ngô đại cáo, Quốc âm thi tập, Gia huấn ca...

Ông đòi hỏi học trò phải luôn ghi nhớ "ơn thầy, ơn Chúa, liền ơn Cha". Đồng thời ông cũng đòi hỏi trẻ thành hiền tài cho đất nước thì bản thân phải là người gương mẫu cả trong lời nói lẫn việc làm.

Trạng nguyên Nguyễn Bỉnh Khiêm cũng là một thầy giáo kiệt xuất dưới thời Lê Mạc. Sinh năm 1491 thông minh, học giỏi. Ông được thầy học của mình là Bảng nhãn Lương Đắc Bằng truyền dạy cho bộ sách "Thái Ất thần kinh" nên thông hiểu được lẽ huyền vi của tạo hóa và nắm được kiến thức chân truyền.

Tuy vậy, mãi tới năm 1535 (44 tuổi) ông mới đi thi và đỗ Trạng nguyên - Năm 45 tuổi làm quan cho triều Mạc song do bọn bầy tôi lộng quyền, ông dâng sớ xin chém 18 đình thần. Vua không cho, ông bèn xin cáo quan về nhà, dựng am Bạch Vân, mở trường dạy học. Học trò khắp nơi về học rất đông, nhiều người sau trở thành nhân tài trên các lĩnh vực chính trị, xã hội, văn học như Lương Hữu Khánh, Phùng Khắc Khoan, Nguyễn Dữ. Học trò rất kính yêu thầy, tôn xưng là Tuyết giang phu tử. Với cương vị người thầy, Nguyễn Bỉnh Khiêm rất quan tâm đến việc dạy dỗ học trò, song không phải là người thầy độc đoán. Ông thường dùng lời lẽ gợi ý từ sâu xa của bài văn, câu thơ để học trò tự động não, thậm chí tự tìm lấy một giải pháp thích hợp nhất cho mình, hoặc giúp đỡ tỉ mỉ, chi tiết (như giúp Nguyễn Dữ sửa cuốn "Truyền kỳ mạn lục").

Có thể nói, Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm đã dành quá nửa đời mình cho việc đào tạo nhân tài cho đất nước. Ông chẳng những làm phong phú cho lịch sử giáo dục nước nhà trên các bình diện tư tưởng, nội dung phương pháp giáo dục mà còn chính bằng cuộc đời thanh tao, tự tại, gắn bó với dân, với nước, một người thầy tài đức song toàn. Ông thật xứng đáng với lời ca ngợi của Đinh Thời Trung:

"Học vị thiên hạ sư, tuế vi thiên hạ phu

(Học vấn xứng là thầy thiên hạ, tuổi tác xứng là cha thiên hạ)"

Có thể kể rất nhiều những tấm gương tuyệt vời của những người thầy như thế như Chủ tịch Hồ Chí Minh, Dương Quảng Hàm, Đặng Thai Mai... và biết bao nhà giáo nhân dân, nhà giáo ưu tú, các thầy cô giáo khác dù không được nêu tên tuổi, song giờ đây vẫn hằng ngày, hàng giờ chăm lo, dạy dỗ thế hệ trẻ nên người, đào tạo các em thành những nhân tài xây dựng đất nước trong thời đại hôm nay.

(Dẫn chứng: cô giáo Đàm Lê Đức, cô hiệu trưởng suốt đời hi sinh cho sự nghiệp giáo dục, hiện vẫn đang miệt mài đi tới chưa có điểm dừng, mặc dù ở độ tuổi 81).

Tất nhiên, bên cạnh những mối quan hệ tốt đẹp của thầy - trò từ cổ đến nay, không tránh khỏi những hình ảnh trái chiều, tiêu cực. Điều không đáng có này bắt nguồn từ nhiều nguyên nhân khách quan lẫn chủ quan. Ai là người tâm huyết, lo lắng cho giáo dục, lo cho tương lai đất nước đều không tránh khỏi nỗi băn khoăn, bức xúc trước những tiêu cực, xuống cấp của xã hội nói chung và giáo dục nói riêng.

Cơ hội có nhiều, song thách thức vô cùng to lớn - Trên bình diện vĩ mô, nhà nước và các cơ quan chức năng đang tìm cách tháo gỡ nhằm đẩy lùi mọi tiêu cực, tạo ra những điều kiện thuận lợi cho các nhân tố tích cực vươn lên.

Trên bình diện vĩ mô, mỗi cán bộ quản lý giáo dục, mỗi giáo viên cũng cần chung tay đóng góp để sự nghiệp giáo dục vượt qua được mọi trở ngại, khó khăn, tiến nhanh, hòa nhập cùng khu vực và thế giới.

Quan hệ thầy - trò trong giai đoạn hiện nay, theo thiển ý, cũng cần phải được quan tâm xây dựng trên hai mặt:

-  Giữ lại những kinh nghiệm quý báu của thời xưa trong đạo thầy - trò.

-  Xây dựng đổi mới quan hệ thầy - trò trong điều kiện mới.

           Xưa nay, đức và tài bao giờ cũng là một thể thống nhất không thể tách rời, thiếu một mặt, con người không thể thành người toàn diện - Thầy hết lòng dạy dỗ, thương yêu trò như cha đối với con, luôn là hòn ngọc, là tấm gương sáng chói để trò noi theo. Trò ra công học tập để thành tài, luôn biết ơn, tôn trọng kính yêu thầy cô giáo - những người cha, người mẹ thứ hai của cuộc đời mình. Quan hệ thầy trò bình đẳng/dân chủ, song thầy ra thầy, trò ra trò, quyết không "cá đối bằng đầu". Như thế, quan hệ thầy - trò trong giai đoạn mới nhất định sẽ vô cùng tốt đẹp.

 PHẦN III

NHỮNG NGƯỜI THẦY NỔI TIẾNG TRONG LỊCH SỬ TỪ XƯA ĐẾN NAY

 Chu Văn An (1292 - 1370) / Nguyễn Ngọc Thanh chủ biên // Sách Những thầy giáo nổi tiếng trong lịch sử. - TP. Hồ Chí Minh: Văn hóa Văn nghệ, 2017. - Tr. 18-27

                Chu Văn An tên thật là Chu An, tự là Trinh Liệt, hiệu Tiều Ẩn. Khi mất ông được phong tước Văn Trinh Công, nên người đời sau theo đó gọi là Chu Văn An. Sử sách không ghi lại năm sinh của ông, nhưng theo thần tích quê hương ông ghi lại thì Chu Văn An sinh năm Nhâm Thìn (1292), mất vào năm Canh Tuất (1370). Ông quê gốc ở thôn Văn, xã Quang Liệt, huyện Thanh Đầm, Hà Nội (nay là xóm Văn, xã Thanh Liệt, huyện Thanh Trì, Hà Nội), ông là người thuần nhã, cương trực, kiên định, được tôn vinh là người Thầy đứng đầu các nhà giáo Việt Nam từ xưa đến nay.

                Chu Văn An sinh ra vào thời vua Trần Anh Tông, trải qua các đời vua Trần Minh Tông, Trần Hiến Tông, Trần Dụ Tông, và mất vào đời vua thứ 8 của nhà Trần, tức vua Trần Nghệ Tông (năm 1370). Chu Văn An là người có công lớn trong việc truyền bá, giáo dục tư tưởng Khổng giáo vào Việt Nam. Nhưng những ghi chép về công danh của ông hiện chưa thống nhất. Có sách ghi ông thi đỗ Thái học sinh (Tiến sĩ) (theo sách Đăng khoa lục), lại có sách khác cho rằng ông không đỗ đạt lần nào (theo sách Phượng sơn từ chí lược).

                Chu Văn An là người không màng công danh, không ham chốn quan trường, ông gắn bó với sự nghiệp giáo dục bắt đầu với việc mở trường dạy học tại quê nhà, tại làng Hành Cung. Thầy Chu Văn An nổi tiếng là người hay chữ nên học trò mến mộ đến xin theo học rất đông. Học trò của ông nổi bật có Phạm Sư Mạnh, Lê Bá Quát đã từng thi đỗ và làm quan lớn trong triều nên danh tiếng của Chu Văn An ngày càng được truyền tụng.

                Dưới thời vua Trần Minh Tông, Chu Văn An được mời ra giữ chức Tư nghiệp Trường Quốc Tử Giám, với vai trò dạy học cho các hoàng tử. Việc Chu Văn An chấp nhận bỏ cuộc sống ẩn sĩ, dạy dỗ các học trò chốn dân gian để nhận một chức quan chăm lo việc giáo dục trong triều đình là một bước ngoặt quan trọng của nền giáo dục thời đó.

                Năm 1329, Trần Minh Tông nhường ngôi cho thái tử Vượng mới 10 tuổi lên làm vua (tức vua Trần Hiến Tông) và trở thành Thái thượng hoàng. Thời kỳ này, Chu Văn An cùng Mạc Đĩnh Chi, Lê Quát, Phạm Sư Mạnh, Trương Hán Siêu, Nguyễn Trung Ngạn đã giúp vua Hiến Tông củng cố triều Trần, lúc đó đã bắt đầu đi vào suy thoái. Vua Hiến Tông làm vua được 12 năm rồi mất mà không có con nối dõi. Lúc đó, thượng hoàng Trần Minh Tông lập con trai thứ là Hạo lên làm vua, tức là vua Trần Dụ Tông (1341 - 1369). Khi thượng hoàng Minh Tông mất, trong số triều thần, những người có tài đức cũng lần lượt mất hoặc xin từ quan nên việc chính trị nước nhà lúc này trở nên trễ nải, gian thần lợi dụng tình thế làm nhiều điều vô đạo. Chu Văn An, với tính tình cương trực nên đã nhiều lần can ngăn vua Dụ Tông nhưng không được, bèn dâng Thất trảm sớ với nội dung xin chém 7 nịnh thần trong triều, sử sách không ghi lại tên của bảy nịnh thần trong sớ Chu Văn An dâng. Hành động này của ông thể hiện bản lĩnh sẵn sàng bày tỏ chính kiến và sự cương trực của một vị quan vì dân vì nước, một thầy giáo tận tâm.

                Chu Văn An dâng Thất trảm sớ nhưng không được vua Dụ Tông chấp thuận. Ông đã xin từ quan về ở tại núi Phượng Hoàng, huyện Chí Linh, tỉnh Hải Dương, lấy hiệu là Tiều Ẩn; mở lớp dạy học trò tại đó đến khi qua đời. Trong suốt thời gian giữ chức Tư nghiệp, Chu Văn An đã gắn bó và có nhiều đóng góp to lớn cả trong triều chính và sự nghiệp giáo dục. Khi ông từ quan về mở trường dạy học, dù không tham gia chính sự, nhưng ông vẫn trăn trở việc quốc gia, việc giáo dục.

                Bài thơ Miết trì của Chu Văn An có viết:

                “Thủy nguyệt kiều biên lộng tịch huy,

                Hà hoa hà diệp tĩnh tương y,

                Ngư du cổ chiểu long hà tại?

                Vân mãn không sơn hạc bất quy

                 Lão quế tùy phong hương thạch lộ,

                Nộn đài trước thủy một tùng phi.

                Thốn tâm thù vị như hôi thổ,

                Văn thuyết tiên hoàng lệ ám huy”.

                (Dịch:

                Trăng nước cầu bên giỡn bóng tà,

                Trong hồ sen lặng, lá kề hoa,

                Ao xưa cá lội, rồng đâu thấy?

                Núi vắng mây giăng, hạc chẳng qua

                 Đường đá gió thơm mùi quế thoảng,

                Cửa thông nước đẫm lớp rêu pha.

                Lòng đâu đã nguội như tro đất,

                Nghe đến Tiên hoàng lệ muốn sa).

                Vua Trần Dụ Tông vẫn tuyên chỉ triệu Chu Văn An hồi triều nhưng ông từ chối. Thái hậu Hiếu Từ đã nói với vua: “Bậc sĩ phu sửa mình trong sạch, dẫu thiên tử cũng không bắt làm bề tôi được. Sao có thể đem chính sự giao cho người ta?”. Đến khi vua Trần Nghệ Tông lên ngôi, có mời Chu Văn An về kinh nhưng ông chỉ trở về chúc mừng vua mới đăng quang, rồi trở lại núi Phượng Hoàng, không nhận chức tước được ban.

                Với ý định ban đầu là tìm chốn an bình để ẩn cư, Chu Văn An đã đến mảnh đất Chí Linh. Tuy nhiên danh tiếng của ông đã không cho ông thực hiện ý định đó. Học trò khắp nơi vẫn tìm đến và xin được theo học. Chu Văn An đã tiếp tục sự nghiệp cống hiến cho sự nghiệp giáo dục vì thế hệ trẻ của mình tại làng quê yên bình cho đến khi qua đời.

                Chu Văn An mất tại Chí Linh vào năm Canh Tuất (1370), hưởng thọ 79 tuổi. Khi ông mất, Vua Nghệ Tông đã cho quan quân về làm lễ tế và truy tặng tước Văn Trinh Công (tên gọi Chu Văn Trinh sau này là dựa theo sự ban tặng này mà gọi). Tên thụy như vậy có ý nghĩa biểu dương một người đã mang trong mình vẻ đẹp: bên ngoài ôn hòa, bên trong chính trực mà kiên định. Tiến sĩ Ngô Thế Vinh có viết: “Văn, đức chi biểu dã. Trinh, đức chi chính cố dã” (Văn là cái vẻ đẹp bên ngoài của đức. Trinh là sự bền vững bên trong của đức).

                Sinh thời, Chu Văn An luôn luôn được ca ngợi về phẩm chất thanh cao của ông. Trong lịch sử giáo dục, ông cũng đã giành được địa vị cao quý nhất trong lòng nhân dân, xứng đáng đứng đầu các nhà giáo từ xưa tới nay. Ông đã vượt qua ngưỡng cửa: làm thầy giáo giỏi của một đời để đạt tới làm thầy giáo giỏi của muôn đời như Phan Huy Chú đã ngợi ca ông: “Học nghiệp thuần túy, tiết tháo cao thượng, làng Nho nước Việt trước sau chỉ có mình ông, các ông khác không thể so sánh được...” .

                Ngoài những đóng góp trong chốn quan trường, nét nổi bật hơn cả ở con người Chu Văn An đó là một người thầy mẫu mực trong lịch sử nước nhà.

                Ông đã dạy các thế hệ học trò từ bậc cao nhất (vương tôn quý tộc) cho đến những học trò thuộc lớp bình dân ở nông thôn. Trước khi ra làm quan, ông đã mở một trường nhỏ ở làng Huỳnh Cung (cạnh làng Văn quê ông). Từ Trường Huỳnh Cung này mà danh tiếng thầy Chu Văn An được đông đảo người biết đến và được Vua mời về Quốc Tử Giám dạy con em các vua quan.

                Nội dung giảng dạy của ông không còn được ghi chép lại đầy đủ, nhưng trong sự nghiệp gắn bó với giáo dục ông đã nỗ lực đưa Nho giáo, học thuyết Khổng - Mạnh  dần dần truyền bá trong nền giáo dục. Cả trong thời Lý và thời Trần đạo Phật là Quốc giáo, nhiều vị vua trong các triều đại thời Lý - Trần đã theo con đường tìm hiểu Phật học, dân chúng rất mộ đạo Phật. Do đó, để đưa Nho học có một vị trí lớn trong giáo dục không phải là điều dễ dàng, nhưng Chu Văn An đã làm được điều này. Chu Văn An không trực tiếp bác bỏ học thuyết Phật giáo, nhưng các học trò được ông dạy dỗ, khi ra làm quan đã đi theo chí hướng tôn Nho của thầy, đó có thể xem là một thành công trong nỗ lực giảng dạy của ông.

                Chu Văn An là một thầy giáo có phong thái và phương pháp dạy học đặc biệt, khiến các học trò đều phải kính trọng, nể phục. Theo sử cũ, ông là người rất nghiêm nghị và gương mẫu, những học trò cũ đã làm quan như Phạm Sư Mạnh, Lê Quát khi về thăm thầy vẫn phải khép nép và có điều gì chưa phải phép, ông vẫn nghiêm khắc dạy bảo. Sự nghiêm minh này càng làm cho học trò kính mến ông hơn.

                Nhà sử học Ngô Sĩ Liên đã từng viết về Chu Văn An: “…Những nhà Nho ở nước Việt ta được dùng ở đời không phải không nhiều, có kẻ chỉ nghĩ đến công danh, kẻ thì chuyên lo về phú quý, kẻ lại a dua với đời, có kẻ chỉ biết ăn lộc giữ thân. Người chịu để tâm đến đại đức, suy nghĩ đến việc giúp Vua nêu đức tốt cho dân được nhờ ơn, Chu Văn An ở đời Trần có lẽ gần được như thế... ”.

                Đại Việt Sử Ký Toàn Thư có chép về Chu Văn An như sau:

                “An (người Thanh Đàm), tính cương nghị, thẳng thắn, sửa mình trong sạch, bền giữ tiết tháo, không cầu lợi lộc. Ông ở nhà đọc sách, học vấn tinh thông, nổi tiếng gần xa, học trò đầy cửa, thường có kẻ đỗ đại khoa, vào chính phủ. Như Phạm Sư Mạnh, Lê Quát đã làm hành khiển mà vẫn giữ lễ học trò, khi đến thăm thầy thì lạy hỏi ở dưới giường, được nói chuyện với thầy vài câu rồi đi xa thì lấy làm mừng lắm. Kẻ nào xấu thì ông nghiêm khắc trách mắng, thậm chí la hét không cho vào. Ông là người trong sạch, thẳng thắn, nghiêm nghị, lẫm liệt đáng sợ đến như vậy đấy. Minh Tông mời ông là Quốc Tử giám tư nghiệp, dạy thái tử học.

