Thư mục toàn văn chuyên đề: "Kỷ niệm 60 năm ngày mở đường Hồ Chí Minh trên biển (23/10/1961 - 23/10/2021") (15/09/2021)
Lêi nãi ®Çu
Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, cùng với đường Trường Sơn - đường Hồ Chí Minh trên bộ, “Đường Hồ Chí Minh trên biển” với những con tàu Không số làm nhiệm vụ bí mật, tổ chức tiếp nhận, vận chuyển vũ khí từ hậu phương lớn miền Bắc chi viện cho tiền tuyến lớn miền Nam, đã góp phần xứng đáng vào sự nghiệp giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước.
Đường Hồ Chí Minh trên biển - con đường oanh liệt gắn liền với tinh thần chiến đấu dũng cảm, ngoan cường, sự hy sinh anh dũng của biết bao cán bộ, chiến sĩ… nơi gửi gắm cả số phận, cuộc đời của những người đã viết nên trang sử hào hùng của dân tộc.
Năm tháng sẽ qua đi, nhưng kỳ tích về con đường vận chuyển chiến lược trên biển cùng với những chiến công chói lọi đánh Mỹ và thắng Mỹ của dân tộc ta vẫn còn nguyên vẹn mãi muôn đời.
Nhân kỷ niệm 60 năm ngày mở đường Hồ Chí Minh trên biển (23/10/1961 - 23/10/2021), Thư viện tỉnh Gia Lai biên soạn và phát hành Thư mục toàn văn chuyên đề: “Kỷ niệm 60 năm ngày mở đường Hồ Chí Minh trên biển (23/10/1961 - 23/10/2021)”.
Nội dung gồm có 2 phần chính:
Phần I. Đường Hồ Chí Minh trên biển - Con đường của ý chí kiên cường, quyết tâm chiến đấu, hy sinh vì độc lập, tự do của Tổ quốc
Phần II. Những người làm nên huyền thoại
Các bài viết đưa vào tập Thư mục toàn văn chuyên đề: “Kỷ niệm 60 năm ngày mở đường Hồ Chí Minh trên biển (23/10/1961 - 23/10/2021)” được chúng tôi chọn lọc từ các sách, tạp chí lưu trữ trong Thư viện tỉnh Gia Lai. Trên mỗi bài trích, chúng tôi đều có mô tả thư mục về hình thức của tài liệu.
Bạn đọc muốn tìm hiểu thêm từ tài liệu gốc, xin vui lòng liên hệ với Thư viện chúng tôi để được phục vụ. Bạn đọc cũng có thể truy cập vào trang Website: “thuvientinhgialai.vn” để đọc tài liệu về “Kỷ niệm 60 năm ngày mở đường Hồ Chí Minh trên biển (23/10/1961 - 23/10/2021)”, trong mục “Thư mục chuyên đề” .
Trong quá trình biên soạn, chúng tôi đã hết sức cố gắng, nhưng chắc chắn không tránh được sai sót xảy ra. Thư viện tỉnh Gia Lai mong nhận được ý kiến của bạn đọc cho “Thư mục toàn văn chuyên đề” ngày càng có chất lượng, phục vụ tốt nhu cầu đọc của bạn đọc.
THƯ VIỆN TỈNH GIA LAI
PHẦN I
ĐƯỜNG HỒ CHÍ MINH TRÊN BIỂN - CON ĐƯỜNG CỦA Ý CHÍ KIÊN CƯỜNG, QUYẾT TÂM CHIẾN ĐẤU, HY SINH VÌ ĐỘC LẬP, TỰ DO CỦA TỔ QUỐC
PHÙNG QUANG THANH. Đường Hồ Chí Minh trên biển - Một sáng tạo chiến lược của Đảng trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước - bài học còn nguyên giá trị trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hiện nay / Phùng Quang Thanh // Tạp chí Cộng sản. - 2011. - Số 828. - Tháng 10. - Tr. 8-12
Cùng với đường Hồ Chí Minh trên bộ, đường Hồ Chí Minh trên biển đã trở thành huyền thoại anh dũng, kiên cường của quân và dân ta trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước. Tinh thần cách mạng tiến công của đường Hồ Chí Minh trên biển mãi mãi không phai nhạt bởi ý nghĩa hào hùng và vẻ vang của nó đã tô thắm truyền thống anh dũng quật cường của quân đội ta và dân tộc ta...
Dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh, Đoàn 759, tiền thân của Lữ đoàn 125 Hải quân được thành lập, đánh dấu sự ra đời của lực lượng vận tải quân sự chiến lược trên biển. Từ đây mở ra đường Hồ Chí Minh trên biển - con đường nối liền hậu phương lớn miền Bắc với tiền tuyến lớn miền Nam; con đường thể hiện ý chí, khát vọng độc lập tự do và thống nhất Tổ quốc của toàn dân tộc ta. Tuyến đường với những con tàu không số đã gắn liền với tên tuổi, địa danh và biết bao chiến công hiển hách của những anh hùng, liệt sĩ của quân và dân các địa phương, đặc biệt là Bộ đội Hải quân nhân dân Việt Nam anh hùng, góp phần quan trọng vào sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, thống nhất Tổ quốc, đưa cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội…
Thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước đã ghi vào lịch sử dân tộc ta như một trang vàng chói lọi, một biểu tượng sáng ngời của chủ nghĩa anh hùng cách mạng, của ý chí “Không có gì quý hơn độc lập tự do”, của lòng dũng cảm, bản lĩnh và trí tuệ con người Việt Nam. Chiến thắng đó còn đi vào lịch sử thế giới như một trong những chiến công vĩ đại nhất của thế kỷ XX - một sự kiện có tầm vóc quốc tế to lớn và có tính thời đại sâu sắc. Có được thành quả cách mạng vĩ đại ấy, dân tộc ta đã phải trải qua những chặng đường đấu tranh đầy gian nan, thử thách; đã kế thừa, phát triển lên một tầm cao mới truyền thống yêu nước, ý chí quật cường, bất khuất của dân tộc Việt Nam, giá trị văn hóa và nền nghệ thuật quân sự đặc sắc Việt Nam trong thời đại Hồ Chí Minh. Thắng lợi mà dân tộc ta giành được là sự hội tụ, kết tinh của nhiều nhân tố, trong đó đường Hồ Chí Minh trên bộ xuyên dãy Trường Sơn và đường Hồ Chí Minh trên biển có vai trò quan trọng. Đây thực sự là một sáng tạo độc đáo về tài thao lược và nghệ thuật chỉ đạo chiến tranh nhân dân của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, của Quân ủy Trung ương trong cuộc đấu trí, đấu lực với các âm mưu và thủ đoạn nham hiểm của kẻ thù, nhằm ngăn chặn sự chi viện sức mạnh của hậu phương miền Bắc cho tiền tuyến miền Nam.
Sau Hiệp định Giơ-ne-vơ năm 1954, đế quốc Mỹ hất cẳng Pháp, dựng lên chính quyền Ngô Đình Diệm ở miền Nam Việt Nam. Dựa vào viện trợ và điều hành của Mỹ, chính quyền Diệm đã ra sức chống phá Hiệp định Giơ-ne-vơ, cự tuyệt hiệp thương tổng tuyển cử thống nhất Nam - Bắc; tiến hành chính sách “tố cộng, diệt cộng”, lê máy chém đi khắp miền Nam, tàn sát hàng vạn đồng bào yêu nước và chiến sĩ cách mạng nhằm tiêu diệt phong trào cách mạng miền Nam.
Trước tình hình đó, tháng 1-1959, Ban Chấp hành Trung ương Đảng Lao động Việt Nam tổ chức Hội nghị lần thứ 15 (khóa II). Hội nghị đã xác định con đường giải phóng miền Nam là con đường cách mạng bạo lực. Nghị quyết Hội nghị Trung ương 15 đã mở ra bước ngoặt cho cách mạng miền Nam, chuyển từ thế giữ gìn lực lượng sang thế tiến công, tạo nên bước nhảy vọt mà đỉnh cao là Phong trào Đồng khởi (1959 - 1960).
Quán triệt Nghị quyết Trung ương 15, các cấp ủy đảng ở miền Nam đã nhanh chóng lãnh đạo, chuyển phương châm đấu tranh, phát động quần chúng nổi dậy, kết hợp đấu tranh chính trị với đấu tranh vũ trang, đưa phong trào cách mạng miền Nam chuyển sang thế tiến công, giành quyền làm chủ ở vùng nông thôn và ven đô thị. Cùng với quá trình đấu tranh cách mạng, lực lượng vũ trang cách mạng miền Nam đã không ngừng lớn mạnh, từ những đội vũ trang tự vệ và vũ trang tuyên truyền đã phát triển thành các tiểu đoàn, trung đoàn chủ lực; bắt đầu hình thành ba thứ quân bao gồm bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương và dân quân du kích. Hệ thống chỉ huy quân sự cũng được hình thành đến cấp huyện, xã.
Nhận rõ yêu cầu cấp bách phải kịp thời chi viện cho đồng bào, chiến sĩ miền Nam trực tiếp chống Mỹ và chính quyền Việt Nam Cộng hòa, ngày 19-5-1959, Tổng Quân ủy và Bộ Quốc phòng quyết định thành lập “Đoàn công tác quân sự đặc biệt” (sau đổi tên là Đoàn 559) có nhiệm vụ mở đường vận chuyển hàng hóa, tổ chức đưa đón bộ đội, cán bộ từ Bắc vào Nam và từ Nam ra Bắc. Tiếp đó, tháng 7-1959, Bộ Quốc phòng quyết định thành lập Tiểu đoàn vận tải thủy 603, có nhiệm vụ mở đường trên biển vận chuyển vũ khí, hàng hóa và con người chi viện cho miền Nam. Để giữ bí mật, Tiểu đoàn hoạt động dưới tên gọi “Tập đoàn đánh cá sông Gianh”.
Do vị trí chiến lược hết sức quan trọng của đường Hồ Chí Minh trên biển, đế quốc Mỹ đã dùng mọi thủ đoạn tinh vi, xảo quyệt, với các loại vũ khí, thiết bị tối tân hiện đại nhất của nền khoa học - công nghệ quân sự Mỹ để đánh phá, hòng hủy diệt, ngăn chặn, cắt đứt tuyến đường tiếp viện của ta trên biển. Những con đường, các bến bãi đều nằm trong các vùng kìm kẹp, lùng sục, truy quét, đánh phá ác liệt suốt đêm ngày của địch. Trên con đường vận chuyển ấy, cán bộ, chiến sĩ Đoàn tàu không số với tinh thần “Vì miền Nam ruột thịt” đã xác định quyết tâm, âm thầm hy sinh tình cảm gia đình và bản thân, biết rằng ra đi là cảm tử vẫn chấp nhận gian nguy, đương đầu với khó khăn, thử thách. Mỗi chuyến đi là một cuộc đấu trí căng thẳng, quyết liệt với kẻ thù, với thiên nhiên, sóng gió. Và vượt lên tất cả là chiến thắng chính bản thân mình, đòi hỏi cao ý chí kiên định, mưu trí, dũng cảm, sáng tạo và ý thức chấp hành kỷ luật nghiêm minh.
Những ngày đầu hoạt động trong điều kiện khó khăn, ác liệt, chúng ta lại chưa có kinh nghiệm và hiểu biết nhiều về tình hình cụ thể tại các tỉnh duyên hải phía Nam nên chuyến vượt biển đầu tiên bằng thuyền buồm của Tiểu đoàn 603 đã không thành công. Thuyền gặp gió mùa, sóng lớn, bị trôi dạt và không về được tới đích, cả 6 thuyền viên đều bị địch bắt, Tiểu đoàn 603 phải tạm ngừng hoạt động trên biển để tìm giải pháp và phương thức vận chuyển phù hợp. Sau một quá trình nghiên cứu, thử nghiệm và chuẩn bị về mọi mặt, ngày 23-10-1961, Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng quyết định thành lập Đoàn vận tải biển 759. Sự ra đời của Đoàn 759 cùng với việc khai thông tuyến chi viện chiến lược Bắc - Nam trên biển là sự kiện hết sức có ý nghĩa. Từ đây, các địa phương ven biển miền Nam, chiến trường Nam Bộ và cực Nam Trung Bộ (B2) đã nhận được sự chi viện trực tiếp của miền Bắc, tạo nên sức mạnh và niềm tin to lớn cho các lực lượng vũ trang trên chiến trường miền Nam.
Sau thất bại trong “Cuộc chiến tranh một phía” (1954 - 1960), đế quốc Mỹ tiến hành chiến lược “Chiến tranh đặc biệt” (1961 - 1965), ráo riết thực hiện các cuộc hành quân tìm diệt, tiến hành bình định để nắm đất, nắm dân theo kiểu “tát nước bắt cá”, đồng thời mở rộng chiến tranh phá hoại miền Bắc bằng biệt kích và phong tỏa biên giới, vùng biển để ngăn chặn chi viện của miền Bắc. Nhằm đáp ứng nhu cầu chi viện cho cách mạng miền Nam ngày một lớn, trung tuần tháng 8-1962, Quân ủy Trung ương quyết định mở đợt vận chuyển vũ khí vào Nam. Đêm 11-10-1962, chiếc tàu gỗ gắn máy đầu tiên của Đoàn 759 chở 30 tấn vũ khí rời bến Đồ Sơn (Hải Phòng) vào Cà Mau. Ngày 19-10, tàu cập bến Vàm Lũng an toàn, toàn bộ vũ khí được cơ sở tiếp nhận đúng kế hoạch. Sau chuyến đi thành công đó, Đoàn 759 đã được Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi điện động viên, biểu dương cán bộ, chiến sĩ và căn dặn cần rút kinh nghiệm chuyến đi, tiếp tục vận chuyển nhiều vũ khí cho đồng bào miền Nam đánh giặc, cho Nam - Bắc sớm sum họp một nhà.
Với phương châm hoạt động bí mật bất ngờ, sử dụng các loại tàu nhỏ, ngụy trang giống tàu đánh cá, tuyến đường Hồ Chí Minh trên biển đã mở ra một hướng chi viện mới, hết sức quan trọng, đưa hàng chi viện của miền Bắc đến với các chiến trường xa mà tuyến đường Hồ Chí Minh trên bộ chưa có điều kiện vươn tới được. Tháng 8-1963, Đoàn 759 được giao cho Quân chủng Hải quân phụ trách và Quân chủng trực tiếp đảm đương nhiệm vụ vận chuyển, chi viện đường biển cho các chiến trường miền Nam. Đến ngày 24-1-1964, Đoàn 759 được điều chỉnh tổ chức, phát triển thành Lữ đoàn 125 Hải quân. Trong hơn 3 năm hoạt động (1962 - 1965), đường Hồ Chí Minh trên biển đã chi viện cho các tỉnh ven biển thuộc chiến trường Khu 5, Nam Bộ và cực Nam Trung Bộ được 89 chuyến tàu với gần 5 nghìn tấn vật chất, chủ yếu là vũ khí, đạn dược.
Tuy nhiên, từ sau sự kiện tàu C143 bị địch phát hiện tại Vũng Rô (Phú Yên, tháng 2-1965), địch tăng cường đẩy mạnh hoạt động tuần tiễu ngăn chặn, chống xâm nhập. Đoàn 125 đã phải chuyển hướng hoạt động, sử dụng các đội tàu đi theo đường hàng hải quốc tế và bí mật bất ngờ đột nhập, đưa hàng vào các bến tiếp nhận. Đến tháng 2-1968, do sự ngăn chặn, chống xâm nhập của địch ngày càng trở nên gay gắt, đường Hồ Chí Minh trên biển phải tạm dừng hoạt động. Tính chung trong 4 năm (1965 - 1968), Đoàn 125 đã tổ chức 27 chuyến tàu, trong đó chỉ có 7 chuyến tàu tới đích, giao được hơn 4 trăm tấn hàng quân sự cho các chiến trường.
Sau cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Mậu Thân 1968, tận dụng thời điểm không quân Mỹ tạm ngừng ném bom miền Bắc, Đoàn 125 đã vận chuyển được một khối lượng hàng lớn tới các địa điểm vùng giới tuyến, sau đó Đoàn 559 vận chuyển bằng đường bộ vào chiến trường miền Nam. Ngoài ra, để đáp ứng nhu cầu vũ khí, đạn dược ngày càng tăng cho chiến trường miền Nam, ta còn tổ chức vận chuyển hàng viện trợ quân sự của các nước anh em bằng tàu biển quốc tế, quá cảnh qua cảng Xi-ha-núc Vin (Cam-pu-chia). Bằng cách này, Đoàn 125 đã đưa vào chiến trường miền Nam hơn 90 nghìn tấn hàng hóa, trong đó có hơn 20 nghìn tấn vũ khí, đạn dược. Từ cuối năm 1970, sau khi tuyến đường vận chuyển qua cảng Xi-ha-núc Vin bị cắt đứt, theo sự chỉ đạo của Đảng ủy - Bộ Tư lệnh Quân chủng Hải quân, Đoàn 125 đã chủ động tìm đường vận chuyển mới bằng cách men theo phía đông các quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa đến vùng biển Đông Bắc Ma-lai-xi-a, qua Vịnh Thái Lan, khu vực quần đảo Nam Du để đưa tàu cập các bến bãi miền Tây Nam Bộ. Tuy phải đi vòng rất xa và phải dự trữ đủ lượng xăng dầu và lương thực cần thiết cho một chuyến đi dài ngày; phải đối mặt với bao thách thức, cam go, nhưng bằng con đường này, Đoàn 125 đã giao được 301 tấn vũ khí, đạn dược cho Nam Bộ và cực Nam Trung Bộ. Đây là một cố gắng lớn của Đoàn 125 trong điều kiện địch tăng cường bao vây, ngăn chặn và đánh phá ác liệt.
Hiệp định Pa-ri được ký kết (năm 1973), thực hiện sự chỉ đạo của Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng, Đoàn 125 tạm dừng nhiệm vụ vận chuyển, chi viện trực tiếp cho các chiến trường miền Nam bằng đường Hồ Chí Minh trên biển. Đến cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân năm 1975, các đội tàu của Đoàn 125 lại tiếp tục vận chuyển vật chất, cơ động lực lượng phục vụ cho việc giải phóng các tỉnh và các đảo ven biển miền Nam, đặc biệt đã kịp thời chi viện cho các lực lượng làm nhiệm vụ giải phóng quần đảo Trường Sa.
Như vậy, trong suốt cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, đường Hồ Chí Minh trên biển đã tạo nên một phương thức chi viện mới hết sức quan trọng, trực tiếp bảo đảm chi viện cho các chiến trường miền Nam. Mặc dù số lượng vũ khí và hàng hóa mà Đoàn 125 vận chuyển bằng đường Hồ Chí Minh trên biển còn khiêm tốn so với lượng hàng hóa, vũ khí vận chuyển qua đường Hồ Chí Minh trên bộ, nhưng nó lại có ý nghĩa rất lớn. Đường Hồ Chí Minh trên biển thực sự trở thành mũi thọc sâu, vu hồi lợi hại để vận chuyển, chi viện vào những địa bàn ven biển trọng yếu nơi mà sự chi viện bằng tuyến vận tải chiến lược 559 trên bộ chưa thể vươn tới được. Vận tải biển tuy đầy gian nan, nguy hiểm nhưng lại có ưu thế về tốc độ, thời gian và hiệu quả. Cùng với nhiệm vụ vận tải hàng quân sự, đường Hồ Chí Minh trên biển còn đảm đương một sứ mệnh cực kỳ quan trọng, đó là đưa đón hàng trăm cán bộ cao cấp của Đảng, quân đội và chuyên gia quân sự vào miền Nam và từ miền Nam ra miền Bắc báo cáo Trung ương và nhận chỉ thị mới, kịp thời bổ sung cho công tác lãnh đạo, chỉ đạo, chỉ huy chiến đấu trên chiến trường miền Nam. Ngoài ra, Đoàn 125 còn vận chuyển nhiều loại vũ khí, trang bị đặc biệt, có tầm quan trọng sống còn đối với cuộc kháng chiến của ta.
Có thể nói, những chiến công của các lực lượng tuyến chi viện chiến lược trên biển là minh chứng cụ thể của sự chỉ đạo sát sao và tài thao lược của Đảng. Để từng bước hình thành, phát triển tuyến đường chiến lược trên biển, chi viện ngày càng nhiều sức người, sức của cho các chiến trường đánh thắng quân xâm lược, Đảng ta đã phát huy tới mức cao nhất sức mạnh của toàn dân tộc kết hợp với sức mạnh thời đại, tạo nên sức mạnh tổng hợp vô cùng to lớn. Nhân dân các địa phương luôn sẵn sàng đóng góp của cải và công sức cho tuyến vận tải chiến lược trên biển được thông suốt. Các nước anh em, bè bạn trên thế giới, đặc biệt là Liên Xô và Trung Quốc đã dành cho Việt Nam sự giúp đỡ vật chất và ủng hộ tinh thần hết sức lớn lao và hiệu quả.
Sự ra đời của đường Hồ Chí Minh trên biển cùng với những chiến công của lực lượng Hải quân trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước một lần nữa chứng minh về tầm quan trọng của biển, đảo đối với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Trong giai đoạn cách mạng mới hiện nay, sự nghiệp cách mạng của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta diễn ra trong bối cảnh tình hình thế giới và khu vực có nhiều biến đổi to lớn và sâu sắc, vừa thuận lợi, vừa có những thách thức mới. Xu thế toàn cầu hóa đang tác động sâu sắc tới toàn thể nhân loại, đồng thời đặt ra yêu cầu khách quan trước mỗi quốc gia. Khu vực Châu Á -Thái Bình Dương, trong đó có khu vực Đông Nam Á, vẫn sẽ là khu vực phát triển năng động nhưng còn tồn tại nhiều nhân tố gây mất ổn định; tranh chấp lãnh thổ, biển đảo ngày càng phức tạp. Do đó, nhiệm vụ của Hải quân nhân dân Việt Nam tiếp tục làm nòng cốt cùng với toàn quân, toàn dân bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, giữ vững môi trường hòa bình, ổn định để phát triển kinh tế, xã hội và quan hệ hữu nghị với các nước láng giềng và trên thế giới, xứng đáng là lực lượng nòng cốt làm nên con đường Hồ Chí Minh huyền thoại trên biển trước đây cũng như hiện nay.
NGUYỄN THÀNH CUNG. Đường Hồ Chí Minh trên biển, một nhân tố góp phần quyết định thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước / Nguyễn Thành Cung // Sách Huyền thoại đường Hồ Chí Minh trên biển. - H.: Lao động, 2011. - Tr. 16-24
Có biết bao kỳ tích đã đi vào lịch sử cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước hào hùng của dân tộc Việt Nam như là biểu tượng của sức mạnh phi thường và khí phách anh hùng thời đại Hồ Chí Minh. Mỗi kỳ tích là cả chuỗi những sự kiện mang dáng dấp một câu chuyện huyền thoại, vượt khỏi sự hình dung thông thường, nhưng đó là một thực tế - thực tế hết sức sinh động về cuộc đọ sức lịch sử giữa một dân tộc nhỏ với một đế quốc lớn nhất hành tinh (Mỹ). Con đường chi viện chiến lược trên biển mang tên Hồ Chí Minh là một trong những kỳ tích như thế.
Khi cuộc kháng chiến chống Mỹ bước vào thời kỳ chuyển thế chiến lược, từ thế giữ gìn lực lượng sang thế tiến công, khi con đường chi viện trên bộ chưa thể vươn tới các chiến trường xa hậu phương miền Bắc, sâu trong vùng địch chiếm đóng, thì những chuyến tàu nhỏ bé, "tàu không số", bí mật đạp sóng biển Đông, vượt qua sự ngăn chặn, kiểm soát ngặt nghèo của quân thù, tiếp tế vũ khí, bổ sung lực lượng cho đồng bào, chiến sĩ miền Nam đánh mạnh, thắng to. Cũng từ đây, đánh dấu sự ra đời của một lực lượng vận tải quân sự "đặc biệt" - Đoàn 759 - Đoàn 125 Quân chủng Hải quân, với con đường chi viện trên biển, mà đích đến là những bến bãi, kho tàng được bố trí dọc theo bờ biển miền Nam. Con đường biển cùng với con đường chạy dọc theo dãy Trường Sơn hùng vĩ, trong suốt những năm tháng chiến tranh, ghi dấu biết bao chiến công oanh liệt của quân và dân ta. Hành trình nối liền hậu phương lớn miền Bắc với tiền tuyến lớn miền Nam không dừng lại ở sự vận chuyển thông thường, mà vượt lên thành biểu tượng của ý chí, quyết tâm, tài thao lược, trí thông minh, sức sáng tạo của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta trong sự nghiệp giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc.
Giờ đây, với điểm đứng của hiện tại, chúng ta có điều kiện để tìm tòi, suy ngẫm về những trang sử đấu tranh hào hùng của dân tộc, về kỳ tích của con đường Hồ Chí Minh trên biển trong những tháng năm chống Mỹ, cứu nước. Độ lùi thời gian cùng với những tìm tòi, suy ngẫm về quá khứ cho phép chúng ta thấy rõ hơn tầm vóc, ý nghĩa của một thế trận đọ sức, đọ trí đầy cam go của quân và dân ta với quân thù; đồng thời, nhìn nhận sâu sắc hơn về nhân tố cơ bản tạo nên thắng lợi của đường Hồ Chí Minh trên biển năm xưa.
Một là, đường Hồ Chí Minh trên biển thể hiện nhãn quan nhạy bén, tài tình của Đảng ta và Bác Hồ.
Trong quá trình hoạch định đường lối kháng chiến, cùng với việc xác định chiến lược cách mạng cho hai miền Nam - Bắc, cho tiền tuyến và hậu phương, Đảng đã xác định rõ nhiệm vụ chi viện chiến lược cho cuộc đấu tranh của quân và dân ta ở miền Nam là nhiệm vụ trọng tâm, có ý nghĩa quyết định thành bại của chiến tranh.
Có thể nói, quá trình hoạch định đường lối kháng chiến là quá trình Đảng ta, đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh dành sự quan tâm, chỉ đạo chặt chẽ, cụ thể, tỉ mỉ công tác chi viện chiến trường thông qua Bộ Chính trị, Quân ủy Trung ương. Thực tế cho thấy, ngay sau Hội nghị Trung ương 15 quyết định đường lối cách mạng miền Nam từ thế giữ gìn lực lượng sang thế tiến công, Bộ Chính trị đã trực tiếp chỉ đạo tổ chức mở tuyến đường Trường Sơn chi viện miền Nam (Đoàn 559, 5-1959). Không lâu sau đó, tuyến đường chi viện trên biển cũng được chỉ đạo tổ chức, xây dựng (7-1959).