                Dụ Tông ham chơi bời lười chính sự, quyền thần nhiều kẻ làm trái phép nước, An khuyên can, [Dụ Tông] không nghe, bèn dâng sớ xin chém bảy tên nịnh thần, đều là những kẻ quyền thế được vua yêu. Người bấy giờ gọi là "Thất trảm sớ". Sớ dâng lên nhưng không được trả lời, ông liền treo mủ về quê.

                Ông thích núi Chí Linh, bèn đến ở đấy. Khi nào có triều hội lớn thì đến kinh sư. Dụ Tông đem chính sự trao cho ông, ông từ chối không nhận. Hiến Từ thái hoàng thái hậu bảo: "Ông ta là người không thể nào bắt làm tôi được, ta sai bảo thế nào được ông ta?". Vua sai nội thần đem quần áo ban cho ông. Ông lạy tạ xong, liền đem cho người khác hết. Thiên hạ đều cho là bậc cao thượng.

                Đến khi Dụ Tông băng, quốc thống suýt mất, nghe tin các quan đến lập vua, ông mừng lắm. Chống gậy đến xin bái yết, xong lại xin trở về quê, từ chối không nhận chức gì. Khi ông mất Vua sai quân đến tế, ban tặng tên thụy, ít lâu sau có lệnh cho tòng tự ở Văn Miếu”.

                Chu Văn An sau khi mất đã nhận được vinh hạnh dành cho những cống hiến và tấm lòng thanh cao của ông là được thờ ở Văn Miếu, nơi chỉ dành để tôn thờ Khổng Tử và Chu Công. Câu đối thờ Chu An tại Văn Miếu Quốc Tử Giám có ghi:

                Trần vãn thử hà thời, dục vịnh đại phi hiền giả lạc

                Phượng sơn tồn ẩn xứ, trĩ lưu trường ngưỡng triết nhân phong.

                (Dịch:

                Cuối đời Trần là thời nào, ngâm vịnh rong chơi há chẳng phải là cái thú vui của bậc hiền giả

                Núi Phượng vẫn còn dấu vết ở ẩn, đỉnh non vẫn mãi mãi ngưỡng mộ phong thái của kẻ triết nhân).

                Ngoài Văn Miếu, đền thờ ông còn được nhân dân nhiều nơi lập nên. Tại làng Quang Liệt, nơi ông sinh ra và lớn lên, Chu Văn An được tôn làm Thành Hoàng làng. Hai câu đối còn ghi lại trong đền như sau:

                “Thất trảm sớ còn thơm, gương sử thẹn cho phường mại quốc

                Lục kinh tro chưa nguội, bảng huỳnh treo khắp chốn danh hương”.

                Nơi Chu Văn An lui về ở sau khi từ quan cũng có đền thờ ông, đó là đền tại núi Phượng Hoàng, huyện Chí Linh, tỉnh Hải Dương. Người dân Việt Nam rất tôn kính Chu Văn An, những di tích trong nước về Chu Văn An đều gắn với danh tiếng người thầy giáo (thay vì danh tiếng của một vị quan được trọng vọng): Đền Thanh Liệt, Đền Huỳnh Cung, Đền Văn Điển, Đền Phượng Sơn, Mả Thuồng Luồng, Đầm Mực, Linh Đàm,...

                Chu Văn An đã nêu tấm gương sáng trong sự nghiệp cũng như trong nhân cách nên đã nhận được lòng mến mộ của không chỉ các sĩ phu đương thời mà của cả thế hệ nhiều đời sau. Dù trải qua các giai đoạn thăng trầm của lịch sử nước nhà, nhưng vị trí của Chu Văn An trong lịch sử giáo dục Việt Nam luôn được khẳng định.

                Vì những cống hiến cả đời cần lao với học trò và với sự nghiệp giáo dục, người đời vẫn xưng tụng Chu Văn An là người thầy chuẩn mực của Việt Nam muôn đời.

                Trần Nguyên Đán đã từng vui mừng viết tặng Chu Văn An bài thơ khi ông nhận chứ Tư nghiệp như sau:

                “Học hải hồi lan tục tái thuần,

                Thượng tường sơn đẩu đắc tư nhân,

                Cùng kinh bác sử công phu đại,

                Kính Lão sùng Nho chính hóa tân,

                Bố miệt mang hài quy Hán nhật,

                Thương đầu bạch phát dục Nghi xuân,

                Huân hoa chỉ thị thùy y trị,

                Tranh đắc Sào, Do tác nội thần”.

                (Dịch:

                Làm quay trở lại làn sóng của bể học để phong tục lại thuần hậu

                Nhà quốc học được ông làm bậc thầy như núi Thái Sơn, như sao Bắc Đẩu,

                Học rộng khắp cả kinh sử là công phu lớn của ông

                Kính người già, chuộng đạo nho là chính hóa mới của nhà vua.

                Ngày mà người mang bít tất vải, dép cỏ về với nhà Hán

                Lúc mà bậc tuổi già tắm cái đạo đức của Khổng Tử ở sông Nghi.

                Nghiêu Thuấn chỉ là rũ áo để trị thiên hạ.

                Khó bắt được Sào Phủ, Hứa Do làm bề tôi cho mình.

Nguyễn Bỉnh Khiêm (1491 - 1585) / Nguyễn Đăng Tiến, Nguyễn Phú Tuấn biên soạn // Sách Danh nhân giáo dục Việt Nam và Thế giới. - H.: Văn hóa Thông tin, 2011. - Tr. 67-70

                QUAN NIỆM VỀ NHÂN SINH VÀ GIÁO DỤC CỦA TRẠNG TRÌNH

                Nguyễn Bỉnh Khiêm, sinh năm 1491, người ở làng Trung Am, huyện Vĩnh Lại (Hải Dương) nay thuộc huyện Vĩnh Bảo, ngoại thành Hải Phòng. Ông còn có tên khác là Văn Đạt và tên tự là Hanh Phủ. Sách cũ còn ghi rõ thuở mới ra đời, mặt mũi tinh anh, khôi vĩ, mới đầy tuổi đã biết nói. Năm lên 4 tuổi, mẹ đem những câu trong kinh truyện ra dạy, ông đều thuộc lòng nhanh chóng.

                Lớn lên, được theo học bảng nhãn Lương Đắc Bằng nên thông hiểu được lẽ huyền vi của tạo hóa và nắm được kiến thức chân truyền. Thuở thiếu thời, Nguyễn Bỉnh Khiêm nổi tiếng thông minh học giỏi. Nhưng mãi tới năm 45 tuổi (1535) ông mới đi thi và đỗ Trạng Nguyên, làm quan dưới triều Mạc đến chức Tả Thị Lang Bộ Lại kiêm đại học sĩ Đông Các. Năm 1543, trước cảnh bọn bầy tôi lộng quyền, ông dâng sớ kể tội 18 đình thần xin vua xử tội chết, song không được chấp thuận, bèn xin cáo quan về nhà, dựng am Bạch Vân mở trường dạy học, lấy tên là Bạch Vân cư sĩ. Học trò khắp nơi về thụ giáo rất đông. Nhiều người sau này trở thành nhân tài trong các lĩnh vực chính trị, xã hội, văn học... như Lương Hữu Khánh, Phùng Khắc Khoan, Nguyễn Dữ...

                Ông mất vào năm 1585, khi chế độ phong kiến đi vào giai đoạn suy tàn, các tập đoàn phong kiến mâu thuẫn gay gắt, tranh giành quyền lực bằng các cuộc chiến tranh tương tàn, ác liệt.

                Sinh thời ông được học trò rất mực kính yêu, tôn xưng là Tuyết Giang phu tử. Nhà Mạc cũng hết lòng trọng đãi ông, ban cho nhiều chức quan cao và phong tước Trình tuyền hầu nên mọi người thường gọi ông là Trạng Trình.

                Đánh giá về Nguyễn Bỉnh Khiêm, nhà sử học Phan Huy Chú trong "Lịch triều hiến chương loại chí" đã nhận xét:

                ..."Lòng ông phóng khoáng, tư chất trời cho rất cao, tu dưỡng thuần túy, hồn nhiên, không để lộ cạnh khía. Ông rong chơi nhàn nhã hơn 40 năm mà không một ngày nào quên đời, lòng lo thời thương đời, thể hiện ra văn thơ. Văn chương ông tự nhiên, nói ra là thành không cần gọt giũa, giản dị mà linh hoạt, không màu mè mà có ý vị, đều có quan hệ đến việc dạy đời.

                Xuất thân trong một gia đình trí thức, ông được nuôi dạy chu đáo, học hành tiến bộ và nhanh chóng đạt tới đỉnh cao của kiến thức. Sở dĩ sống gần nửa cuộc đời vẫn nằm im, không chịu nhập thế, bởi lẽ ông nhìn rõ sự suy đồi, thối nát của các vương triều cuối Lê. Phải 8 năm sau khi triều Mạc nối ngôi và có một số thành công, tiến bộ, Nguyễn Bỉnh Khiêm mới hy vọng vào một xã hội mới thịnh trị và thanh bình:

                "Mừng thấy thời vần đời mở trị

                 Thái Bình thiên tử, thái bình dân"

                                                                                (Sách đã dẫn)

                Ông đã đem tất cả sức lực, tài năng phục vụ cho triều Mạc, song thời thế đã không giúp cho các hoạt động của ông đạt được kết quả thực tế gì cho dân, cho nước. Ông đưa ra những ý kiến về đường lối trị nước, về đạo lý làm người, mong muốn những người trị nước thực hiện những hoài bão mà ông hằng ôm ấp. Đó là xây dựng một quốc gia thống nhất, một xã hội có vua sáng tôi hiền, một cuộc sống hòa bình no ấm, mọi người ứng xử với nhau chân thật, tốt đẹp. Chủ trương của ông là thực hiện nhân nghĩa, tranh thủ lòng người:

                "Yên bách tính thì yên trị đạo

                Thất thiên kim chớ thất nhân tâm"

                 (Trăm họ được yên lành thì đạo trị nước được yên lành. Mất ngàn vàng chứ không để mất lòng người)

                Ông quan niệm phải lấy dân làm gốc, không nên theo đuổi chiến tranh.

                Ông khuyên vua:

                "Quân vương nhu hữu quang minh chúc

                Ứng chiếu cùng tư bộ ốc dân"

                                                                (Đinh Gia Khánh... Sách đã dẫn)

                (Nếu nhà vua có bó đuốc sáng thì nên soi đến người dân sống ở nơi nhà nát, xóm nghèo).

                Nhưng thực tế xã hội đã đi ngược lại những quan niệm, mơ ước của ông: Chiến tranh vẫn liên miên, xã hội đảo điên; lòng người đen bạc, tiền tài ngự trị cuộc sống con người. Ông cảm thấy bất lực, bất tài, không đủ sức "phò nghiêng đỡ lệch". Xin chém 18 kẻ lộng thần không được, ông rút về ở ẩn nơi quê nhà, dựng quán Trung Tân, lập am Bạch Vân, tìm thú vui trong cảnh nhàn với việc viết văn, làm thơ, giáo hóa người đời, dạy dỗ học trò để họ trở thành người có đức, có tài, hữu ích cho đất nước.

                Với cương vị người thầy, Nguyễn Bỉnh Khiêm thường dùng lời gợi ý, khuyến khích người học tự động não, tự tìm ra ý tứ sâu xa của bài văn, câu thơ, thậm chí tự tìm lấy một giải pháp thích hợp nhất cho đời mình (trường hợp Phùng Khắc Khoan), hoặc giúp đỡ tỉ mỉ, chi tiết (trường hợp giúp Nguyễn Dữ sửa cuốn "Truyền kỳ mạn lục").

                Có thể nói Nguyễn Bỉnh Khiêm đã dành quá nửa đời mình cho việc đào tạo ra những nhân tài cho đất nước. Ông chẳng những làm phong phú lịch sử giáo dục của nước nhà trên các bình diện tư tưởng, nội dung, phương pháp giáo dục, mà còn bằng chính cuộc đời thanh cao, tự tại, gắn bó với dân, với nước của mình.

                Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm thật xứng đáng với lời ca ngợi của Đinh Thời Trung:

                "Học vi thiên hạ sư, tuế vi thiên hạ phụ" (Học vấn xứng là thầy thiên hạ, tuổi tác xứng là cha thiên hạ).

Nguyễn Trãi nhà giáo dục lớn của dân tộc (1380 - 1442) / Nguyễn Đăng Tiến, Nguyễn Phú Tuấn biên soạn // Sách Danh nhân giáo dục Việt Nam và Thế giới. - H.: Văn hóa Thông tin, 2011. - Tr. 78-83

                Nguyễn Trãi, hiệu là Ức Trai, quê gốc ở xã Chi Ngại, huyện Phượng Sơn, thuộc lộ Lạng Giang (nay là huyện Chí Linh, tỉnh Hải Dương). Ông là con của Nguyễn Phi Khanh và bà Trần Thị Thái (con gái của quan tư đồ Trần Nguyên Đán). Nguyễn Phi Khanh có tên thực là Nguyễn Ứng Long, một thầy đồ nghèo được dạy học trong dinh của quan tư đồ. Trần Thị Thái cũng là học trò của ông, đem lòng yêu mến. Thế rồi, Trần Thị Thái có thai, ứng Long sợ hãi bỏ trốn. Nhưng khi quan tư đồ biết chuyện đã không quở trách mà vui lòng cho hai người nên vợ nên chồng. Từ đó, Ứng Long ra công đèn sách và đến khóa thi năm Giáp Dần, niên hiệu Long Khánh 2 (1374) đời vua Trần Duệ Tông, ông đã thi đỗ Thái học sinh (tức Tiến sĩ sau này) lúc mới tròn 19 tuổi. Tuy vậy, vì là một nho sĩ thuộc thành phần dân thường mà dám lấy vợ dòng họ nhà vua, nên chỉ được làm một chức quan nhỏ. Ông đành bỏ về quê mở trường dạy học tại Ngọc Ổi, xã Nhị Khê, Thường Tín, Hà Đông.

                Thuở nhỏ, Nguyễn Trãi ra đời và sinh sống trong dinh ông ngoại. Năm 1385, Trần Nguyên Đán cáo lão về hưu, hai mẹ con lại theo quan tư đồ về sống ở Côn Sơn, ít lâu sau bà Thái qua đời. Năm 1390, ông ngoại cũng mất, Nguyễn Trãi phải trở về quê sống với bố. Nguyễn Trãi chịu ảnh hưởng của cả hai gia đình nội ngoại, đã được nuôi dạy chu đáo trong những điều kiện vô cùng thuận lợi. Ông được tiếp thu những kiến thức phong phú cả về mặt chữ nghĩa thánh hiền lẫn thực tế của người bình dân.

                Năm 21 tuổi, Nguyễn Trãi đỗ Đệ nhị giáp khoa thi Thái học sinh năm Canh Thìn, niên hiệu Thánh Nguyên I (1400) triều Hồ Quý Ly (theo sách Đại Việt lịch đại đăng khoa thì ông đỗ năm 20 tuổi). Từ đó, hai cha con làm quan đồng triều với họ Hồ. Nhà Hồ thất bại, Nguyễn Phi Khanh bị giặc Minh bắt về Kim Lăng. Nghe lời cha, ông trở về Lam Sơn theo Lê Lợi, dâng Bình Ngô sách và trở thành quân sư đắc lực trong cuộc kháng chiến chống Minh. Cuộc kháng chiến thắng lợi, ông được phong Khai quốc công thần, nhận nhiều trọng trách của triều đình. Năm 1442, do vụ án Lệ Chi Viên, ông bị hành quyết. Mãi về sau, vua Lê Thánh Tông lên ngôi, ông mới được minh oan. Những tác phẩm thơ văn chữ Hán, chữ Nôm của ông được sưu tầm lại và tới năm 1868 được biên tập thành bộ Ức Trai thi tập, cơ sở để biên dịch thành Nguyễn Trãi toàn tập do NXB KHXH, Hà Nội, 1969-1982 công bố.

                Nguyễn Trãi không để lại một tác phẩm nào chuyên về lí luận giáo dục học có hệ thống, song bản thân cuộc đời và các tác phẩm đồ sộ của ông tràn ngập những tư tưởng, quan điểm về GD. Ông đánh giá rất cao vai trò của GD, khẳng định GD là công cụ đào tạo những hiền tài cho đất nước, là công cụ giữ gìn, phát triển thế đạo, nhân tâm. GD là một hoạt động khó khăn, gian khổ mà cả người dạy lẫn người học phải tiến hành một cách nghiêm túc, thường xuyên cần cù và khiêm tốn. GD theo ông là của báu ngàn đời: "Thi thư thực ấy báu ngàn đời! Ai học thì hay mựa lệ thầy". Bởi lẽ, bể học mênh mông, sức người có hạn, học suốt đời vẫn thấy mình dốt nát, chẳng biết được bao nhiêu: "Cuốc cùn ước xáo vườn chư tử / Thuyền mọn khôn đưa bể lục kinh".

                Về đối tượng GD, trước đây, Khổng Tử đã đề ra quan niệm là "Hữu giáo vô loại", tức là bất kì ai cũng cần phải được GD. Song chính ông lại tự mâu thuẫn với chính mình khi phân biệt hai loại người là "thượng trí" và "hạ ngu". "Hạ ngu" là các tầng lớp nhân dân lao động, lớp người không thể GD được mà chỉ có thể sai khiến được mà thôi. Trái lại, Nguyễn Trãi trong quan niệm cũng như bằng hành động, đã GD từ vua quan đến lớp dân thường.

                Dưới triều Lê Thái Tông, năm 1432, ông được giao chức Phụ chính, chuyên dạy dỗ thái tử là Lê Bang Cơ (sau là vua Lê Nhân Tông). Ông soạn sách Dư địa chí nhằm dạy Lê Thái Tông hiểu rõ về đất nước, soạn Lam sơn thực lục để răn dạy con cháu và mọi người không được quên nguồn gốc, phải luôn nhớ đến việc 10 năm kháng chiến gian khổ để cứu nước, cứu dân. Ông còn giúp vua thảo chiếu để khuyên dạy thái tử và các quan. Nguyễn Trãi từng mở trường nơi thôn dã, chỗ ẩn dật để dạy cho các nho sĩ và cả con em nhân dân lao động. Ông từng viết "nhớ từng giảng học trong 10 năm" hoặc Nguyễn Mộng Tuân khi mừng Ức Trai có nhà mới cũng đã viết: "Nhất điêu thủy lãnh tri tam quán/ Tứ bích gia bần phú lục kinh" (nghĩa là: Một dòng nước lạnh, đó là nhà ông tri tam quán/ Bốn vách nhà nghèo, chỉ giàu sách lục kinh). Tri tam quán ở đây là chức vụ trông nom về GD. Năm 1442, Nguyễn Trãi với danh nghĩa Thừa Chỉ Hàn lâm viện và Quốc Tử Giám, được mời ra làm người khảo duyệt khoa thi tiến sĩ ở kinh đô, lấy đỗ 33 người, trong đó tam khôi là Nguyễn Trực (Trạng Nguyên), Nguyễn Như Đổ (Bảng nhãn), Lương Như Hộc (Thám hoa).

                Tư tưởng GD của Nguyễn Trãi còn thể hiện sâu sắc trong bài Bình ngô đại cáo, một bản thiên cổ hùng văn, ảnh hưởng to lớn đến mọi người, từ vua quan đến tướng sĩ, quảng đại quần chúng, thậm chí cả với kẻ thù. Trong tác phẩm Quốc âm thi tập, trong tổng số 254 bài có tới 61 bài mang tên Bảo kính cảnh giới (Trau dồi đạo đức con người). Đó là những bài tự răn mình và khuyên bảo con cháu, mọi người cần chăm chỉ học hành, cần cù lao động, tu dưỡng đạo đức để trở nên người có nhân cách, có đức tài.

                Về mối quan hệ giữa đức và tài, về cơ bản Nguyễn Trãi cũng cùng quan niệm với các nho gia. Đức và tài phải đi đôi với nhau, trong đó có đức là gốc của nhân cách con người. Sách Trung dung viết: "Đức giả bản dã, tài giả mạt dã", vì thế mà người học phải "Tiên học lễ, hậu học văn". Tuy nhiên, Nguyễn Trãi cũng có quan niệm riêng của mình. Ông nói: "Đạo đức hiền lành được mọi phương/ Tự nhiên cả chúng muốn suy nhường" (Nguyễn Trãi toàn tập). Lòng nhân ái đó phải giữ được chung thủy suốt đời và đi liền với trung, nghĩa và cần: "Nhân, nghĩa, trung, cần giữ tích ninh/ Khốn thì hay khéo, khó hay hanh". Từ khái niệm nhân nghĩa, ông mở rộng thành nghĩa đồng bào: "Đồng bào cốt nhục nghĩa càng bền/ Cành Bắc, cành Nam một cội nên/ Ở thế, nhịn nhau muôn sự đẹp/ Cương, nhu cùng biết cả hai bên" (Nguyễn Trãi toàn tập).

                Đối với nhà cầm quyền, ông đề ra sách lược "tâm công" (đánh vào lòng người) hơn là dùng hình phạt. Tuy nhiên, lòng nhân ái ở đây mang tính tích cực, không phải là dĩ hòa vi quý, trái lại có sự phân biệt trong đối sách: "Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân/ Quân điếu phạt trước lo trừ bạo" (Bình ngô đại cáo).

                Coi trọng đức, song Nguyễn Trãi không coi nhẹ tài, bởi lẽ có đức mà thiếu tài thì không đóng góp gì ích lợi cho mọi người, cho đất nước: "Tài đức thì cho lại có nhân/ Tài thì kém đức một vài phân".

                Như vậy, tài chỉ đứng dưới đức ít nhiều chứ không phải không quan trọng.

                Nguyễn Trãi luôn luôn giáo dục thế hệ trẻ, từ con cháu của mình đến con em nhân dân, thậm chí cả ông vua tương lai là thái tử. Trong Quốc âm thi tập, người ta thấy ức Trai tiên sinh có bài thơ "Dạy con trai" như sau: "Nhắn bảo phô bay đạo cái con/ Nghe lượm lấy lộ chi đòn/ Xa hoa lơ đãng nhiều hay hết/ Hà tiện đâu đang ít hãy còn/ Áo mặc miễn là cho cật ấm/ Cơm ăn chẳng lọ bén mùi ngon/ Xưa đà có câu truyền bảo: Làm biếng hay ăn lở núi non".

                Trong tờ chiếu dạy thái tử, Nguyễn Trãi đã thay vua Lê Lợi khuyên con “Chớ gần thanh sắc và tham của tiền" và "Phàm những phép giữ nước, cầm quân, những phương giữ mình trị nước, thi hành nên cố sức, chăm chỉ chớ ham vui..."

                Tương truyền tập Gia huấn ca là do Nguyễn Trãi biên soạn, trong đó lớp học trò thuở trước không ai không thuộc lòng bài “Thương người như thể thương thân” sau đây: "Thấy người hoạn nạn thì thương/ Thấy người tàn tật lại càng trông nom/ Thấy người già yếu ốm mòn/ Thuốc thang cứu giúp, cháo cơm đỡ đần/ Trời nào phụ kẻ có nhân/Người mà có đức, muôn phần vinh hoa".

                Các minh quân thời phong kiến đều coi “hiền tài là nguyên khí của quốc gia, nguyên khí thịnh thì thế nước mạnh, rồi lên cao; nguyên khí suy thì thế nước yếu, rồi xuống thấp”. Bởi vậy, Nguyễn Trãi thường khuyên vua kén hiền tài bằng nhiều cách: “Được thịnh trị cốt ở cử hiền/ Được hiền tài cốt ở tiến cử”“Chọn người hiền không cứ loại nào/ Dùng người tài coi như mình vậy. Kén người thì rau Phỉ, rau Phong đều hái/ Đức, tài thì đồ thô, đồ méo không quên”.

                Nguyễn Trãi cũng không quên đề cao vai trò của người thầy, đòi hỏi người học phải “Ơn thầy, ơn chúa, liền ơn cha”.

                Có thể tìm thấy trong tư tưởng của Nguyễn Trãi nhiều quan điểm giáo dục tiến bộ khác như nguyên tắc học đi đôi với hành, coi trọng lao động sản xuất, dùng sở học để vận dụng vào cuộc sống: “Nên thợ nên thầy vì có học/ No ăn, no mặc bởi hay làm” hoặc nguyên tắc trực quan như nấu mật làm đồ chơi cho trẻ. Nếu nho giáo loại bỏ việc dạy âm nhạc, nhất là trong gia đình vì "Gia trung hữu cầm, nữ tử tắc dâm" (Trong nhà có đàn thì con gái sẽ dâm ô) thì ngược lại, Nguyễn Trãi quan niệm rằng "Gia hữu cầm thư nhi bối lạc” (Trong nhà có đàn sách, con cái được vui). Bản thân Nguyễn Trãi, bên cạnh học vấn uyên bác về nho giáo, ông còn là người biết đánh đàn, biết vẽ.

                Ông đòi hỏi người thầy, nhà giáo dục, muốn đào tạo con người, rèn đúc thế hệ trẻ, thì bản thân phải là người gương mẫu cả trong lời nói lẫn việc làm. Và chính Nguyễn Trãi suốt đời đã là một tấm gương chói sáng, một ngôi sao khuê lấp lánh trên bầu trời Đại Việt thế kỉ XIV và XV của dân tộc chúng ta.

Lê Quý Đôn (1726 - 1784) / Nguyễn Ngọc Thanh chủ biên // Sách Những thầy giáo nổi tiếng trong lịch sử. - TP. Hồ Chí Minh: Văn hóa Văn nghệ, 2017. - Tr. 91-97

                Từ nhiều thập kỷ qua, con người và sự nghiệp của Lê Quý Đôn - Nhà bác học lớn nhất Việt Nam trong lịch sử xã hội phong kiến, đã thu hút sự quan tâm, nghiên cứu của nhiều thế hệ học giả trong và ngoài nước, ông cũng là một người thầy tận tâm, nghiêm túc trong giảng dạy và là một người đã đào tạo nên nhiều nhân tài cho đất nước. Tuy nhiên, cho đến nay, chưa thật nhiều những tác phẩm nghiên cứu về phương diện đóng góp cho giáo dục của Lê Quý Đôn. Thông qua những tư liệu ít ỏi về ông và vốn kiến thức còn hạn hẹp của người viết, bài viết dưới đây có thể chưa phân tích sâu sắc và đầy đủ những đóng góp của Lê Quý Đôn cho sự nghiệp giáo dục nước nhà, song phần nào khái quát những thành tựu nổi bật nhất của ông. Để hiểu thêm về thân thế, cuộc đời và sự nghiệp của thầy giáo bác học này, chúng tôi chia bài viết ra thành hai phần: phần 1 là Tiểu sử Lê Quý Đôn và phần 2 là Những đóng góp trong sự nghiệp giáo dục của ông.

                * Tiểu sử Lê Quý Đôn

                Lê Quý Đôn (thuở nhỏ tên là Lê Danh Phương), tự Doãn Hậu, hiệu Quê Đường, người làng Diên Hà, trấn Sơn Nam Hạ (nay là làng Phú Hiếu, huyện Diên Hà, tỉnh Thái Bình), ông sinh ngày 5-7 năm Bính Ngọ, niên hiệu Bảo Thái năm thứ 7 (1726) đời Lê Dụ Tông.

                Thân phụ Lê Quý Đôn là Lê Phú Thứ (sau đổi là Lê Trọng Thứ) đỗ Tiến sĩ năm Giáp Thìn, niên hiệu Bảo Thái năm thứ 5 (1724) đời Lê Dụ Tông, làm quan đến Hình bộ thượng thư, được phong tước hầu. Thân mẫu là người họ Trương, quê làng Nguyễn Xá, huyện Duy Tiên, tỉnh Hà Nam.

                Thuở nhỏ, Lê Quý Đôn đã nổi tiếng thần đồng, sử sách còn ghi lại nhiều truyền thuyết, giai thoại về trí mãn tiệp và óc thông minh, xuất chúng của ông. Mới 2 tuổi, ông đã đọc được chữ “vô” (là không) và “hữu” (là có). Lên 5 tuổi, ông gần như đã đọc hết sách Kinh thư”; 10 tuổi học sử, mỗi ngày thuộc từ tám đến chín mươi trang trong “Cương hình”, “Đồ thuyết”; 11 tuổi ông đã đọc và hiểu được “Kinh dịch”; 14 tuổi, ông học hết Sử truyện, Bách gia, Chư tử, Tứ thư, Ngũ Kinh. Tương truyền, một ngày ông có thể làm được hàng chục bài phú, không phải nghỉ ngơi và không cần viết nháp. Vào thời gian đó, cha ông cho ông theo lên kinh đô Thăng Long để ông có điều kiện chuyên chú vào việc học tập.

                Năm Quý Hợi, niên hiệu cảnh Hưng thứ 4 (1743), lúc đó Lê Quý Đôn vừa tròn 18 tuổi (theo cách tính Can chi), ông Sự thi Hương Trường Sơn Nam, bài đạt hạng ưu và đậu Giải nguyên (đỗ đầu). Sau đó vì thiên kiến chính trị, để tránh trùng tên với quận Hẻo Nguyễn Danh Phương - một thủ lĩnh của cuộc khởi nghĩa nông dân chống lại sự thối nát của triều đình Lê - Trịnh (nhưng dưới con mắt của các sử gia phong kiến thì đó là bọn giặc cỏ) - ông đã đổi tên từ Lê Danh Phương thành Lê Quý Đôn - một cái tên đã trở nên quá quen thuộc đối với chúng ta ngày nay. Cũng thời gian này, ông ở nhà dạy học và làm sách. Tạp chí “Nam Phong” số 25, xuất bản năm 1929, trong “Lê Quế Đường tiên sinh tiểu sử” cho biết đến thời điểm đó ông đã viết được một trăm thiên sách, nhưng không nói rõ sách gì.

                Năm Nhâm Thân, niên hiệu cảnh Hưng thứ 13 (1752), đời Lê Hiển Tông, Lê Quý Đôn đỗ đầu thi Hội và tiếp sau đó đỗ đầu thi Đình (tam nguyên - ba lần thi đều đỗ đầu). Vì khoa đó không lấy Trạng nguyên (đệ nhất giáp tiến sĩ cập đệ, đệ nhất danh) nên ông bị tụt xuống một bậc là Bảng nhãn (đệ nhất giáp tiến sĩ cập đệ, đệ nhị danh). Năm đó, ông 27 tuổi.

                Năm Giáp Tuất, niên hiệu cảnh Hưng thứ 15 (1754), Lê Quý Đôn được sung vào Hàn lâm viện thừa chỉ, Toản tu quốc sứ quán. Năm Bính Tý, niên hiệu cảnh Hưng thứ 17 (1756), trong lần phụng mạng đi liêm phóng ở Sơn Nam, ông đã phát giác được tám viên quan ăn hối lộ. Tháng 5 năm đó, phủ chúa Trịnh lấy ông sang phủ chúa trông coi việc quân sự. Thời gian này, ông viết bảng điều trần gồm 19 khoản nói về chức trưởng phiên binh, dâng lên chúa Trịnh và được khen là “am hiểu điều lệ nhà nước” nên được thưởng 50 lạng bạc. Tháng 8, ông chỉ dụ hợp đồng với các đạo quân thuộc vùng Sơn Tây, Tuyên Quang, Hưng Hóa đi đánh dẹp cuộc khởi nghĩa nông dân của nghĩa quân Hoàng Công Chất. Năm Đinh Sửu, niên hiệu cảnh Hưng thứ 18 (1757), ông được thăng chức Hàn lâm viện thị giảng.

                Tháng 6 (nhuận) năm Kỷ Mão, niên hiệu cảnh Hưng thứ 20 (1759), Thượng hoàng Lê Ý Tông mất, năm Canh Thìn, niên hiệu Cảnh Hưng thứ 21 (1760), Lê Quý Đôn được cử làm Phó sứ, cùng với Trần Huy Mật sang Trung Quốc báo tang và dâng lễ cống. Năm Tân Tỵ, sứ bộ của Đại Việt đến Bắc Kinh. Nghe tin trong đó có Lê Quý Đôn, Binh bộ thượng thư.

                Lương Thì Chính, Công bộ thượng thư Quy Hữu Quang và nhiều nho thần khác của triều đình nhà Thanh đã đến sứ quán xin được diện kiến đích danh Lê Quý Đôn. Thời gian này, Lê Quý Đôn đã gặp đoàn sứ thần Triều Tiên ở Hồng Lê Tự và có dịp làm thơ ngâm vịnh với Hồng Khải Thi, Triệu Vinh Kiến và Lý Hưng Trung. Sau khi đi sứ về, Lê Quý Đôn được phong làm Hàn lâm viện thừa chỉ, tước Dĩnh thánh lá, kiêm giữ chức Học sĩ trong Bí thư các.

                Năm Giáp Thân, niên hiệu Cảnh Hưng thứ 25 (1764), vì dâng sớ xin thiết lập lại pháp chế, Lê Quý Đôn bị chiếm giữ một chức quan ngoài là Đốc đồng sứ Kinh Bắc; một năm sau, ông lại được bổ nhiệm làm tham chính Hải Dương, nhưng ông từ chối và về quê đóng cửa viết sách. Năm 1767, nhận rõ tài năng của Lê Quý Đôn, chúa Trịnh phải khởi dụng ông trở lại làm việc với chức Thị thư, tham gia biên tập Quốc sử, kiêm Tư nghiệp Quốc Tử Giám. Năm 1786, ông hoàn thành bộ “Toàn việt thư lục”. Tháng 9 năm đó, chúa Trịnh lại cử ông giữ chức Tán lý quân vụ, cùng với Phan Phái Hầu đem quân đi đánh dẹp cuộc khởi nghĩa nông dân của nghĩa quân Lê Huy Mật ở Thanh Hóa. Sau chiến thắng này, ông được thăng chức Thị phó ngự sử và sau đó là Công bộ hữu thị lang.

                Năm Nhâm Thìn (1772), Lê Quý Đôn được cử đi điều tra tình hình dân chúng ở Lạng Sơn. Một năm sau ông được cử giữ chức Bồi tụng. Năm Giáp Ngọ, niên hiệu cảnh Hưng thứ 35 (1774), Trịnh Sâm đem quân đánh Thanh Hóa, Lê Quý Đôn được giao trọng trách đánh Lưu thủ thành Thăng Long. Năm 1775, ông được thăng lên chức Lại bộ Tả thị lang, kiêm Tổng Tài quốc sử quán. Cùng năm, xảy ra vụ Lê Quý Kiệt (con Lê Quý Đôn) và Đinh Thì Trung (là học trò Lê Quý Đôn) đổi quyển cho nhau trong phòng thi (kỳ đệ tứ khoa thi hội). Việc bị phát giác, Lê Quý Kiệt phải hạ ngục, Đinh Thì Trung phải đi đầy Châu Xa. Vì là bậc đại thần, có công lao, Lê Quý Đôn được miễn nghị.