Sự nhìn nhận từ sớm của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh về yêu cầu, nhiệm vụ, vị trí và vai trò của công tác chi viện chiến trường đã tạo bước phát triển vững chắc, mạnh mẽ cho cách mạng miền Nam. Con đường chi viện trên biển đã ghi dấu ấn quan trọng, thúc đẩy sự lớn mạnh của lực lượng vũ trang cách mạng trên chiến trường, góp phần vào thắng lợi của những trận đánh gây tiếng vang lớn như: Ấp Bắc, Đầm Dơi, Cái Nước, Chà Là, Bình Giã, Ba Gia, Vạn Tường...
Sự nối kết, chuyển tải sức mạnh của hậu phương đối với tiền tuyến đã được thực hiện hiệu quả thông qua con đường chi viện trên biển, nhất là trong điều kiện tuyến đường Trường Sơn chưa thể vươn tới những chiến trường, địa bàn xa hậu phương, sâu trong vùng địch tạm chiếm. Kết quả của sự phát triển thực lực kháng chiến ở miền Nam sau thắng lợi của Phong trào "Đồng khởi" (1960) đã chứng tỏ rằng, Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh trên cơ sở nắm bắt, lường định đúng xu thế phát triển của cuộc kháng chiến, chủ động, tích cực chuẩn bị thời cơ, lực lượng, tạo ra bước phát triển mạnh mẽ, vững chắc của cách mạng; con đường chi viện trên biển đã có những đóng góp thiết thực trong quá trình ấy.
Như vậy, quyết định đúng đắn, sáng tạo, táo bạo của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, mở con đường vận tải quân sự chiến lược chi viện miền Nam trên hướng biển, đã thể hiện rõ nhãn quan nhạy bén, tài tình của Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh; đáp ứng khát vọng cháy bỏng và quyết tâm sắt đá giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta.
Hai là, đường Hồ Chí Minh trên biển góp phần kết nối chặt chẽ giữa hậu phương lớn miền Bắc với tiền tuyến lớn miền Nam.
Vấn đề xây dựng hậu phương chiến lược miền Bắc vững mạnh làm hậu thuẫn cho cuộc đấu tranh của nhân dân ta ở miền Nam là quan điểm nhất quán, xuyên suốt của Đảng ta. Trong đó, Đảng xác định, phải xây dựng miền Bắc thực sự trở thành "nền gốc" cho sự nghiệp đấu tranh giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước; đồng thời, chỉ rõ mối quan hệ biện chứng giữa hậu phương với tiền tuyến, tính chất, nhiệm vụ của từng miền trong việc thực hiện mục tiêu chung, về vấn đề này, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III của Đảng (9-1960) chỉ rõ: Miền Bắc có vai trò quyết định nhất đối với toàn bộ sự nghiệp giải phóng miền Nam, thống nhất nước nhà; miền Nam có vai trò quyết định trực tiếp trong việc đánh đổ ách thống trị của đế quốc Mỹ và bè lũ tay sai...; xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc cũng chính là xây dựng hậu phương cho sự nghiệp giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước.
Từ nhận thức đúng đắn và xác định rõ vị trí, vai trò của từng miền trong cuộc đụng đầu lịch sử với đế quốc Mỹ, Đảng ta đã hình thành chủ trương, biện pháp lãnh đạo, chỉ đạo phù hợp để xây dựng, củng cố hậu phương chiến lược; gắn mọi hoạt động của hậu phương lớn miền Bắc với hoạt động của tiền tuyến lớn miền Nam; làm tròn nghĩa vụ của hậu phương - căn cứ địa cách mạng của cả nước.
Thực hiện chủ trương của Đảng, Bộ Chính trị giao cho Quân ủy Trung ương mở đường vận chuyển chiến lược trên bộ dọc theo dãy Trường Sơn và đường vận tải trên biển, nhằm chi viện sức người, sức của cho miền Nam. Con đường biển đánh dấu sự hình thành bằng chuyến tàu đầu tiên chở 30 tấn vũ khí của Đoàn 759 rời bến Đồ Sơn (Hải Phòng), cập bến Vàm Lũng (Cà Mau), ngày 19 tháng 10 năm 1962. Với sự quan tâm đặc biệt, Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi điện biểu dương và căn dặn: Đoàn 759 hãy nhanh chóng rút kinh nghiệm, tiếp tục vận chuyển nhanh, nhiều vũ khí cho đồng bào miền Nam đánh giặc, cho Nam - Bắc sớm sum họp một nhà.
Sự kiện chuyến tàu chở vũ khí đầu tiên bằng đường biển của Hải quân nhân dân Việt Nam, từ Hải Phòng vào đến Cà Mau đã chứng tỏ, quyết định của Bộ Chính trị và Quân ủy Trung ương mở con đường vận chuyển chiến lược trên biển, tổ chức hoạt động chi viện từ miền Bắc cho miền Nam bằng đường biển là đúng đắn, kịp thời. Từ đây, con đường vận chuyển chiến lược trên biển, mặc dù trải qua nhiều khó khăn, gian khổ, tổn thất, hy sinh, nhưng vẫn được duy trì, kết nối chặt chẽ, phối hợp nhịp nhàng giữa hai miền Nam - Bắc, tiền tuyến với hậu phương. Sự kết nối Bắc - Nam thực sự là biểu hiện sinh động của khối đại đoàn kết dân tộc, cùng phấn đấu vì mục tiêu giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc.
Có thể khẳng định rằng, suốt chiều dài của cuộc kháng chiến, ý thức sâu sắc vị trí, vai trò của mình, quân và dân ở hậu phương cũng như tiền tuyến, Bắc cũng như Nam, dưới sự lãnh đạo của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh vừa xây dựng và chiến đấu, thực hiện nhiệm vụ thiêng liêng "chống Mỹ, cứu nước", bảo vệ miền Bắc, giải phóng miền Nam thống nhất Tổ quốc. Con đường Hồ Chí Minh trên biển trong những năm tháng ấy đã góp phần xứng đáng vào quá trình kết nối chặt chẽ giữa hậu phương lớn với tiền tuyến lớn. Không chỉ có vậy, sự lớn mạnh của hậu phương miền Bắc xã hội chủ nghĩa và thắng lợi của công tác chi viện chiến trường chính là nguồn cổ vũ, động viên, khích lệ tinh thần đồng bào, chiến sĩ miền Nam vượt qua bao khó khăn, thử thách khốc liệt của chiến tranh, chiến đấu và chiến thắng kẻ thù xâm lược.
Ba là, đường Hồ Chí Minh trên biển thể hiện sự sáng tạo trong tổ chức, sử dụng các phương thức vận chuyển chi viện miền Nam.
Phương thức vận chuyển giữ vai trò quan trọng, nhất là trong điều kiện phương tiện, trang thiết bị kỹ thuật hạn chế, trong hoàn cảnh vừa phải chống chọi với sóng to, gió lớn của biển cả vừa vượt qua sự ngăn chặn quyết liệt của đối phương có trang bị phương tiện chiến đấu hiện đại. Ý thức sâu sắc vấn đề đó và thông qua nghiên cứu về khả năng phương tiện, con người và kinh nghiệm sau chuyến dùng thuyền từ Nam Bộ ra miền Bắc thành công, Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng quyết định tổ chức, sử dụng các loại tàu vận chuyển theo phương thức phù hợp, từ miền Bắc vận chuyển nhân lực, vật lực vào chiến trường Nam Bộ - nơi xa hậu phương nhất, sau đó phát triển ra chiến trường Khu 6 và Khu 5.
Về tổ chức, Bộ Quốc phòng thành lập đoàn 759 (23-10-1961) trên cơ sở Tiểu đoàn 603 (còn gọi là Tập đoàn đánh cá Sông Gianh), sau đó nâng quy mô và đổi tên thành Đoàn 125 (tương đương trung đoàn, 24-1-1964). Để bảo đảm hoàn thành nhiệm vụ, Đoàn 125 được tăng cường nhiều thuyền trưởng, thủy thủ, nhân viên kỹ thuật đào tạo cơ bản, hầu hết là đảng viên, đoàn viên, có sức khỏe, khả năng chịu đựng sóng gió biển tốt và bản lĩnh cách mạng kiên cường, xử lý khôn khéo, táo bạo các tình huống để giành thắng lợi trong từng chuyến đi.
Về phương tiện, từ buổi ban đầu, Đoàn 603 sử dụng thuyền gỗ, chạy bằng buồm, ta tiến lên tổ chức, xây dựng đội tàu gỗ gắn máy, sau đó là tàu sắt, nâng cao sức chở và tăng thêm về số lượng. Những con tàu của ta được cải dạng thành tàu đánh cá với những đặc điểm giống với ngư dân miền Nam, hoặc tàu khai thác hải sản, thậm chí cả tàu buôn của nước ngoài. Nhờ đó, những chuyến "tàu không số" của Hải quân tham gia vận chuyển vũ khí trên biển đã vượt qua các bãi đá ngầm, sóng gió hiểm nguy và sự ngăn chặn quyết liệt của kẻ thù, đưa hàng đến các bến ven biển Nam Bộ và Khu 5 an toàn.
Sau sự kiện Vũng Rô (Phú Yên, 24-2-1965), việc sử dụng những chuyến "tàu không số" vận chuyển bằng đường biển gặp nhiều trở ngại hơn do phải đối mặt với sự phong tỏa, bao vây, kiểm soát gắt gao của địch. Yếu tố bí mật, bất ngờ đã không còn, việc tổ chức, sử dụng tàu vận chuyển bằng đường biển phải chuyển sang phương thức mới cho phù hợp. Sau khi nghiên cứu tình hình, Đảng ủy Quân chủng Hải quân nhận định: Mặc dù vùng ven biển miền Nam, địch đã dùng ra-đa, tàu thuyền chiến đấu, máy bay kiểm soát chặt chẽ, song ở ngoài khơi xa (đường biển quốc tế) chúng vẫn còn sơ hở, vì thế, ta có thể lợi dụng để hoạt động. Yếu tố bí mật về con đường đi trên biển của ta không còn, nhưng từng chuyến đi, cách thả hàng, lối đi vào từng bến... đều do ta chủ động, nên vẫn có thể khiến địch bị bất ngờ. Trên cơ sở đó, Quân chủng xác định phương án vận chuyển theo phương thức mới: Đi xa bờ, xác định vị trí tàu bằng thiên văn (còn gọi là đi bằng phương pháp hàng hải thiên văn).
Thực hiện phương thức vận chuyển mới, Quân chủng-Hải quân sử dụng tàu đi xa bờ, xen lẫn vào dòng tàu buôn ngược xuôi ngoài biển Đông, nhiều lúc gặp khó khăn, tổn thất, do địch tăng cường vây ráp, đánh phá quyết liệt, song nhờ tổ chức phù hợp, khéo léo, kiên quyết, dũng cảm của cán bộ, chiến sĩ, ta đã đưa hàng nghìn cán bộ, vận chuyển hàng chục nghìn tấn vũ khí vào chiến trường bằng đường biển, đáp ứng kịp thời cho quân và dân miền Nam chiến đấu giành thắng lợi từng bước, tiến tới giành thắng lợi hoàn toàn cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước.
Thành công của những chuyến "tàu không số" vận chuyển chi viện miền Nam thể hiện sức sáng tạo độc đáo của bộ đội Hải quân nhân dân Việt Nam; biết chọn lựa phương thức vận chuyển phù hợp, hiệu quả và đó là nét đặc sắc trong điều kiện chiến tranh vô cùng gian khổ, ác liệt. Những phương thức vận tải đường biển linh hoạt, sáng tạo trong kháng chiến chống Mỹ đã đặt nền móng cho việc hình thành nghệ thuật vận tải quân sự trên biển và chắc chắn rằng, những kinh nghiệm quý báu của phương thức vận tải quân sự này sẽ còn nguyên giá trị vận dụng trong vận tải, bảo đảm chiến đấu và công tác cho lực lượng Hải quân nhân dân thực hiện nhiệm vụ bảo vệ chủ quyền biển đảo của Tổ quốc hiện nay và tiếp sau.
Bốn là, đường Hồ Chí Minh trên biển thể hiện việc phát huy cao độ nhân tố con người với bản lĩnh chính trị vững vàng, tinh thần chịu dựng gian khổ, hy sinh, sự mưu trí, dũng cảm hiếm có của cán bộ, thủy thủ "Đoàn tàu không số".
Đi vào cuộc trường chinh chống Mỹ, cứu nước, hành trang - vũ khí sắc bén của con người Việt Nam thời đại Hồ Chí Minh chính là niềm tin sắt son vào sự nghiệp cách mạng do Đảng và Bác Hồ lựa chọn. Niềm tin ấy của các thế hệ người Việt Nam được hun đúc, bồi đắp bằng sự quan tâm, chăm lo của Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh; được hấp thu, truyền thụ qua môi trường giáo dục xã hội chủ nghĩa, qua những biểu tượng, hình tượng của con người Việt Nam giàu lòng yêu nước, có ý thức sâu sắc về giá trị của độc lập, tự do, luôn sẵn sàng hy sinh, phấn đấu cho sự nghiệp đánh đuổi ngoại xâm, thống nhất non sông gấm vóc. Được dẫn dắt bởi đường lối kháng chiến đúng đắn, ý chí, nghị lực, quyết tâm trong mỗi con người, mỗi tập thể, mỗi lực lượng thực sự là thứ vũ khí tinh thần có ý nghĩa quyết định thành bại trên mỗi trận tuyến chống quân thù. Trên ý nghĩa đó, lực lượng vận tải quân sự đường biển đã thể hiện một bản lĩnh chính trị vững vàng, tinh thần chịu đựng gian khổ, hy sinh, sự mưu trí, dũng cảm hiếm có để hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được giao.
Không có bản lĩnh chính trị vững vàng thì không thể thực hiện được nhiệm vụ gian khó đặt ra, nhất là trong buổi đầu hình thành lực lượng vận tải quân sự đường biển, vấn đề soi đường, thông đường, tổ chức chuẩn bị phương tiện, bến bãi. Đó quả là quá trình tìm tòi, khảo nghiệm công phu, đồng thời là sự thử thách ý chí, quyết tâm của cả một tập thể, từ người chỉ huy cho đến thủy thủ, sự phối hợp ăn khớp giữa hậu phương và tiền tuyến. Và, không có tinh thần chịu đựng gian khổ, hy sinh, sự mưu trí, dũng cảm hiếm có thì khó có thể thực hiện được cuộc vượt biển vào Nam với bao hiểm nguy rình rập. Trên những con tàu nhỏ, trang thiết bị hạn chế, cán bộ, thủy thủ phải đối mặt với sóng to, gió lớn, với sự ngăn chặn gắt gao của quân thù đòi hỏi phải có tinh thần chịu đựng gian khổ, trong tình huống hiểm nghèo, phải chấp nhận hy sinh tính mạng để giữ bí mật của tuyến đường. Những con người can trường trong đội ngũ cán bộ, thủy thủ của "Đoàn tàu không số" trên tuyến vận tải quân sự Hồ Chí Minh trên biển, lúc đầu phần lớn quê ở các địa phương miền Nam tập kết ra Bắc, một số vốn quen với nghề đi biển, chịu đựng được sóng gió, điều khiển tàu chủ yếu bằng kinh nghiệm. Tuy nhiên, do yêu cầu nhiệm vụ, do quy mô vận chuyển phát triển, nên trong thành phần đội ngũ sĩ quan, thủy thủ, nhân viên kỹ thuật của đoàn vận tải sau này hầu hết được đào tạo cơ bản, là những đảng viên, đoàn viên, vừa có tri thức, sức khỏe, có khả năng chịu đựng gian khổ, bản lĩnh cách mạng kiên cường, vừa có quyết tâm cao, kinh nghiệm dày dặn. Đây chính là những cán bộ, chiến sĩ được đào tạo, rèn luyện, trưởng thành trong các cơ quan, đơn vị, nhà trường trên miền Bắc, trở thành nguồn lực quan trọng đảm đương nhiệm vụ nặng nề mà Đảng và nhân dân giao phó.
Trên những chuyến "tàu không số", nhiều cán bộ chỉ huy, thuyền trưởng, chính trị viên, thuyền phó đã thể hiện sự xử trí tài tình, mưu trí, điều khiển con tàu tiếp tục giữ vững hành trình vào Nam và đối phó linh hoạt với các tình huống xảy ra. Có thể kể ra đây những cán bộ như thế: đồng chí Hồ Đắc Thạnh, Nguyễn Văn Cứng, Lê Văn Thêm, Đinh Đạt, Phạm Vạn, Lê Quốc Thành, Nguyễn Hữu Phước, Trần Ngọc Ẩn... Các đồng chí ấy đã nêu những tấm gương mẫu mực về chủ nghĩa anh hùng cách mạng và trình độ hàng hải vững vàng, điều khiển những con tàu vượt qua các bãi đá ngầm, sóng gió hiểm nguy và nhất là sự phong tỏa ngăn chặn, đánh phá ác liệt của quân thù, đưa nhiều chuyến tàu chở vũ khí cập bến an toàn. Và cũng trong số đó, nhiều cán bộ, chiến sĩ cùng với những con tàu ra đi không trở lại. Khi gặp địch bao vây bốn phía, cán bộ và chiến sĩ trên tàu đã dũng cảm chiến đấu và để giữ bí mật cho con đường, họ hy sinh cả thân mình nơi biển cả mênh mông. Nêu tấm gương nghĩa liệt ấy là các đồng chí Đặng Văn Thanh, Nguyễn Phan Vinh, Nguyễn Văn Hiệu, Hồ Đức Thắng...
Có thể nói, suốt 14 năm ròng rã (1961-1975) thực hiện vận chuyển chiến lược bằng đường biển chi viện miền Nam, cán bộ, chiến sĩ Hải quân nhân dân đã lập nhiều chiến công xuất sắc, nêu cao chủ nghĩa anh hùng cách mạng và tạo dựng nên một con đường huyền thoại trên biển mang tên Hồ Chí Minh - vị Cha già kính yêu của bộ đội Hải quân nhân dân Việt Nam nói riêng, của Quân đội nhân dân Việt Nam nói chung.
Suy cho cùng, thời đại Hồ Chí Minh đã tạo ra con người Việt Nam và chính con người Việt Nam đã viết nên những trang sử hào hùng của thời đại Hồ Chí Minh. Thắng lợi của sự nghiệp kháng chiến chống Mỹ, cứu nước nói chung và thành công của công cuộc chi viện chiến trường bằng đường Hồ Chí Minh trên biển nói riêng thực sự là biểu trưng sinh động cho giá trị, phẩm chất và hào khí bất khuất của con người Việt Nam. Đây chính là nhân tố trung tâm, quyết định tạo nên sức mạnh phi thường để nhân dân Việt Nam đương đầu và đánh thắng quân xâm lược Mỹ.
Hơn một phần ba thế kỷ đã qua, nhưng âm hưởng của một thời đánh Mỹ, gian lao mà anh dũng, vẫn còn đọng mãi trong ký ức của nhiều thế hệ người Việt Nam. Miền ký ức và những trang sử liệt oanh về những con tàu nhỏ vượt sóng to, gió lớn, vượt qua mưa bom bão đạn của quân thù, mang theo niềm tin, khát vọng cháy bỏng về độc lập, tự do, thống nhất giang sơn gấm vóc của cả dân tộc hẳn rằng sẽ vẫn mãi là điểm tựa để mỗi thế hệ người Việt Nam hôm nay ý thức sâu sắc hơn về trách nhiệm với Tổ quốc, góp sức xây dựng đất nước giàu mạnh và bảo vệ vững chắc thành quả mà các thế hệ cha anh đã đổ xương máu để giành được.
… Chúng ta bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đối với công lao to lớn, sự hy sinh cao cả của các thế hệ cán bộ, chiến sĩ "Đoàn tàu không số" của tuyến vận tải quân sự - đường Hồ Chí Minh trên biển - một trong những nhân tố quyết định thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước. Những thành tích và bài học kinh nghiệm về mở đường Hồ Chí Minh trên biển trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước là di sản vô cùng quý báu, phải được giữ gìn và tiếp tục phát huy, phát triển trong những điều kiện mới…
NGUYỄN TUẤN DŨNG. Xây dựng bản lĩnh chính trị và ý chí quyết chiến, quyết thắng của bộ đội tuyến vận tải chiến lược Hồ Chí Minh trên biển trong kháng chiến chống Mỹ - bài học còn nguyên giá trị trong sự nghiệp xây dựng quân đội hiện nay / Nguyễn Tuấn Dũng // Sách Huyền thoại đường Hồ Chí Minh trên biển. - H.: Lao động, 2011. - Tr. 34-42
Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, đường Hồ Chí Minh trên biển là một nhân tố quan trọng.
Đường Hồ Chí Minh trên biển, một biểu tượng sáng ngời về tài thao lược và nghệ thuật chỉ đạo chiến tranh nhân dân rất độc đáo, sáng tạo của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, của Quân ủy Trung ương; là đỉnh cao của chủ nghĩa anh hùng cách mạng Việt Nam, hiện thân của lòng quả cảm, trí thông minh, ý chí sắt đá, tình cảm thiêng liêng đối với miền Nam ruột thịt; là hiện thân của khát vọng độc lập, tự do, thống nhất đất nước; là một kỳ tích độc đáo, một huyền thoại và mãi mãi là niềm tự hào của Quân đội nhân dân và dân tộc Việt Nam anh hùng.
Để có được huyền thoại về đường Hồ Chí Minh trên biển, một trong những bài học kinh nghiệm quý báu được rút ra là phải thường xuyên chăm lo xây dựng bản lĩnh chính trị, ý chí quyết chiến, quyết thắng cho mọi cán bộ, chiến sĩ tuyến vận tải chiến lược trong suốt cuộc chiến tranh. Đây là bài học quan trọng hàng đầu và có ý nghĩa quyết định mọi thắng lợi trong tổ chức, xây dựng tuyến vận tải chiến lược trên biển.
Quán triệt sâu sắc quan điểm chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đồng thời xuất phát từ thực tiễn tổ chức và hoạt động tuyến vận tải chiến lược trên biển, Đảng, Chủ tịch Hồ Chí Minh, Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng, Tổng cục Chính trị, Quân chủng Hải quân và các cấp ủy, chỉ huy đã không ngừng chăm lo xây dựng bản lĩnh chính trị, ý chí quyết chiến, quyết thắng cho bộ đội tuyến vận tải chiến lược trên biển ở mọi lúc, mọi nơi, trước mỗi lần đi biển, sau khi hoàn thành nhiệm vụ, khi có sự bao vây, phong tỏa gắt gao của kẻ thù cũng như khi có bão tố, mưa sa, đặc biệt là trước những tổn thất về người, phương tiện, hàng hóa... Nhờ đó, bản lĩnh chính trị của bộ đội ngày càng vững vàng; ý chí, quyết tâm khắc phục mọi khó khăn, gian khổ, quyết chiến, quyết thắng ngày càng cao để đưa những chuyến hàng tới nơi, chi viện kịp thời cho chiến trường miền Nam. Thành công trong xây dựng bản lĩnh chính trị và ý chí quyết chiến, quyết thắng cho bộ đội tuyến vận tải chiến lược đường Hồ Chí Minh trên biển trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước là kết quả tổng hợp của nhiều yếu tố, trong đó nổi bật là:
Một là, thường xuyên coi trọng công tác giáo dục chính trị, lãnh đạo tư tưởng, làm cho cán bộ, chiến sĩ giác ngộ sâu sắc mục tiêu, lý tưởng chiến đấu, nắm vững chức năng, nhiệm vụ của tuyến vận tải biển trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước.
Bản lĩnh chính trị và ý chí quyết chiến, quyết thắng của bộ đội ta là nội dung cơ bản, là một phẩm chất chính trị tinh thần, biểu hiện cụ thể của chủ nghĩa yêu nước và nó đã trở thành biểu tượng rực rỡ của chủ nghĩa anh hùng cách mạng Việt Nam. Bản lĩnh chính trị và ý chí quyết chiến, quyết thắng của cán bộ, chiến sĩ đường Hồ Chí Minh trên biển được xây dựng trên cơ sở giác ngộ mục tiêu lý tưởng chiến đấu; lòng căm thù giặc, tình yêu Tổ quốc, danh dự và khát vọng chiến thắng, biểu tượng thành niềm tin thắng lợi, thành năng lực suy nghĩ và hành động, thành sức mạnh để chiến thắng kẻ thù. Trong cuộc chiến đấu bảo đảm vận tải gian khổ và ác liệt, cán bộ, chiến sĩ đường Hồ Chí Minh trên biển đã nêu cao ý chí chiến đấu, luôn giữ vững niềm tin sắt đá vào sự lãnh đạo của Đảng, vào thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước. Đó chính là động lực chủ yếu thúc đẩy cán bộ, chiến sĩ đem hết sức lực, trí tuệ, khả năng khắc phục mọi khó khăn, gian khổ, hoàn thành mọi nhiệm vụ được giao.
Ngay từ khi quyết định mở tuyến vận tải chiến lược Hồ Chí Minh trên biển, từ Quân ủy Trung ương đến cấp ủy các đơn vị tham gia trực tiếp tuyến vận tải Hồ Chí Minh trên biển đã tiến hành công tác giáo dục chính trị, lãnh đạo tư tưởng một cách thường xuyên, bền bỉ, làm cho mọi quân nhân thấu suốt đường lối chính trị, quân sự của Đảng; nhận rõ vị trí quan trọng của tuyến đường nối liền hậu phương lớn đối với tiền tuyến lớn; ý nghĩa chiến lược của nhiệm vụ đảm bảo vận tải trong chiến tranh; động viên cán bộ, chiến sĩ nêu cao quyết tâm, ý thức trách nhiệm sẵn sàng nhận và hoàn thành tốt nhiệm vụ. Đặc biệt, coi trọng giáo dục cho cán bộ, chiến sĩ, quán triệt tư tưởng chỉ đạo: kiên quyết và liên tục tiến công địch trên mặt trận vận tải, phát huy mọi khả năng, mọi lực lượng và tìm mọi cách bảo đảm vận chuyển vũ khí, trang bị an toàn tới đích. Mặt khác, công tác giáo dục chính trị, lãnh đạo tư tưởng luôn chú trọng giáo dục tinh thần yêu nước, lòng căm thù giặc, truyền thống chống ngoại xâm của dân tộc, tinh thần vì miền Nam ruột thịt, qua đó không ngừng củng cố bản lĩnh chính trị và ý chí quyết chiến, quyết thắng cho mọi cán bộ, chiến sĩ.
Nhìn lại lịch sử, trong quá trình thực hiện nhiệm vụ, có những thời điểm địch đánh phá cực kỳ ác liệt, các lực lượng vận tải đã thực hiện nhiệm vụ với tinh thần “Đánh địch mà đi, mở đường mà tiến” để kịp đưa những chuyến hàng chở đầy vũ khí vào cho quân và dân miền Nam chiến đấu. Công tác giáo dục chính trị, lãnh đạo tư tưởng đã đi sâu vào các đối tượng, các nhiệm vụ và phương thức hoạt động bảo đảm vận tải để động viên cán bộ, chiến sĩ phát huy cao độ khả năng sáng tạo, tinh thần khắc phục khó khăn, gian khổ, sẵn sàng chấp nhận hy sinh, lấy mục tiêu hoàn thành nhiệm vụ là trên hết. Thông qua sử dụng nhiều hình thức giáo dục đa dạng, phong phú, hiệu quả, lãnh đạo, chỉ huy các cấp đã tổ chức quán triệt các nghị quyết của Đảng, những chỉ thị của cấp trên tới từng cán bộ, chiến sĩ trước mỗi chuyến đi; thường xuyên tổ chức các phong trào thi đua với nội dung sinh động, vừa cổ vũ ý chí quyết chiến, quyết thắng vừa hướng dẫn hành động cụ thể nhằm thực hiện mục tiêu nhiệm vụ bảo đảm cho tuyến vận tải chiến lược trên biển thắng lợi; đặc biệt chú trọng nêu gương những cán bộ, chiến sĩ kiên cường, dũng cảm, mưu trí, sáng tạo ứng phó với mọi tình huống, vượt qua gian khổ, bất chấp hiểm nguy để đảm bảo an toàn, bí mật cho những chuyến hàng và con đường huyền thoại Hồ Chí Minh trên biển. Trong những thời điểm khó khăn, trước những đòi hỏi cấp bách, khẩn trương của nhiệm vụ bảo đảm vận tải, vai trò của các tổ chức đảng, cơ quan chính trị, cán bộ chính trị đã không ngừng được nâng cao, kịp thời đề ra những yêu cầu sát với từng đơn vị, từng bộ phận, từng con tàu, làm cho cán bộ, chiến sĩ nhận rõ trách nhiệm của mình, nỗ lực vượt qua những khó khăn gian khổ. Nhờ đó, bản lĩnh chính trị, ý chí quyết chiến, quyết thắng của bộ đội đường Hồ Chí Minh trên biển không ngừng được củng cố và giữ vững.
Hai là, thường xuyên coi trọng củng cố kiện toàn cấp ủy, tổ chức đảng, đội ngũ cán bộ các cấp, phát huy vai trò gương mẫu của cán bộ chủ trì trong mọi hoạt động, thực sự là những người tiên phong về ý chí và hành động.
Nhiệm vụ vận tải đường biển chi viện cho chiến trường miền Nam có ý nghĩa chiến lược quan trọng, có tính chất đặc biệt khó khăn, phức tạp, gian khổ và hình thức hoạt động bí mật trong điều kiện kẻ địch mạnh hơn ta về phương tiện trang bị kỹ thuật. Hơn nữa, do đặc điểm của tổ chức và công tác của lực lượng vận tải biển là lấy tàu làm đơn vị cơ bản, làm nhiệm vụ độc lập trên biển nên yêu cầu phải thường xuyên củng cố kiện toàn cấp ủy, chi bộ, đội ngũ cán bộ các cấp, phát huy vai trò gương mẫu của cán bộ chủ trì trong mọi hoạt động, thực sự là những người tiên phong về ý chí và hành động. Đó là vấn đề có ý nghĩa vô cùng quan trọng để xây dựng bản lĩnh chính trị, ý chí quyết chiến, quyết thắng cho bộ đội.
Thực tế quá trình tổ chức thực hiện hành trình của các tàu trên tuyến đường Hồ Chí Minh trên biển cho thấy, sự chú trọng chăm lo xây dựng chi bộ vững mạnh toàn diện đã làm cho các chi bộ thực sự là hạt nhân lãnh đạo trên các con tàu, lãnh đạo đơn vị đoàn kết, thống nhất ý chí và hành động, phát huy được ý chí, quyết tâm chiến đấu của mỗi cán bộ, chiến sĩ, chịu đựng mọi hy sinh gian khổ, khắc phục khó khăn để hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ. Trong những tình huống khó khăn, phức tạp, căng thẳng phải vượt lên sóng to, gió lớn; đấu trí với địch để bảo vệ tàu; hoạt động dài ngày trên biển... các chi bộ và đội ngũ cán bộ chủ trì đã nêu cao tinh thần cách mạng tiến công, giữ vững quyết tâm chiến đấu, mưu trí, linh hoạt, lãnh đạo đơn vị kiên trì, bền bỉ vượt qua mọi hiểm nguy, thực hiện đúng ý định, chủ trương, phương châm chỉ đạo của cấp trên. Những hiện tượng lỏng lẻo về kỷ luật, về quản lý điều hành, về phối hợp hiệp đồng dẫn đến hậu quả gây tổn thất về người và của, ảnh hưởng trực tiếp đến các chiến trường đã được cấp ủy, tổ chức đảng kịp thời làm rõ nguyên nhân và đề ra biện pháp khắc phục trên các mặt công tác tư tưởng, tổ chức, chính sách và kỹ thuật để làm chuyển biến tình hình. Nhờ thực hiện tốt những công tác đó mà bản lĩnh chính trị và ý chí quyết tâm chiến đẩu của bộ đội được củng cố một cách vững chắc.
Ba là, phát huy cao độ tinh thần tự lực, tự cường, nắm vững và sử dụng tốt cơ sở vật chất kỹ thuật, tích cực bồi dưỡng nâng cao trình độ kỹ thuật chiến thuật của cán bộ, chiến sĩ.
Thực tiễn trên tuyến đường Hồ Chí Minh trên biển cho thấy, chỉ có bản lĩnh chính trị và ý chí chiến đấu kiên cường mới có thể phát huy được uy lực của vũ khí trang bị và vận dụng được mọi khả năng để thực hiện thắng lợi nhiệm vụ bảo đảm vận tải hàng tới đích. Nếu không có trình độ trí tuệ, năng lực làm chủ vũ khí, trang bị thì dù có tinh thần chiến đấu cao cũng khó giành thắng lợi, có khi còn bị tổn thất nặng nề. Vì vậy, dám đánh phải đi đôi với biết đánh và biết thắng thì mới củng cố, giữ vững bản lĩnh chính trị và ý chí quyết chiến, quyết thắng của cán bộ, chiến sĩ.
Chiến tranh ngày càng phát triển, đòi hỏi của chiến trường ngày càng cao, nhiệm vụ của tuyến vận tải chiến lược trên biển ngày càng nặng nề, khẩn trương trong khi địch đánh phá vô cùng khốc liệt hòng cắt đứt tuyến đường Hồ Chí Minh trên biển. Để đối phó thắng lợi với những thủ đoạn đánh phá của địch, các cấp uỷ đảng đã coi trọng công tác giáo dục, động viên cán bộ, chiến sĩ ra sức học tập, rèn luyện để nâng cao bản lĩnh chính trị, trình độ kỹ chiến thuật, làm chủ những vũ khí và phương tiện kỹ thuật; mở rộng dân chủ, phát huy trí tuệ của cán bộ, chiến sĩ giải quyết đúng đắn các vấn đề của thực tiễn chiến đấu đặt ra để vừa tiêu diệt được địch, vừa hạn chế đến mức thấp nhất tổn thất của ta; thực hiện tốt việc phối hợp với công tác tham mưu, hậu cần, kỹ thuật, phát huy mọi khả năng, kết hợp mọi phương thức vận tải thường xuyên với vận tải cho các chiến dịch quy mô lớn dài ngày nhằm đẩy nhanh tốc độ và quy mô vận chuyển phục vụ kịp thời các yêu cầu của chiến đấu, các kế hoạch chiến lược của chiến trường. Nhờ đó, cán bộ, chiến sĩ đã nêu cao ý thức tự lực, tự cường, làm chủ con tàu và vũ khí, trang bị, chủ động nắm bắt tình hình, thông minh, linh hoạt trong xử lý mọi tình huống, khắc phục khó khăn tìm ra những phương thức vận chuyển độc đáo, nhiều nhất, nhanh nhất, chi viện sức người, sức của cho miền Nam. Mỗi khi địch đánh phá ác liệt hoặc sử dụng những thủ đoạn thâm độc mới, thì cán bộ, chiến sĩ đường Hồ Chí Minh trên biển lại sáng tạo ra những phương thức vận chuyển mới: Địch phong toả gần bờ, ta đi vùng biển xa; địch phong toả đường biển dài, ta đi phân đoạn, đồng thời khéo léo kết hợp nguỵ trang nghi binh, đối sách khôn khéo, táo bạo, bí mật, bất ngờ thọc sâu vào bến trong các kênh rạch làng xã của nhân dân, nhanh chóng tổ chức cùng lực lượng ở bến khẩn trương bốc hàng xong là rút ngay để giữ bí mật bến bãi, bí mật con đường. Qua mỗi chuyến đi, mỗi chặng, mỗi tình huống nảy sinh... đều được lãnh đạo, chỉ huy mỗi con tàu kịp thời rút kinh nghiệm với tinh thần tự phê bình và phê bình nghiêm túc, nâng cao trình độ kỹ, chiến thuật, bản lĩnh chính trị, ý chí quyết chiến, quyết thắng của cán bộ, chiến sĩ.
Bốn là, quán triệt sâu sắc quan điểm phát huy sức mạnh tổng hợp của chiến tranh nhân dân trong xây dựng bản lĩnh chính trị và ý chí quyết chiến, quyết thắng của bộ đội.
Bản lĩnh chính trị và ý chí quyết chiến, quyết thắng của bộ đội tuyến vận tải chiến lược Hồ Chí Minh trên biển được xây dựng và phát huy sức mạnh còn do được sự chở che, nuôi dưỡng, đùm bọc của nhân dân các địa phương ven biển. Từ những chuyến vượt biển đầu tiên của các đội thuyền Cà Mau, Trà Vinh, Bến Tre, Bà Rịa - Vũng Tàu cho đến lúc hình thành "Tập đoàn đánh cá Sông Gianh" và sau này là Đoàn 759, Đoàn 125, tuyến vận tải đường biển vẫn nằm trong lòng nhân dân. Có nhân dân con đường mới được khai thông, mới giữ được bí mật trong một khoảng thời gian dài, những chuyến hàng mới có thể giải phóng được nhanh gọn, những con tàu "không số" mới có thể vào Nam ra Bắc một cách thông suốt, an toàn.
Quán triệt đường lối chiến tranh nhân dân của Đảng, các đơn vị được giao nhiệm vụ trên tuyến vận tải chiến lược Hồ Chí Minh trên biển đã thường xuyên giáo dục cán bộ, chiến sĩ tinh thần vì nhân dân mà chiến đấu và luôn dựa vào dân để xây dựng và chiến đấu. Trong mọi tình huống, hoàn cảnh luôn chủ động giữ mối liên hệ mật thiết với cấp uỷ đảng, chính quyền, các đoàn thể, động viên, tổ chức nhân dân, phát huy sức mạnh đoàn kết quân dân vào thực hiện nhiệm vụ bảo đảm vận tải; đáp ứng mọi yêu cầu của tiền tuyến lớn miền Nam. Vì thế, dù phải đương đầu với khó khăn thử thách về nhiều mặt, nhân dân các địa phương ven biển trên tuyến đường đi qua đã hết lòng thương yêu, giúp đỡ cán bộ, chiến sĩ, sẵn sàng hy sinh tính mạng và tài sản để bảo vệ, che chở và tạo điều kiện tốt nhất cho cán bộ, chiến sĩ đường Hồ Chí Minh trên biển hoàn thành nhiệm vụ vận chuyển. Đáp lại tấm lòng thương yêu, đùm bọc, che chở của nhân dân, cán bộ, chiến sĩ đường Hồ Chí Minh trên biển đã chiến đấu quên mình, chịu đựng gian khổ, hy sinh để bảo vệ dân. Sự gắn bó máu thịt với nhân dân là nguồn sức mạnh to lớn để cán bộ, chiến sĩ xây dựng bản lĩnh chính trị vững vàng, ý chí quyết tâm vượt qua mọi khó khăn, thử thách, hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ được giao, làm nên kỳ tích huyền thoại đường Hồ Chí Minh trên biển trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước.
Chiến tranh ngày càng lùi xa, đất nước ta đang hoà bình và đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hóa vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh theo đường lối đổi mới của Đảng. Song, con đường huyền thoại Hồ Chí Minh trên biển với bao chiến công và bài học kinh nghiệm vẫn còn nguyên giá trị cần được phát huy trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Ngày nay, để xây dựng bản lĩnh chính trị và ý chí quyết chiến, quyết thắng cho bộ đội đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ cách mạng trong tình hình mới, chúng ta phải biết biến những giá trị lịch sử truyền thống thành sức mạnh của hiện tại, biến những bài học kinh nghiệm của ngày hôm qua thành một phần quan trọng của quá trình hoạt động và xây dựng Quân đội nhân dân Việt Nam cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại. Vì vậy, đòi hỏi phải đặc biệt coi trọng công tác giáo dục chính trị, lãnh đạo tư tưởng, xây dựng củng cố niềm tin cho bộ đội. Chủ động chuẩn bị về tinh thần, tư tưởng cho cán bộ, chiến sĩ sẵn sàng vượt qua những tình huống, những khó khăn ác liệt nhất để giành thắng lợi. Làm cho bản lĩnh chính trị và ý chí quyết chiến, quyết thắng của quân đội ta thực sự trở thành giá trị và tinh thần to lớn thôi thúc hành động, cách mạng của cán bộ, chiến sĩ. Trong tình hình hiện nay, toàn quân phải quán triệt và thực hiện tốt Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng, Nghị quyết Đại hội Đảng bộ Quân đội lần thứ IX, nhất là về công tác tư tưởng, lý luận. Theo đó, công tác tư tưởng, lý luận trong quân đội phải được tiến hành một cách chủ động, toàn diện, định hướng kịp thời tư tưởng của cán bộ, chiến sĩ trước mọi diễn biến phức tạp của tình hình. Dù tình hình thế giới có phức tạp đến đâu, đất nước có thể còn phải đối mặt với nhiều khó khăn, thử thách nhưng cán bộ, chiến sĩ vẫn kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, tuyệt đối trung thành với Tổ quốc, với Đảng, Nhà nước và nhân dân, được nhân dân tin yêu; đứng vững trước mọi khó khăn thử thách, có bản lĩnh chính trị vững vàng, năng lực hành động sáng tạo, phẩm chất đạo đức trong sáng lành mạnh.
Trong xây dựng quân đội nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại đòi hỏi phải bám sát thực tiễn sẵn sàng chiến đấu và huấn luyện chiến đấu, động viên cán bộ, chiến sĩ tiến quân vào khoa học kỹ thuật quân sự, ra sức học tập rèn luyện để nâng cao bản lĩnh chiến đấu, trình độ kỹ chiến thuật, làm chủ vũ khí, phương tiện chiến đấu hiện đại này càng được tăng cường, thấy rõ những điểm mạnh và hạn chế vũ khí trang bị kỹ thuật của địch. Kiên quyết đấu tranh với những nhận thức tư tưởng sai trái tách rời hoặc đối lập giữa chính trị với kỹ thuật trong điều kiện của cuộc cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại.
Thường xuyên coi trọng củng cố kiện toàn cấp uỷ, tổ chức đảng, đội ngũ cán bộ các cấp, coi đó là vấn đề then chốt trong xây dựng bản lĩnh chính trị và ý chí quyết chiến, quyết thắng của quân đội. Đẩy mạnh hơn nữa cuộc vận động xây dựng và chỉnh đốn Đảng, "Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh", bảo đảm cho Đảng bộ quân đội trong sạch vững mạnh, có sức chiến đấu cao, có khả năng chủ động ứng phó hiệu quả với mọi biến động phức tạp của tình hình, trong bất cứ tình huống nào cũng lãnh đạo đơn vị thực hiện nhiệm vụ theo đúng đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà nước. Trước âm mưu, thủ đoạn "diễn biến hòa bình", kết hợp với bạo loạn lật đổ của các thể lực thù địch và trước những diễn biến phức tạp trên biển Đông; đội ngũ cán bộ cũng phải có bản lĩnh chính trị vững vàng, ý chí quyết tâm cao, có năng lực toàn diện, gương mẫu về đạo đức lối sống, có tính đảng cao, tính chủ động, sáng tạo, luôn đề cao trách nhiệm cá nhân trong thực hiện chức trách, nhiệm vụ. Cần đặc biệt quan tâm xây dựng đội ngũ cán bộ chỉ huy, chính ủy, chính trị viên cả về cơ cấu, số lượng, phẩm chất, năng lực, phong cách công tác theo đúng tinh thần Nghị quyết 51 của Bộ Chính trị khoá IX về tiếp tục hoàn thiện cơ chế lãnh đạo của Đảng, thực hiện chế độ một người chỉ huy gắn với thực hiện chế độ chính uỷ, chính trị viên trong Quân đội nhân dân Việt Nam.
Tăng cường giáo dục cho mọi cán bộ, chiến sĩ thấm nhuần sâu sắc quan điểm vì nhân dân phục vụ và chiến đấu, truyền thống trung với Đảng, hiếu với dân của "Bộ đội Cụ Hồ". Phải thường xuyên đẩy mạnh công tác dân vận, củng cố mối quan hệ gắn bó máu thịt giữa quân đội với nhân dân. Phối hợp với cấp uỷ, chính quyền địa phương xây dựng "thế trận lòng dân", thế trận quốc phòng toàn dân gắn với thế trận an ninh nhân dân, giữ gìn an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội. Kiên quyết đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu, thủ đoạn phá hoại, chia rẽ Đảng với dân, Nhà nước với dân, quân đội với dân của các thế lực thù địch. Đó là những hành động hết sức thiết thực và sinh động để xứng danh với các thế hệ cha anh đã làm nên huyền thoại đường vận tải chiến lược trên biển mang tên Chủ tịch Hồ Chí Minh kính yêu.
ĐỖ ĐỨC TUỆ. Đường Hồ Chí Minh trên biển - nơi tỏa sáng chủ nghĩa yêu nước, quyết tâm thống nhất đất nước của toàn dân tộc Việt Nam / Đỗ Đức Tuệ // Sách Huyền thoại đường Hồ Chí Minh trên biển. - H.: Lao động, 2011. - Tr. 53-60
Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của dân tộc ta, có hai con đường được ghi danh vào lịch sử vĩ đại của dân tộc, đó là đường Trường Sơn và đường Hồ Chí Minh trên biển. Đường Hồ Chí Minh trên biển là kỳ tích lớn lao của dân tộc, là biểu tượng sáng chói về chủ nghĩa yêu nước Việt Nam, về ý chí kiên cường quyết tâm thống nhất đất nước của toàn dân tộc… Khi nhắc đến con đường này, chúng ta tự hào rằng: Quân đội ta, nhân dân ta, thông qua việc mở đường trên biển, đã chứng minh cho thế giới thấy được, trong cuộc kháng chiến thần kỳ của dân tộc, chủ nghĩa yêu nước tỏa sáng ở mọi lúc, mọi nơi trên đất Việt Nam, mà đường Hồ Chí Minh trên biển là một biểu tượng cao đẹp.
Sau khi Hiệp định Giơ-ne-vơ (1954) được ký kết, đất nước bị tạm thời chia cắt làm hai miền. Miền Bắc được hoàn toàn giải phóng, miền Nam lại phải tiếp tục trường kỳ kháng chiến. Trong những ngày gian lao đó, đồng bào miền Nam ruột thịt thiếu thốn nhiều thứ, trong đó thứ thiếu nhất là vũ khí chiến đấu cho lực lượng vũ trang. Để giải quyết khó khăn này, ngày 23 tháng 10 năm 1961, Đoàn 759 ra đời và gấp rút chuẩn bị mọi mặt cho mở đường vận chuyển chiến lược trên biển nhằm cung cấp vũ khí cho Nam Bộ. Từ đó, đường vận tải chiến lược trên biển và cũng là đường Hồ Chí Minh trên biển, được hình thành. Đường Hồ Chí Minh trên biển cùng với đường Trường Sơn trên bộ là hai tuyến đường huyết mạch trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước. Con đường này đã tượng trưng cho ý chí sắt đá, lòng quả cảm và trí sáng tạo của dân tộc Việt Nam, một dân tộc nhỏ, nhưng dám đương đầu với tên đế quốc hùng mạnh nhất thế giới lúc bấy giờ.
Chủ nghĩa yêu nước Việt Nam được hình thành, phát triển trong lịch sử dựng nước và giữ nước, đặc biệt khi đất nước bị kẻ thù xâm lược thì chủ nghĩa yêu nước như làn gió thổi bùng lên ngọn lửa kháng chiến của cả dân tộc. Khi cả nước bước vào cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, chủ nghĩa yêu nước biểu hiện ở: Quyết tâm giành độc lập, tự do cho dân tộc, quyết tâm kháng chiến giải phóng đất nước, cho dù đường đi có muôn vàn phong ba, bão tố và kẻ thù xâm lược giàu mạnh hơn ta rất nhiều; lòng kiên định của mỗi con người Việt Nam tự nguyện tham gia trên con đường gian khổ nhưng vẫn hy vọng và tin tưởng vào tương lai sáng lạn và ngày toàn thắng của cả dân tộc; những bộ óc thông minh, sáng suốt của những cán bộ lãnh đạo của Đảng và quân đội ta ngày đêm trăn trở tìm phương thức mở đường vận tải chiến lược trên biển để phục vụ cho cuộc kháng chiến trường kỳ của dân tộc. Không những thế, lòng yêu nước còn thể hiện qua những người tham gia mở đường và vận chuyển trên chiến trường. Họ dám xả thân vì cuộc kháng chiến của dân tộc mà không đòi hỏi điều gì ngoài ước muốn đất nước được độc lập, thống nhất. Họ yêu nước bằng những đóng góp cụ thể của mình, âm thầm chấp nhận mọi thử thách, gian nguy cho con đường tồn tại với những chuyến hàng vào bến. Những hình ảnh tươi đẹp đó đã tỏa sáng chủ nghĩa yêu nước Việt Nam mà đường Hồ Chí Minh trên biển là một trong những biểu hiện chói ngời nhất.
Dưới sự chỉ đạo của Trung ương Đảng, sự quyết tâm sâu sát của Bác Hồ, những ngày đầu tìm cách mở đường trên biển, ta gặp muôn vàn khó khăn: Không có người thạo nghề đi biển dài ngày, thiếu phương tiện chuyên chở và chưa có bên nhận hàng ở các tỉnh ven biển phía Nam là những thách thức lớn. Nhưng với ý chí kiên cường của dân tộc có truyền thống mấy nghìn năm dựng nước và giữ nước, tinh thần yêu nước nồng nàn và khát vọng giải phóng Tổ quốc khỏi ách ngoại xâm, Đảng ta, quân đội ta đã chỉ đạo thành công việc mở đường vận tải trên biển. Con đường đã hình thành và bắt đầu những chuyến đi thắng lợi cho dù kết quả vận chuyển những chuyến đầu còn quá ít ỏi. Tập san Quốc phòng của quân đội Sài Gòn, số 18 năm 1968, viết: "Việt cộng chở vũ khí vào Nam bằng đường biển là mạo hiểm, cuồng tín, không sao hiểu nổi". Đô đốc Hải quân quân đội Sài Gòn là Nguyễn Hữu Chí viết: "Đối phương sử dụng biển khơi một cách thành thạo, mà việc di hành vào điểm đến càng tỏ ra đặc sắc hơn, làm kinh ngạc không ít chuyên viên đi biển". Nhiều học giả trên thế giới, những tướng lĩnh nước ngoài có kinh nghiệm chuyên sâu về vận tải chiến lược trong chiến tranh và cả những khách tham quan du lịch đến Việt Nam, khi tìm hiểu về đường Hồ Chí Minh trên biển, họ đều có cảm nhận kinh ngạc xen lẫn khâm phục chúng ta về con đường và những người làm ra con đường đó.
Trước hết, là sự quan tâm sâu sát của Bác Hồ về con đường và những người tham gia hoạch định mở đường. Cùng với Bác, các đồng chí trong Bộ Chính trị như đồng chí Lê Duẩn, Phạm Văn Đồng, Võ Nguyên Giáp và các đồng chí khác trong Trung ương, đều dốc hết tâm sức để theo dõi, chỉ đạo sâu sát quá trình mở đường và duy trì các hoạt động của con đường suốt 12 năm. Tháng 10 năm 1962, khi những chuyến đi đầu tiên được khai thông, những tấn vũ khí đầu tiên đưa vào được Cà Mau, Bác Hồ rất vui mừng và Người đã gửi thư khen ngợi, động viên cán bộ, chiến sĩ đang làm nhiệm vụ. Bức thư của Bác có đoạn viết: "... Hãy nhanh chóng rút kinh nghiệm, vận chuyển nhanh hơn nữa, nhiều hơn nữa vũ khí cho đồng bào miền Nam giết giặc".