                Năm 1776, Lê Quý Đôn được cử giữ chức Hiệp trấn tham tán quân cơ trong sáu tháng. Thời gian này, ông lo củng cố và tổ chức lại bộ máy chính quyền, vỗ về an ủi nhân dân vùng Thuận Hóa (vùng đất chúa Trịnh vừa giành được từ tay chúa Nguyễn) và cho ra đời bộ sách “Phủ biên tạp lục”. Cuối năm đó, ông được cử giữ chức: Hành bộ phiên cơ mật sự vụ, kiêm Chưởng tài phủ.

                Năm Mậu Tuất, niên hiệu cảnh Hưng thứ 39, Lê Quý Đôn được cử giữ chức Hành tham tụng, nhưng ông từ chối và xin đổi sang Võ ban. Tháng 4 năm đó, Lê Quý Đôn bị Lê Thế Toại, tham nghị cũ xứ Thanh Hóa công kích trong một bài khải dâng lên chúa Trịnh. Năm 1779, do bị Hoàng Văn Đồng vu khống, ông bị giáng chức. Đến năm Tân Sửu, niên hiệu cảnh Hưng thứ 42 (1781), Lê Quý Đôn lại được sung vào chức Quốc sử quán tổng tài. Năm 1783, chúa Trịnh cải bổ, điều ông. Ngày 14 tháng 4 năm Giáp Thìn, niên hiệu cảnh Hưng thứ 45 (1784), tức ngày 1 tháng 6 năm 1784 dương lịch.

                Tư tưởng giáo dục của Lê Quý Đôn được thể hiện rõ trong những tác phẩm của ông, thể hiện tầm vóc lớn lao của nhà bác học đại tài này. Với niềm khát vọng đổi mới bộ máy quan chức, nhưng không gặp được minh quân, nên những tư tưởng ấy vẫn chỉ được thể hiện trên giấy tờ.

                Để góp phần trẻ hóa cán bộ, ở Vân đài loại ngữ, Lê Quý Đôn khẳng định: “Người ta quý ở chỗ được ngồi cao để hành đạo, không phải để cầu lợi lộc”. Ở Kiến văn tiểu lục, ông nhắc lại lời Tôn Huệ, nhà Tấn: “Danh vị lớn không nên đeo lấy mãi, công việc lớn không nên gánh vác mãi, hy vọng lớn không nên bám lấy mãi”. Đó vừa là đức mà cũng là tài, cái tài mà Lê Quý Đôn gọi là tài “biết rõ lẽ chỉ túc” (chỗ nào dừng lại), sáng suốt giữ mình.

Nguyễn Văn Siêu (1799 - 1872) / Nguyễn Ngọc Thanh chủ biên // Sách Những thầy giáo nổi tiếng trong lịch sử. - TP. Hồ Chí Minh: Văn hóa Văn nghệ, 2017. - Tr. 98-105

                Nguyễn Văn Siêu sinh năm 1799 tại làng Kim Lũ, huyện Thanh Trì, ngoại thành Hà Nội. Lúc đầu ông có tên là Định, tự là Tôn Ban, hiệu Phương Đình và Thọ Xương cư sĩ. Ông là người học rộng, hay thơ, đỗ Phó bảng năm Minh Mệnh thứ 9, rồi ra làm quan ở Hàn lâm, sau đó vào Nội các, nổi tiếng về văn và đọc nhiều sách Trên các sáng tác về văn học, ông vẫn thường lấy tên là Nguyễn Siêu.

                Nguyễn Văn Siêu sinh ra ở một làng khoa bảng. Làng Lủ xưa gồm ba xóm lớn Lủ Cầu, Lủ Trung, Lủ Văn, sau phát triển thành ba làng Kim Giang, Kim Lũ, Kim Văn. Đến cuối thời Lê, Kim Lũ thành một xã thuộc tổng Khương Đình, huyện Thanh Trì, phủ Thường Tín, nay là phường Đại Kim, quận Hoàng Mai, Hà Nội. Dù không nổi tiếng bằng Mộ Trạch, Hoa Đường, Hành Thiện... nhưng Kim Lũ cũng là một làng quê giàu truyền thống. Theo cuốn Tiến sĩ Nho học Thăng Long Hà Nội, Kim Lũ tiêu biểu về khoa cử trong 14 làng khoa bảng của Hà Nội với năm vị đỗ đại khoa gồm Tiến sĩ Hồng Hạo (1710), Tiến sĩ Nguyễn Công Thái (1715), Phó bảng Nguyễn Văn Siêu (1838), Tiến sĩ Nguyễn Trọng Hợp (1865), Tiến sĩ Nguyễn Sĩ Cốc (1910).

                Nguyễn Văn Siêu sinh tại làng Lũ nhưng lại theo gia đình chuyển đến thôn cổ Lương, giáp Giang Nguyên, phường Dũng Thọ, huyện Thọ Xương, Hà Nội. Với cảnh sắc thiên nhiên tươi đẹp và là một trung tâm quy tụ nhân tài, nơi đây đã góp phần nuôi dưỡng tâm hồn nhạy cảm và giàu khát vọng cho Phương Đình. Quê hương, dòng họ, gia đình đã hội đủ điều kiện cho sự phát triển tài năng và nhân cách của Nguyễn Văn Siêu.

                Cụ là trưởng tộc họ Nguyễn, thế hệ thứ 10, bên Đại Tông. Ngay từ hồi nhỏ, cụ đã theo gia đình rời làng ra ở nội thành Hà Nội, dựng nhà giáp Giang Nguyên, thôn cổ Lương, phường Dũng Thọ, huyện Thọ Xương. Nhà cụ ở ngay trên bờ sông Tô Lịch, chỗ đầu nguồn nối với sông Hồng ở phố Chợ Gạo. Sông Tô Lịch lúc đó chảy qua phố Nguyễn Siêu, ra Hàng Đường, sang Hàng Lược, rồi theo dọc phố Phan Đình Phùng bây giờ mà lên Bưởi. Di tích ngôi nhà này bây giờ ở vào khoảng hai nhà số 12- 14 phố Nguyễn Siêu.

                Gần ngôi nhà số 20 là ngồi đình cũ của giáp Giang Nguyên, nơi mà cụ Nguyễn Văn Siêu, sau khi mất, được tôn làm Thành hoàng. Dân làng thờ cụ chung cùng với Tô Lịch Giang Thần và Kinh sư đại doãn Nguyễn Trung Ngạn (đời nhà Trần). Ngôi nhà trên về sau được sửa thành trường dạy học của cụ, có kiến trúc hình vuông nên mang tên là Phương Đình. Tại ngôi nhà này, ngay từ năm mới 12 tuổi, để chứng tỏ chí hướng của mình, cụ đã viết lên hai chữ Lạc Thiên (có nghĩa là Yên vui với đạo Trời) và đôi câu đối dán trong buồng học:

                “Xưa nay đạo học không đường tắt

                Nhà tranh vẫn hay có người tài”.

                Nguyễn Siêu có đường công danh tương đối muộn, đỗ Á nguyên năm 26 tuổi (1825). Từ đó cho đến năm 1838, trong vòng 13 năm, cụ chỉ ở nhà đọc sách và dạy học. Cùng năm đó, cụ cùng Cao Bá Quát lên đường vào Huế thi Hội. Họ Cao trượt, còn cụ đỗ Tiến sĩ nhưng chỉ là Phó bảng. Tại khoa thi Hội năm 1838 này, cụ kết thân với Đinh Nhật Thân và Nguyễn Hàm Ninh, để rồi cùng nổi tiếng là bốn nhà văn kiệt ở kinh đô Huế, gọi là “Tràng An tứ kiệt”.

                Từ năm 1838 đến năm 1854, ông bước vào hoạn lộ nhưng chức vụ và phẩm hàm không cao mà nhiều thăng trầm, nhất là sau những việc xảy ra năm 1841 và 1854. Từ khi trí sĩ đến lúc mất, ông góp sức chống thực dân Pháp xâm lược, khởi xướng phong trào chấn hưng văn hóa Thăng Long, mở trường đào tạo nhân tài... Nguyễn Văn Siêu đã trở thành nhà Nho tiêu biểu đương thời, người thầy uyên bác đức độ, nhà văn hóa gìn giữ truyền thống và một tác gia có sự nghiệp trước tác đồ sộ.

                Sau khi thi đỗ, cụ Nguyễn Văn Siêu được cử giữ chức Hàn lâm viện kiểm thảo; một năm sau thăng chức Chủ sự bộ Lễ; năm sau nữa thăng chức Viên ngoại lang bộ Lễ (thời Vua Minh Mạng). Năm 1840, vua Thiệu Trị nối ngôi vua Minh Mạng. Vì chú ý đến tài năng của Nguyễn Văn Siêu từ khi còn là hoàng tử, nên vừa lên ngôi vua Thiệu Trị đã cho chuyển cụ về Nội các làm Thừa chỉ, ít lâu sau lại trao thêm chức Thị Giảng dạy các hoàng tử Hồng Bào, Hồng Nhậm.

                Năm 1847, hoàng tử Hồng Nhậm lên ngôi, hiệu là Tự Đức. Hai năm sau, vua Tự Đức cử Nguyễn Văn Siêu đi sứ sang cống nhà Thanh bên Trung Quốc. Nhà vua dặn riêng cụ: “Khanh học vấn uyên bác, chuyến này sang sứ, xem xét non sông, phong tục nên ghi chép kỹ, khi về tiến lãm”. Khi về (1850), cụ Siêu dâng lên vua quyển Vạn lý tập dịch trình tấu thảo, được thăng Học sĩ ở Viện Tập hiền. Năm sau lại thăng án sát Hà Tĩnh rồi án sát Hưng Yên kiêm luôn chức Tuần phủ. Thuở đó, Hưng Yên hay bị vỡ đê, cụ có gửi về kinh một số điều trần nhưng không hợp ý vua, cụ bị giáng truất. Năm sau (1854), cụ đệ đơn xin từ chức về nhà vui với việc dạy học và soạn sách.

                Trí sĩ khi hơn năm mươi tuổi, mang theo tâm thế bất lực trước thời cuộc, Nguyễn Văn Siêu đã theo con đường nhiều danh Nho từng lựa chọn tiến vi quan, thoái vi sư. Ngôi nhà hình vuông tại Dũng Thọ lại trở thành trường đào tạo nhân tài. Trường Phương Đình đông học trò thụ nghiệp, nhiều người thành danh như Tiến sĩ Vũ Nhự. Họ kể lại “Tiên sinh dạy lớp hậu học, sắc mặt hiền hậu, lời nói dịu dàng, những người học thấy mình như được tiếp cửa rồng”. “Về việc học, tiên sinh đi sâu vào nghĩa lý kinh sách, xem chú giải của tiên Nho, gặp chỗ khó hiểu đáng ngờ thì tìm rộng ra để hiểu nghĩa lý bên trong. Nhờ vậy mà học trò của tiên sinh nhiều người có thành tựu”. Sự giảng dạy của ông luôn bao hàm cái nhìn toàn diện với những nhận định sắc sảo, ngay cả với kinh điển như Đại học: tám mục của sách Đại học, lại điền theo từng khoản, kể cũng kỹ lắm, nhưng bàn lại không rạch ròi, lẫn lộn rườm rà mà không nêu được ý chủ yếu, bàn rộng mà không tóm tắt lại được”; Kinh Thi: “Thánh nhân sau khi san định Kinh Thi còn giữ được những bài thơ ấy, người đời sau lấy ý mình để giải thích sao có thể nhất nhất đều phù hợp? Chu Tử ra sức bài bác Tiểu tự lại có chỗ theo Tiểu tự. Bộ Thi tập truyện của Chu Tử được coi là nghĩa chính trong việc học tập Kinh Thi, hễ mở sách ra là học trò theo nghĩa của Chu Tử, còn chính văn mỗi bài lại bỏ qua không học. Ôi, đáng buồn thay”. Trong quá trình dạy học, Phương Đình trước tác nhiều sách thuyết kinh giảng nghĩa như Tứ thư trích giảng, Trang Chu luận... Môn sinh Trường Phương Đình cũng tập hợp được nhiều tác phẩm như Phương Đình tiên sinh trường văn tập, Phương Đình tiên sinh trường sách lược...

                Họ Nguyễn tại làng Kim Lũ ngày nay còn giữ một bức chân dung của Thần Siêu, do một họa sĩ Trung Hoa vẽ trên lụa vào năm 1868 là năm cụ mừng thượng thọ 70. Trên bức chân dung này chính cụ đã đề vào một bài tán giãi bày tâm sự và nói lên lý do tại sao cụ đã treo ấn từ quan để trở về làm thầy đồ dạy học:

                “Hòa sáng với bụi đời

                 Thì lòng ta chẳng thích.

                Nơi xưa vượt thói thường

                Thì sức ta không kịp

                 Điều mắt thấy tai nghe

                Chẳng có gì không thật.

                Tiến bước trong cảnh lui

                Giữ sinh tồn muôn vật”.

                Năm 1872, cụ Nguyễn Văn Siêu tạ thế, hưởng thọ 73 tuổi. Suốt cuộc đời của mình, cụ Nguyễn Siêu viết rất nhiều, có trên mười ngàn trang sách, bao gồm nhiều loại: nghiên cứu về văn học, sử học, địa lý, triết học và sáng tác... Những tác phẩm này đã được các học trò của cụ thu thập, khắc và in thành sách: Phương Đình địa dư chí (sử và địa), Phương Đình thi tập (văn), Phương Đình văn tập (văn và sử), Phương Đình tùy bút lục (văn và sử), Phương Đình vạn lý tập (văn, sử, địa), Chư kinh khảo ước (văn, sử, triết), Chư sử khảo thích (sử), Từ thứ bị giảng (văn, sử, triết)... Nguyễn Văn Siêu là một học giả nghiêm túc, có nhiều phát hiện có giá trị lớn. Văn chương Thần Siêu hào sảng, tinh tế, chất chứa những tư tưởng mới, vươn tới đất trời - hòa vào vũ trụ, và tình yêu thương nhân dân, đất nước. Thơ ông, ấp ủ một khối tình:

                Đầu xanh, tóc bạc người đây đó

                Nước chảy mây trôi cảnh vắng tanh

                Thành cổ nắng thu, chiều tỏa lạnh

                Nhớ ai việc cũ dạ không đành.

                Nguyễn Siêu đã kết hợp nhuần nhị giữa nhà khoa học và nhà thơ để trở thành một nhà giáo dục xuất sắc. Ông tỏ ra là một nhà sư phạm có quan điểm giáo dục tiến bộ khi chủ trương thực học và công kích lối học khoa cử. Ngôi trường hình vuông của ông là một trung tâm giáo dục nổi tiếng của Hà Nội giữa thế kỷ XIX. Ngôi trường đó ở gần ngôi đền của làng cổ Lương, ngày nay vẫn còn di tích “Cổ Lương linh từ” ở phố Nguyễn Siêu. Xưa kia, đấy là nơi học trò tứ trấn tìm về, xin ở đậu, ngủ nhờ mong được đến Tòa Phương đình của thầy Nguyễn Siêu để được nghe giảng bài.

                Là người Hà Nội, Nguyễn Siêu còn đưa vào văn thơ rất nhiều hình ảnh của Hà Nội ngày xưa qua các bài: “Chơi Hồ Tây”, “Dong thuyền trên sông Nhị buổi sáng”, “Chơi Hồ Gươm”, “Lên lầu chuông đền Ngọc”, “Trên núi Ngọc trông xuống”. Không chỉ làm thơ về Hà Nội và Hồ Gươm ông còn làm những việc thiết thực về văn hóa cho những nơi này. Chính ông là người đã cùng với Tín Trai (Cư sĩ làng Nhị Hà) đứng ra lập hội Hướng Thiện, trùng tu thắng cảnh Hồ Gươm của Hà Nội, xây dựng và sửa sang Đền Ngọc Sơn thành một nơi thắng tích rất đượm chất thơ với cầu Thê Húc (Đậu ánh ban mai), lầu Đãi Nguyệt (đợi trăng); có tính cách văn học với đài Nghiên tháp Bút cùng những câu đối nhắc kẻ sĩ phải trau dồi cả tài lẫn đức; có ý nghĩa xã hội như đình Trấn Ba (đình chắn sóng), ngăn chặn những làn sóng tệ hại làm xói mòn nền đạo lý xã hội. Đó cũng là ý nguyện, tư tưởng giáo dục ông muốn hướng tới không chỉ cho học trò mà còn cho nhiều quan lại đương thời, mong muốn xây dựng một triều đại tốt đẹp hơn.

                Với việc trùng tu đền Ngọc Sơn, Nguyễn Siêu xứng đáng được coi là một nhà kiến trúc có tài. Ông đã nâng vùng Hồ Gươm lên gần như quang cảnh ngày nay, đặc biệt còn để lại bút tích trên bức cuốn thư đắp nổi ở cổng Đền.

                “Thần Siêu” viết nhiều. Viết tới vài ngàn trang sách đều bằng chữ Hán, gồm nhiều thể loại nghiên cứu văn, sử, địa lý, triết học và sáng tác thơ ca. Sau khi Thần Siêu mất, học trò đem các tác phẩm của thầy ra khắc ván và xuất bản. Gồm các sách: Địa dư chí, Chư sử khảo thích, Chư kinh khảo ước, Tứ thư bị giảng, Vạn lý tập, Phương Đình thi tập, Phương Đình văn loại... Ông là vị quan mẫu mực, nhà thơ lớn, nhà giáo tâm huyết, là tấm gương xứng đáng được hậu hiền học tập, noi theo. Nhà sư phạm và nhà thơ Vũ Tông Phan nổi tiếng cuối thế kỷ XIX đã đánh giá công lao văn hóa của cụ Nguyễn Văn Siêu như sau: “Bút Phương Đình một đời Bên Hồ Gươm muôn thuở”.