Không chỉ có Bác và Trung ương Đảng, những cán bộ, chiến sĩ mở đường trong những ngày đầu và sau này trực tiếp hoạt động nhiều năm trên con đường đó cũng thể hiện lòng yêu nước thiết tha, chí căm thù giặc sâu sắc. Họ đã gạt bỏ mọi riêng tư, hết lòng; hết sức vì sự tồn tại và phát triển của con đường mà họ hiểu rõ: Có thể bị địch bắt hoặc hy sinh khi làm nhiệm vụ, nhưng vẫn quyết tâm sống chết vì con đường. Họ là những nhân chứng cụ thể về lòng yêu nước mà Bác Hồ và Đảng ta đã truyền cho họ. Nói đến những cán bộ, chiến sĩ của đường Hồ Chí Minh trên biển, ta không thể không nhắc đến các đồng chí Bông Văn Dĩa, Hai Tranh, Tư Phước, Bảy Cứu và nhiều đồng chí khác, là con em đồng bào miền Nam vượt biển ra Bắc để chuẩn bị cho những chuyến đi mở đường đầu tiên của Đoàn 759. Nhiều chuyến đi thành công trong những năm tháng sau này đều do các cán bộ, đảng viên trung kiên của Đảng, là con em đồng bào Nam Bộ và các cán bộ, chiến sĩ của Đoàn 759 - Đoàn 125 Hải quân đảm nhiệm. Những năm đầu đánh Mỹ, thông qua đường vận tải trên biển, ta đã đưa được hàng trăm tấn vũ khí vào miền Nam. Nhờ có vũ khí chuyển vào, ta mới có chiến thắng vang dội ở Ấp Bắc (1963), Bình Giã (1964), Vạn Tường, Dương Liễu, Bầu Bàng (1965)..., làm nức lòng đồng bào, chiến sĩ cả nước, kẻ thù phải khiếp sợ, kinh hoàng. Thắng lợi trên con đường vận tải chiến lược đưa vũ khí vào Nam là kết quả của tinh thần yêu nước nồng nàn, lòng tự hào dân tộc của cán bộ và chiến sĩ ta, những người ưu tú nhất, đại diện cho ý chí và nghị lực người Việt Nam khi đất nước bị kẻ thù chia cắt. Trên con đường gian lao vất vả đó, đã có biết bao cán bộ, chiến sĩ anh dũng hy sinh. Nhiều chiếc tàu "không số" đã phải nằm lại biển khơi. Tên tuổi của những chiếc tàu và các anh hùng liệt sĩ như: Nguyễn Phan Vinh, Dương Văn Lộc, Trần Nhợ, Nguyễn Văn Hiệu và nhiều đồng chí khác sẽ mãi mãi sống cùng trang sử hào hùng của dân tộc Việt Nam mà các anh là những người đã góp xương máu của mình để viết nên trang sử đó. Những chuyến đi không thành công, nhiều cán bộ, chiến sĩ trên tàu không trở về, sự mất mát rất lớn lao nhưng không nản lòng những con người trên đường vận tải. Trái lại, càng làm cho cán bộ, chiến sĩ Đoàn 125 tăng thêm quyết tâm, rèn dũa ý chí để tham gia những chuyến đi mạo hiểm hơn, trước sự kiểm soát chặt chẽ, gắt gao giữa biển khơi của địch. Trong 12 năm hoạt động liên tục và bền bỉ, trong đoàn chưa có cán bộ, chiến sĩ nào chùn bước, kể cả những người bị địch bắt cũng dũng cảm chấp nhận hy sinh, kiên quyết bảo vệ bí mật con đường. Thật cảm động trước hình ảnh những người chuẩn bị xuất bến trước mỗi chuyến đi giữa đêm tối mênh mông, đều giơ cao tay thề trước cờ Đảng, cờ Tổ quốc, quyết tâm hoàn thành nhiệm vụ và sẵn sàng hy sinh vì những chuyến hàng. Những hình ảnh đó của cán bộ, chiến sĩ trên đường Hồ Chí Minh trên biển là biểu hiện rực rỡ nhất của chủ nghĩa yêu nước Việt Nam trong cuộc kháng chiến lâu dài và anh dũng của dân tộc.
Đường Hồ Chí Minh trên biển không chỉ thể hiện chủ nghĩa yêu nước Việt Nam mà còn là biểu tượng quyết tâm thống nhất đất nước của toàn dân tộc. Đầu năm 1962, khi đoàn cán bộ miền Nam vượt biển ra Bắc được Bác Hồ đón tiếp tại Phủ Chủ tịch, Bác hỏi: "Các chú ra đây có yêu cầu gì với Trung ương nào?". Tất cả đều đồng thanh: "Thưa Bác, chúng cháu ra đây có một nguyện vọng là xin được thật nhiều vũ khí để về đánh giặc". Câu trả lời đơn giản đó đã thể hiện quyết tâm đánh giặc, mong mỏi đất nước thống nhất của 14 triệu đồng bào miền Nam. Nếu không khát vọng thống nhất để Nam, Bắc một nhà thì làm sao những cán bộ của con em đồng bào Nam Bộ lại vượt hàng nghìn hải lý, qua bao giông tố của biển khơi, dưới mọi hiểm họa của kẻ thù để ra Bắc xin được cung cấp vũ khí mang về đánh giặc. Thậm chí, có những đồng chí như: Tư Quang hay Võ Tất Thành biết chuyến trở về trên tàu chưa có vũ khí, đã kiên quyết không chịu về tay không, xin được ở lại để khi có vũ khí mới quay về Nam Bộ. Những hình ảnh đẹp đẽ của đồng bào và cán bộ miền Nam kể trên, là tấm gương tiêu biểu, đại diện cho ý chí quyết tâm giải phóng, khát vọng thống nhất đất nước của toàn dân tộc.
Tình đoàn kết quân dân giữa cán bộ, chiến sĩ trên đường vận tải và sự che chở, đùm bọc của nhân dân các địa phương ven biển thật sâu sắc và cảm động. Từ những chuyến vượt biển đầu tiên của đội thuyền Cà Mau, Trà Vinh, Bến Tre, Bà Rịa - Vũng Tàu, đến khi thành lập "Tập đoàn đánh cá Sông Gianh" và sau đó là Đoàn 759 - Đoàn 125, con đường vận tải trên biển của ta vẫn nằm trong lòng dân, được nhân dân các địa phương đùm bọc, che chở. Nhân dân các tỉnh Nam Bộ, trực tiếp là cán bộ và nhân dân ở các bến mà tàu ta cập vào như: Vàm Lũng, Rạch Kiến Vàng, bến Cà Mau, Ba Làng An, Hòn Hèo, Vũng Rô, Ninh Phước, v.v... đã hết lòng vì cách mạng, không quản ngại hy sinh, chờ đợi ngày đêm để đón tàu vào bốc dỡ vũ khí. Thật cảm động trước tấm lòng của bà Mười Vinh (Vũng Tàu) đã bỏ tiền riêng để đóng tàu cho các chiến sĩ cùng với con trai của bà vượt biên ra Bắc. Những du kích ở Cà Mau, Trà Vinh, Bến Tre chia nhau từng thùng đạn, khẩu súng vừa nhận được giữa đêm tối để vận chuyển về nơi cất giữ an toàn. Họ nâng niu từng gói hàng, quý trọng từng khẩu súng, viên đạn của đồng bào miền Bắc chuyển vào, góp sức cùng miền Nam đánh giặc. Tấm gương chiến đấu, hy sinh của bộ đội địa phương Phú Yên cùng du kích trong nhiều ngày đêm (2-1965) bảo vệ và giải vây cho những chiến sĩ Tàu 143 vào bến Vũng Rô bị lộ, phải hủy tàu để rút lên bờ, sau đó hành quân ra Bắc an toàn. Biết bao nhiêu đồng bào và chiến sĩ không thể kể hết tên, đã thể hiện khí phách của người Việt Nam với quyết tâm đấu tranh thống nhất đất nước, đã đem nhiệt tình cách mạng của mình để bảo vệ và giữ vững con đường máu lửa mà cán bộ, chiến sĩ của ta đang hành quân trên đó.
Công tác hiệp đồng trong chuyên chở và bốc dỡ vũ khí giữa đầu cầu miền Bắc với miền Nam, giữa tàu với bến trong lúc vào, ra của những chuyến hàng cũng được tổ chức chặt chẽ. Mỗi khi tàu rời cảng vào Nam là bến nhận đã sẵn sàng cả về người và phương tiện để bốc dở nhanh, giải phóng tàu khẩn trương, giữ bí mật tuyệt đối cho con đường vận chuyển. Có những chuyến bến vào bị lộ, địa phương đã tìm mọi cách báo cho tàu biết để chuyển bến an toàn, giao hàng ở địa điểm khác, không để tàu và vũ khí rơi vào trận địa phục kích của kẻ thù. Những hoạt động đó là biểu hiện sinh động của tấm lòng Nam Bắc, của cán bộ và chiến sĩ trên con đường, cùng với nhân dân các tỉnh ven biển, nơi có tàu đi và đến, cùng chung ý chí quyết tâm: Thống nhất nước nhà.
Ở miền Bắc, hàng ngày hàng giờ, bằng những việc làm thực tế của mình, cán bộ và chiến sĩ cũng cố gắng hết mình để miền Nam được giải phóng. Từ việc lo cho cán bộ miền Nam chỗ ăn, nghỉ đến đi tham quan các địa danh nổi tiếng của miền Bắc; tham gia sửa chữa hoặc đóng mới những con tàu "không số" sao cho thật nhanh và chất lượng để có phương tiện chở vũ khí vào Nam. Đó là hình ảnh cao đẹp của quân và dân miền Bắc, muốn kề vai sát cánh với đồng bào miền Nam ruột thịt mong mỏi chờ ngày thống nhất đến gần hơn.
Tham gia vận chuyển bằng đường Hồ Chí Minh trên biển không chỉ có cán bộ miền Nam mà cả cán bộ, chiến sĩ là con em miền Bắc của Đoàn 125, kế tục truyền thống của những người đi trước, vận chuyển thành công những chuyến hàng vào Nam trên con đường mà những người đi trước đã mở. Khó có thể kể hết ra đây tên tuổi của các anh hùng liệt sĩ đã hy sinh trên biển hoặc bị địch bắt, bị tù đày cho đến ngày miền Nam giải phóng mới gặp lại. Những mất mát quả là lớn lao, nhưng với khát vọng tự do độc lập, quyết tâm thống nhất đất nước, những người con ưu tú của dân tộc ta đã tự nguyện nhận lấy mọi hy sinh, vất vả về mình. Họ trung kiên vì sự sống còn của con đường mang tên Bác để có ngày chiến thắng.
Đường Hồ Chí Minh trên biển là con đường của ý chí và sức sáng tạo Việt Nam, nơi tỏa sáng chủ nghĩa yêu nước và quyết tâm thống nhất đất nước của dân tộc Việt Nam. Chỉ có Đảng ta, quân đội ta, cùng nhân dân hai miền Nam, Bắc giàu lòng yêu nước, với ý chí và nghị lực phi thường mới mở được đường mòn trên biển. Nhìn lại lịch sử chiến tranh trên thế giới, chưa ở đâu lại có con đường vận tải chiến lược độc đáo như đường Hồ Chí Minh trên biển của Việt Nam. Con đường ấy, cùng với đường Trường Sơn trên bộ, đã tô đẹp thêm truyền thống kiên cường bất khuất của một dân tộc anh hùng.
Năm tháng qua đi, nhiều thế hệ tham gia đường Hồ Chí Minh trên biển không còn nửa, nhưng, ký ức về con đường trên biển vẫn không phai mờ đối với từng cán bộ, chiến sĩ quân đội ta và trong lòng mỗi người dân Việt Nam. Chúng ta mãi mãi không quên Đoàn 759 - Đoàn 125 ngày nay với những chuyến đi lịch sử trên biển mà con cháu chúng ta hiện giờ nghe kể lại, tưởng như câu chuyện thần thoại. Chặng đường lịch sử hào hùng của Đoàn 125 là niềm tự hào của quân đội ta và dân tộc ta.
Từ việc mở đường Hồ Chí Minh trên biển trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, đã chứng minh chủ nghĩa yêu nước Việt Nam luôn tỏa sáng trong lòng dân tộc ở mọi thời đại. Suy rộng ra, cả dân tộc ta trường kỳ kháng chiến cũng xuất phát từ lòng yêu nước có sẵn trong mỗi con người và trong đại gia đình các dân tộc Việt Nam. Tinh thần yêu nước đã được tôi luyện và thử thách trong kháng chiến trước đây, đến nay vẫn tỏa sáng trên con đường đi tới của cả dân tộc - con đường xây dựng đất nước dưới sự lãnh đạo của Đảng để thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược: Xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, cả nước bước vào công nghiệp hóa, hiện đại hóa vì mục tiêu "Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, xã hội công bằng, văn minh". Tinh thân yêu nước ngày nay đã phát triển lên tầm cao mới, đó là yêu Đảng và Nhà nước, yêu chủ nghĩa xã hội, yêu mến những thành quả cách mạng mà các thế hệ cán bộ, chiến sĩ đường Hồ Chí Minh trên biển nói riêng và cả dân tộc ta nói chung đã hy sinh biết bao xương máu mới có được.
Thấm nhuần ý chí quyết tâm thống nhất đất nước trước đây, ngày nay ý chí đó vẫn tỏa sáng trong quân đội và các lực lượng vũ trang trong quá trình thực hiện nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc. Chúng ta đang sống trong hòa bình, nhưng vẫn còn đó những thế lực nước ngoài âm mưu xâm lược hoặc lấn chiếm biển, đảo của ta. Kế thừa truyền thống tốt đẹp của các thế hệ đi trước để lại, nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc ngày nay đã nâng lên tầm cao mới, đó là bảo vệ Đảng, bảo vệ chế độ và nhân dân, bảo vệ trọn vẹn lãnh thổ trên đất liền, trên biển, chủ quyền quốc gia, lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế, thềm lục địa rộng lớn của Tổ quốc. Những đảo, quần đảo và vùng biển của ta đang bị nước ngoài chiếm đóng, ta phải kiên quyết đấu tranh giành lại, như vậy mới giữ được toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc.
Tự hào với truyền thống, tầm vóc và ý nghĩa lớn lao của đường Hồ Chí Minh trên biển, chúng ta cần phát huy vào hoạt động thực tiễn bảo vệ và xây dựng đất nước "làm chủ được biển của mình, vươn lên trở thành quốc gia mạnh về biển" theo tinh thần Nghị quyết 3 của Bộ Chính trị khóa VI đã vạch ra.
Nước ta có bờ biển dài khoảng trên 3.260km, diện tích mặt biển hơn 1 triệu kilômét vuông, cả nước đang hướng ra biển và phát triển kinh tế biển. Biết bao khó khăn đặt ra cho chúng ta, giống như con tàu nhỏ vươn ra biển lớn. Đất nước còn nghèo, cơ sở vật chất để phát triển kinh tế biển còn thiếu, kinh nghiệm quản lý và khai thác biển của ta còn ít, nhưng trước tiềm năng to lớn của biển Việt Nam, với tinh thần yêu nước, ý chí quật cường của một dân tộc đã trải qua bao đau thương mất mát trong chiến tranh, dưới sự lãnh đạo của Đảng trên con đường đổi mới, nhất định chúng ta sẽ bảo vệ vững chắc vùng biển và hải đảo của Tổ quốc, đồng thời xây dựng đất nước mạnh lên, giàu lên từ biển giống như những quốc gia quanh ta đã làm.
Trong lịch sử giữ nước, dân tộc ta đã có ý thức giữ biển và làm chủ vùng biển, từ những Hải đội Hoàng Sa trước đây, đến những đoàn tàu "không số" trên biển trong những năm tháng kháng chiến chống Mỹ và sự có mặt của cán bộ, chiến sĩ, nhân dân các địa phương ven biển, ngày đêm làm kinh tế trên các vùng biển xa để bảo vệ quyền biển đảo. Thời đại nào cũng có người Việt Nam trên biển. Vì thế, bảo vệ chủ quyền quốc gia trên biển ngày nay là nghĩa vụ và trách nhiệm của quân đội, của các cấp, các ngành và nhân dân cả nước. Nhất định chúng ta sẽ bảo vệ vững chắc biển đảo của Tổ quốc, xứng đáng với những mất mát, hy sinh của các thế hệ cán bộ, chiến sĩ đường Hồ Chí Minh trên biển nói riêng và đồng bào, chiến sĩ cả nước nói chung trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, để có đất nước tươi đẹp như ngày hôm nay.
Ngành Giao thông Vận tải với tuyến vận tải chiến lược Hồ Chí Minh trên biển trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước / Bộ Giao thông Vận tải // Sách Huyền thoại đường Hồ Chí Minh trên biển. - H.: Lao động, 2011. - Tr. 69-74
… Vào ngày 11 tháng 10 năm 1962, chuyến tàu không số đầu tiên do đồng chí Lê Văn Một và Bông Văn Dĩa chỉ huy chở 30 tấn vũ khí rời bến Đồ Sơn (Hải Phòng). Hơn một tuần đối mặt với nhiều thử thách, hiểm nguy, đến ngày 19 tháng 10, tàu cập bến Vàm Lũng (Cà Mau) an toàn. Chuyến đi lịch sử ấy đã mở lối cho hơn một ngàn chuyến "tàu không số" vận chuyển nhân lực, hàng hóa vũ khí từ hậu phương lớn miền Bắc chi viện cho chiến trường miền Nam.
Cùng với đường Hồ Chí Minh trên dãy Trường Sơn, đường Hồ Chí Minh trên biển với cách làm hết sức sáng tạo, dũng cảm của những người thực hiện là tuyến chi viện chiến lược góp phần quan trọng vào sự nghiệp giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước, mở ra một trang sử vẻ vang mới cho dân tộc. Con đường ấy đã đi vào huyền thoại của lịch sử dân tộc. Đoàn 125 Hải quân với tên gọi thân thương "Đoàn tàu không số" đến nay vinh dự được Đảng, Nhà nước hai lần tuyên dương danh hiệu "Đơn vị Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân".
Sát cánh cùng lực lượng Hải quân, trên những con "tàu không số" do Phòng Thiết kế tàu thủy thuộc Cục Cơ khí Bộ Giao thông Vận tải thiết kế, các cán bộ, chiến sĩ, nhân viên ngành Giao thông vận tải đã cống hiến tâm lực, xương máu và tuổi xuân của mình để xây dựng, duy trì sức chiến đấu mãnh liệt của các tuyến chi viện chiến lược, trong đó có đường Hồ Chí Minh trên biển.
Thời kỳ 10 năm (1961-1971), với tổng số tàu vào bến là 155 chuyến, chở 6.638 tấn vũ khí trang bị, đi 3.758.000 hải lý, Đoàn 125 và các lực lượng ngành giao thông đã đưa hàng ngàn cán bộ vào Nam (không kể 19 chuyến tàu vào tới bến phải quay ra và 6 chuyến đi trinh sát). Các bến Cà Mau, Bến Tre, Trà Vinh, Bà Rịa ở khu vực Nam Bộ và 5 bến ở Khu 5 thuộc các tỉnh: Phú Yên, Bình Định, Quảng Ngãi, Bình Thuận, Khánh Hòa đã trở thành địa điểm trọng yếu gắn liền với con đường Hồ Chí Minh trên biển.
Trong quá trình vận chuyển, có 30 lần đụng địch, ta đều chiến đấu quyết liệt để bảo vệ tàu và hàng hóa. Bị mất 11 tàu, trong đó có 3 tàu bị địch lấy, phần lớn là mê tàu, do ta chỉ phá được ca bin, tỷ lệ là 7%. So với nhiệm vụ Trung ương giao, thì đoàn hoàn thành xuất sắc, đạt 93% (giao 50%).
Tiếp theo thời kỳ 4 năm (1971-1975), việc vận chuyển gặp nhiều khó khăn do địch đánh phá quyết liệt nhưng các đoàn "tàu không số" vẫn vận chuyển được 411 chuyến, chở 30.137 tấn vũ khí, trang thiết bị, hàng hóa và 2.042 lượt người đi B, hàng trăm xe cơ giới các loại, đi 158.292 hải lý trong chiến dịch VT5 vận chuyển cho chiến trường Quảng Trị, Thừa Thiên và Quân khu 5.
Từ ngày 14 đến 29 tháng 4 năm 1975, các lực lượng vận tải bằng đường biên đã chở đặc công hải quân và một bộ phận đặc công Quân khu 5 tiến công giải phóng các đảo trong quần đảo Trường Sa do quân ngụy Sài Gòn đóng giữ và Cù Lao Thu. Đoàn 371 dùng tàu gỗ vận chuyển hợp pháp theo ven biển từ Nam ra Bắc và từ Bắc vào Nam được 31 chuyến, chở 520 tấn cho Quân khu 9.
Con số vài chục ngàn tấn đi theo đường biển nếu so với sức vận tải của đường Trường Sơn trên bộ thì ít hơn nhiều, nhưng ý nghĩa của nó với cuộc kháng chiến cùng với chiến sĩ, nhân viên ngành giao thông vận tải và nhân dân thì rất lớn, bởi vì:
Thứ nhất, con đường Trường Sơn trên đất liền chủ yếu vận tải cho các chiến khu miền núi, miền rừng, miền Đông Nam Bộ. Những vùng ven biển miền Trung và nhất là miền Tây Nam Bộ thì rất khó vận chuyển vũ khí đạn dược qua hệ thống đường bộ. Ở đây chỉ có thể dùng đường biển. Chính con đường Hồ Chí Minh trên biển đã tạo ra sức mạnh chiến đấu trên tất cả mọi vùng: Duyên hải miền Trung, đồng bằng Nam Bộ. Như một báo cáo thời đó đã xác định: 100 tấn vũ khí đưa vào tới nơi có thể đủ trang bị cho một sư đoàn sử dụng trong nhiều tháng. Như vậy con số mấy chục ngàn tấn kể trên đã có một ý nghĩa sống còn với hàng sư đoàn ở những căn cứ vùng ven biển miền Nam. Đặc biệt, sự kịp thời chi viện những loại vũ khí mới hiện đại, có tính năng chiến đấu cao đã làm thay đổi cách đánh, thay đổi tương quan lực lượng.
Thứ hai, ngoài ý nghĩa sinh tử về việc cung cấp vũ khí và nhu yếu phẩm cho những vùng xa xôi, con đường vận tải biển tuy tổn thất lớn nhưng có ưu thế hơn đường bộ là tốc độ rất cao. Vận chuyển trên đường bộ mất hàng mấy tháng trời mới tới nơi. Vận chuyển trên biển, tuy gian nan, nguy hiểm hơn nhưng nếu không phải quay lại cùng lắm chỉ hơn 1 tuần là hàng đã tới nơi... vấn đề tốc độ càng có ý nghĩa quan trọng trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân 1975. Lúc đó, để thực hiện chỉ thị "thần tốc", "đại thần tốc" của Đảng, phải kịp thời chuyển thật nhanh những vũ khí hạng nặng và hàng chục ngàn cán bộ, chiến sĩ vào miền Tây, kịp thời hiệp đồng tác chiến với các cánh quân đường bộ, Đoàn 125 đã vận chuyển thần tốc tới 130 lần với 143 chuyến tàu, chở 8.721 tấn vũ khí hạng nặng gồm 50 xe tăng và đại pháo, đưa 18.741 cán bộ và chiến sĩ, vượt 65.721 hải lý để kịp thời tham gia chiến đấu.
Thứ ba, đường Hồ Chí Minh trên biển rất gian nan, nhưng xét về hiệu quả thì rất cao. Trong 168 chuyến đi, có 30 lần chạm trán phải chiến đấu, không một tàu nào bị bắt sống hay đầu hàng, có 11 lần phải phá hủy tàu, tổn thất về hàng khoảng 7%, có nghĩa là 93% tới đích. 100 tấn vũ khí chở bằng đường thủy, trên một con tàu, chỉ cần 10-15 hay tối đa là 20 chiến sĩ. Như thế, tuyến vận tải biển đã đảm đương một phần quan trọng nhiệm vụ chi viện chiến trường, trong những thời điểm khó khăn, vào những địa bàn mà vận tải trên bộ chưa thể vươn tới được.
Thứ tư, ngoài những ý nghĩa về vận tải và tiết kiệm kể trên, con đường trên biển còn đảm đương một sứ mệnh cực kỳ quan trọng, đó là vận chuyển những món hàng "đặc biệt", có tầm quan trọng sống còn đối với công cuộc kháng chiến ở Việt Nam. Hàng "đặc biệt" có nhiều loại, đó là những thứ máy đặc chủng không thể vận chuyển bằng đường bộ như những dụng cụ đặc biệt về y tế, những chiếc máy đặc chủng của nước bạn giúp đỡ để chế tạo những giấy tờ giả đủ các loại cho cán bộ đi lại công khai trên toàn miền Nam. Đó là những loại hóa chất đặc biệt để chế tạo vũ khí như thuốc nổ để sản xuất các ngòi nổ, ngòi cháy, sản xuất các loại đạn tại các công binh xưởng miền Nam. Trong nhiều trường hợp khẩn cấp, những con "tàu không số" cũng mang theo các loại tiền, nhiều khi tới hàng triệu đô la.
Với ngành giao thông vận tải, có thể nói tuyến vận tải Hồ Chí Minh trên biển đã góp phần tạo nên những kỳ tích ghi lên dấu ấn nổi bật của ngành trong giai đoạn kháng chiến chống Mỹ. Dưới sự lãnh đạo của Đảng và Bác Hồ kính yêu, Ngành Giao thông vận tải Việt Nam đã lập nên những kỳ tích huy hoàng, góp phần quan trọng vào chiến thắng của dân tộc trong cuộc kháng chiến chống Mỹ oanh liệt.
Khi nói đến chi viện miền Bắc cho chiến trường miền Nam thì người ta chỉ chủ yếu nghĩ đến đường Trường Sơn, một phần vì sự tàn khốc ở đây: Khoảng 1 triệu tấn bom đạn Mỹ đã tàn phá dọc đường này, làm cho khoảng 20.000 chiến sĩ đã ngã xuống và khoảng 20.000 người bị thương. Các đường tiếp viện khác, tuy đã đóng góp lớn trong việc chi viện cho miền Nam và việc giữ liên lạc giữa hai miền, không được người ta chú ý đến nhiều vì chúng đã được bảo đảm bí mật bởi những người trong cuộc, bởi dân chúng trong nước và những người yêu mến Việt Nam ở nước ngoài. Cũng như con đường mang tên Chủ tịch Hồ Chí Minh trên biển, có một số con tàu, một số cán bộ, chiến sĩ đã anh dũng hy sinh, lập công xuất sắc nhưng tất cả đều lặng thầm trong bí mật của biển cả thiêng liêng.
Thắng lợi của sự nghiệp chống Mỹ, cứu nước bắt nguồn từ sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng Cộng sản Việt Nam, người đại biểu trung thành cho những lợi ích sống còn của cả dân tộc Việt Nam, một đảng có đường lối chính trị, đường lối quân sự độc lập, tự chủ, đúng đắn, sáng tạo. Mà con đường Hồ Chí Minh trên biển được hình thành bởi đường lối của Đảng thể hiện bằng ý chí và nguyện vọng thiết tha của cả dân tộc Việt Nam, đã động viên đến mức cao nhất lực lượng hùng hậu của nhân dân cả nước kết hợp tiền tuyến lớn với hậu phương lớn, kết hợp sức mạnh của nhân dân ta với sức mạnh của thời đại tạo nên sức mạnh tổng hợp để vượt qua muôn vàn khó khăn trong chiến đấu và chiến thắng giặc Mỹ xâm lược.