Lê Thánh Tông với sự nghiệp giáo dục (1460 - 1497) /  Nguyễn Đăng Tiến, Nguyễn Phú Tuấn biên soạn // Sách Danh nhân giáo dục Việt Nam và Thế giới. - H.: Văn hóa Thông tin, 2011. - Tr. 84 - 87

                Lê Thánh Tông, tên chữ là Tư Thành, tên húy là Hạo (còn gọi là Hiệu), là con trai thứ tư và là út vua Lê Thái Tông và bà Ngô Thị Ngọc Giao (con gái của Thái Bảo Ngô Từ).

                Thuở ấy, triều đình đang có nội biến, mẹ ông phải ra ở chùa Huy Văn (nay là ngõ Văn Chương, phố Tôn Đức Thắng, Hà Nội) và sinh ra ông ở đó. Năm lên 4 tuổi, ông được mẹ vua Nhân Tông đón về phong làm Nguyên Vương, cho ở trong cung cùng vua là Vương Hầu. Tư Thành diện mạo khôi ngô, phong thái đoan chính, lại rất chăm chỉ học tập, thông minh hơn người nên được nhà vua vô cùng yêu quý. Chính thầy học của nhà vua là Trần Phong nhận thấy ông là người kín đáo, lúc nào cũng vui cùng sách vở cổ, tính ưa điều thiện, mến người hiền nên biết sau này ông sẽ làm nên sự nghiệp lớn. Lòng ham học đó thể hiện trong suốt cuộc đời ông. Khi đã làm vua, cho dù bận trăm công ngàn việc, ông vẫn giữ thói quen học hành cần mẫn đến mức "Trống dời canh còn đọc sách/ Chiêng xế bóng chửa thôi chầu".

                Chính vì vậy mà Lê Thánh Tông thông hiểu sâu sắc mọi điều từ kinh sử, luật lệ, quân sự, chính trị đến thi pháp, thơ, họa, đặc biệt rất ham mê văn học.

                Do tài đức song toàn, Lê Thánh Tông đã có những đóng góp to lớn, quan trọng vào đời sống nhiều mặt của đất nước. Ông đã tiến hành hàng loạt chính sách về kinh tế, chính trị, quân sự, xã hội, xây dựng nên một Nhà nước phong kiến trung ương tập quyền vững mạnh. Trong công nghiệp chung đó, Lê Thánh Tông đặc biệt có công lớn đưa nền giáo dục Nho giáo vươn tới đỉnh cao trong lịch sử giáo dục phong kiến của đất nước ta.

                Trước hết, Lê Thánh Tông coi việc học, việc thi ở tầm quan trọng hàng đầu trong việc đào tạo một đội ngũ quan lại có đủ tài đức, làm rường cột cho việc xây dựng một nhà nước Pháp quyền. Sử cũ còn ghi, khoảng những năm 40, 50 của thế kỉ 15, triều Lê đứng trước một cuộc khủng hoảng trầm trọng. Trong triều, anh em vương hầu chém giết nhau để tranh đoạt ngôi vua. Các quan lại trong triều thì già nua, kém cỏi, song vẫn tham quyền cố vị, không chịu về hưu. Nạn tham nhũng, hối lộ, ức hiếp dân chúng diễn ra khắp nơi. Bản “Trung hưng kí” còn ghi rõ: “Nhân tông mới 2 tuổi sớm lên ngôi vua, kẻ thân yêu giữ việc, tệ hối lộ lộng hành, phường dốt đặc nổi dậy như ong. Tế thần Lê Sát, Lê Sáng thì dốt đặc. Văn giai như Đào Công Soạn tuổi gần 80; tế thần như Lê Ê không biết một chữ. Người trẻ không biết nghĩ, tự ý làm càn, người già không chết đi thành ra tai hại. Bán quan, mua ngục, ưa giàu, ghét nghèo…, kẻ xiểm nịnh được nghe theo, bọn đạo sát thì được bổ dụng”.

                Chính vì vậy, Lê Thánh Tông coi trọng việc học, việc thi để chấn chỉnh kỉ cương, chế độ.

                Tự tay nhà vua đã viết “Dụ khuyến học”, bản tuyên bố về chính sách giáo dục của nhà nước nhằm động viên, khuyến khích các nho sinh lập chí theo con đường cử nghiệp.

                Ở kinh đô, vua cho mở rộng nhà Thái học, Quốc Tử Giám, lập thêm phòng ốc, xây thêm kí túc xá cho các nho sinh vào ăn ở, học tập. Ông cho lập ra Bí thư khố (kho sách), cho in lại các sách kinh sử..., định lại chế độ kén chọn sĩ tử, luật lệ thi cử, mở các khoa thi đặc biệt ngoài những kì thi thường lệ 3 năm một lần.

                Ở các địa phương, Lê Thánh Tông cũng khuyến khích mở các trường tư rộng rãi, tạo điều kiện cho nhiều người được học hành, có cơ hội dự thi. Lễ xướng danh được tổ chức hết sức long trọng. Người đỗ đạt được ghi tên trên bảng vàng, được cấp áo mũ, cờ biển, ban yến và cho về vinh quy bái tổ trước khi được bổ dụng vào các chức tước quan lại trong triều hay ở các địa phương. Từ khoa thi 1442 trở đi, các sĩ tử đỗ từ tiến sĩ trở lên được ghi tên vào bia đã đặt ở Văn Miếu Quốc Tử Giám...

                Những hình thức động viên trên đã lôi cuốn sĩ tử nức lòng học tập, đêm ngày nấu sử sôi kinh để mong chiếm được bảng vàng bia đá. Số người đi thi vì thế ngày một đông. Năm 1448, khoa thi Mậu Thìn có 720 người thi Hội, đến 1463 khoa thi Quý Mùi đã có tới 1.400 người dự thi, rồi năm 1475 khoa Ất Mùi lên đến 3.000 người. Nếu tính từ khoa thi đầu tiên ở triều Lý (1075) đến khoa thi cuối cùng thời Nguyễn (1919), kéo dài trong 844 năm, tổng số thí sinh đỗ đạt tiến sĩ (và tương đương) trở lên có 2.989 vị, thì riêng thời Lê sơ đã chiếm 983 vị và thời Lê Thánh Tông là 502 vị. Nhiều gia đình cả cha con, anh em đều đỗ đồng khóa. Nhà Thân Nhân Trung có bốn cha con, anh em, ông cháu kế tiếp nhau thi đỗ,...

                Bên cạnh việc chăm lo xây dựng nền giáo dục, Lê Thánh Tông còn rất quan tâm đến việc trước tác và là một nhà thơ nổi tiếng. Nhà vua giao cho Ngô Sĩ Liên soạn bộ "Đại Việt sử kí toàn thư", Trần Khắc Kiệm sưu tầm lại thơ văn Nguyễn Trãi được hơn 100 bài. Ông lại sai Thân Nhân Trung và một tập thể gồm 5 người biên soạn bộ “Thiên Nam dư hạ tập" gồm 81 quyển, ghi lại những điều lệ, sự việc, thơ văn thời Lê Thánh tông và những điều khảo cứu được về nước ngoài.

                Ông còn lập ra hội Tao Đàn gồm 28 vị gọi là “Nhi thập bát tú" (28 ngôi sao sáng), tự xưng là Tao Đàn nguyên soái để cùng nhau sáng tác và xướng họa thơ văn.

                Cùng với hội Tao Đàn, suốt trong 38 năm trị vì, Lê Thánh Tông đã sáng tác một số lượng thơ văn đồ sộ, cả Hán lẫn Nôm, còn ghi lại trong nhiều tập như Văn minh cổ xúy thi tập, Quỳnh uyển cửu ca, Cổ kim cung từ, Hồng Đức quốc âm thi tập,...

                Trong việc sử dụng nhân tài, bên cạnh việc đãi ngộ rất hậu, Lê Thánh Tông cũng đòi hỏi bề tôi phải có thực tài, thực học, biết dùng sở học vào các công việc của triều đình và xã hội một cách có hiệu quả.

                Hàng năm, nhà vua tiến hành khảo khóa, đánh giá lại đội ngũ quan lại. Ai có thực tài được khen thưởng, nâng cấp; ai kém cỏi, thiếu năng lực bị khiển trách, giáng cấp, thuyên chuyển.

                Mặc dù cuối đời, Lê Thánh Tông cũng phạm một số sai lầm, khuyết điểm, song nhìn chung, ông là một nhà chính trị lỗi lạc, một ông vua đầy tài năng và quyết đoán, đưa đất nước đi lên trên con đường cường thịnh, trong đó công lao đối với giáo dục cực kì to lớn.

Phạm Văn Đồng (1906 - 2000) / Nguyễn Ngọc Thanh chủ biên // Sách Những thầy giáo nổi tiếng trong lịch sử. - TP. Hồ Chí Minh: Văn hóa Văn nghệ, 2017. - Tr. 216 - 224

                Trong những người học trò xuất sắc của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Phạm Văn Đồng ngoài công lao to lớn đối với sự nghiệp cách mạng của Đảng và dân tộc, đã có những đóng góp to lớn cho sự nghiệp “trồng người”. Lúc đương nhiệm Thủ tướng, Phạm Văn Đồng đã nói: Nghề dạy học là nghề cao quý nhất trong các nghề cao quý, nghề sáng tạo nhất trong các nghề sáng tạo. Các thầy cô giáo không những dạy chữ mà còn dạy người, họ cứ như cây thông trên sườn núi, cây quế giữa rừng sâu thầm lặng tỏa hương dâng hiến trí tuệ, sức lực cho đời.

                Với 94 tuổi đời, 75 năm hoạt động cách mạng sôi nổi và liên tục, 41 năm là Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng, 35 năm là Ủy viên Bộ Chính trị, 32 năm là Thủ tướng Chính phủ, đồng chí Phạm Văn Đồng là nhà chính trị lỗi lạc, nhà ngoại giao kiệt xuất, nhà văn hóa lớn, nhà báo nổi tiếng, nhà giáo dục đầy tâm huyết.

                Đồng chí Phạm Văn Đồng, bí danh là Tô, sinh ngày 01-3-1906 tại Huế, khi cụ thân sinh đang làm quan tại triều đình vua Duy Tân, sau đó được mẹ đưa về quê nuôi dưỡng. Quê nội và quê ngoại của Phạm Văn Đồng ở xã Đức Tân, huyện Mộ Đức, tỉnh Quảng Ngãi, ông tham gia cách mạng từ năm 18 tuổi, hoạt động trong phong trào học sinh yêu nước. Tiếng bom Sa Diện của Phạm Hồng Thái và tổ chức Tâm tâm xã nhằm vào toàn quyền Pháp ở Đông Dương (1924), rồi cụ Phan Bội Châu - nhà yêu nước nổi tiếng bị thực dân Pháp bắt đưa từ Thượng Hải về xét xử trong nước (1925), sau đó cụ Phan Chu Trinh qua đời năm 1926 là những sự kiện có tác động mạnh mẽ trong mỗi học sinh, sinh viên và quần chúng ái quốc Việt Nam thời ấy. Một cuộc đấu tranh hòa bình biểu dương lực lượng đòi nhà cầm quyền thực dân ân xá cụ Phan Bội Châu và để tang cụ Phan Chu Trinh đã diễn ra trong toàn quốc. Phạm Văn Đồng tham gia rất tích cực vào phong trào này tại Trường Bưởi (Hà Nội) và bị đuổi học.

                Từ một học sinh yêu nước trở thành nhà cách mạng

                Từ tấm lòng yêu nước, với sự nhiệt tình của tuổi trẻ, Phạm Văn Đồng đã dần dần tiến bước đến sự giác ngộ cách mạng chân chính. Con đường dẫn người thanh niên ấy đến với tư tưởng cách mạng giải phóng dân tộc dưới ánh sáng của chủ nghĩa Mác - Lênin của Nguyễn Ái Quốc cũng giống như lớp thanh niên học sinh - chiến sĩ cách mạng đầu tiên: Ngô Gia Tự, Nguyễn Đức cảnh, Lương Khánh Thiện, Nguyễn Văn Cừ, Hạ Bá Cang... Những thanh niên đó là đối tượng gieo mầm cách mạng đầu tiên của Nguyễn Ái Quốc.

                Năm 1926, Phạm Văn Đồng cùng những người bạn của mình tìm đường tới Quảng Châu dự lớp huấn luyện do lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc tổ chức và được kết nạp vào Việt Nam Thanh niên Cách mạng đồng chí Hội. Từ một cậu ấm con nhà quan, cậu tú Trường Bưởi, Phạm Văn Đồng chính thức dấn thân vào cuộc đời của nhà cách mạng chuyên nghiệp, khi vừa tròn 20 tuổi. Đó là chặng đường đầu tiên, mở đầu cho một quá trình chiến đấu gian lao, song rất vẻ vang tiếp sau này.

                Tại lớp học của Nguyễn Ái Quốc ở Quảng Châu, nhờ cách truyền đạt giản dị, dễ hiểu nhưng sâu sắc của các giảng viên, với tư chất thông minh vốn có và lòng khát khao tìm đến một con đường mới để cứu nước, cứu dân, Phạm Văn Đồng đã tiếp thu nhanh chóng tư tưởng cách mạng vô sản.

                Sau khi dự đại hội của tổ chức này ở Hương cảng (Trung Quốc), đồng chí trở về Sài Gòn. Tại đây, những năm 1927 - 1928, đồng chí là thầy giáo, vừa dạy học vừa tuyên truyền cách mạng, gây dựng cơ sở Hội trong giới trí thức, học sinh, sinh viên. Tháng 7 năm 1929, Phạm Văn Đồng bị thực dân Pháp bắt, kết án 10 năm tù và đày đi Côn Đảo.

                Giỏi tiếng Pháp, có trình độ học vấn cao, lại thấm nhuần tư tưởng cộng sản, trong những năm bị giam cầm tại địa ngục Côn Đảo, Phạm Văn Đồng tiếp tục trau dồi kiến thức, là một trong những người phụ trách chủ yếu của việc tổ chức các buổi học tập cho tù nhân về những vấn đề lý luận của Chủ nghĩa Mác - Lênin, về con đường Cách mạng Việt Nam mà đồng chí đã hấp thụ từ người thầy của mình là Nguyễn Ái Quốc. Đồng chí đã thực hiện tích cực chủ trương “Biến nhà tù đế quốc thành trường học cách mạng” và được các bạn tù của mình gọi là “Giáo sư đỏ”. Đồng chí Nguyễn Tấn Thức - một người tù Côn Đảo trong những năm 1933 - 1936 nhớ lại:

                “Bây giờ nhớ lại anh Đồng thời kỳ Côn Đảo là tôi nhớ ngay đến hình ảnh một người cầm quyển sách, cắp sau lưng, đi đi lại lại ở hành lang vừa đọc vừa suy nghĩ. Có thể nói ở Côn Đảo, anh Đồng là người đọc nhiều nhất. Vì trước hết anh là người ham học, lại có trình độ văn hóa cao hơn anh em khác”.

                Năm 1936, sau khi được trả lại tự do, đồng chí ra Hà Nội hoạt động công khai trong Cao trào dân chủ 1936 - 1939. Tháng 9-1939, Chiến tranh thế giới thứ hai bùng nổ, chính quyền thực dân Pháp ở Đông Dương tăng cường khủng bố, các điều kiện đấu tranh công khai không còn nữa. Tháng 5-1940, đồng chí cùng Võ Nguyên Giáp đi Côn Minh (Trung Quốc) gặp lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc và được kết nạp vào Đảng Cộng sản Đông Dương, rồi hoạt động cách mạng ở Liễu Châu, Tĩnh Tây (Trung Quốc). Dù hoạt động ở xa Tổ quốc nhưng các đồng chí vẫn nhanh chóng bắt kịp với cuộc đấu tranh trong nước đang dần dần dâng cao cùng với những chuyển biến của tình hình thế giới.

                Đầu năm 1942, đồng chí về nước và có những cống hiến quan trọng trong việc đào tạo cán bộ cho Mặt trận Việt Minh, phụ trách Báo Việt Nam độc lập, xây dựng Căn cứ địa Việt Bắc và Khu giải phóng, chuẩn bị lực lượng cho Cách mạng Tháng Tám 1945. Tại Đại hội Quốc dân Tân Trào (8-1945), đồng chí được bầu vào Ủy ban Giải phóng dân tộc.

                Trên núi rừng Việt Bắc, dấu chân của Phạm Văn Đồng đã in dấu ở khắp các nẻo đường của khu căn cứ địa Cao - Bắc - Lạng trong những năm tháng thời kỳ tiền khởi nghĩa. Sức lực và khối óc của đồng chí đã cùng góp thêm sức mạnh với Trung ương Đảng lãnh đạo phong trào cách mạng đi tới thắng lợi vĩ đại của cuộc Tổng khởi nghĩa Tháng Tám 1945.

                Cách mạng Tháng Tám thành công, đồng chí được cử làm Bộ trưởng Tài chính của Chính phủ Lâm thời nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, đồng thời là Đại biểu Quốc hội khóa I và được Quốc hội khóa I, kỳ họp thứ nhất (3-1946) bầu là Phó Trưởng ban Thường trực Quốc hội.

                Trước ngày Toàn quốc kháng chiến đến tháng 1-1949, đồng chí Phạm Văn Đồng là đặc phái viên của Trung ương Đảng và Chính phủ tại Nam Trung Bộ, được bổ sung làm Ủy viên dự khuyết Ban Chấp hành Trung ương Đảng. Đồng chí đã có những cống hiến và sáng tạo trong việc xây dựng vùng tự do Nam - Ngãi - Bình - Phú; củng cố căn cứ địa kháng chiến, thực hiện khẩu hiệu “Tự lực cánh sinh”, chuẩn bị thực lực cho cuộc kháng chiến trường kỳ chống thực dân Pháp. Cũng trong thời gian này, đồng chí Phạm Văn Đồng đã tập trung sức chăm lo công tác giáo dục và đào tạo, trong đó nổi bật là phong trào bình dân học vụ, xóa mù chữ cho hàng triệu đồng bào ở mọi lứa tuổi. Trong hoàn cảnh hết sức khó khăn về mọi mặt, đồng chí là người sáng lập và xây dựng Trường Trung học Bình dân Nam Trung Bộ, Trường Trung học Lê Khiết, Trường Trung học Quân sư Bình dân...