Từ những kinh nghiệm của những chuyến tàu đầu tiên, đến nay chúng ta có thể vận dụng xây dựng chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của Đảng và Nhà nước vào hoạt động vận tải đường biển, bởi cùng với những điều kiện tự nhiên là nước giáp biển, một vị trí rất thuận lợi để phát triển và chuyên chở hàng hóa bằng đường biển. Có thể nói vận tải biển là phương thức vận tải thông dụng nhất, hữu hiệu và được đa số các nhà kinh doanh xuất khẩu lựa chọn bởi những ưu điểm của nó, giá thành thấp, năng lực vận chuyển lớn.
Ngành vận tải đường biển với những con "tàu không số" do Phòng Thiết kế tàu thủy thuộc Cục Cơ khí Bộ Giao thông Vận tải thiết kế là tiền đề cho sự phát triển của ngành đóng tàu chuyên nghiệp, hiện đại Việt Nam cùng với sự phát triển của mạng lưới cảng biển phục vụ cho sự phát triển kinh tế của cả nước. Hệ thống cảng biển Việt Nam bao gồm trên 80 cảng biển lớn nhỏ, trong đó có một số cảng đã, đang được nâng cấp và mở rộng như Hải Phòng, Cái Lân, Đà Nẵng, Quy Nhơn, Nha Trang, Sài Gòn, Cần Thơ. Khối lượng hàng hóa thông qua cảng biển Việt Nam tăng nhanh chóng. Tốc độ tăng trưởng bình quân là 17%/năm. Xu thế vận tải hiện nay là sử dụng tàu có trọng tải lớn, áp dụng các công nghệ vận tải tiên tiến, đặc biệt là vận tải đa phương thức.
Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói: "Giao thông là mạch máu của tổ chức. Giao thông tốt thì mọi việc dễ dàng. Giao thông xấu thì các việc đình trệ". Câu nói giản dị của Bác không chỉ nhấn mạnh đến vai trò quan trọng của giao thông vận tải trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, mà còn là lời nhắc nhở nhiệm vụ đối với những người làm công tác giao thông vận tải trong quá khứ, hiện tại và tương lai sau này. Có thể nói lịch sử hình thành, phát triển và trưởng thành của mình, lớp lớp thế hệ cán bộ, công nhân, lao động ngành Giao thông vận tải Việt Nam đã luôn theo lời chỉ dạy của Bác Hồ, luôn nỗ lực phấn đấu, góp phần quan trọng vào sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta.
…
Cố Thủ tướng Võ Văn Kiệt đã khẳng định về đường Hồ Chí Minh trên biển như sau: "Năm tháng sẽ trôi qua, những chiến công anh hùng và sự hy sinh cao cả của các lực lượng mở đường vận tải chiến lược mang tên Bác Hồ kính yêu trên biển Đông; của những con tàu không số; của quân và dân các bến bãi làm nhiệm vụ chi viện cho cách mạng miền Nam trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước vĩ đại sẽ mãi mãi đi vào lịch sử đấu tranh kiên cường của dân tộc ta... Tổ quốc và nhân dân sẽ đời đời ghi nhớ công lao của những người đã làm nên kỳ tích đường Hồ Chí Minh trên biển...".
PHẠM NGỌC CHẤN. Phát huy sức mạnh chính trị, tinh thần - yếu tố then chốt để giành thắng lợi của bộ đội hải quân đường Hồ Chí Minh trên biển / Phạm Ngọc Chấn // Sách Huyền thoại đường Hồ Chí Minh trên biển. - H.: Lao động, 2011. - Tr. 85-94
Lịch sử chống giặc ngoại xâm của dân tộc ta từ khi có Đảng đã chứng minh rằng, nhờ phát huy sức mạnh tổng hợp của Đảng, toàn dân và toàn quân ta, trong đó yếu tố chính trị - tinh thần luôn luôn có vai trò quyết định làm nên những chiến thắng vĩ đại. Với uy thế tuyệt đối đó, dân tộc ta đã biết "lấy nhỏ thắng lớn", "lấy ít địch nhiều", dựa vào dân, "cả nước chung sức", "mỗi người dân là một người lính".
Bản lĩnh chính trị và ý chí quyết chiến, quyết thắng của bộ đội ta là nội dung cơ bản, là một phẩm chất chính trị tinh thần, biểu hiện cụ thể của chủ nghĩa yêu nước và nó đã trở thành biểu tượng rực rỡ của chủ nghĩa anh hùng cách mạng Việt Nam. Bản lĩnh chính trị và ý chí quyết chiến, quyết thắng của cán bộ, chiến sĩ đường Hồ Chí Minh trên biển được xây dựng trên cơ sở giác ngộ mục tiêu lý tưởng chiến đấu, lòng căm thù giặc, tình yêu Tổ quốc, danh dự và khát vọng chiến thắng đã đúc kết nên niềm tin thắng lợi, thành năng lực suy nghĩ và hành động, thành sức mạnh để chiến thắng kẻ thù. Trong cuộc chiến đấu bảo đảm vận tải gian khổ và ác liệt, cán bộ, chiến sĩ đường Hồ Chí Minh trên biển đã nêu cao ý chí chiến đấu, luôn giữ vững niềm tin sắt đá vào sự lãnh đạo của Đảng, vào thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước. Đó chính là động lực chủ yếu, thúc đẩy cán bộ, chiến sĩ đem hết sức lực, trí tuệ, khả năng khắc phục mọi khó khăn, gian khổ, hoàn thành mọi nhiệm vụ được giao.
Đường Hồ Chí Minh trên biển đã hoàn thành vẻ vang sứ mệnh lịch sử của mình cách đây hơn một phần ba thế kỷ và mãi mãi đi vào lịch sử dân tộc ta như một sáng tạo vĩ đại của Đảng Lao động Việt Nam (nay là Đảng Cộng sản Việt Nam) đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh kính mến, một kỳ tích anh hùng của quân và dân ta. Bằng trí tuệ, ý chí quyết chiến, quyết thắng của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta, mà trong đó cán bộ, chiến sĩ Hải quân nhân dân Việt Nam, trực tiếp là Đoàn 759 (nay là Lữ đoàn 125 Hải quân), là lực lượng nòng cốt đã có những đóng góp quan trọng và lập chiến công to lớn trên tuyến vận tải đường Hồ Chí Minh trên biển huyền thoại, cùng với đường Hồ Chí Minh trên dãy Trường Sơn, làm nên chiến thắng vĩ đại, trọn vẹn trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước.
Truyền thống và những chiến công của đường Hồ Chí Minh trên biển đã được thực tiễn lịch sử chứng minh và ghi nhận, nhưng để làm nên những thành tích và chiến công huyền thoại đó, bên cạnh các cán bộ, chiến sĩ trên "Đoàn tàu không số", còn có cán bộ, chiến sĩ Hải quân nhân dân Việt Nam và nhân dân ở hai đầu bến bãi đã không quản ngại khó khăn, gian khổ, kể cả hy sinh tính mạng của mình để làm nên chiến thắng.
Sức mạnh của đường Hồ Chí Minh trên biển được biểu hiện ở sức mạnh tổng hợp của nhân tố chính trị, tinh thần, tổ chức, trang bị kỹ thuật tàu thuyền, trình độ đi biển, nghệ thuật trong xử lý các tình huống; là sức mạnh của sự giúp đỡ, đùm bọc, che chở của nhân dân hai đầu bến bãi của các tỉnh, thành phố trong cả nước, cũng như sự giúp đỡ to lớn, hiệu quả của Chính phủ và nhân dân Trung Quốc và các nước xã hội chủ nghĩa... Các yếu tố đó quan hệ chặt chẽ, khăng khít, hỗ trợ, bổ sung cho nhau, tất cả đều được phát huy đầy đủ, song trong đó, yếu tố sức mạnh chính trị - tinh thần là yếu tố cơ bản nhất, giữ vai trò then chốt để giành thắng lợi của đường Hồ Chí Minh trên biển.
Nói về vai trò của yếu tố chính trị - tinh thần, Lênin đã khẳng định: "Trong mọi cuộc chiến tranh, rốt cuộc thắng lợi đều tùy thuộc vào tinh thần của người lính đang đổ máu trên chiến trường...".
Đúng như vậy, nhân tố chính trị - tinh thần, với sức mạnh to lớn của nó, chỉ có thể được phát huy cao độ trong cuộc đấu tranh cách mạng giải phóng dân tộc và chiến tranh bảo vệ Tổ quốc dưới sự lãnh đạo của Đảng. Cán bộ, chiến sĩ làm nhiệm trên tuyến vận tải biển đã tỏ rõ ý chí quyết tâm của mình, tất cả vì miền Nam ruột thịt, vì chiến trường đang cần súng đạn, vũ khí... thực hiện chuyến vận chuyển đầu tiên của mình với 5 tấn vũ khí và thuốc men cho chiến trường Khu 5 trong điều kiện trang bị hết sức thô sơ và chưa có nhiều kinh nghiệm vượt biển. Mặc dù chuyến đi đầu tiên ấy không thành công, nhưng đã giúp cho Quân ủy Trung ương rút kinh nghiệm, tìm phương thức vận chuyển mới, đạt hiệu quả sau này.
Ngày 23 tháng 10 năm 1961, Bộ Tổng tư lệnh ra quyết định thành lập Đoàn vận tải thủy, có nhiệm vụ chi viện vũ khí cho miền Nam bằng đường biển, mang tên Đoàn 759 - tiền thân của Lữ đoàn 125, cùng với Nghị quyết của Quân ủy Trung ương về việc mở đường vận chuyển chiến lược trên biển. Con đường vận tải trên biển đã mở, Đoàn 759 bước vào vận chuyển vũ khí chi viện cho tiền tuyến miền Nam, con đường huyền thoại trên biển chính thức được tạo dựng.
Con đường vận chuyển trên biển ra đời, đi vào lịch sử và trở thành con đường huyền thoại không chỉ bằng những chuyến đi âm thầm, lặng lẽ nối tiếp nhau rời bến rồi lại cập bến; không chỉ ở số lượng vận chuyển được bao nhiêu tấn vũ khí, hàng hóa và lực lượng cho chiến trường miền Nam, mà cao hơn thế, cán bộ, chiến sĩ một lần ra đi là một lần xác định quyết tử, là hy sinh, là một lần thử thách đầy khó khăn, gian khổ và căng thẳng của cán bộ, chiến sĩ "Đoàn tàu không số". Họ không chỉ đấu trí với kẻ thù mà còn phải vượt qua sóng gió, thử thách của thiên nhiên khắc nghiệt; của sự thiếu thốn, nhọc nhằn; của sự đói khát, say sóng, dãi nắng, dầm mưa, thường xuyên diễn ra trong mỗi chuyến đi, nhưng cán bộ, chiến sĩ vẫn không hề nản chí.
Trên con đường biển dài hàng ngàn hải lý đó, những chiến sĩ "Đoàn tàu không số" còn phải đối mặt thường xuyên với sự ngăn chặn, vây ráp, phong tỏa của quân thù. Để đưa được một khẩu súng, một viên đạn đến chiến trường, cán bộ, chiến sĩ trên các con tàu đã vượt qua muôn vàn gian khó, với lòng dũng cảm và trí thông minh, chấp nhận mọi hy sinh để giành thắng lợi.
Hàng trăm chuyến đi là hàng trăm câu chuyện thần kỳ về lòng dũng cảm, đức hy sinh, sự thông minh, tài trí; là những câu chuyện cảm động về tình đồng đội, nổi trội về tinh thần vượt khó, chịu đựng gian khổ, xông pha nơi hiểm nguy, đối mặt trực diện với kẻ thù. Mỗi chuyến đi là một chiến công, một sự tích anh hùng, những huyền thoại của "Đoàn tàu không số" làm nên con đường bất tử, lưu truyền mãi mãi trong lịch sử chống giặc ngoại xâm của dân tộc ta.
Để có được sức mạnh tinh thần, yếu tố then chốt để làm nên chiến thắng của đường Hồ Chí Minh trên biển trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước bao gồm tổng hợp nhiều yếu tố, trong đó nổi bật là:
Trước hết, bắt nguồn từ đường lối chính trị, đường lối quân sự và sự chỉ đạo chiến tranh đúng đắn, tài tình, sự sáng tạo trong phát huy sức mạnh toàn dân tộc của Đảng ta; là sự chăm sóc ân cần, sự chỉ đạo trực tiếp và có hiệu quả của Chủ tịch Hồ Chí Minh, của Bộ Chính trị, Quân ủy Trung ương và Bộ Quốc phòng.
Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước vĩ đại của nhân dân ta, xuất phát từ thực tiễn cách mạng, Nghị quyết Trung ương 15 đã vạch đường lối cho cách mạng miền Nam và khẳng định con đường giải phóng miền Nam là "con đường cách mạng bạo lực". Đây là nghị quyết lịch sử, đáp ứng nguyện vọng bức thiết của đông đảo quần chúng cách mạng; là kim chỉ nam cho mọi hành động của lực lượng vũ trang hai miền.
Trong suốt chặng đường xây dựng và phát triển, trưởng thành, chiến thắng của mình, cán bộ, chiến sĩ trên tuyến vận tải quân sự đường biển luôn nhận được sự lãnh đạo, chỉ đạo sâu sát, kịp thời của Ban Chấp hành Trung ương Đảng, của Bộ Chính trị; sự dìu dắt, chỉ đạo trực tiếp của Chủ tịch Hồ Chí Minh; sự lãnh đạo, chỉ đạo, điều hành trực tiếp của Quân ủy Trung ương và Bộ Tổng tư lệnh, kể cả những lúc thuận lợi và khó khăn, lúc thành công và những lúc chưa hiệu quả. Chính sự lãnh đạo, chỉ đạo đó đã củng cố niềm tin, xây dựng ý chí quyết tâm cho cán bộ, chiến sĩ "Đoàn tàu không số" trong suốt hành trình hàng ngàn hải lý đầy gian khổ, nguy hiểm khôn lường; đó là niềm tin vào Đảng, vào Chủ tịch Hồ Chí Minh, vào Quân ủy Trung ương, niềm tin vào thắng lợi cuối cùng của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, giải phóng dân tộc.
Đó chính là yếu tố cốt lõi để làm nên sức mạnh tinh thần của đường Hồ Chí Minh trên biển. Nó còn là minh chứng cho quyết tâm, cho ý chí liên tục tiến công, tiếp tục chi viện cho miền Nam bất kể trong điều kiện, hoàn cảnh nào.
Hai là, xuất phát từ lòng yêu nước nồng nàn, thấm nhuần sâu sắc lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh "Không có gì quý hơn độc lập, tự do”, với tinh thần "Tất cả để giải phóng miền Nam", là thắng lợi của ý chí dám đánh, quyết đánh, liên tục tiến công, là khát vọng giải phóng và niềm tin vào thắng lợi cuối cùng cũng như tinh thần quả cảm xả thân chiến đấu hy sinh vì độc lập dân tộc của cán bộ, chiến sĩ lực lượng vận tải quân sự biển Hải quân.
Trên con đường vận chuyển ấy, cán bộ, chiến sĩ "Đoàn tàu không số", với tinh thần "Tất cả vì miền Nam ruột thịt", đã âm thầm hy sinh tình cảm gia đình và bản thân. Mỗi chuyến ra đi là một cuộc đấu trí căng thẳng, quyết liệt với kẻ thù, với thiên nhiên, với mọi khó khăn, thử thách và khi cần thiết, họ sẵn sàng lao thẳng vào tàu địch, chiến đấu đến hơi thở cuối cùng để bảo vệ vũ khí trang bị, giữ bí mật về chủ trương của Đảng, về con tàu, về bến bãi... Cao cả hơn, họ đã vượt qua chính bản thân mình, ý chí kiên định, mưu trí, dũng cảm, sáng tạo và ý thức chấp hành kỷ luật nghiêm minh. Tiêu biểu như thuyền "Bạc Liêu" trong chuyến đi trinh sát mở đường thắng lợi; như tấm gương Bí thư chi bộ Đặng Văn Thanh và thợ máy Huỳnh Văn Sao của Tàu 41 trong chuyến mở vào bến mới Bà Rịa; là sự anh dũng chiến đấu của cán bộ, chiến sĩ Tàu 143, khi bị lộ ở bến Vũng Rô; là gương Bí thư chi bộ Tăng Văn Huyến, đồng chí Phan Hải Hồ; của cán bộ, chiến sĩ Tàu 69; của Thuyền trưởng Nguyễn Phan Vinh; của Chính trị viên Nguyễn Văn Hiệu, Tàu 645, đã xung phong ở lại để điểm hỏa phá tàu, và nhiều tấm gương tiêu biểu khác đã hy sinh chính bản thân mình vì đồng đội, vì bí mật nhiệm vụ, vì miền Nam thân yêu...
Đó chính là tình đồng chí, đồng đội, lòng yêu thương gắn bó như anh em ruột thịt, đồng cam, cộng khổ, nhận khó khăn, hy sinh về mình, dành thuận lợi, sự sống cho đồng đội. Đây là nét tiêu biểu của ý chí, tinh thần, truyền thống của những con người huyền thoại trên con đường huyền thoại. Chính họ đã góp phần làm rạng rỡ truyền thống vẻ vang của Hải quân nhân dân Việt Nam anh hùng, góp phần to lớn vào thắng lợi vĩ đại của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc, đưa cả nước tiến lên chủ nghĩa xã hội.
Ba là, tinh thần đoàn kết, mưu trí, sáng tạo và trình độ tổ chức chỉ huy thống nhất, kỷ luật nghiêm minh, hiệp đồng chặt chẽ giữa các lực lượng; tranh thủ tối đa sự đùm bọc, chở che, giúp đỡ to lớn của đồng chí, đồng bào hai miền Nam, Bắc và sự ủng hộ, giúp đỡ của Chính phủ và nhân dân Trung Quốc và các nước xã hội chủ nghĩa.
Sự lãnh đạo của Đảng được cụ thể hóa thành sức mạnh lãnh đạo của chi bộ, vai trò tiên phong, gương mẫu của cán bộ, đảng viên trong xử lý các tình huống độc lập trên biển, những lúc xa sự chỉ đạo của trên, những lúc mất liên lạc, những tình huống bất ngờ, thường xuyên diễn ra trong từng giai đoạn của mỗi chuyến đi. Điều đó đòi hỏi người lãnh đạo, người chỉ huy phải phân tích, nhận định đúng tình hình, phải đúc rút kinh nghiệm, hiểu biết sâu sắc về kẻ thù... để đưa ra quyết định chính xác, đạt hiệu quả cao nhất.
Trong điều kiện cuộc kháng chiến chống xâm lược vô cùng khó khăn, ác liệt, địch có ưu thế kiểm soát trên không, trên biển, việc phong tỏa của hải quân Mỹ và hải quân Sài Gòn trên biển ngày càng gắt gao, thực sự là những thử thách đầy cam go đối với cán bộ, chiến sĩ trên tuyến vận tải quân sự trên biển. Nhưng với tinh thần quả cảm và trình độ nghiệp vụ tinh thông; trình độ tổ chức, chỉ huy thống nhất; kiên quyết, bí mật; hiệp đồng chặt chẽ, kết hợp với các biện pháp chiến thuật với kỹ thuật; sự phối hợp với các lực lượng bến bãi, cán bộ, chiến sĩ tuyến vận tải biển của Hải quân nhân dân Việt Nam đã chiến thắng địch, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được giao.
Đó là kết quả của sự hy sinh, đùm bọc, chở che của nhân dân địa phương, các đơn vị ở các bến Vàm Lũng (Cà Mau), Lộ Giao (Bình Định), Vũng Rô (Phú Yên), Đạm Thủy, Ba Làng An (Quảng Ngãi), Bình Đạo (Quảng Nam), Hòn Hèo (Khánh Hòa) và bến bãi các tỉnh Bạc Liêu, Minh Hải, Bến Tre, Cà Mau, Trà Vinh...; là tình cảm của đồng bào, đồng chí ở những vùng sâu, vùng xa trong những năm tháng ác liệt, giữa bốn bề vây ráp của kẻ thù, thiếu từng viên đạn, từng khẩu súng và ở những chiến trường nóng bỏng nhất chờ đón hàng ngày, hàng giờ những con tàu vận tải chuyển vũ khí trang bị vào để làm nên chiến thắng; là sự giúp đỡ tận tình, chu đáo về mọi mặt của nhân dân nước bạn Liên Xô, nhân dân Trung Quốc đã dành cho chúng ta các cảng biển như Hậu Thủy, Duy Ninh, Bắc Á, Hải Khẩu để tiếp nhận hàng hóa, vũ khí; hoặc những lúc tàu ta bị nạn, lúc cán bộ, chiến sĩ bị thương, ốm đau... đã được bạn cấp cứu, cung cấp lương thực, thực phẩm, sửa chữa tàu thuyền, động viên, chia sẻ. Tất cả những yếu tố đó đã tạo nên sức mạnh tổng hợp để hoàn thành nhiệm vụ.
Trong sự nghiệp đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp hóa - hiện đại hóa đất nước, sự nghiệp bảo vệ chủ quyền vùng biển, hải đảo, thềm lục địa của Tổ quốc, các lực lượng Hải quân nhân dân Việt Nam đã nỗ lực phấn đấu vượt bậc; vượt qua muôn vàn khó khăn, thử thách, mưu trí, sáng tạo, thực hiện đúng đối sách, xử lý linh hoạt, chuẩn xác các tình huống phức tạp trên biển, quyết tâm quay vòng, tăng chuyến, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ vận chuyển cho Trường Sa, góp phần xây dựng đảo Trường Sa vững mạnh về mọi mặt. Tiêu biểu là các tàu HQ505, HQ604, HQ605, HQ671, HQ931... và các thuyền trưởng Vũ Huy Lễ, Vũ Phi Trừ... đã mưu trí, khôn khéo, quyết đoán, thể hiện ý chí quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh, sẵn sàng hy sinh cùng con tàu, sẵn sàng lao lên bãi cạn, bám chặt đất Mẹ để bảo vệ chủ quyền biển, đảo, thềm lục địa thiêng liêng của Tổ quốc.
Đường Hồ Chí Minh trên biển đã trở thành một thiên anh hùng ca bất tử, một bộ phận quan trọng trong hệ thống vận tải quân sự chiến lược chi viện cho cuộc kháng chiến thần thánh chống xâm lược, giải phóng đất nước và bảo vệ Tổ quốc của nhân dân ta. Nét đặc trưng tiêu biểu về ý chí, sức mạnh tinh thần, yếu tố then chốt để làm nên chiến thắng của đường Hồ Chí Minh trên biển, đó là lòng trung thành vô hạn với Đảng, với Tổ quốc, với chế độ xã hội chủ nghĩa và nhân dân; nêu cao ý chí quật cường, dũng cảm; khát vọng độc lập, tự do và niềm tin vào thắng lợi cuối cùng; sẵn sàng xả thân chiến đấu hy sinh để hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ được giao.
Thời gian tới, tình hình thế giới, khu vực tiếp tục có những diễn biến phức tạp mới. Nhiệm vụ bảo vệ chủ quyền biển, đảo, thềm lục địa của Tổ quốc và giữ vững môi trường hòa bình, ổn định trên các vùng biển, đảo đặt ra hết sức khẩn trương, nặng nề, đòi hỏi các lực lượng trong Quân chủng Hải quân nói chung, lực lượng vận tải quân sự Hải quân nói riêng, tiếp tục phát huy truyền thống, phát huy yếu tố sức mạnh tinh thần của đường Hồ Chí Minh trên biển năm xưa, phấn đấu hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được giao trong giai đoạn mới. Để hoàn thành trọng trách vẻ vang đó, cần tập trung vào những nội dung chủ yếu sau:
Một là, quán triệt sâu sắc các nghị quyết của Đảng, quan điểm, mục tiêu xây dựng nền quốc phòng toàn dân và thế trận chiến tranh nhân dân trên biển; tình hình, nhiệm vụ của cách mạng; nhiệm vụ quân sự, quốc phòng, nhiệm vụ của quân đội, Quân chủng và đơn vị; thường xuyên nắm chắc tình hình; cảnh giác, sẵn sàng chiến đấu cao, không để bị động, bất ngờ; kiên quyết, kiên trì bảo vệ vững chắc chủ quyền biển, đảo, thềm lục địa của Tổ quốc; giữ vững môi trường hòa bình, ổn định, an ninh và lợi ích quốc gia trên biển.
Hai là, giữ vững trận địa tư tưởng của Đảng trong Quân chủng; trọng tâm là chi bộ tàu; tập trung xây dựng Quân chủng và lực lượng vận tải quân sự Hải quân vững mạnh về chính trị, kiên định, vững vàng, giữ vững lòng tin của Đảng, Nhà nước và nhân dân, của Quân ủy Trung ương và Bộ Quốc phòng đối với Quân chủng; không ngừng nâng cao chất lượng công tác tuyên truyền, giáo dục, làm cho cán bộ, đảng viên, quần chúng luôn trung thành tuyệt đối với Tổ quốc, với Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa; phát huy truyền thống đường Hồ Chí Minh trên biển; sẵn sàng hy sinh để bảo vệ chủ quyền biển, đảo, thềm lục địa Tổ quốc; chủ động ngăn chặn, làm thất bại mọi âm mưu chống phá của các thế lực thù địch.
Ba là, phát huy sức mạnh tổng hợp, tập trung xây dựng Quân chủng và lực lượng vận tải biển Hải quân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, hiện đại, lấy xây dựng vững mạnh về chính trị làm cơ sở để nâng cao sức mạnh chiến đấu, sẵn sàng nhận và hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ được giao. Xây dựng lực lượng theo hướng tinh gọn, hiện đại, đủ các binh chủng, phù hợp với yêu cầu nhiệm vụ chính trị trọng tâm và phát triển của Quân chủng trong tương lai. Tăng cường rèn luyện kỷ luật, xây dựng nền nếp chính quy; triển khai có hiệu quả các trọng tâm, khâu đột phá, dứt điểm của Quân chủng Hải quân và của các cấp, các ngành.
Bốn là, không ngừng luyện tập, nâng cao trình độ sẵn sàng chiến đấu, trình độ kỹ thuật, chiến thuật, nắm chắc đối sách, xử lý chuẩn xác các tình huống phức tạp trên biển; nâng cao hiệu quả và năng lực vận tải, chất lượng trực sẵn sàng chiến đấu trên các vùng biển, khả năng hoạt động, tác chiến độc lập; tác chiến phối hợp, hiệp đồng chặt chẽ với các lực lượng khác; kịp thời phát hiện và đập tan mọi âm mưu chống phá của các thế lực thù địch; kiên quyết, kiên trì bảo vệ vững chắc chủ quyền vùng biển, hải đảo, thềm lục địa của Tổ quốc trong mọi tình huống, không để bị động, bất ngờ; hoàn thành tốt nhiệm vụ giúp dân phòng tránh, khắc phục hậu quả thiên tai, bão lũ và cứu hộ, cứu nạn.
Năm là, tiếp tục phát huy truyền thống anh hùng của Quân chủng trong hơn 55 năm xây dựng, chiến đấu và trưởng thành; truyền thống đường Hồ Chí Minh trên biển và những bài học quý báu trong thời kỳ kháng chiến chống Mỹ, giải phóng dân tộc. Trong thời kỳ mới, ra sức phấn đấu học tập, rèn luyện, công tác tốt; nêu cao ý thức độc lập, tự chủ, tự lực, tự cường; phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo, cần kiệm để xây dựng đơn vị. Làm chủ vũ khí, trang bị kỹ thuật hiện có; chăm lo tốt đời sống vật chất và tinh thần cho bộ đội.
… Dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam quang vinh và Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại, mà trực tiếp là Quân ủy Trung ương và Bộ Quốc phòng; được sự giúp đỡ tận tình của cấp ủy Đảng, chính quyền, nhân dân các địa phương và của bè bạn quốc tế; sự phối hợp hiệp đồng có hiệu quả của các cơ quan, đơn vị trong và ngoài quân đội; các thế hệ cán bộ, chiến sĩ, quân nhân chuyên nghiệp, công nhân viên quốc phòng lực lượng vận tải biển Hải quân luôn phát huy bản chất tốt đẹp, truyền thống vẻ vang của Hải quân nhân dân Việt Nam anh hùng, trung thành với Đảng, với Tổ quốc và nhân dân; đoàn kết, mưu trí, kiên cường, dũng cảm trong chiến đấu, hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ; cùng với các lực lượng trong toàn Quân chủng Hải quân hoàn thành tốt nhiệm vụ bảo vệ vững chắc chủ quyền biển, đảo, thềm lục địa thiêng liêng của Tổ quốc; góp phần cùng toàn Đảng, toàn dân, toàn quân giành thắng lợi trọn vẹn trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước, xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, góp phần thực hiện thắng lợi công cuộc đổi mới, công nghiệp hóa - hiện đại hóa đất nước vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.
TRẦN PHI HỔ. Tuyến vận tải chiến lược Hồ Chí Minh trên biển với chiến trường đồng bằng sông Cửu Long / Trần Phi Hổ // Sách Huyền thoại đường Hồ Chí Minh trên biển. - H.: Lao động, 2011. - Tr. 119-126
Đồng bằng sông Cửu Long nằm ở vị trí cực Nam của Tổ quốc. Trong kháng chiến chống Mỹ thuộc địa bàn của Quân khu 8 và Quân khu 9, là vùng đồng bằng, sông rạch chằng chịt, xa sự chỉ đạo của Trung ương, xa sự chi viện của hậu phương lớn miền Bắc. Xuất phát từ đặc điểm đó, trong suốt 30 năm kháng chiến (1945-1975), và đặc biệt, trong kháng chiến chống Mỹ (1954-1975), quân và dân đồng bằng sông Cửu Long luôn phát huy tính chủ động, sáng tạo và tinh thần tự lực, tự cường thực hành chiến tranh nhân dân tại địa phương. Trong thử thách ác liệt, dưới sự lãnh đạo trực tiếp của Trung ương Cục và Quân ủy Miền, quân và dân đồng bằng sông Cửu Long đã nắm bắt kịp thời các chủ trương của Đảng, vận dụng linh hoạt, sáng tạo, phù hợp với thực tế chiến trường, vượt qua nhiều khó khăn gian khổ để chiến thắng quân thù. Qua đó, tạo nên những nét đặc sắc, mang tính đặc thù của chiến trường đồng bằng nhiều sông rạch. Mà một trong những nét đặc sắc, nổi bật nhất là quyết tâm mở đường và đã mở đường thành công để vận chuyển, tiếp nhận vũ khí, hàng quân sự và các lực lượng của Trung ương chi viện cho chiến trường đồng bằng sông Cửu Long bằng đường Hồ Chí Minh trên biển.
Kế thừa và phát huy những kinh nghiệm tiếp nhận, vận chuyển từ cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp vào cuộc kháng chiến chống Mỹ trong điều kiện mở đường, tổ chức tiếp nhận, cất giữ đến vận chuyển đi các chiến trường bị kẻ thù kiểm soát gắt gao, đánh phá ác liệt. Đây là cả một quá trình đấu trí, đấu lực giữa ta và địch, và ta đã chiến thắng. Đó là chiến thắng của bản lĩnh và trí tuệ của dân tộc Việt Nam nói chung, của quân và dân đồng bằng sông Cửu Long nói riêng.
Sau Hiệp định Giơ-ne-vơ (1954), ở miền Nam Việt Nam những năm 1954 - 1959, quân và dân ta kiên trì tiến hành đấu tranh chính trị, buộc địch thi hành Hiệp định, đòi hiệp thương tổng tuyển cử thống nhất đất nước. Trong khi đó, địch lại ra sức củng cố lực lượng, xây dựng chính quyền tay sai, thẳng tay đàn áp dã man phong trào cách mạng của quần chúng. Địch tăng cường khủng bố, bắt bớ, giam cầm, bắn giết cán bộ, đảng viên, những người kháng chiến với nhiều hình thức độc ác nhằm uy hiếp tinh thần kháng chiến của nhân dân ta.
Trước tình thế đó, tháng 1 năm 1959, Ban Chấp hành Trung ương Đảng họp Hội nghị lần thứ 15. Hội nghị đề ra phương hướng cơ bản của cách mạng miền Nam là: "Khởi nghĩa giành chính quyền về tay nhân dân". Đây là một Hội nghị lịch sử, đáp ứng được nguyện vọng bức thiết của cán bộ, đảng viên và đông đảo quần chúng cách mạng, tạo nên sự chuyển biến căn bản cho phong trào đấu tranh cách mạng miền Nam.
Để bảo đảm vũ khí, trang bị và lực lượng cho miền Nam chiến đấu, Bộ Chính trị quyết định mở đường vận tải chiến lược trên biển để nhanh chóng vận chuyển vũ khí, phương tiện chiến tranh và cán bộ vào chi viện cho chiến trường miền Nam. Theo sự chỉ đạo của Bộ Chính trị, Trung ương Cục miền Nam giao nhiệm vụ cho các tỉnh ven biển đồng bằng sông Cửu Long tổ chức tàu thuyền và cử cán bộ đi bằng đường biển ra miền Bắc báo cáo với Bộ Chính trị về khả năng mở đường vận tải trên biển.
Thực hiện nhiệm vụ của Trung ương Cục giao, ngay trong tháng 8 năm 1961, các tỉnh Cà Mau, Trà Vinh, Bến Tre và tỉnh Bà Rịa đã tổ chức ghe vượt biển rồi mở đường ra Bắc. Hành trình tuy gặp nhiều khó khăn, trắc trở, nhưng các tỉnh đều tổ chức những chuyến đi ra đến miền Bắc an toàn. Đây là những người con ưu tú đại diện cho quân và dân miền Nam anh dũng vượt biển ra miền Bắc xin vũ khí, mang theo khát vọng và niềm tin của nhân dân miền Nam đến với Hồ Chủ tịch và Trung ương Đảng.
Trên cơ sở những thắng lợi đó, ngày 23 tháng 10 năm 1961, Bộ Quốc phòng quyết định thành lập Đoàn 759 - Đoàn vận tải quân sự đường biển đặt dưới sự chỉ đạo của Bộ Quốc phòng làm nhiệm vụ vận chuyển vũ khí, lực lượng chi viện miền Nam. Đoàn 759 ra đời, khẳng định quyết tâm của Đảng ta và đánh dấu bước phát triển mới trong công tác tổ chức vận tải chi viện cho chiến trường miền Nam bằng đường biển.
Từ đây, các phương án vận chuyển táo bạo, bí mật, bất ngờ trên biển và công tác xây dựng bến bãi, kho trạm bí mật tại đồng bằng sông Cửu Long để tiếp nhận hàng chiến lược do Trung ương chi viện được xúc tiến khẩn trương. Cũng từ thời điểm này, bắt đầu xuất hiện những chiếc tàu của Đoàn 759 vượt biển Đông, đưa các loại vũ khí, phương tiện, lực lượng chi viện cho chiến trường miền Nam, làm nên kỳ tích "Đường Hồ Chí Minh trên biển" có một không hai trong lịch sử chống ngoại xâm của dân tộc.
Ngày 19 tháng 10 năm 1962, chiếc tàu mang phiên hiệu "Phương Đông 1", chở 30 tấn vũ khí cập bến Vàm Lũng (Cà Mau) an toàn. Đây là chuyến đi đầu tiên của “Đoàn tàu không số” khai thông tuyến vận tải chiến lược trên biển. Và bến Vàm Lũng (Cà Mau) đã đi vào lịch sử là bến đầu tiên, đón con tàu đầu tiên của tuyến đường vận tải huyền thoại - "Đường Hồ Chí Minh trên biển". Tiếp theo tàu "Phương Đông 1" là các tàu Phương Đông 2, 3, 4 lần lượt cập bến Cà Mau an toàn. Sự chi viện của hậu phương lớn miền Bắc đến được chiến trường đồng bằng sông Cửu Long đã tạo nên nguồn động viên, cổ vũ to lớn đối với toàn thể cán bộ, chiến sĩ và nhân dân nơi đây càng vững tin vào sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng. Từ đây, vũ khí trang bị, khí tài quân sự và một số nhu cầu khác của chiến trường được giải quyết một bước cơ bản. Yêu cầu về xây dựng và phát triển lực lượng vũ trang được đáp ứng; hiệu suất chiến đấu của ba thứ quân được nâng cao và phong trào chiến tranh du kích được phát triển mạnh mẽ. Đây là một nhân tố bảo đảm quan trọng, giúp cho quân và dân đồng bằng sông Cửu Long đẩy mạnh tiến công quân sự, liên tục giành nhiều chiến thắng, đánh bại các "chiến thuật tân kỳ" của địch, góp phần cùng toàn Miền làm phá sản quốc sách "ấp chiến lược", đánh bại chiến lược "chiến tranh đặc biệt" của Mỹ - ngụy.
Từ giữa năm 1965 đến năm 1968, khi Mỹ - ngụy thực hiện chiến lược "chiến tranh cục bộ", khó khăn lớn nhất đối với ta lúc này là địch biết được quân và dân đồng bằng sông Cửu Long đã có vũ khí, trang bị hiện đại của miền Bắc chi viện ngày càng lớn. Một mặt, chúng tăng cường lực lượng hải quân tìm kiếm, phát hiện và ngăn chặn, đánh phá đường Hồ Chí Minh trên biển và trên tuyến sông rạch. Mặt khác, chúng tung tình báo, gián điệp thu thập tin tức, đẩy mạnh hoạt động càn quét, đánh phá tìm diệt các căn cứ, kho trạm và các tuyến vận tải của ta. Địch sử dụng pháo đài bay B.52 cùng nhiều loại máy bay khác, kết hợp với pháo binh ném bom, bắn phá dữ dội vào các vùng giải phóng của ta, trọng điểm là các căn cứ cách mạng ở Cà Mau, Rạch Giá, Long An, Kiến Tường, Mỹ Tho, Bến Tre... Kết hợp với đánh phá, địch còn dùng máy bay rải các loại chất độc hóa học nhằm hủy diệt màu xanh và sự sống trên những vùng đất này.
Về hướng biển, hải quân Mỹ và Sài Gòn tăng cường hoạt động, ra sức , phong tỏa vùng biển miền Nam Việt Nam. Trong năm 1966, Mỹ tổ chức thêm lực lượng đặc nhiệm 116 để ngăn chặn hoạt động của Đoàn 125 (ngày 29 tháng 1 năm 1964, Đoàn 759 đổi tên thành Đoàn 125). Tiếp đó là lực lượng đặc nhiệm 117 ra đời chủ yếu hoạt động khu vực Cà Mau, Trà Vinh, Bến Tre, nơi các tàu ta thường xuyên ra vào. Ngoài khơi, hạm đội 7 của Mỹ tăng cường hoạt động. Mỹ huy động 40% lực lượng của hạm đội 7 vào "ngăn chặn thâm nhập bằng đường biển" từ miền Bắc vào miền Nam. Năm 1966, qua đường ngoại giao, Việt Nam tranh thủ được chính quyền Vương quốc Cam-pu-chia đồng ý cho ta đưa hàng theo đường biển quốc tế vào cảng Công-pông-xom (tên cũ là Xi-ha-núc-vin). Từ cảng Công-pông-xom, hàng hóa được chuyển về Phnôm Pênh, rồi từ đó tiếp tục đưa về các kho dọc biên giới. Từ các kho này, các quân khu 7, 8, 9 tổ chức lực lượng và phương tiện vận chuyển về các địa điểm khác nhau trên khắp chiến trường. Riêng Quân khu 9 đã tổ chức vận tải đường biển bằng hình thức bán công khai, dưới chở vũ khí, trên ngụy trang hàng hóa. Tuyến đường biển từ Công-pông-xom (Cam-pu-chia) đi Hà Tiên về Cà Mau, An Biên (Rạch Giá) được tổ chức dưới hình thức công khai là tàu đánh cá, trên mang đồ nghề đánh cá, dưới chở 20-30 tấn vũ khí.
Như vậy, bằng nhiều phương pháp khác nhau, tuyến vận tải đường biển của ta vẫn vượt qua được sự kiểm soát, ngăn chặn của kẻ thù, đưa các loại vũ khí và hàng quân sự chi viện đắc lực cho cuộc kháng chiến của quân và dân miền Nam. Tính từ tháng 4 năm 1962 đến tháng 4 năm 1972, Đoàn 125 đã tổ chức đi được 168 chuyến (trong đó có 6 chuyến trinh sát mở đường) vận chuyển vào 19 bến của 9 tỉnh miền Nam, chủ yếu là các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long, chuyển được 6.106 tấn vũ khí và hàng ngàn lượt cán bộ tăng cường cho miền Nam.
Để tiếp nhận có hiệu quả vũ khí, hàng quân sự và cán bộ từ miền Bắc chi viện bằng đường biển vào đến chiến trường Nam Bộ thuận lợi, ngày 19 tháng 9 năm 1962, Trung ương Cục miền Nam quyết định thành lập Đoàn 962 (biên chế tương đương sư đoàn). Đoàn có nhiệm vụ xây dựng và mở rộng các bến tiếp nhận hàng dọc bờ biển từ Cà Mau đến Bà Rịa; đón nhận hàng do Đoàn 125 chuyển vào; tổ chức vận chuyển đi các chiến trường theo kế hoạch phân phối của Trung ương...
Trong một thời gian ngắn, nhờ sự giúp đỡ tận tình của quân và dân, các cấp ủy địa phương, Đoàn 962 đã mở xong các bến tiếp nhận và kho chứa hàng trong những khu rừng ven biển. Các bến đón nhận hàng ở các khu vực, được gọi theo mật danh là "B" (còn gọi là "M"). B1: Khu vực bờ biển thuộc Cà Mau; B2: Bờ biển thuộc Trà Vinh; B3: Bờ biển thuộc Bến Tre, B4: Bờ biển thuộc Bà Rịa. Tại mỗi B có: 1 tiểu đoàn (hoặc đại đội) cơ động đánh địch bảo vệ địa bàn; 1 tiểu đoàn (hoặc đại đội) kho; 1 tiểu đoàn (hoặc đại đội) vận tải và một số bộ phận chuyên môn khác. Để đón những con tàu của "Đoàn tàu không số" đúng các điểm quy định, từng bến đã tổ chức các đội hoa tiêu. Mỗi bến thường có từ 2 đến 3 ghe biển, trang bị ngư cụ nhẹ như ghe thường dân đi đánh cá. Đêm đêm khi nhận được lệnh của trên, các đội hoa tiêu bí mật nổ máy cho ghe ra khơi, cách bờ từ 10 đến 15km, dùng đèn bắt tín hiệu của nhau, tổ hoa tiêu dẫn những con tàu chở nặng vũ khí vào bến an toàn, số hàng tiếp nhận được, theo chỉ đạo của trên, các bên tổ chức đưa vũ khí trang bị cho các địa phương và đơn vị. Bến Cà Mau đưa ra tỉnh Cà Mau và các tỉnh Cần Thơ, Sóc Trăng; bến Trà Vinh đưa ra chiến trường Vĩnh - Trà; bến Bến Tre đưa ra các tỉnh thuộc Quân khu 8. Những lúc do điều kiện địa lý và tình hình địch, một số vùng bến tiếp nhận khó khăn, để điều hòa hàng hóa giữa các vùng bến, các đội vận tải trên sông, rạch cũng làm nhiệm vụ đưa hàng từ bến này sang bến khác và trực tiếp chuyển thẳng về miền Đông. Để đưa được vũ khí, hàng quân sự... đến tận chiến trường, phải tổ chức vận chuyển bằng nhiều hình thức, nhiều tuyến đường, nhiều điểm giao nhận hàng; phải luồn lách vượt qua nhiều đồn bốt và mọi sự ngăn chặn đánh phá của địch. Lực lượng dân công các địa phương đảm nhận công việc vận chuyển hàng hóa trên tuyến hành lang, các đội vận tải quân sự đóng vai trò nòng cốt. Theo kế hoạch, đêm đêm từng đoàn người lặng lẽ dùng xuồng, xe trâu, xe bò hoặc mang vác bộ, đưa hàng đến các điểm quy định. Cứ như thế, những kiện vũ khí, hàng quân sự được giao đến tận các đơn vị trên khắp chiến trường đồng bằng sông Cửu Long và miền Đông Nam Bộ.
Sau một thời gian hoạt động, khu vực Trà Vinh, Bến Tre, Bà Rịa do địa thế không thuận lợi, nên tàu thường tập trung vào khu vực Cà Mau, vì nơi đây địa thế tốt, ra vào nhanh, dễ và an toàn. Từ Cà Mau, Đoàn 962 tổ chức vận chuyển nội bộ bằng hai đường: Một đường đi bằng xuồng trên kênh rạch trong đất liền, một đường đi bằng ghe máy trên biển qua Trà Vinh, phân phối cho chiến trường Vĩnh - Trà. Từ Trà Vinh, ta tiếp tục tổ chức vận chuyển qua Bến Tre, phân phối cho chiến trường Khu 8. Sau đó, từ Bến Tre đưa tiếp lên Bà Rịa, qua Rừng Sác phân phối cho chiến trường miền Đông Nam Bộ và đưa vào Miền.
Năm 1972, Bộ Tổng Tham mưu chỉ thị kết thúc quá trình vận chuyển bằng tàu vỏ sắt của Đoàn 125 vào các bến của Đoàn 962 để chuyển sang phương thức vận chuyển mới: Vận chuyển hợp pháp bằng tàu hai đáy. Qua nghiên cứu việc vận chuyển bằng xuồng, ghe hai đáy trong nội địa quân khu, được sự chấp thuận của Bộ Tổng Tham mưu, Bộ Tư lệnh Quân khu 9 quyết định thành lập Đoàn 950 (sau gọi là Đoàn 371). Đoàn 950 hoạt động theo phương thức hợp pháp (các tàu vận chuyển), bất hợp pháp (các bến và kho). Lực lượng được điều động từ những cán bộ, chiến sĩ ưu tú của Đoàn 962 và Đoàn 125. Đoàn 371 vừa đánh bắt cá, vừa chở hàng mướn trong vùng địch từ Cà Mau - Rạch Giá - Sài Gòn- Vũng Tàu - Phan Rang đến Đà Nẵng, vừa tổ chức mỗi chuyến từ 2-3 tàu ra Vịnh Bắc Bộ nhận vũ khí đưa về quân khu. Đến tháng 11 năm 1973, Đoàn 371 đưa được 31 chuyến với 520 tấn vũ khí về các bến Cà Mau và Trà Vinh an toàn. Đoàn 371 hoạt động liên tục cho đến ngày chiến thắng 30 tháng 4 năm 1975.
Tính từ khi thành lập (9-1962), đến ngày 30 tháng 4 năm 1975, Đoàn 962 (sau là trung đoàn) và Đoàn 950 đã tiếp nhận, cất giữ và vận chuyển ra các chiến trường 6.545 tấn vũ khí, hàng quân sự; trực tiếp đưa đón các đồng chí Lê Đức Anh, Võ Văn Kiệt và hàng trăm đồng chí cán bộ trung cao cấp khác từ đồng bằng sông Cửu Long ra Trung ương và ngược lại.
Quá trình thực hiện việc tổ chức mở đường, tiếp nhận, xây dựng bến bãi, kho tàng và vận chuyển vũ khí, hàng chi viện của Trung ương bằng đường biển ở chiến trường đồng bằng sông Cửu Long trong kháng chiến chống Mỹ là một mặt trận chiến đấu ác liệt giữa ta và địch. Trong tổ chức mở đường, tiếp nhận, bảo quản và vận chuyển phải hết sức sáng tạo, linh hoạt, nhạy bén, kịp thời thay đổi các phương thức: Bí mật, công khai, hợp pháp, bán công khai... nắm vững quy luật hoạt động của địch mà hành động nhanh chóng, kịp thời. Khi chiến tranh diễn ra với quy mô ngày càng lớn, lực lượng vũ trang phát triển thì nhu cầu vật chất kỹ thuật càng lớn; yêu cầu về bảo đảm vũ khí trang bị, dự trữ bổ sung vật chất, lực lượng rất cao và rất khẩn trương... Lực lượng vũ trang không thể xây dựng, chiến đấu và giành được thắng lợi khi thiếu vũ khí, vật chất, trang bị kỹ thuật. Vì vậy, sự chi viện của Trung ương qua "Đường Hồ Chí Minh trên biển" có một ý nghĩa đặc biệt đối với quân và dân đồng bằng sông Cửu Long.
Thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ là thắng lợi vĩ đại, vẻ vang nhất của quân và dân ta dưới sự lãnh đạo của Đảng, là thắng lợi mang tính thời đại và nhân dân sâu sắc. Trong thử thách ác liệt của cuộc kháng chiến, cùng với tuyến vận tải quân sự chiến lược mang tên Hồ Chí Minh xuyên Trường Sơn, "Đường Hồ Chí Minh trên biển" và những tuyến vận tải nội địa trên sông, rạch ở đồng bằng sông Cửu Long giữ một vai trò rất quan trọng, đó là một thành công lớn trong nghệ thuật chỉ đạo chiến tranh của Đảng ta, là biểu hiện của ý chí, sức mạnh, trí thông minh, lòng dũng cảm của nhân dân ta trong những năm đánh Mỹ. Bằng tinh thần tự lực, tự cường, mưu trí, sáng tạo, quân và dân đồng bằng sông Cửu Long đã làm nên những kỳ tích đáng tự hào, vượt qua mọi khó khăn ác liệt, bảo đảm vừa vận chuyển cung ứng hậu cần tại chỗ vừa cùng toàn Miền tổ chức hành lang vận chuyển thông suốt; hoàn thành nhiệm vụ tổ chức mở đường, xây dựng bến bãi, tiếp nhận bảo quản và vận chuyển phân phối, sử dụng có hiệu quả các nguồn chi viện to lớn về sức người, sức của từ hậu phương lớn miền Bắc, bảo đảm cho quân và dân đồng bằng sông Cửu Long chiến đấu và chiến thắng.
Chiến thắng đó chứng minh cho một chủ trương chiến lược đúng đắn của Đảng trong việc tổ chức chi viện cho chiến trường miền Nam, trong đó có Đồng bằng sông Cửu Long bằng "Đường Hồ Chí Minh trên biển". Chiến thắng đó cũng thể hiện tinh thần chủ động, sáng tạo của quân và dân đồng bằng sông Cửu Long trong việc tổ chức mở đường, mở bến tiếp nhận và vận chuyển vũ khí, phương tiện chiến tranh và lực lượng của Trung ương chi viện bằng nhiều hình thức, nhiều phương thức đến khắp các chiến trường, làm nên những chiến thắng vang dội, góp phần cùng cả nước kết thúc thắng lợi cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước.
VƯƠNG VĂN HÒA. Đường Hồ Chí Minh trên bộ và đường Hồ Chí Minh trên biển - hai tuyến chi viện chiến lược bảo đảm sức mạnh chiến đấu cho miền Nam đánh Mỹ, bài học còn nguyên giá trị cho công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc / Vương Văn Hòa // Sách Huyền thoại đường Hồ Chí Minh trên biển. - H.: Lao động, 2011. - Tr. 189-196
Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước (1954-1975), miền Bắc xã hội chủ nghĩa là hậu phương lớn, còn miền Nam là tiền tuyến lớn. Để đảm bảo hậu cần cho các lực lượng vũ trang xây dựng và liên tục tiến công địch với quy mô ngày càng lớn ở miền Nam, một mặt, ta xây dựng, củng cố hậu phương chiến lược miền Bắc vững mạnh về mọi mặt, mặt khác, chú trọng khai thác hậu cần tại chỗ. Tuy nhiên, do đất nước tạm thời bị chia cắt làm hai miền, các chiến trường miền Nam lại ở xa hậu phương lớn miền Bắc, hơn nữa, địch tổ chức đánh phá, ngăn chặn rất quyết liệt, nên công tác vận chuyển, chi viện chiến lược của quân và dân ta cho các chiến trường miền Nam trở thành một nhiệm vụ trung tâm đặc biệt quan trọng, quyết định đến thắng lợi của các hoạt động trên chiến trường và của toàn bộ sự nghiệp chống Mỹ, cứu nước. Chính vì vậy, thành công của các tuyến vận chuyển chi viện chiến lược - đường Hồ Chí Minh trên bộ và đường Hồ Chí Minh trên biển không chỉ thể hiện ý chí quyết tâm "Tất cả cho tiền tuyến", "Tất cả để đánh thắng giặc Mỹ xâm lược" của quân và dân ta, mà còn là kết quả của những nỗ lực phi thường và cống hiến vô giá của các lực lượng chi viện chiến lược cả ở trên bộ và trên biển...
1. Đường Hồ Chí Minh trên bộ được xây dựng ngày càng hoàn chỉnh, vững chắc, trở thành tuyến chi viện chiến lược chủ yếu nhất bảo đảm cho miền Nam nói riêng và các chiến trường Nam Đông Dương nói chung.