                Ngày 01-10-1947, tại làng Hòa Vinh, xã Hành Phước, huyện Nghĩa Hành, tỉnh Quảng Ngãi, Trường Trung học Bình dân đã được khai giảng, do chính đồng chí Phạm Văn Đồng là Hiệu trưởng danh dự và trực tiếp lên lớp giảng bài học đầu tiên “Trung với nước, hiếu với dân” cho tất cả học viên và giáo viên toàn trường. Trường đã đào tạo hàng nghìn cán bộ công nông cung cấp cho sự nghiệp cách mạng của các tỉnh miền Nam Trung bộ trong thời kỳ đầu kháng chiến và cho cả nước sau này. Chính từ mái trường này, nhiều cán bộ, học viên đã trưởng thành, có nhiều người sau này được cử vào những cương vị lãnh đạo quan trọng của Đảng và Nhà nước.

                Đầu năm 1949, đồng chí Phạm Văn Đồng được điều động trở lại công tác tại Việt Bắc, được bổ sung làm Ủy viên Ban chấp hành Trung ương Đảng, sau đó làm Phó Thủ tướng Chính phủ. Trong chín năm kháng chiến chống Pháp, tại Việt Bắc, đồng chí mở lớp huấn luyện, trực tiếp giảng dạy về chính trị cho các cán bộ Phủ Thủ tướng. Về Hà Nội, thời chống Mỹ cứu nước, trong các buổi sinh hoạt của các thành viên Chính phủ, đồng chí là người thuyết trình về những kiến thức mới trên nhiều lĩnh vực. Nhiều học viên của đồng chí Phạm Văn Đồng sau này trở thành những cán bộ cao cấp của Đảng và Nhà nước.

                Từ 1951 đến 1986, được bầu vào Bộ Chính trị. Từ 1955 đến 1987, đồng chí được Đảng và Nhà nước giao trọng trách Thủ tướng Chính phủ. Đồng chí còn kiêm nhiệm Bộ trưởng Bộ Ngoại giao, Trưởng ban Đối ngoại Trung ương Đảng trong những năm 1954 - 1955. Trong thời gian từ 1986 đến 1997, đồng chí là cố vấn Ban Chấp hành Trung ương Đảng.

                Là người đứng đầu Chính phủ, là Chủ tịch Ủy ban Cải cách giáo dục Trung ương trong nhiều năm, đồng chí Phạm Văn Đồng luôn luôn quan tâm tới sự nghiệp giáo dục. Từ tháng 10-1955 đến năm 1977, đồng chí Phạm Văn Đồng trực tiếp chỉ đạo hai cuộc cải cách giáo dục 1956 và 1981 về xây dựng chương trình, biên soạn sách giáo khoa, cải tiến phương pháp dạy học, xây dựng cơ sở vật chất cho nhà trường. Quán triệt sâu sắc quan điểm giáo dục của Chủ tịch Hồ Chí Minh về đào tạo lớp người “Vừa hồng vừa chuyên” kế tục sự nghiệp cách mạng. Trong buổi nói chuyện tại Lễ kỷ niệm 35 năm thành lập ngành Sư phạm, ngày 08-10-1981, đồng chí Phạm Văn Đồng đã yêu cầu mỗi thầy, cô giáo phải trả lời cho được các câu hỏi: “Dạy cái gì? Dạy để làm gì? Nhà trường phải coi trọng giáo dục toàn diện cho học sinh, cả đức dục và trí dục, thể dục và mỹ dục. Phải làm và làm tốt giáo dục đạo đức cách mạng. Phải xây dựng trường ra trường, lớp ra lớp, thầy ra thầy, trò ra trò, dạy ra dạy, học ra học”.

                Năm 1959, khi dự Lễ tổng kết năm học tại Trường Đại học Sư phạm Hà Nội, đồng chí Phạm Văn Đồng có lời tuyên ngôn đẹp đẽ, nổi tiếng tôn vinh nghề dạy học là “Nghề sáng tạo nhất, vì nó sáng tạo những con người sáng tạo”.

                Phê phán lối dạy và học thụ động, nhồi nhét đã ngự trị ở tất cả các cấp học, đồng chí Phạm Văn Đồng đã thẳng thắn bày tỏ: “Phải nói rằng, tôi ngạc nhiên cao độ lúc chỉ nghe thầy đọc trò chép trong gần một tiếng đồng hồ, không nghe thầy giảng cũng không nghe đối thoại giữa thầy và trò”. Đồng chí lại nhấn mạnh: “Không thể giảng bài theo lối đọc bài đã có sẵn từ năm ngoái, năm kia hoặc của nước ngoài để rồi học trò cứ ngồi nghe, chữ được, chữ mất và ghi chép như máy, làm như vậy, liệu có ích gì?”.

                Đối với giáo dục chuyên nghiệp, cao đẳng, đại học, đồng chí Phạm Văn Đồng ân cần căn dặn: “Bây giờ, tôi nói về những điều phải xuất phát từ nước ngoài, từ thế giới. Đối với người làm công tác giáo dục, điều này quan trọng lắm. Nhưng tôi sợ các đồng chí thoát ly nó. Đó là tốc độ phát triển của khoa học kỹ thuật, đó là cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật đang diễn ra... người làm giáo dục phải tính đến nó, không tính đến sự kiện này, thoát ly nó thì các đồng chí sẽ nói chuyện lạc hậu, đời xưa”.

                Năm 1970, đồng chí Phạm Văn Đồng đã đặt vấn đề xây dựng môn “Đạo đức học” và môn này phải trở thành một ngành khoa học xã hội, một môn học không thể thiếu trong các bậc học.

                Trong những năm 1997 - 1999, tuy tuổi cao, sức yếu, đồng chí Phạm Văn Đồng vẫn dành nhiều tâm huyết cho ngành Giáo dục và Đào tạo. Trong tác phẩm “Giáo dục - quốc sách hàng đầu - tương lai dân tộc”, di sản tiêu biểu để lại cho ngành Giáo dục, đồng chí kêu gọi thế hệ trẻ: “Các bạn hãy học tập để thành người và để làm người, góp phần vào công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa xứng đáng với cha anh, sánh vai cùng bạn bè thế giới”.

                Những năm cuối đời mình, Phạm Văn Đồng tâm sự: “Từ thuở ấu thơ đến tuổi trưởng thành, trong quá trình hoạt động cách mạng cho đến nay, tôi rất coi trọng giáo dục, coi đó là một nhân tố có tầm quan trọng bậc nhất, góp phần làm nên không chỉ sự nghiệp của một con người, mà còn là động lực làm nên lịch sử của một dân tộc, của cả loài người từ thời đồ đá cho đến ngày nay.

                “...Trước mắt, cần khắc phục cho được sai lệch nổi cộm: Chấm dứt việc mua bằng, mua chữ, bán điểm (mua bán đủ kiểu, đủ cách, dưới nhiều dạng rất khác nhau, thậm chí có người kháo với nhau chỉ cần mấy chục triệu đồng thì có bằng tiến sĩ, vài mươi triệu là có bằng cử nhân. Rẻ quá hay đắt quá?... Thị trường lạ lùng này, lối buôn bán quá tệ này, ung nhọt quá ư thối tha này, phải lập lại kỷ luật, kỷ cương trong nhà trường”.

                Phạm Văn Đồng mất tại Hà Nội ngày 29 tháng 4 năm 2000, hưởng thọ 94 tuổi.

Đại tướng Võ Nguyên Giáp (1911 - 2013) / Nguyễn Ngọc Thanh chủ biên // Sách Những thầy giáo nổi tiếng trong lịch sử. - TP. Hồ Chí Minh: Văn hóa Văn nghệ, 2017. - Tr. 264 - 275

                “Nếu không có chiến tranh, chắc tôi vẫn làm nghề giáo…”. Đó là câu trả lời của Đại tướng Võ Nguyên Giáp với phóng viên tờ báo New York Time năm 1990.

                Võ Nguyên Giáp tên khai sinh là Võ Giáp, bí danh hoạt động là Văn, sinh ngày 25 tháng 8 năm 1911 tại xã Lộc Thủy, huyện Lệ Thủy, tỉnh Quảng Bình, nguyên là Ủy viên Bộ chính trị, nguyên Bí thư Quân ủy Trung ương, nguyên Phó Thủ tướng thường trực chính phủ, nguyên Bộ trưởng Bộ quốc phòng, Tổng tư lệnh Quân đội nhân dân Việt Nam. Ông xuất thân trong một gia đình nho học yêu nước. Cụ thân sinh ra ông là Võ Nguyên Thân, một nhà nho từng nổi tiếng là người có khí phách trên đất Quảng Bình, đã dạy chữ nho cho Võ Nguyên Giáp trước khi đến học ở trường làng, vốn là người thông minh, hiếu học, Võ Nguyên Giáp sớm rời làng quê lên kinh thành vào học Trường Quốc học Huế.

                Lúc đó, trên cả nước, phong trào yêu nước bùng lên trong tất cả các tầng lớp nhân dân, đặc biệt là tầng lớp thanh niên học sinh. Đó là cuộc vận động đòi ân xá cụ Phan Bội Châu, đấu tranh đòi để tang cụ Phan Chu Trinh...

                Tại Huế, Võ Nguyên Giáp may mắn có nhiều dịp gặp Phan Bội Châu và chịu ảnh hưởng sâu sắc tinh thần yêu nước thương nòi của “ông già Bến Ngự” này. Bên cạnh đó, ông lại có cơ duyên gặp gỡ và thân quen với thầy giáo Võ Liêm Sơn - một nhà giáo yêu nước nồng nàn, rất tin tưởng và đầy tâm huyết với thanh niên, học sinh. Thầy giáo Võ Liêm Sơn - người đã ảnh hưởng rất nhiều đến Võ Nguyên Giáp đã giới thiệu với ông những tài liệu sơ giản về chủ nghĩa Mác. Võ Nguyên Giáp đã kết bạn với các đồng chí Nguyễn Chí Diểu, Nguyễn Khoa Văn (Hải Triều) và họ cùng nhau tìm hiểu về nhà yêu nước nổi tiếng Nguyễn Ái Quốc. Anh cùng những người bạn của mình tham gia tất cả những phong trào đấu tranh của học sinh, sinh viên thời kỳ này.

                Sau cuộc khởi nghĩa Xô viết Nghệ Tĩnh bị thất bại, thực dân Pháp ra sức khủng bố trắng. Tháng 10 năm 1930, Võ Nguyên Giáp cùng với nhiều người bị bắt, trong đó có thầy Đặng Thai Mai và một số bạn ở Trường Quốc học Huế. Võ Nguyên Giáp bị kết án hai năm tù giam.

                Cuối năm 1930, do Hội Cứu tế đỏ của Pháp đấu tranh đòi thả tù chính trị. Chính quyền Pháp ở Đông Dương buộc lòng phải nhượng bộ, thả một số tù chính trị, trong đó có Võ Nguyên Giáp và Đặng Thai Mai. Thầy Mai thôi dạy Trường Quốc học Huế, trở về Vinh, Nghệ An còn Võ Nguyên Giáp bị giải về quản thúc ở quê nhà.

                Chàng thanh niên Võ Nguyên Giáp chỉ về quê một thời gian ngắn rồi tìm cách ra Vinh để tiếp tục chí hướng của mình. Với sự giúp đỡ của thầy Mai, anh đã kiếm được việc làm tạm thời.

                Năm 1932, thầy Mai chuyển ra dạy học ở Hà Nội. Anh cũng ra theo thầy. Con đường học vấn của anh bị gián đoạn. Anh đã rời ghế nhà trường từ năm thành chung thứ hai. Vì vậy anh quyết dành 10 tháng học thi tú tài phần nhất, với tư cách thí sinh tự do và anh đã đỗ hạng ưu.

                Võ Nguyên Giáp bắt đầu dạy môn lịch sử và địa lý tại Trường Thăng Long (cùng với thầy Đặng Thai Mai) do ông Hoàng Minh Giám làm Hiệu trưởng nhà trường. Là một thanh niên yêu nước nồng nhiệt, cùng với truyền thống gia đình nhà giáo, tại đây ông đã gặt hái được nhiều thành công trong trong quãng đời dạy học của mình. Học trò của thầy Mai, thầy Giáp sau này nhiều người đỗ đạt cao, trở thành những nhà trí thức có uy tín và có người trở thành cán bộ cấp cao của Đảng và Nhà nước.

                Ngay từ đầu, thầy Giáp đã cuốn hút cả lớp bằng cách trình bày vấn đề theo cách riêng của mình. Đứng thẳng trước lớp, thầy nhìn thẳng vào đám học trò dõng dạc nói: “Khá nhiều sách nói về lịch sử nước Pháp thời kỳ này rồi. Nếu muốn các em có thể tham khảo. Tôi sẽ chỉ nói với các em về hai chủ đề: cuộc cách mạng và Napoléon”.

                Trong trí nhớ của nhiều thế hệ học trò, Võ Nguyên Giáp là diễn giả rất giỏi về các đề tài lịch sử, đặc biệt là lịch sử quân sự. Các học sinh cũ của Đại tướng Võ Nguyên Giáp nhớ về ông: không mấy khi mỉm cười và không để ai thuyết phục được ông trong bất cứ lĩnh vực nào. Người ta còn nói thêm, Đại tướng Võ Nguyên Giáp có thể vẽ trên bảng đen đến cả những chi tiết những trận đánh của Napoléon. Học sinh (Trung học) được nghe thầy giáo Giáp giảng bài về cách mạng Pháp, về Napoléon Bonaparte đã rất mê thầy. Sau này, những người học trò của ông như Lê Quang Đạo, Nguyễn Lam, Bùi Diễm đều có những ấn tượng sâu sắc đối với các bài giảng về lịch sử của thầy giáo Võ Nguyên Giáp. Thoát khỏi cách dạy sử của nhiều giáo sư khác, Võ Nguyên Giáp “không chỉ hệ thống lại biên niên sử, mà qua các sự kiện đã rút ra những ý nghĩa, bài học lịch sử bổ ích đối với từng học sinh, ông không chỉ miêu tả những trận đánh quyết liệt của Napoléon mà còn chứng minh được sự phát triển chiến lược, chiến thuật danh tiếng của nước Pháp thời kỳ cách mạng Pháp.

                Nửa thế kỷ qua rồi, ông Bùi Diễm, cựu đại sứ của Ngô Đình Diệm tại Mỹ thời đó là một cậu bé 13 tuổi, vẫn không bao giờ quên được phương pháp sư phạm của Đại tướng Giáp: “Sự miêu tả chi tiết về sự tàn tạ của vương triều cũng như đồi bại của Marie Antoinette đã đưa học trò đến một nhận định không chút nghi ngờ về số phận dành cho nền quân chủ Pháp. Như bị hút hồn về cuộc cách mạng Pháp và những nhân vật nổi bật của thời đó: Danton Robespierre, ông giáo sư họ Võ sôi nổi hào hứng kể lại những việc làm của Ủy ban cứu quốc, của Công xã Paris để trừng trị bọn phản cách mạng, bảo vệ lợi ích của quần chúng”.

                Ông muốn học trò của ông hiểu “Tại sao một đội long kỵ binh (kỵ binh cận vệ của nhà vua) lại được bố trí ở vị trí chính xác như thế hay đội cận vệ của Napoléon đã nổ súng đúng lúc như thế nào để giành chiến thắng”. Lớp học im phăng phắc, đám học trò thiếu niên đang ở tuổi hiếu động bị cuốn hút về những câu chuyện kể hết sức hấp dẫn như sống lại đến từng chi tiết võ công hiển hách của Napoléon. Tướng Giáp nói rằng ông giảng giải kỹ về các trận đánh của Napoléon đơn giản vì ông có trách nhiệm phải giảng về cách mạng Pháp. Vì vậy ông phải nghiên cứu kỹ chiến lược và chiến thuật của Napoléon.

                Ông Trần Văn Hà, một cựu học sinh Trường Bưởi, Hà Nội đã có sự so sánh khi học sử với một thầy người Pháp có tên là Aga: “Chán nhất là học sử nước Pháp với thầy Aga người Pháp: về nhà phải “cày” mãi, mất nhiều thời gian mới nhớ được.” ông Hà có may mắn là ở cùng ở trọ với một người bạn học Trường Thăng Long, nơi có thầy Võ Nguyên Giáp dạy sử. Bạn ông luôn khoe với ông: “Thầy Võ Nguyên Giáp giảng lịch sử cách mạng Pháp thật là tuyệt vời”. Và thế là ông Hà đã mượn bài giảng của thầy Giáp để học. Mặc dù không được học trực tiếp với thầy Giáp nhưng ông Hà đã cảm nhận được sự lôi cuốn và sức hấp dẫn của những bài dạy của thầy Võ Nguyên Giáp, ông nhớ lại: “Cấu trúc bài của thầy rất logic. Văn phong tiếng Pháp của thầy rất trong sáng, giản dị nên đọc là nhớ ngay. Thế là tôi đã học thầy Võ Nguyên Giáp mà không gặp thầy, thông qua trọn hai giáo trình của thầy do anh bạn quý mến cứ chuyển đều cho tôi hàng tuần”. Bài giảng của thầy “tự nhiên được khơi dậy trong người học, lòng yêu dân, yêu nước, chống áp bức cường quyền, chống bất bình đẳng, mất tự do... Rồi như có một sức mạnh vô hình thúc mình phải làm một cái gì?”. “Tôi thi đậu tú tài phần thứ nhất, vấn đáp trôi chảy, được xếp hạng khá, phần quan trọng là nhờ thuộc, nhớ hai môn sử, địa của thầy”.

                Với phong cách đó của một thầy giáo giảng dạy về lịch sử, Võ Nguyên Giáp tiếp tục nghiên cứu những tác phẩm của Karl Marx và khuyến khích học trò tìm đọc các cuốn sách về chủ nghĩa xã hội.

                Từ 1936 đến 1939, Võ Nguyên Giáp tham gia phong trào Mặt trận Dân chủ Đông Dương, là sáng lập viên của mặt trận và là Chủ tịch Ủy ban Báo chí Bắc kỳ trong phong trào Đông Dương đại hội. Năm 1936, ở Pháp, Mặt trận Bình dân lên nắm quyền, buộc chính quyền thuộc địa ở Đông Dương phải thực hiện một số cải cách dân chủ. Võ Nguyên Giáp đã tham gia nhiều cuộc đấu tranh công khai của Đảng.

                Cuối năm 1939, Chính phủ bình dân Pháp bị đánh đổ, nước Pháp nói riêng và thế giới nói chung đang đứng trước nguy cơ đe dọa của chủ nghĩa phát xít. Ở Đông Dương, nhà cầm quyền thực dân đàn áp phong trào cách mạng được dịp trỗi dậy. Ngày đêm chúng lùng sục, bắt bớ tra tấn nhiều chiến sĩ cộng sản. Chính vào lúc này, đồng chí Hoàng Văn Thụ, Ủy viên Thường vụ Đảng Cộng sản Đông Dương, khuyên Võ Nguyên Giáp nên ra nước ngoài, nơi anh có dịp gặp lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc mà anh từng ngưỡng mộ.

                Trong thời gian dạy học ở Trường Thăng Long, Võ Nguyên Giáp xây dựng gia đình với người em một của nữ chiến sĩ cộng sản Nguyễn Thị Minh Khai là Nguyễn Thị Quang Thái, người mà anh quen trên chuyến xe lửa Vinh - Huế.

                Gặp Quang Thái lần đầu, anh Giáp có ngay cảm tình đặc biệt. Người nữ sinh xinh đẹp ấy có điều gì đó thu hút tâm hồn anh, dáng vẻ hiền dịu nhưng không kém phần kiên nghị, bất khuất, đôi mắt thông minh, đầy quyến rũ. Ngày Quang Thái vào học Trường Đồng Khánh (Huế), tình yêu giữa hai người nảy nở và kể từ đó, người thiếu nữ ấy đã bước vào đời anh. Và rồi họ gặp nhau trong nhà tù đế quốc. Cũng chính trong thời gian ở tù, Võ Nguyên Giáp càng hiểu Quang Thái hơn.

                Mùa hè 1940, anh lên đường ra nước ngoài, để lại người bạn đời, người đồng chí, Nguyễn Thị Quang Thái và một cháu gái mới sinh là Võ Hồng Anh - sau này trở thành một nữ tiến sĩ vật lý xuất sắc. Chị Thái hẹn, khi con cứng cáp sẽ đi thoát ly hoạt động. Nhưng cả hai không ngờ lần chia tay này cũng là lần vĩnh biệt. Chị Thái bị giặc Pháp bắt giam và chết ngay trong ngục tù.

                Như một định mệnh, đến Vân Nam (Trung Quốc), Võ Nguyên Giáp được gặp ngay Nguyễn Ái Quốc, lúc này đã mang tên Hồ Chí Minh. Cuộc gặp gỡ đúng thời điểm của những con người thiên tài đã làm nên những trang sử vẻ vang cho lịch sử dân tộc trong cả thế kỷ XX. Chỉ sau một thời gian ngắn, Bác đã thấy Võ Nguyên Giáp là người cần cho chặng đường cách mạng sắp tới. Bác liên hệ với Đảng Cộng sản Trung Quốc và cử anh đi học quân sự tại căn cứ địa Diễn An.

                Trên đường tới Diễn An, anh được Bác gọi quay lại vì tình hình thế giới có nhiều thay đổi lớn. Ở châu Âu, Phát xít Đức đã xâm chiếm Pháp. Bác nhận định tình hình Đông Dương sẽ chuyển biến nhanh, cần gấp rút trở về nước chuẩn bị đón thời cơ.

                Năm 1941, đúng dịp Tết Nguyên đán Tân Tỵ, Võ Nguyên Giáp cùng Bác trở về Cao Bằng. Trong thời gian ở hang Pác Pó, Bác tiên đoán cách mạng sẽ thành công vào năm 1945, một dự đoán thiên tài của lãnh tụ Hồ Chí Minh.

                Sinh thời, Đại tướng Võ Nguyên Giáp viết khá nhiều bài báo, cả hàng trăm bài; xuyên suốt, nổi bật trong các bài viết như thế là tư tưởng chỉ đạo sát sao mang tầm chiến lược với mục tiêu xây dựng con người Việt Nam mới xã hội chủ nghĩa và chủ trương phát triển toàn diện con người, là tư tưởng chỉ đạo đổi mới mạnh mẽ, cải cách triệt để nội dung và phương pháp giáo dục. Ông cho rằng: cần phải tạo ra được một môi trường giáo dục thống nhất giữa nhà trường, gia đình và xã hội.

                Đại tướng Võ Nguyên Giáp thường tâm sự với các vị lãnh đạo ngành, các thầy cô giáo và học sinh, sinh viên rằng: “Giáo dục và đào tạo không chỉ có sứ mệnh nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài... mà còn có sứ mệnh tạo ra những định hướng giá trị về văn hóa, đạo đức, thẩm mỹ và tinh thần có ý nghĩa thúc đẩy sự phát triển tiến bộ của xã hội, bởi vì giáo dục và đào tạo là mục đích của cuộc sống, vì con người và vì cuộc sống...”.

                Trong nhiều thập kỷ qua, một trong những nhiệm vụ lớn lao có tầm quan trọng chiến lược trong suốt thời kỳ quá độ tiến lên Chủ nghĩa xã hội là đào tạo con người phát triển toàn diện, có tinh thần làm chủ và năng lực làm chủ, có tinh thần yêu nước và lý tưởng Xã hội chủ nghĩa, có trình độ văn hóa và khoa học ngày càng cao. Đại tướng khẳng định: cần phải coi chiến lược con người, “Tất cả cho con người và tất cả vì con người” có tầm quan trọng đặc biệt trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.

                Từ sự khẳng định: “Sự phát triển của con người là liên tục... Con người là một thể thống nhất với sự phát triển liên tục, không thể chia cắt được trong không gian, trong thời gian”, Đại tướng nhấn mạnh: Giáo dục với tư cách là quá trình hướng dẫn sự phát triển con người, cũng phải liên tục. Giáo dục thế hệ trẻ là một quá trình liên tục từ khi lọt lòng mẹ cho đến lúc trưởng thành và là sự nghiệp của toàn xã hội.

                Cần phải tạo ra được một môi trường giáo dục thống nhất giữa nhà trường, gia đình và xã hội, đảm bảo “giáo dục toàn diện, giáo dục thường xuyên, giáo dục liên tục”, thực hiện được sự kết hợp chặt chẽ giữa giáo dục chính trị, tư tưởng và lối sống Xã hội chủ nghĩa, phổ cập văn hóa, khoa học, kỹ thuật và công nghệ song song với phổ cập nghề nghiệp. Ông chủ trương: cần phải hình thành trong toàn xã hội một phong trào, một nếp sống chăm lo học hành sôi nổi trong cả nước, học ở trường, học ở nhà, học ở xã hội, vừa học vừa làm, theo tinh thần “học tập, học tập nữa, học tập mãi mãi”. Học tập để thành con người mới Xã hội chủ nghĩa, học tập để xây dựng thành công xã hội văn minh và hạnh phúc, học tập để bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam Xã hội chủ nghĩa.

                Ông là một vị tướng có tầm nhìn xa trông rộng, luôn coi trọng thực tiễn là lý luận, là chân lý, dám nhìn thẳng vào sự thật, nhìn thẳng vào khuyết điểm để chuyển bại thành thắng, rất chịu khó học tập, lắng nghe ý kiến hay của quần chúng, chuyên gia, các nhà trí thức, khoa học... ông đã đề xuất nhiều vấn đề đi trước thời gian như có ý kiến rất sớm về kinh tế tri thức, kinh tế biển, khoa học kỹ thuật công nghệ cao, kinh tế trang trại, chiến lược phát triển con người...

                Khi Đảng tiến hành công cuộc đổi mới, ông ủng hộ mạnh mẽ chủ trương đổi mới toàn diện cả về kinh tế, chính trị và phương thức lãnh đạo của Đảng cầm quyền nhằm mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.

                Chất lượng giáo dục đào tạo là chất lượng toàn diện (chính trị, chuyên môn, sức khỏe) được xác định trên cơ sở mục tiêu giáo dục đào tạo của từng ngành học, từng loại hình giáo dục, từng cấp học gắn chặt với những mục tiêu kinh tế - xã hội của cả nước, từng ngành từng địa phương trong từng thời kỳ. Theo ông, để nâng cao chất lượng giáo dục, các nhà trường cần phải thực hiện: giáo dục chính trị tư tưởng và đạo đức; giáo dục tri thức văn hóa và khoa học; chú trọng giáo dục lao động sản xuất và công tác hướng nghiệp; giáo dục thể chất và thẩm mỹ.

                Ở chuyên ngành nào thuộc phạm vi mình phụ trách, ông cũng đều có những ý kiến xác đáng, thấu tình đạt lý. Với ngành sử học, ông góp rất nhiều chính kiến rất cơ bản. Ông cho rằng môn Sử - Địa giúp ích rất lớn về nâng cao tri thức, lòng yêu nước và trách nhiệm với xã hội. Và ông đặt câu hỏi: “Mình đã nhiều lần đi trao giải cho các học sinh giỏi Toán, Vật lý nhưng sao không thấy có giải của môn Sử - Địa? Cần nghiên cứu vấn đề này kể cả trong cách dạy và học, cùng với nhiều hình thức sinh động khác”.

                Ngay cả sau khi nghỉ hưu, tuổi đời rất cao, nhưng khi được hỏi, ông vẫn rất minh mẫn, sắc sảo, sáng suốt đóng góp nhiều ý kiến quan trọng cho Đảng, Chính phủ và Quân đội.

                Sau khi miền Nam được hoàn toàn giải phóng, đất nước thống nhất, ông được phân công làm nhiệm vụ chỉ đạo khoa học - kỹ thuật. Bà Elizabeth Kemf - nhà môi trường học người Đức sang Việt Nam khảo sát về hậu quả của chiến tranh đối với đất nước Việt Nam, khi gặp Đại tướng Võ Nguyên Giáp, bà hỏi: “Vì sao ông đã thay đổi từ một thầy giáo, rồi thành nhà báo, nhà lãnh đạo quân sự, rồi làm Phó Thủ tướng và bây giờ là người bảo vệ thiên nhiên?”. Ông đã thản nhiên trả lời: “Hoàn cảnh đã buộc tôi phải cầm súng thay cho cầm bút và Chủ tịch Hồ Chí Minh yêu cầu tôi làm quân sự. Phục vụ đất nước là nhiệm vụ khẩn thiết nhất của tôi. Từ những kinh nghiệm của một nhà chiến lược quân sự đã giúp tôi nhận ra chiến lược về xây dựng đất nước. Đó là một nhiệm vụ khác hẳn. Bây giờ những người lính lại chuyển sang lĩnh vực mới đó là môi trường. Cá nhân tôi cũng chuyển từ mặt trận quân sự sang mặt trận khoa học - kỹ thuật, tức là khôi phục lại môi trường”.

                Giáo sư Vũ Khiêu đã tặng Võ Nguyên Giáp câu đối:

                Võ công truyền quốc sử

                 Văn đức quán nhân tâm.

                Nghĩa là: Sự nghiệp, công lao to lớn của Võ Nguyên Giáp sẽ mãi lưu truyền trong lịch sử dân tộc. Còn văn hóa và đạo đức của ông thì trùm lên lòng con người ở cả trong và ngoài nước.

                “Dân ta phải biết sử ta”, người học trò xuất sắc của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã cùng với toàn quân, toàn dân viết nên những trang sử hào hùng. Theo Giáo sư sử học Phan Huy Lê, trong con người vị thống lĩnh quân sự, nét độc đáo chưa từng thấy ở bất cứ một nhà quân sự thế giới nào, đó là trước khi nhà quân sự, Đại tướng Võ Nguyên Giáp là một nhà sử học, một giáo viên dạy Sử.

Giáo sư, nhà giáo nhân dân Trần Văn Giàu (1911 - 2010) / Nguyễn Ngọc Thanh chủ biên // Sách Những thầy giáo nổi tiếng trong lịch sử. - TP. Hồ Chí Minh: Văn hóa Văn nghệ, 2017. - Tr. 276 - 285

                Giáo sư Trần Văn Giàu là nhà khoa học, nhà nghiên cứu lịch sử, triết học, nhà hoạt động cách mạng lão thành, sinh ngày 6 tháng 9 năm 1911 tại xã An Lục Long, huyện Châu Thành, tỉnh Tân An xưa (nay là tỉnh Long An).

                Thuở thiếu thời, Trần Văn Giàu học tiểu học ở quê nhà, rồi lên học trung học tại Sài Gòn. Mọi người đều biết, gia đình Giáo sư Trần Văn Giàu trước Cách mạng cũng là một “Nhà giàu địch quốc”. Khi ông đính hôn với bà Đỗ Thị Đạo, lúc đó là một cô gái xinh đẹp tuyệt vời, con một nhà điền chủ lớn bậc nhất Tân An - Đỗ Tường Ninh. Ngay khi học ở quê nhà, Trần Văn Giàu đã nổi tiếng học giỏi, ông không ỷ vào việc mình là con nhà giàu mà ăn chơi quậy phá. Ông tận tâm với sách và mộng ước sau làm quan báo, theo con đường đấu tranh ngôn luận mà thức tỉnh đồng bào mình. Chính vì ước mơ đó mà ông quyết sang Pháp du học. Khi đi, ông có hứa với bố vợ tương lai là khi nào lấy được hai bằng tiến sĩ, tiến sĩ văn chương và tiến sĩ luật mới trở về.

                Ngày chia tay, Trần Văn Giàu mua hai cuốn Lục Vân Tiên. Ông giữ lại một cuốn và tặng vợ chưa cưới một cuốn với lời hẹn ước: Hai người chung tình chờ nhau như Lục Vân Tiên với Kiều Nguyệt Nga, trong khi ông dư tiền để mua vàng bạc, châu báu, hột xoàn hay ô tô, nhà lầu làm quà đính ước. Nhưng không! Ông chỉ tặng thơ Nguyễn Đình Chiểu. Rõ ràng, nét văn hóa lớn đã bộc lộ ngay từ khi ông còn trai trẻ, chưa hề được giác ngộ cách mạng.

                Hai năm sau, khi Trần Văn Giàu trở về, không có bằng cấp trong tay, chỉ có xích sắt kéo trên cầu tàu xủng xoảng. Nhà đại điền chủ Đỗ Tường Ninh gặp lại con rể tương lai, không những không quay mặt bỏ rơi, mà còn vui mừng khôn xiết. Ông tự hào ôm lấy con rể. Vì thế là người con rể họ Trần đã nối chí, đã đồng tâm với dòng họ Đỗ Tường. Phải! Dòng họ Đỗ Tường đã có lời nguyền: Đời con, đời cháu, đời chắt trong họ không có ai đi làm tay sai cho giặc Pháp, vì từ đời cố nội bà Đỗ Thị Đạo tức từ cụ Đỗ Tường Kiên đã một lòng theo Thủ khoa Huân đánh Pháp.

                Trong tâm khảm mình, Trần Văn Giàu luôn coi chữ Đức làm trọng. Ông đã từng nói: “Vấn đề hằng tâm, hằng sản là một vấn đề cốt tủy của cộng đồng người Việt Nam. Đấy chính là “Lá lành đùm lá rách”, là “Bầu ơi thương lấy bí cùng”, là “Nhiễu điều phủ lấy giá gương”, là “Đoàn kết đại đoàn kết”. Chỉ có dưới thời đại Hồ Chí Minh, khi Người giương cao ngọn cờ đại nghĩa lên mới tập hợp được mọi người, mọi tầng lớp... cùng nhau hợp sức mà chống giặc, giữ nước”.

                Ngay từ thời gian học trung học ở Sài Gòn, ông đã tham gia phong trào “Thanh niên cao vọng” do Nguyễn An Ninh tổ chức, lãnh đạo. Năm 1928, ông sang Pháp học tiếp bậc Trung học rồi vào học khoa Văn Trường Đại học Toulouse. Ngày 19-5-1930, ông tham gia biểu tình trước phủ Tổng thống Pháp, phản đối thực dân Pháp đàn áp đẫm máu cuộc khởi nghĩa Yên Bái do Nguyễn Thái Học, thủ lĩnh Quốc dân Đảng cầm đầu. Vì việc này, chính quyền Pháp đã tống ông vào nhà ngục Paris. Sau, chúng trục xuất ông cùng 18 người yêu nước khác về nước. Giáo sư Trần Văn Giàu là một trong những nhà hoạt động cách mạng thuộc lớp đầu tiên của Việt Nam. Năm 1929, khi đó ông mới 18 tuổi đã gia nhập Đảng Cộng sản Pháp, 19 tuổi vào Đảng Cộng sản Đông Dương, 20 tuổi theo học Đại học Phương Đông (Liên Xô cũ), nơi đào tạo các nhà cách mạng cho các nước ngoài Liên Xô.