Bước vào cuộc kháng chiến chống Mỹ, trước sự khủng bố trắng của đế quốc Mỹ và tay sai, cách mạng miền Nam đã chuyển sang kết hợp chặt chẽ giữa đấu tranh chính trị và đấu tranh vũ trang. Cũng từ đây đã đặt ra yêu cầu nhiệm vụ chi viện cho cách mạng miền Nam hết sức phức tạp và nặng nề. Theo sự chỉ đạo của Bộ Chính trị và Tổng Quân ủy, ngày 19 tháng 5 năm 1959, Đoàn 559 được thành lập, đảm trách nhiệm vụ chủ yếu mở đường Trường Sơn, tổ chức vận chuyển hàng chi viện vào Nam và đưa đón cán bộ, bộ đội hành quân vào chiến trường... Quá trình 16 năm (1959-1975), từ khi thành lập đến khi kết thúc kháng chiến, đường Trường Sơn - đường Hồ Chí Minh trên bộ luôn được giữ vững, thông suốt, ngày càng được xây dựng hoàn chỉnh, vững chắc. Tính vào thời điểm cuối của cuộc kháng chiến chống Mỹ, đường Trường Sơn - đường Hồ Chí Minh trên bộ đã xuyên qua địa bàn 20 tỉnh (9 tỉnh của Việt Nam, 7 tỉnh của Lào, 4 tỉnh của Cam-pu-chia) trên một địa bàn rộng hơn 100.000 km2. Ở đó đã hình thành nên lực lượng binh chủng bao gồm 9 sư đoàn (4 sư đoàn công binh, 2 sư đoàn ô tô vận tải, 1 sư đoàn phòng không, 1 sư đoàn công binh, 1 đoàn chuyên gia giúp bạn), 12 trung đoàn binh chủng cơ động, 1 trung đoàn cao xạ, 1 trung đoàn tên lửa... Ngoài ra, Bộ Tư lệnh Trường Sơn còn được trang bị trên 10.000 xe vận tải, 1.500 xe máy binh chủng và nhiều phương tiện khí tài khác, với tổng quân số trên 120.000 người.
Từ những con đường mòn trên dãy Trường Sơn, ta đã xây dựng thành một hệ thống đường giao thông vận tải liên hoàn với tổng chiều dài trên 20.000 km (6 trục dọc, 13 trục ngang) gồm 17.000km đường vận tải cơ giới, trong đó có 800 km đường kín, trên 3.000km đường giao liên. Trên đó còn có hệ thống đường ống xăng dầu dài 1.399km, với 114 trạm bơm xăng dầu và 50 khu kho với trữ lượng 27.000m3 xăng dầu... Mạng thông tin liên lạc không ngừng được củng cố với trên 10.000km đường dây, hơn 1.000 máy thông tin vô tuyến. Riêng hệ thống kho tàng đã có trữ lượng hàng chục vạn tấn vật chất các loại. Bên cạnh 4 bệnh viện, đã xây dựng được 18 bệnh xá tiểu đoàn giao liên, 27 đội điều trị, 90 đội phẫu...
Trong quá trình chiến tranh ác liệt, cùng với việc hoàn thành tốt nhiệm vụ mở đường, vận chuyển, bộ đội Trường Sơn đã tích cực đánh địch bảo vệ tuyến, đã tiêu diệt và bắt 18.470 tên địch, bắn rơi 2.455 máy bay...; đồng thời, phối hợp với các đơn vị chủ lực khác của ta và bạn giải phóng 6 tỉnh Trung - Hạ Lào, mở rộng vùng giải phóng, phát triển và mở rộng đường Trường Sơn - đường Hồ Chí Minh thành một hệ thống ngày càng liên hoàn, vững chắc về mọi mặt.
Cũng chính nhờ xây dựng đường Hồ Chí Minh trên bộ ngày càng hoàn chỉnh, vững chắc, trong 16 năm, bộ đội Trường Sơn đã vận chuyển chi viện được hơn 1 triệu tấn vật chất và vũ khí, trang bị vào các chiến trường. Về hành quân, đã tổ chức bảo đảm cho 1.222.127 lượt người, trong đó có 287 đoàn hành quân của các binh chủng kỹ thuật (xe tăng, pháo...), hàng vạn lượt thương binh qua tuyến... Chỉ tính giai đoạn cuối của cuộc chiến tranh (1973-1975), lực lượng của đường Hồ Chí Minh trên bộ đã vận chuyển được 823.146 tấn hàng, bằng 1,6 lần kết quả của 13 năm trước (1959-1972), trong đó, vận chuyển giao cho các chiến trường được 364.524 tấn, bằng 2,6 lần khối lượng hàng đã giao cho các chiến trường của 13 năm trước đó... Đặc biệt, trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân 1975, bộ đội Trường Sơn đã không chỉ tổ chức vận chuyển, chi viện một khối lượng lớn vật chất mà còn tham gia vận chuyển cơ động thần tốc 3 quân đoàn, 5 sư đoàn và 2 trung đoàn binh chủng... vào chiến trường kịp thời tham gia các chiến dịch tiến công hiệp đồng binh chủng quy mô lớn, nhất là cho chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử.
Thực tế nêu trên chứng tỏ tuyến vận tải chiến lược Trường Sơn - đường Hồ Chí Minh trên bộ không chỉ đơn thuần là tuyến vận tải chiến lược để chuyển mọi mặt tiềm lực (vật chất, con người...) của hậu phương lớn miền Bắc cho tiền tuyến lớn miền Nam và Nam Đông Dương, mà còn là một căn cứ hậu cần chiến lược phía trước, một chiến trường trọng yếu để phối hợp với các chiến trường miền Nam Lào và Cam-pu-chia cùng tiêu diệt địch, giữ vững và mở rộng vùng giải phóng... Với ý nghĩa đó, Đoàn 559 đã được Quân ủy Trung ương và Bộ Quốc phòng trực tiếp lãnh đạo, chỉ đạo, trở thành Bộ Tư lệnh Trường Sơn, đảm trách vai trò của một quân khu liên hợp hậu phương của các chiến trường Nam Đông Dương. Cũng nhờ vậy, trong suốt những năm chiến tranh, đường Hồ Chí Minh trên bộ luôn giữ vững vai trò là một chi viện chiến lược phía trước chủ yếu nhất, bảo đảm cho miền Nam nói riêng và các chiến trường Nam Đông Dương nói chung đánh Mỹ.
2. Đường Hồ Chí Minh trên biển là tuyến chi viện chiến lược đặc biệt quan trọng, trực tiếp bảo đảm cho các chiến trường ven biển, kể cả chiến trường xa nhất là Nam Bộ và cực Nam Trung Bộ.
Để tăng cường hơn nữa công tác chi viện chiến trường theo sự chỉ đạo của Bộ Chính trị - Tổng Quân ủy và Trung ương Cục miền Nam, những năm đầu thập niên 60 (thế kỷ XX), các tỉnh ven biển miền Nam, trước hết là các tỉnh Bến Tre, Trà Vinh, Cà Mau (ở miền Tây Nam Bộ)... đã tiến hành xây dựng bến bãi và tổ chức các đội thuyền vượt biển ra Bắc nhận vũ khí chi viện của Trung ương. Trên cơ sở thắng lợi của những chuyến đi này kết hợp với các kinh nghiệm vận chuyển vũ khí theo đường biển trong cuộc kháng chiến chống Pháp, ngày 23 tháng 10 năm 1961, Quân ủy Trung ương và Bộ Quốc phòng đã thành lập Đoàn 759 đảm trách nhiệm vụ vận chuyển chi viện trên biển cho các chiến trường miền Nam. Lúc đầu, phương tiện của đoàn gồm 5 tàu vỏ gỗ, giống như các tàu đánh cá của các tỉnh miền Nam.
Việc thành lập Đoàn 759 và khai thông tuyến chi viện chiến lược Bắc - Nam trên biển - đường Hồ Chí Minh trên biển là sự kiện hết sức có ý nghĩa. Cũng từ đây, các chiến trường ven biển miền Nam, trước hết là chiến trường Nam Bộ và cực Nam Trung Bộ (B2) đã nhận được sự chi viện trực tiếp của miền Bắc, tạo nên sức mạnh mới cho các lực lượng vũ trang trên chiến trường.
Căn cứ yêu cầu nhiệm vụ, tháng 8 năm 1963, Thường trực Quân ủy Trung ương chủ trương giao Đoàn 759 cho Quân chủng Hải quân phụ trách và Quân chủng trực tiếp đảm đương nhiệm vụ vận chuyển, chi viện đường biển cho các chiến trường miền Nam. Đến ngày 29 tháng 1 năm 1964, Đoàn 759 được điều chỉnh tổ chức, phát triển thành Đoàn 125 hải quân (tương đương cấp trung đoàn). Tính chung giai đoạn (1962 - 1/1965), đường Hồ Chí Minh trên biển đã giao cho các tỉnh thuộc duyên hải Nam Bộ và cực Nam Trung Bộ, Khu 5 được 89 chuyến tàu với 4.919 tấn vật chất, chủ yếu là vũ khí, đạn dược. Với phương châm hoạt động bí mật, bất ngờ, sử dụng các con tàu nhỏ, ngụy trang giống tàu đánh cá, tuyến vận tải quân sự Hồ Chí Minh trên biển đã mở ra một hướng chi viện mới, hết sức quan trọng, đưa hàng chi viện của miền Bắc đến với các chiến trường xa mà tuyến đường Hồ Chí Minh trên bộ chưa có điều kiện vươn tới được.
Từ sau sự kiện Vũng Rô (2-1965), trong điều kiện địch đẩy mạnh ngăn chặn, chống xâm nhập, Đoàn 125 đã chuyển hướng hoạt động, sử dụng các đội tàu đi theo đường hàng hải quốc tế và bí mật bất ngờ đột nhập, đưa hàng vào các bến tiếp nhận. Đến tháng 2 năm 1968, do địch ngày càng đẩy mạnh ngăn chặn, chống xâm nhập ngặt nghèo hơn nên vận chuyển, chi viện của đường Hồ Chí Minh trên biển phải tạm dừng hoạt động. Tính chung trong 4 năm (1965-1968), Đoàn 125 đã tổ chức 27 chuyến tàu, trong đó chỉ có 7 chuyến tàu tới đích, giao được 410,4 tấn vật chất cho các chiến trường.
Vào thời gian này, để hỗ trợ cho các tuyến chi viện chiến lược, nhất là tuyến vận chuyển của đường Hồ Chí Minh trên biển, tranh thủ sự ủng hộ của Vương quốc Cam-pu-chia, ta còn tổ chức vận chuyển bằng tàu biên quốc tế đưa hàng viện trợ quân sự vào cảng Xi-ha-núc-vin (Cam-pu-chia). Bằng cách làm sáng tạo trên, trong giai đoạn 1966-1969, ta đã đưa vào cảng Xi-ha-núc-vin để bảo đảm chiến trường miền Nam được 90.870 tấn vật chất, trong đó có 21.473 tấn vũ khí, đạn.
Giai đoạn từ tháng 10 năm 1968 đến tháng 1 năm 1973, dưới sự chỉ đạo trực tiếp của Đảng ủy - Bộ Tư lệnh Quân chủng Hải quân, Đoàn 125 đã chủ động tìm luồng đường vận chuyển mới, men theo phía Đông các quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa đến Đông Bắc Ma-lai-xi-a, qua Vịnh Thái Lan, khu vực quần đảo Nam Du để đưa tàu cập các bến bãi miền Tây Nam Bộ... Với cách thức mới đó, Đoàn 125 đã tổ chức 42 chuyến tàu vượt biển, trong đó có 7 chuyến tới đích, giao được 301 tấn vũ khí, đạn dược cho Nam Bộ và cực Nam Trung Bộ. Đây là một cố gắng lớn của Đoàn 125 trong điều kiện địch tăng cường bao vây, ngăn chặn quyết liệt.
Từ sau Hiệp định Pa-ri (1-1973), thực hiện sự chỉ đạo của Quân ủy Trung ương và Bộ Quốc phòng, Đoàn 125 tạm dừng nhiệm vụ vận chuyển, chi viện trực tiếp cho các chiến trường miền Nam bằng đường Hồ Chí Minh trên biển. Toàn bộ lực lượng vận chuyển của Đoàn chuyển sang đảm trách nhiệm vụ vận chuyển trên miền Bắc... Tuy vậy, đến cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân 1975, các đội tàu của Đoàn 125 lại tiếp tục vận chuyển vật chất, cơ động lực lượng phục vụ cho việc giải phóng các tỉnh ven biển miền Nam, nhất là giải phóng quần đảo Trường Sa...
Như vậy, đường Hồ Chí Minh trên biển đã tạo nên một phương thức chi viện mới hết sức quan trọng, trực tiếp bảo đảm cho các chiến trường ven biển miền Nam. Tuy quy mô tổ chức và hoạt động (so với đường Hồ Chí Minh trên bộ) nhỏ, số vật chất đưa vào chiến trường miền Nam không nhiều..., song đây thực sự là mũi thọc sâu, vu hồi lợi hại, để vận chuyển, chi viện vào những địa bàn ven biển trọng yếu mà đường Hồ Chí Minh trên bộ chưa thể vươn tới được. Đặc biệt, hoạt động của đường Hồ Chí Minh trên biển luôn có sự phối hợp chặt chẽ với các lực lượng đảm nhiệm công tác chi viện cả ở hậu phương và tiền tuyến, hơn nữa do thực hiện tốt phương châm "bí mật, bất ngờ" nên trong nhiều thời điểm, nhất là giai đoạn 1961-1965, đường Hồ Chí Minh trên biển đã tỏ rõ tính ưu việt, không những vận chuyển, chi viện được cho chiến trường xa nhất - Nam Bộ và cực Nam Trung Bộ mà còn giữ được an toàn, ít tổn thất về người và trang bị...
3. Một số bài học chủ yếu từ quá trình tổ chức và hoạt động của đường Hồ Chí Minh trên bộ và đường Hồ Chí Minh trên biển trong kháng chiến chống Mỹ có thể vận dụng vào công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Ngày nay, nhân dân ta đang tiến hành đồng thời hai nhiệm vụ chiến lược: Xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Tuy nhiên, với bản chất hiếu chiến, các thế lực thù địch vẫn không từ một thủ đoạn nào, tìm mọi cách chống phá, kể cả việc đẩy mạnh các âm mưu và hành động xâm lấn, xâm lược Tổ quốc ta. Đối với ta, để làm thất bại mọi âm mưu và hành động của địch, nhất là khi chúng liều lĩnh tiến hành chiến tranh xâm lược quy mô lớn đối với Tổ quốc ta, có thể thấy, dựa vào truyền thống, kinh nghiệm từ lịch sử, dưới sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng, ta vẫn phải phát huy sức mạnh của toàn dân tộc tiến hành chiến tranh nhân dân bảo vệ Tổ quốc trong điều kiện mới. Trong đó, nhiệm vụ chi viện chiến lược bảo đảm cho các hướng, các địa bàn chiến lược, cả ở đất liền và biển, đảo… là hết sức phức tạp và nặng nề. Do vậy, những bài học, những kinh nghiệm rút ra từ quá trình xây dựng, tổ chức hoạt động của đường Hồ Chí Minh trên biển vẫn luôn có giá trị, mang tính thời sự sâu sắc, trước hết là một số nội dung sau:
Một là, phải thường xuyên quán triệt sâu sắc đường lối, các quan điểm của Đảng và tư tưởng Hồ Chí Minh vào việc xây dựng nền quốc phòng toàn dân và chiến tranh nhân dân trong điều kiện mới. Đây cũng là nền tảng hết sức quan trọng để nâng cao nhận thức toàn diện về các lĩnh vực, trước hết là công tác quân sự. Qua đó, đẩy mạnh xây dựng ý chí quyết tâm, tích cực chủ động nghiên cứu để đề ra các kế hoạch, phương án... phù hợp và tổ chức chuẩn bị về mọi mặt, sẵn sàng vượt qua mọi khó khăn, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ chi viện bảo đảm cho các địa bàn, các hướng chiến lược.
Hai là, trong tổ chức chỉ đạo phải luôn kết hợp chặt chẽ hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; kết hợp kinh tế với quốc phòng trên quy mô cả nước, trên từng địa bàn, từng hướng chiến lược... Trên cơ sở đó, coi trọng việc xây dựng, chuẩn bị thế trận hậu cần chiến tranh nhân dân của từng cấp thật sự liên hoàn, vững chắc bảo đảm ở đâu có tác chiến là ở đó có các cơ sở bảo đảm hậu cần, nhất là ở các hướng, các địa bàn trọng yếu. Đồng thời, dựa trên sự kết hợp chặt chẽ kinh tế với quốc phòng, cần phát triển hệ thống hạ tầng cơ sở (đường giao thông, kho, bến...), các công trình lưỡng dụng (kinh tế, quân sự); phát triển mạnh các nguồn lực tại chỗ khác, bảo đảm không những giảm bớt công sức vận chuyển, chi viện từ xa tới mà còn đáp ứng kịp thời các tình huống xảy ra...
Ba là, đường Hồ Chí Minh trên bộ và đường Hồ Chí Minh trên biển về thực chất là những tuyến hậu cần chiến lược. Do vậy, phải luôn có ý thức xây dựng lực lượng, cơ sở vật chất hậu cần quân đội vững mạnh về mọi mặt, xây dựng ngành Hậu cần tiến lên chính quy, hiện đại làm nòng cốt của hậu cần toàn dân, hậu cần chiến tranh nhân dân để không ngừng phát huy sức mạnh tổng hợp về hậu cần, hoàn thành thắng lợi mọi nhiệm vụ bảo đảm chi viện.
Bốn là, phải căn cứ vào xu thế phát triển của tình hình, yêu cầu nhiệm vụ và điều kiện cụ thể của Việt Nam để chuẩn bị và triển khai các tuyến vận tải quân sự chiến lược. Thực tiễn của đường Hồ Chí Minh trên bộ và đường Hồ Chí Minh trên biển chỉ rõ, cần hết sức linh hoạt trong việc mở đường, sử dụng kết hợp các phương tiện, phương thức vận chuyển trên bộ, cũng như trên biển..., song quy luật chung là lấy cơ giới là chủ yếu, tiến lên cơ giới hóa, hiện đại hóa toàn bộ tuyến vận tải quân sự chiến lược... để bảo đảm kịp thời cho các nhiệm vụ, nhất là cho tác chiến hiệp đồng quân binh chủng quy mô lớn, góp phần giành thắng lợi quyết định trên các chiến trường và toàn bộ cuộc chiến tranh.
Năm là, nhiệm vụ vận chuyển chi viện cho các chiến trường của đường Hồ Chí Minh trên bộ và đường Hồ Chí Minh trên biển luôn diễn ra trong điều kiện địch tổ chức bao vây phong tỏa, đánh phá, ngăn chặn ác liệt. Vì thế, trong mọi hoàn cảnh đều phải kiên cường trụ bám "đánh địch mà đi, mở đường mà tiến"; về tổ chức kể cả trên bộ lẫn trên biển..., cần nghiên cứu kế thừa xây dựng, phát triển tuyến chi viện chiến lược theo mô hình binh chủng hợp thành (nhất là của đường Hồ Chí Minh trên bộ) để bảo đảm vận chuyển, chi viện ngày càng lớn, hơn nữa còn làm thất bại mọi âm mưu, thủ đoạn bao vây, đánh phá, ngăn chặn của địch...
Sáu là, quá trình xây dựng và hoạt động của các tuyến chi viện chiến lược: Đường Hồ Chí Minh trên bộ và đường Hồ Chí Minh trên biển còn chỉ rõ, cần củng cố và phát triển các mối quan hệ, giúp đỡ lẫn nhau về hậu cần giữa Việt Nam và các nước bầu bạn trên thế giới, nhất là mối quan hệ Việt Nam - Lào - Cam-pu-chia. Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, sở dĩ các tuyến chi viện chiến lược hoạt động liên tục, thông suốt là do đã không tách rời sự giúp đỡ, ủng hộ quý báu của các nước anh em, kể cả việc giúp đỡ xây dựng đường vận chuyển nằm trên đất bạn.Vì thế, phát huy truyền thống đó, trong điều kiện hiện nay, cần có phương thức hợp tác phù hợp (trao đổi hàng hóa, đầu tư phát triển kinh tế, các hoạt động nhân đạo, hợp tác sản xuất...) nhằm không ngừng nâng cao tiềm lực hậu cần và đời sống kinh tế - xã hội của mỗi nước. Đây cũng là bước chuẩn bị quan trọng để trong mọi trường hợp, ta và bạn có đủ nguồn lực, phối hợp, giúp đỡ lẫn nhau cùng làm thất bại mọi âm mưu và hành động xâm lược của các thế lực thù địch...
Tóm lại, thực tiễn của cuộc kháng chiến chống Mỹ đã khẳng định vai trò đặc biệt quan trọng của đường Hồ Chí Minh trên bộ và đường Hồ Chí Minh trên biển. Do tính đặc thù, yêu cầu nhiệm vụ có sự khác biệt nhất định, song đây chính là hai tuyến vận chuyển chi viện chiến lược trọng yếu bảo đảm cho tiền tuyến đánh Mỹ. Với những đóng góp vô giá của mình, đường Hồ Chí Minh trên bộ và đường Hồ Chí Minh trên biển xứng đáng là những kỳ tích tiêu biểu của công tác hậu cần, của chiến tranh nhân dân Việt Nam. Trong bối cảnh mới, dẫu còn nhiều thách thức khó khăn, song kế thừa và phát triển bài học xây dựng đường Hồ Chí Minh trên bộ và đường Hồ Chí Minh trên biển trong cuộc kháng chiến chống Mỹ; cũng như bằng những thành quả của sự nghiệp đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước..., nhất định nhân dân và quân đội ta dưới sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng, sẽ thực hiện thắng lợi công cuộc xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
PHẦN II
NHỮNG NGƯỜI LÀM NÊN HUYỀN THOẠI
HỒNG HẢI. Anh hùng Bông Văn Dĩa - cá kình biển đông / Hồng Hải, Trịnh Dũng // Sách Huyền thoại đường Hồ Chí Minh trên biển. - H.: Lao động, 2011. - Tr. 291-295
…
Người “anh cả” của các thủy thủ
… Kể từ ngày chuyến tàu đầu tiên của Đoàn tàu không số khởi hành, nhưng sự kính trọng của các thủy thủ dành cho ông - Đại tá, Anh hùng LLVT nhân dân Bông Văn Dĩa, vẫn vẹn nguyên. Ai cũng xem ông là người “anh cả” của Đoàn tàu không số. Ông Trần Văn Hữu, Trưởng ban liên lạc Hội truyền thống Đường Hồ Chí Minh trên biển nói rằng: Trong lịch sử của Đoàn tàu không số, nhiều con tàu được tôn vinh là “cá kình Biển Đông” thì Bông Văn Dĩa chính là “anh cả” của những con cá kình, người trực tiếp khai mở ra con đường huyền thoại.
Đó không chỉ là sự tôn vinh của đồng đội, lịch sử Lữ đoàn 125 đã dành cho ông những trang viết trân trọng nhất: “Thực hiện chủ trương của Bộ Chính trị và Quân ủy Trung ương, sau khi rút kinh nghiệm các chuyến vận chuyển đường biển từ Bắc vào Nam chưa thành công, Đoàn 759 quyết định để thuyền “Bạc Liêu” đi chuyến trinh sát, mở đường từ Bắc vào Nam. Thuyền gồm 6 người do đồng chí Bông Văn Dĩa là Bí thư chi bộ phụ trách. Đêm 10-4-1962, thuyền rời cửa Nhật Lệ (Quảng Bình) đi về hướng Nam.
Ngày 14-4-1962, khi thuyền đến vùng biển Nha Trang thì gặp tàu Mỹ, chúng nghi ngờ và cho tàu chạy vòng quanh, quần đảo từ 8 giờ sáng đến 14 giờ chiều; anh em trên thuyền phải bỏ hết hải đồ, la bàn xuống biển, đóng vai dân chài ra khơi đánh cá bị gió đẩy xa bờ, địch bị ta nghi binh không đeo bám nữa; thuyền tiếp tục hành trình về hướng Nam. Ngày 18-4-1962, thuyền tới cửa Bồ Đề (thuộc Tân Ân, Ngọc Hiển, Cà Mau); thuyền đi vào cửa Rạch Ráng, 10 giờ đêm hôm đó cập vào Vàm Lũng; sau thời gian nghiên cứu, khảo sát bến, thuyền "Bạc Liêu" tiếp tục quay trở ra miền Bắc. Chuyến đi trinh sát, mở đường từ Bắc vào Nam đã thành công. Trung tuần tháng 8-1962, Quân ủy Trung ương thông qua Nghị quyết mở đường vận chuyển chiến lược trên biển. Bắt đầu từ đây, Đoàn 759 bước vào một giai đoạn vận chuyển mới”.
Bà Bông Thị Ưa, con gái Anh hùng LLVT nhân dân Bông Văn Dĩa cho chúng tôi xem những trang nhật ký, hồi ký của ông, với tư cách Chính trị viên của tàu gỗ Phương Đông 1, cùng Thuyền trưởng Lê Văn Một chỉ huy, chở 35 tấn vũ khí từ miền Bắc vượt biển vào rạch Chùm Gộng an toàn, đánh dấu Đường Hồ Chí Minh trên biển chính thức được khai thông, ông viết: “Đêm 12-10-1962, chúng tôi chở hàng và vũ khí xuống tàu tại bến Đồ Sơn (Hải Phòng). Đêm 13 lại xuống tiếp, cộng chung là 35 tấn. 8 giờ đêm (20 giờ) ngày 14-10-1962, chúng tôi rời bến Đồ Sơn đi theo đường kẻ (đường vạch sẵn trên bản đồ). Đến đảo Hải Nam thì gặp gió mùa đông bắc thổi mạnh nên phải đi theo đường kẻ số hai. Đến Cù Lao Thu thì máy trục trặc, chúng tôi phải thả trôi một đêm để sửa máy nhưng vẫn không thể chạy mau được như cũ. 6 giờ sáng ngày 20-10-1962, tàu chúng tôi vào Cửa Lũng, ấp Rạch Gốc, xã Tân Ân gặp đoàn xuồng của đồng chí Nguyễn Văn Phan (Tư Đức) trong vàm Cửa. Gặp nhau rất mừng rỡ. Khi tàu lọt vô tới Cửa Lũng thì tôi lập tức báo tin vui cho Đoàn 125 và Trung ương biết là chúng tôi đã tới nơi an toàn. Đưa tàu vô tới nơi quy định là rạch Chùm Gộng. Đậu xong lập tức cho các ghe xuồng bốc sang hàng...”.