                Tháng 10 năm 1943, trong hội nghị đại biểu toàn kỳ, một ban lãnh đạo Xứ ủy Nam kỳ mới được thành lập gồm 9 ủy viên, ông được bầu làm Bí thư. Đến tháng 10 năm 1945, Trần Văn Giàu (Sáu Giàu) lãnh đạo cuộc khởi nghĩa giành chính quyền ở Sài Gòn và lục tỉnh Nam kỳ. Ông được cử làm Chủ tịch Ủy ban Nhân dân Lâm thời Nam bộ, sau là Ủy ban kháng chiến hành chính Nam bộ. Năm 1946, ông được biệt phái qua công tác tại miền Tây Đông Dương. Đầu năm 1947, ông được điều trở về Việt Bắc để đảm nhận chức vụ Tổng giám đốc nha thông tin tuyên truyền Trung ương. Một con người bốn lần vào tù ra khám, 12 năm bị giam cầm đày ải cả trời Tây lẫn trời ta mà vẫn kiên trì làm cách mạng. Đấy hẳn phải là con người có bản lĩnh lớn.

                Năm 1951, ông tham gia xây dựng Trường Dự bị Đại học, Trường Sư phạm Cao cấp. Từ đó, ông gắn bó đời mình với sự nghiệp “trồng người”, sự nghiệp nghiên cứu khoa học, viết báo, viết sách. Những thành tựu đạt được đã đưa tên tuổi thầy Giàu nổi lên trong báo giới từ đó.

                Tháng 11 năm 1954, Đại học Sư phạm Văn khoa và Đại học Sư phạm Khoa học được thành lập, ông trở thành Bí thư đầu tiên của Đảng bộ trường, kiêm giảng dạy các môn khoa học Chính trị, Triết học, Lịch sử thế giới và Lịch sử Việt Nam (được coi là người sáng lập những ngành khoa học này của nền Sư phạm Khoa học Việt Nam hiện đại).

                Giữa năm 1956, Trường Đại học Tổng hợp Hà Nội được thành lập, ông được cử giữ chức vụ Bí thư Đảng ủy của trường nhưng vẫn tham gia đào tạo ở Đại học Sư phạm Hà Nội.

                Từ năm 1962 đến 1975, ông công tác tại Viện sử học thuộc Ủy ban Khoa học xã hội Việt Nam (nay là Viện Hàn lâm Khoa học Xã hội Việt Nam). Sau năm 1975 cho đến lúc qua đời năm 2010, ông tiếp tục nghiên cứu trong lĩnh vực khoa học xã hội, là cố vấn và nguồn động viên tinh thần cho thế hệ các nhà nghiên cứu lịch sử sau này.

                Cuộc đời Giáo sư Trần Văn Giàu có hơn 70 năm hoạt động cách mạng, trong đó có gần 40 năm đứng trên bục giảng các trường Dự bị Đại học, Cao đẳng Sư phạm, Đại học Sư phạm Hà Nội, Đại học Tổng hợp Hà Nội. Ông đã trở thành một nhà giáo dục đào tạo lớn, mẫu mực. Nhiều thế hệ học sinh được ông đào tạo đã trở thành những cán bộ cốt cán của Nhà nước. Trong đó, không ít người trở thành những hiền tài, nguyên khí của quốc gia. Và sự nghiệp nghiên cứu khoa học của ông mới thật là đồ sộ. Ông đã cống hiến cho nền văn hóa nước nhà 150 công trình khoa học về triết học, tư tưởng lịch sử, xã hội học, văn học có giá trị. Trong đó có các tác phẩm như: Triết học phổ thông, Biện chứng pháp, Vũ trụ quan, Duy vật lịch sử, Sự phát triển của tư tưởng Việt Nam từ thế kỷ 19 đến Cách mạng Tháng Tám, Giá trị truyền thống của dân tộc Việt Nam. Sự khủng hoảng của chế độ nhà Nguyễn trước 1958, Lịch sử chống xâm lăng, Giai cấp công nhân Việt Nam, Lịch sử cận đại Việt Nam, Miền Nam giữ vững thành đông, Địa chí văn hóa Thành phố Hồ Chí Minh...

                Giáo sư Trần Văn Giàu không có con cái, nhưng theo lời đùa vừa hóm hỉnh vừa chân thực “Có con bằng giấy cũng được rồi”, ý nói đến những đứa con tinh thần, những công trình khoa học của mình để lại cho đời. Ngoài 150 công trình, giáo sư còn là tác giả, đồng tác giả, chủ biên, đồng chủ biên hơn 60 cuốn sách khác, đó là những công trình về chính trị, triết học tư tưởng, lịch sử, văn hóa, văn học. Hàng vạn trang sách về nhiều loại lĩnh vực khoa học xã hội của giáo sư đã được đông đảo bạn đọc trong và ngoài nước tìm đọc. Mọi người đều có chung nhận xét: Văn của Trần Văn Giàu uyên bác và lịch lãm, trong sáng và giản dị. Giản dị nhưng phong phú. Nó giản dị và phong phú như chính đời sống thực vậy. Và đặc biệt, càng những tác phẩm về sau của ông càng thấm đẫm chất anh hùng cách mạng, càng giàu nhân tính, càng sâu suy tư trải nghiệm nên càng thuyết phục người đọc. Quả như nhà văn hóa lớn Trần Bích San xưa từng nói: “Nhân bất phong sương vị lão tài”.

                Giáo sư Trần Văn Giàu nói hay viết đều bằng con tim và trí tuệ mình, nên trang viết của ông, lời nói của ông luôn đi vào lòng người. Ngày nay, lớp học sinh được thụ học nơi thầy Giàu ai cũng đều tự hào. Nhiều người nay đã trở thành nhà khoa học, nhà quản lý đất nước có tên tuổi, đều ghi nhớ ơn thầy, sử học là lĩnh vực mà thầy Giàu bỏ nhiều tâm trí sức lực của mình vào đó. Giáo sư Trần Văn Giàu được cho là người có công đào tạo một lớp các nhà khoa học lịch sử nổi tiếng và được xem là "tứ trụ" của sử học Việt Nam đương đại là: "Lâm, Lê, Tấn, Vượng", tức các giáo sư: Đinh Xuân Lâm, Phan Huy Lê, Hà Văn Tấn và Trần Quốc Vượng và cả 4 giáo sư đều có thời gian công tác tại Đại học Quốc gia Hà Nội.

                Trong bài viết: “Thầy Trần Văn Giàu của chúng tôi” của PGS. TS. Trần Hữu Tá có nhắc đến đôi câu đối của Giáo sư Hoàng Như Mai chúc thọ thầy Giàu cách đây mười năm, nhân dịp giáo sư tròn 85 tuổi:

                Tám lăm năm trên mặt địa cầu, có phen lội sình lầy, có phen vượt băng ngàn, có phen giẫm tuyết, đạp băng nơi đất lạ và có phen mang xiềng gang xích sắt chốn lao tù... Đôi chân ấy bước qua thế kỷ vẫn còn dư sức lực.

                Một đời sống trong lòng quần chúng, đã từng làm “phiến loạn”, đã từng điều binh khiển tướng, đã từng dạy sử luận triết trong giảng đường, lại đã từng bị kiểm thảo và phê bình quan điểm (!)... Con người này phục vụ nhân dân kể cũng lắm công lao.

                Điểm lại đôi câu đối trên, ông Trần Hữu Tá có lời bình: “100 chữ, 100 chữ thôi, nhưng đã biểu hiện được chân dung tinh thần và những chặng đường đời tột cùng gian nan mà cũng không ít cay đắng của thầy Giàu chúng tôi”.

                Trần Văn Giàu cũng là một trong những nhà khoa học lớn của đất nước, được Chủ tịch Hồ Chí Minh ký phong hàm chức danh giáo sư đầu tiên của nước ta vào năm 1960 cùng với các nhà khoa học khác như: Trần Đại Nghĩa, Tạ Quang Bửu, Tôn Thất Tùng, Lê Văn Thiêm, Đặng Thai Mai... (khi đó, nước ta chưa có Hội đồng phong học hàm Nhà nước).

                Giáo sư Trần Văn Giàu là nhà khoa học có uy tín tại Thành phố Hồ Chí Minh, một Ủy ban giải thưởng mang tên Trần Văn Giàu đã được thành lập. Hàng năm, giải thưởng Trần Văn Giàu được trao cho các công trình nghiên cứu trên các lĩnh vực: Lịch sử và lịch sử tư tưởng về khu vực Nam bộ, Nam Trung bộ và Thành phố Hồ Chí Minh. Mỗi lĩnh vực trên đều có một giải thưởng trị giá 50 triệu đồng, mỗi năm trao giải một lần. Tháng 7-2005, lễ trao giải lần thứ hai được tổ chức tại Thành phố Hồ Chí Minh, Giáo sư Trần Văn Giàu đã đến dự và trao giải thưởng cho nhà nghiên cứu Nguyễn Đình Đầu về công trình: Tổng kết nghiên cứu địa bạ Nam kỳ, gồm 8 quyển.

                Nhiều nhà nghiên cứu cho rằng, nói về Giáo sư Trần Văn Giàu, Sử gia Trần Văn Giàu hay nhà hoạt động cách mạng Trần Văn Giàu, dù ở lĩnh vực nào cũng không thể chỉ nói đến chữ Trí hay chữ Tâm mà còn phải nói đến chữ Nhân, chữ Đức. Mà lớn hơn cả là chữ Đức. Bởi ông trở thành một nhân cách lớn là từ chữ Đức và mãi mãi tỏa sáng cũng là vì chữ Đức. Trần Văn Giàu là người con thứ ba trong gia đình. Theo phong tục miền Nam, thì thường danh gọi trong gia đình, họ mạc sẽ được kể là anh Tư - Tư Giàu. Nhưng khi đi hoạt động cách mạng, bà Đỗ Thị Đạo là vợ ông, con thứ năm trong gia đình nên được gọi là Sáu - Sáu Đạo. Yêu thương vợ, nhưng vì nghĩa lớn, ông phải ra đi, nên ông thường mang danh Sáu của bà để hộ mệnh mình khi bôn ba khắp các nẻo đường cách mạng. Bà Sáu Đạo rất tự hào về chuyện này. Với người thân, bà thường khoe: Đấy là nét độc nhất vô nhị trong thiên tình yêu của hai người. Quả là đáng tự hào, bởi đó chính là nét nhân bản của một nhân cách lớn. Trong bất kỳ tình huống nào, cảnh ngộ nào, giáo sư cũng luôn lạc quan, yêu đời, tin ở mình, ở đồng chí mình, ưu ái và rộng lượng hết thảy. Nhân cách của Trần Văn Giàu được thể hiện chính ở tầm văn hóa ứng xử cao cả ấy.

                Người ta còn nhớ năm ông vào tuổi thất thập, bạn bè thân hữu và rất nhiều học trò đã đến chúc mừng, ông rất vui và đã ra vế đối rằng: Bảy mươi khúc khích cười Đỗ Phủ.

                Ngay trong lần sinh nhật ấy và đến sinh nhật lần thứ 95, cả bạn bè thân hữu, cả học trò của ông, chưa ai đối chỉnh. Chỉ có một vế đối cũng thấy sự thanh thản trong nhân cách của một hiền tài. Rõ ràng, khi chữ Tâm, chữ Đức có sáng, thì con người mới ung dung tự tại được.

                Nhân kỷ niệm lần thứ 23 ngày nhà giáo Việt Nam (20-11- 2005), báo Giáo chức Việt Nam, cơ quan ngôn luận của Hội Cựu giáo chức Việt Nam có đăng bài “Phác thảo chân dung những nhân cách lớn” viết về hai vị đồng Chủ tịch danh dự của Hội Cựu giáo chức Việt Nam là Nhà giáo, Đại tướng Võ Nguyên Giáp và Giáo sư, Nhà giáo Nhân dân Trần Văn Giàu. Bài báo có nhắc đến chuyện giáo sư Trần Văn Giàu ra vế đối: Bảy mươi khúc khích cười Đỗ Phủ. Chỉ một tuần sau, tòa soạn báo Giáo chức Việt Nam đã nhận được thư của bà Nguyễn Vân Sâm, một giáo viên nữ về hưu, hiện sinh hoạt tại Chi hội Cựu giáo chức xã Vĩnh Thành, huyện Chợ Lớn, tỉnh Bến Tre. Bà đã đối lại vế đối như sau: Trăm lẻ sụt sùi khóc giáo sư. Với một mong muốn hết sức chân thành của bà là: “Chúc giáo sư sống ngoài trăm tuổi hãy để giáo giới khóc tiễn người về cõi vĩnh hằng”.

                Rõ ràng, tên tuổi của Giáo sư Trần Văn Giàu đã đi vào lòng giáo giới. Một bà giáo về hưu, ở cuối tận miệt vườn kia, không hề ngần ngại có sự gì xa xôi, cách trở... đã gửi ngay vế đối đến tòa soạn và nhờ tòa soạn chuyển đến vị giáo sư đang sống trên thành phố. Phải có tình người chan hòa lắm, Giáo sư Trần Văn Giàu mới có được cái hạnh phúc khắp nhân quần gần xa ai cũng muốn chia ngọt sẻ bùi, ai cũng muốn tâm giao thân hữu như vậy .

                Hơn năm mươi năm hoạt động cách mạng với hơn bốn mươi năm lao tâm khổ tứ vì sự nghiệp “trồng người”. Có thể nói, Giáo sư Trần Văn Giàu là một trong những nhà giáo có ảnh hưởng lớn đến nền giáo dục nước nhà.

                Giáo sư, Viện sĩ Phạm Minh Hạc, Viện trưởng Viện nghiên cứu con người - Chủ tịch của Hội Cựu giáo chức đã nhìn nhận nhân cách lớn của người thầy dạy mình qua một hệ quy chiếu khác và ông hoàn toàn có lý khi hạ bút đề từ: Trần Văn Giàu - Huyền thoại một con người!

               Cuộc đời cống hiến hết mình vì sự nghiệp giải phóng dân tộc, vì giáo dục của ông đã được ghi nhận như danh hiệu Nhà giáo Nhân dân (1992). Toàn bộ công trình về Lịch sử Việt Nam gồm 5 bộ, 18 tập của ông đã được Nhà nước trao Giải thưởng Hồ Chí Minh, đợt 1, năm 1996. Anh hùng lao động thời kỳ đổi mới (2003), Huy hiệu 80 năm tuổi Đảng, Huân chương Hồ Chí Minh và nhiều Huân chương cao quý khác.

                Giáo sư Trần Văn Giàu đã từ trần vào ngày 16 tháng 12 năm 2010 tại Thành phố Hồ Chí Minh, hưởng thọ 100 tuổi. Sự ra đi của ông để lại nhiều nuối tiếc cho các thế hệ học trò, một sự mất mát lớn đối với Nhà nước và nhân dân Việt Nam.

 

 
Các tin khác
NHẬN XÉT BẠN ĐỌC
(Chưa có ý kiến nào được viết)
Đăng nhập
Tên truy cập:
Mật khẩu:
Thành tích khen thưởng
Sách mới Bổ sung
Chọn trang
1. Mu¿i 10 vạn câu hỏi vì sao - Trái đất diệu kỳ / Tuệ Minh .- 2025 Chi tiết
2. Mu¿i 10 vạn câu hỏi vì sao - Thế giới động vật: Động vật hoang dã và động vật nuôi / Tuệ Minh .- 2025 Chi tiết
3. Mu¿i 10 vạn câu hỏi vì sao - Động vật dưới nước và thế giới đại dương / Tuệ Minh .- 2025 Chi tiết
4. Mu¿i 10 vạn câu hỏi vì sao - Động vật kỳ lạ / Tuệ Minh .- 2025 Chi tiết
5. Mu¿i 10 vạn câu hỏi vì sao - Bí mật cơ thể người / Tuệ Minh .- 2025 Chi tiết
Tài liệu số hoá mới
Chọn trang
1. Ấm lòng bữa cơm “2k” giữa lòng phố núi / Hồ, Hải Nam .-  Chi tiết
2. Phẫu thuật kỹ thuật cao ở Bệnh viện 211 cũng rất thiện chiến / Gia Minh .-  Chi tiết
3. Phát huy văn hóa các dân tộc thiểu số trong thúc đẩy bình đẳng giới / Kiên Quốc .-  Chi tiết
4. Lan man váy khố nhân một bức ảnh / Văn, Công Hùng .-  Chi tiết
5. Khơi thông nguồn lực văn hóa góp phần phát triển kinh tế bền vững / Nguyễn, Anh Sơn .-  Chi tiết
Tài liệu của Thư viện
1. Sách lẻ: 80677 
2. Bài trích: 17657 
3. Sách tập: 9672 
4. Sách bộ: 2404 
5. Ấn phẩm định kỳ: 1302 
6. Đĩa CD-ROM: 832 
SÁCH HUYỆN
Tặng sách cho Việt Kiều ở Lào & CPC
Cơ quan chủ quản: SỞ VĂN HÓA, THỂ THAO VÀ DU LỊCH GIA LAI
Bản quyền: THƯ VIỆN TỈNH GIA LAI
30 - Phạm Văn Đồng - TP. Pleiku - Tỉnh Gia Lai. Điện thoại: (059).6250708.
 Website: http://www.thuvientinhgialai.vn ; E-mail:  thuvientinh_gli@vnn.vn ; gialaitv@yahoo.com
Chịu trách nhiệm chính: Bà Nguyễn Thị Thủy - Giám đốc Thư viện tỉnh Gia Lai

Giấy phép do Sở TT&TT Gia Lai cấp số: 05/GPTTĐT-STTTT, ngày 13 tháng 6 năm 2014.