Thầm lặng làm cách mạng
Năm 1967, với những chiến công xuất sắc lập được cùng Đoàn tàu không số, tên tuổi của Bông Văn Dĩa trở nên nổi tiếng khắp hai miền Nam - Bắc nhưng ít người biết, ông đã có một cuộc đời hoạt động cách mạng rất sôi nổi trên “mặt trận thầm lặng” từ năm 1934, khi mới 19 tuổi. Với bí danh Hai Địa, chàng trai quê ấp Rạch Gốc, xã Tân Ân, huyện Ngọc Hiển, tỉnh Cà Mau sinh ra trong gia đình dân nghèo vùng biển. Được thầy giáo là nhà cách mạng Phan Ngọc Hiển giúp đỡ, ông sớm giác ngộ và được kết nạp vào Đảng Cộng sản Việt Nam năm 1940. Từ khi vào Đảng, ông hoạt động rất tích cực ở vùng Rạch Gốc. Ngày 12-12-1940, từ xã Tân Dân, ông được cấp trên giao nhiệm vụ đến Hòn Khoai trao Nghị quyết khởi nghĩa của Tỉnh ủy Cà Mau cho đồng chí Phan Ngọc Hiển và cùng tham gia tổ chức cuộc khởi nghĩa ở Hòn Khoai. Cuộc khởi nghĩa bị khủng bố, ông bị thực dân Pháp kết án khổ sai đày đi Côn Đảo. Suốt những năm lưu đày chịu nhiều cực hình tra tấn, ông vẫn luôn giữ vững khí tiết cách mạng, cùng với chi bộ nhà tù đấu tranh và tổ chức nhiều cuộc vượt ngục đưa các chiến sĩ của ta về đất liền hoạt động. Cách mạng Tháng Tám thành công, ông cùng các chiến sĩ tù Côn Đảo trở về tiếp tục hoạt động cách mạng.
Sinh thời, ông Hai Địa là người lầm lì, ít nói. Vốn là một ngư dân, rất rành về biển, Hai Địa có thể đi biển mà không cần sơ đồ, la bàn, chỉ cần nhắm hướng hay nhìn sao trời... mà đi. Vì thế, thời kỳ kháng chiến chống Pháp, Hai Địa được Xứ ủy phân công xuyên biển sang Thái Lan mua vũ khí và đưa bộ đội hải ngoại về nước. Chuyến đi đầu, với sự trợ giúp của vợ là bà Nguyễn Thị Hoài, nên công việc của ông được cải trang bí mật. Đến Thái Lan, mặc dù bị nhà cầm quyền bắt giam 4 tháng nhưng khi vừa ra tù ông chở ngay chuyến vũ khí từ Thái Lan về Năm Căn. Lần thứ hai, do vận chuyển bằng đường biển khó khăn nên cấp trên quyết định tổ chức bằng đường bộ từ Thái Lan qua Cam-pu-chia về Việt Nam. Trên đường vận chuyển, ông cùng đơn vị chiến đấu 10 trận để bảo toàn vũ khí. Sau đó, ông được điều động tham gia nhiều trận đánh Pháp.
Chính những ngày tháng làm công tác mua sắm, vận chuyển vũ khí từ Thái Lan về Nam Bộ đã đưa Bông Văn Dĩa đến một sự gặp gỡ kỳ ngộ với Thuyền trưởng Lê Văn Một sau này. Trong đường dây chuyển vũ khí từ Thái Lan về, khi Lê Văn Một phụ trách trạm bên đất Thái Lan thì trạm thứ hai trên đất Cam-pu-chia do Bông Văn Dĩa làm trạm trưởng. Sau đó, hai người lại cùng cộng tác vận tải vũ khí từ Thái Lan về Nam Bộ qua đường biển. Năm 1948, chính Bông Văn Dĩa đã tổ chức kết nạp Lê Văn Một vào Đảng. Và 15 năm sau, khi Lê Văn Một tập kết ra Bắc đang làm Cảng trưởng ở Cẩm Phả, được Trung ương chọn làm thuyền trưởng tàu không số đầu tiên chở vũ khí vào Nam thì ông lại cùng thuyền với Bí thư chi bộ Chính trị viên Bông Văn Dĩa.
“Điểm tựa” của mọi người
Các thủy thủ tàu không số dành cho Bông Văn Dĩa những lời đánh giá cao cả về tài năng và đức độ. Tuy nhiên, tính cách nổi trội nhất trong ông là bản lĩnh vững vàng trước mọi phong ba, bão táp như “pho đồng, tượng đá”. Năm 1961, Bông Văn Dĩa nhận nhiệm vụ trên giao là tổ chức thăm dò tuyến đường biển từ Cà Mau ra miền Bắc để chở vũ khí vào miền Nam. Trong chuyến đầu tiên, nhiều tỉnh phía Nam cùng gửi tàu ra Bắc nhưng tàu thì bị giặc chặn bắt, tàu bị giông bão làm trôi dạt. Riêng thuyền của Bông Văn Dĩa là đến được bờ biển Quảng Bình nhưng ngay lập tức, ông bị dân quân bắt vì tưởng đó là biệt kích ngụy.
Ông bị giam. Mọi cuộc hỏi cung của ta đối với “tên biệt kích” này đều không thu được kết quả. Hai Địa nhất định không tiết lộ nhiệm vụ, chỉ một mực yêu cầu giải về Trung ương, hoặc cho gặp Bí thư thứ nhất Lê Duẩn. Ông còn “dọa”: “Các đồng chí không đưa tôi đi gặp đồng chí Lê Duẩn ngay, sau này lỡ việc lớn, phải chịu trách nhiệm”. Vừa may, lúc đó đồng chí Lê Duẩn đến Quảng Bình công tác. Nghe báo cáo: “Có người trong Nam, tự xưng tên là Hai Địa, đòi gặp trực tiếp đồng chí, không chịu khai báo gì nữa”. Nghe tên ông, đồng chí Lê Duẩn lập tức đến gặp. Vậy là hai người bạn tù Côn Đảo mấy mươi năm trước gặp mặt, họ ôm chầm lấy nhau...
Ngày 23-10-1961, Bộ Quốc phòng quyết định thành lập đơn vị vận tải trên biển mang tên Đoàn 759. Đoàn 759 tin tưởng giao Bông Văn Dĩa chỉ huy thuyền Bạc Liêu, đi chuyến trinh sát mở đường. Ông đã cùng đồng đội trở về báo cáo cấp trên tình hình thăm dò và xây dựng bến bãi tiếp nhận vũ khí với Trung ương và Bác Hồ. Đoàn thủy thủ của ông được lệnh ở Đồ Sơn để sẵn sàng nhận nhiệm vụ.
Tại bến Đồ Sơn, đầu tháng 10-1962, chiếc tàu gỗ gắn máy mang tên Phương Đông 1 chở 30 tấn vũ khí do Thuyền trưởng Lê Văn Một và Chính trị viên Bông Văn Dĩa chỉ huy, lên đường vào Nam. Trước khi xuất phát, đích thân các đồng chí: Phạm Hùng, Nguyễn Chí Thanh, Trần Văn Trà đến động viên cán bộ, chiến sĩ trên tàu. Đây là chuyến đi đánh dấu “đường mòn trên Biển Đông” chính thức ra đời.
Bông Văn Dĩa đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ, trở thành người chiến sĩ tiên phong mở đường Hồ Chí Minh trên biển. Từ đó trở đi, vũ khí liên tiếp được đưa từ miền Bắc vào cập bến khu vực mũi Cà Mau. Với những thành tích và công lao công hiến đặc biệt, năm 1967, ông được tuyên dương danh hiệu Anh hùng LLVT nhân dân. Đại tá Bông Văn Dĩa là tấm gương trong sáng, cả cuộc đời vì sự nghiệp cách mạng, luôn thể hiện đức tính cần kiệm liêm chính, chí công vô tư, sẵn sàng chịu đựng hy sinh vì đồng chí, đồng đội. Chuyện kể rằng, sau khi Mỹ-ngụy phá hoại Hiệp định Giơ-ne-vơ, địch đánh phá ác liệt, cả vùng U Minh hầu như không còn chỗ an toàn. Các cán bộ bảo vệ đang băn khoăn chưa biết rút về đâu thì đồng chí Lê Duẩn nói: “Còn một chỗ. Còn một người có thể tin cậy: Anh Hai Địa ở Rạch Gốc. Rạch Gốc là đất có thể nương náu. Hai Địa là cơ sở của đồng chí Phan Ngọc Hiển, từng bị tù Côn Đảo. Ở Côn Đảo, mỗi lần chúng tôi bị địch đánh thì Hai Địa xông ra chịu đòn thay. Phải đi tìm Hai Địa. Đó là con người có thể tin cậy trong lúc khó khăn cùng cực của cách mạng”.
VŨ THANH SƠN. Lê Văn Một thuyền trưởng tàu C41 / Vũ Thanh Sơn // Sách Đường mòn Hồ Chí Minh trên biển: Cung đường bất tử T.1. - H.: Hội nhà văn, 2021. - Tr. 163-171
Lê Văn Một là con thứ 11 của Đốc học Lê Văn Giỏi và bà Trần Thị Lang. Là người Việt nhưng mang quốc tịch Pháp với tên là Abel René. Lớn lên anh đi làm lính thủy, làm hoa tiêu trên tầu La Motte Picquet một tuần dương hạm lớn nhất của Pháp ở Đông Dương. Sau Cách mạng tháng Tám năm 1945, Lê Văn Một gia nhập đội vận tải đường sông, làm thuyền trưởng, qua lại khắp các kênh rạch Đồng Tháp Mười. Anh được nhà Cách mạng lão thành Dương Quang Đông giác ngộ cách mạng rồi bố trí vào lực lượng vận tải "đường xuyên Tây" chuyển vũ khí từ Thái Lan về Nam Bộ phục vụ cho kháng chiến chống Pháp. Cuối tháng 6/1945, Lê Văn Một được giao 24 kilôgam vàng cùng một số đồng chí đi theo đường biển sang Thái Lan mua vũ khí. Sau bốn ngày lênh đênh trên biển, anh đến Thái Lan bán vàng, mua vũ khí gửi vào chùa do một nhà sư người Việt có tên là Bảo Ân giúp đỡ. Lê Văn Một đã tổ chức 70 người và 10 xe bò, 10 con voi vận chuyển toàn bộ số vũ khí này về Nam Bộ an toàn. Thấy đi bằng đường bộ khó khăn và được ít, Lê Văn Một cùng đồng chí Dương Quang Đông tổ chức thuyền to về nước. Chính trong thời gian hoạt động trên "con đường xuyên Tây" Lê Văn Một và Bông Văn Dĩa đã gặp nhau. Lê Văn Một phụ trách trạm trên đất Thái Lan, Bông Văn Dĩa làm trạm trưởng ở đất Campuchia. Hai người cùng vận chuyển vũ khí từ Thái Lan về Nam Bộ bằng đường biển. Hai người cùng tham gia "bộ đội Hải ngoại Cửu Long 2" do đồng chí Trần Văn Giàu công tác ở Thái Lan tổ chức. Sau Hiệp định Genève, Lê Văn Một được phân công cùng đồng chí Đồng Văn Cống lo việc tập kết quân dân miền Nam ra Bắc. Tập kết ra Bắc, Lê Văn Một làm cảng trưởng Cẩm Phả, Quảng Ninh rồi về làm hoa tiêu ở cảng Hải Phòng.
Trước tình hình lực lượng vũ trang ở miền Nam phát triển nhanh, nhưng vũ khí, đạn dược hết sức thiếu thốn, việc chi viện từ miền Bắc vào theo đường bộ của đoàn 559 mới chỉ vươn tới bắc Khu 5 (Trị - Thiên), trong khi đó yêu cầu vũ khí của các tỉnh ở Nam Bộ đang rất bức xúc. Nghiên cứu địa hình, lợi thế về vùng biển nước ta, hiệu quả vận tải đường biển và kinh nghiệm từ thực tiễn tổ chức rất thành công việc vận chuyển vũ khí, hàng hóa theo đường biển từ Thái Lan về Nam Bộ do các đồng chí Dương Quang Đông, Bông Văn Dĩa và Lê Văn Một thực hiện trong cuộc kháng chiến chống Pháp, Quân ủy Trung ương tiếp tục chỉ thị Bộ Tổng Tham mưu khẩn trương nghiên cứu tình hình trên biển, tìm hiểu các hoạt động kiểm soát vùng biển, bờ biển của địch, khả năng, vật chất con người của ta làm đề án mới về xây dựng và tổ chức lực lượng vận tải biển chi viện chiến trường Nam Bộ và Khu 5.
Ngay trong quý 1/1961, Bộ Tổng Tham mưu đã hoàn thành đề án về tổ chức con đường vận chuyển chiến lược trên biển chi viện cho chiến trường miền Nam. Bộ Tổng Tham mưu đề nghị Bộ Tổng Tư lệnh thành lập đơn vị vận tải thủy lấy tên là Đoàn 759.
Bộ Chính trị cũng chỉ thị cho Trung ương Cục miền Nam chỉ đạo các tỉnh ven biển ở miền Trung và Nam Bộ chủ động chuẩn bị bến bãi và tổ chức đưa thuyền vượt biển ra miền Bắc vừa thăm dò nắm tình hình địch và nghiên cứu tuyến vận chuyển trên biển, vừa nhận vũ khí kịp thời cung cấp cho phong trào đấu tranh cách mạng ở miền Nam phát triển.
Ngày 23/10/1961, Bộ Tổng Tư lệnh ra Quyết định số 97/QP do Thứ trưởng Hoàng Văn Thái ký, thành lập Đoàn 759 đặt dưới sự chỉ đạo quản lý trực tiếp của Bộ Tổng Tư lệnh làm nhiệm vụ vận chuyển chiến lược theo đường biển chi viện cho cách mạng miền Nam. Đồng chí Trung tá Đoàn Hồng Phước nguyên Tham mưu trưởng Sư đoàn 330 được bổ nhiệm làm Đoàn trưởng.
Trong số những cán bộ đầu tiên được điều về Đoàn 759 có đồng chí Lê Văn Một.
Sau buổi đồng chí Bông Văn Dĩa báo cáo trực tiếp với đồng chí Lê Duẩn và đồng chí Trần Văn Trà một tuần, Đoàn 759 lựa chọn bố trí một đội thuyền 13 người để đi làm nhiệm vụ, gồm: Lê Văn Một, Bông Văn Dĩa, Ngô Văn Tân (Năm Ký), Võ Tấn Thành (Ba Thành), Nguyễn Văn Luông (Hai Sơn), Lê Văn Nhung (Hai Hùng), Nguyễn Văn Khương (Tám Kết), Thanh Đen, Huỳnh Văn Sao (Năm Sao), Nguyễn Văn Bé (Tư Bé), Nguyễn Long và hai chiến sĩ tập kết ra Bắc được cấp trên lựa chọn đi chuyến đầu tiên là Nguyễn Xuân Lai và Sáu Rô một là đài trưởng thông tin và một là nhân viên vũ khí. Toàn đội chuyển đến ở căn nhà số 12 phố Nguyễn Gia Thiều, gần Hồ Thiền Quang. Anh em được chăm sóc, nuôi dưỡng theo chế độ đặc biệt, được học tập chính trị, chuyên môn hàng hải, có điều không ai được ra ngoài, không liên lạc với bên ngoài. Toàn đơn vị chụp ảnh chung và từng đồng chí chụp riêng để lưu lại trong hồ sơ do Quân ủy Trung ương quản lý. Từng người tuyên thệ "sẵn sàng quyết tử hy sinh". Đảng ủy Đoàn 759 quyết định thành lập chi bộ chỉ định đồng chí Bông Văn Dĩa làm Bí thư, Lê Văn Một và Huỳnh Văn Sao là chi ủy viên.
Ngày 27/8/1962, Đảng ủy Đoàn 759 ra Nghị quyết về "bảo đảm" một số thuyền vận chuyển hàng cho miền Nam. Nghị quyết xác định rõ mục đích vận chuyển hàng là "chi viện để xây dựng lực lượng vũ trang miền Nam, thúc đẩy cách mạng miền Nam phát triển. Đạt thành công chuyến đầu tiên khai thông đường vận chuyển có tính chất quyết định chiến lược, đó là một nhiệm vụ tối quan trọng. Về cách đối phó với địch, phải nắm vững nguyên tắc: Khi bị lộ phải thủ tiêu tất cả hàng vận chuyển bằng cách đốt, nổ, không để lại dấu vết gì cho địch biết. Phải hy sinh đến giọt máu cuối cùng, chiến đấu dũng cảm với địch, vừa chiến đấu, vừa thủ tiêu hàng. Phải chọn thời cơ xuất phát và biết lợi dụng lúc sơ hở nhất của địch như chiều thứ bảy hoặc ngày đầu tháng, vượt qua vĩ tuyến 17 lúc ban đêm, ngụy trang thuyền bằng lưới và cờ địch.
Sau hơn một tháng làm công tác chuẩn bị, đến đầu tháng 10 thì mọi công việc đảm bảo cho chuyến đi đã hoàn thành. Cuối tháng 9/1962, trước khi đội công tác tàu 41 xuống tàu làm nhiệm vụ, Đảng ủy Đoàn 759 tổ chức liên hoan lên đường. Các đồng chí Phạm Hùng, Ủy viên Bộ Chính trị, Phó Thủ tướng Chính phủ, Ung Văn Khiêm, ủy viên Trung ương Đảng, Bộ trưởng Bộ Ngoại giao, Nguyễn Văn Vịnh, Ủy viên Trung ương Đảng, Chủ nhiệm ủy ban Thống nhất Trung ương; Trần Văn Trà Ủy viên Trung ương Đảng, Tổng Tham mưu phó và chỉ huy Đoàn 759 đều có mặt dự liên hoan tiễn các đồng chí đi làm nhiệm vụ. Đồng chí Phạm Hùng căn dặn, động viên, đặt niềm tin vào các thủy thủ và chúc toàn đội hoàn thành nhiệm vụ. Đồng chí nói: "Liên Xô đưa con tàu vào vũ trụ. Các đồng chí là những người "Khai sơn phát thạch" con đường biển này".
Trước sự ưu ái của đồng chí Phạm Hùng và các đồng chí Ủy viên Trung ương khác. Sau lời hứa của đồng chí chính trị viên Bông Văn Dĩa, thuyền trưởng Lê Văn Một cũng hứa, thể hiện quyết tâm của toàn đội: “Quyết tâm và quyết tử trong công tác, tích cực cùng anh em lái thuyền về đến miền Nam”.
Tối hôm sau xe đưa các đồng chí trong đội thuyền từ Hà Nội về Đồ Sơn nghỉ ngơi, chờ xuất phát.
20 giờ ngày 9/10/1962, chiếc tàu mang số hiệu 41 cập bến Vạn Sét, Đồ Sơn để xuống hàng. Để đảm bảo bí mật, tàu chỉ xuống hàng vào ban đêm, ban ngày tàu dời đến một địa điểm khác. Trên đường di chuyển tàu mắc cạn vào bãi đá. Đồng chí Lê Văn Một cho thợ lặn xuống kiểm tra phát hiện một vết nứt ở dưới ky. Anh em đã bình tĩnh khắc phục. Tàu đã về bến tiếp tục xuống hàng. Tàu chở 23.213 tấn vũ khí.
22 giờ 30 phút ngày 11/10/1962, chiếc tàu 41 (vỏ gỗ) thực hiện chuyến đi đầu tiên được gọi là tàu Phương Đông 1 vì ngang tầm với tàu vũ trụ Phương Đông 1 của Liên Xô.
Mặc dù đã chuẩn bị rất kỹ lưỡng, nhưng khi tàu vượt qua phao số không thì máy tàu bị hỏng, phải neo lại hơn 2 giờ để sửa chữa. Sau đó tàu nhắm mũi Dinh Cơ đảo Hải Nam, rồi chuyển hướng xuống phía Nam. Tới đây lại xảy ra sự cố là điện đài trên tàu bị hỏng, không liên lạc được với Sở Chỉ huy của Bộ Tổng Tham mưu. Sáng ngày 14/10, gió mùa đông bắc thổi mạnh, sóng rất lớn. Tàu nhỏ, vỏ gỗ không thể đi xa hơn theo phương án 1. Thuyền trưởng Lê Văn Một, chính trị viên Bông Văn Dĩa quyết định cho thuyền đi theo phương án 2, cho chạy cách bờ khoảng 60 hải lý. Đến 12 giờ ngày 16/10, các thủy thủ phát hiện thấy cù lao Thu (Bẩy xã) ở phía xa, như vậy là xác định tàu đi đúng hướng. Khoảng 1 giờ sau, có một chiếc tàu đi theo vết lái của tàu 41, anh em cho là tàu địch, chuẩn bị chiến đấu. Nhưng khi tàu đến gần, anh em mới biết đó là tàu của một nước tư bản chở hàng đi về Singapo. Khi tàu đi ngang qua cù lao Thu thì máy tàu lại hỏng. Máy trưởng Huỳnh Văn Sao cùng thủy thủ đã khắc phục được. Nửa đêm ngày 18/10, tàu chạy ngang qua cửa Bồ Đề, Thuyền trưởng cho neo tàu lại, bắt liên lạc. Mãi đến 5 giờ sáng ngày 19/10, thấy mấy chiếc ghe chạy trong Vàm Lũng, chính trị viên Bông Văn Dĩa chăng lưới lên đánh tín hiệu. Trong bờ có tín hiệu trả lời. Tàu Phương Đông 1 nhanh chóng chạy vào cửa Vàm Lũng ấp Rạch Gốc, xã Tần An (Cà Mau), được đồng chí Nguyễn Văn Phán (Tư Đức) do Khu ủy 9 cử ra đón. Anh em ở bến nghĩ chỉ có tàu 5-10 tấn vào, không ngờ tàu lại lớn như vậy. Trong khi anh em ở bến xuống hàng thì Thuyền trưởng Lê Văn Một, nhờ Tư Đức điện về Khu ủy Khu 9 báo cáo và nhờ Khu ủy 9 báo cáo về Quân ủy Trung ương.
Sáng ngày 19/10 tức là ngày thứ 9 kể từ khi con tàu rời bến, Quân ủy Trung ương đang họp giao ban ở nhà khách số 28 Cửa Đông, thì nhận được điện khẩn của đồng chí Phạm Thái Bường, Bí thư Khu ủy Khu 9: "Tàu Lê Văn Một, Bông Văn Dĩa đã vào tới nơi". Đại tướng và các đồng chí vô cùng mừng rỡ.
Thắng lợi trên kịp thời được báo cáo lên Chủ tịch Hồ Chí Minh. Nhận được tin, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã gọi điện ngay cho Ban Chỉ huy Đoàn 759. Người biểu dương những cán bộ, chiến sĩ, công nhân đã đóng góp công sức để lập nên chiến công xuất sắc đó. Người chỉ thị: “Hãy nhanh chóng rút kinh nghiệm, tiếp tục vận chuyển nhanh, nhiều vũ khí hơn nữa cho đồng bào miền Nam đánh giặc, cho Nam, Bắc sớm sum họp một nhà”.
Ngày 29/1/1964, Bộ Tổng Tư lệnh ra Quyết định số 30/QĐ-QP do Thiếu tướng Trần Quý Hai, Thứ trưởng Bộ Quốc phòng ký, chính thức chuyển đoàn 759 về trực thuộc Bộ Tư lệnh Hải quân, đổi phiên hiệu Đoàn 759 thành Đoàn 125, trực thuộc Bộ Tư lệnh Hải quân.
Ngày 1/3/1964, Thuyền trưởng Lê Văn Một, chính trị viên Đoàn Văn Thạnh và Thuyền phó Phạm Vạn đi tàu vỏ gỗ C43 cùng 8 thủy thủ chở 15.511 tấn vũ khí vào bến Cà Mau.
Sau "Sự kiện Vũng Rô" tàu 143 vào bến, ngày 16/2/1965 bị lộ. Máy bay Mỹ ném bom phá tàu. Lực lượng chiến đấu của ta kể cả ở dưới tàu, trên bờ chỉ có 2 trung đội. Ta hai lần cho nổ bộc phá phá tàu, chỉ làm tàu gãy đôi, chìm xuống nước, không hủy được tàu. Đêm 24/2/1965, các chiến sĩ ta phải phá vòng vây rút lui. Đại tướng Võ Nguyên Giáp chỉ thị cho Bộ Tư lệnh Hải quân ngừng ngay việc vận chuyển, nghiên cứu tìm phương pháp vận chuyển mới.
Tháng 11, 12/1966, Thuyền trưởng Lê Văn Một tiếp tục vận chuyển 2 chuyến tàu vào Khu 5. Sau đó nhiều chuyến tàu lại chở hàng quân dụng vào chiến trường Nam Bộ.
Lê Văn Một mất năm 1982. Chiến công của anh được ghi trong Lịch sử Hải quân Nhân dân Việt Nam, được đánh giá cao trong tập chuyên khảo mang tên "Đường Hồ Chí Minh trên biển Bà Rịa - Vũng Tàu", do Nhà xuất bản Chính trị quốc gia xuất bản năm 1993.
Năm 1985, Bảo tàng Hồ Chí Minh phối hợp với gia đình tổ chức cuộc họp mặt, đánh giá công lao đóng góp của ông trong sự nghiệp chống Mỹ cứu nước, đặc biệt là thành tích đóng góp cho việc mở đường vào những bến mới trên con Đường Hồ Chí Minh trên biển. Ông được Nhà nước công nhận là liệt sĩ, được truy tặng Huân chương Độc lập hạng Ba về những đóng góp của ông vào sự nghiệp Cách mạng của Đảng và dân tộc.
Ông cùng tàu 41 đã góp phần cho Đoàn 125 hai lần được tuyên dương Anh hùng 1967 và 1976.
Tàu 41 (sau đổi là tàu 641), nay là tàu HQ.671 được tuyên dương năm 1973.
Liệt sĩ Lê Văn Một, Thuyền trưởng tàu C41, Đoàn 125 (truy tặng năm 2011).
TRỊNH DŨNG. Nguyễn Phan Vinh bản anh hùng ca bất tử / Trịnh Dũng, Bùi Thu Hương // Sách Những người làm nên huyền thoại. - H.: Quân đội nhân dân, 2011. - Tr. 30-36
21 tuổi nhập ngũ, 35 tuổi hy sinh, đó là hai dấu ấn trong quân ngũ của Trung úy, Thuyền trưởng tàu Hải quân Nguyễn Phan Vinh (1933 - 1968). Năm 1970, anh đã được Nhà nước truy tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân. Năm 1987, một hòn đảo thuộc Quần đảo Trường Sa đã được mang tên anh, đảo Phan Vinh.
Gia đình người anh hùng
Phan Vinh, người con ưu tú của mảnh đất Điện Nam, Điện Bàn, Quảng Nam sinh ra trong một gia đình giàu truyền thống cách mạng. Tháng 3-1968, anh hy sinh ở Hòn Hèo thì cuối năm ấy, cha của anh, người du kích tên là Nguyễn Đức Mẫn cũng hy sinh trong một trận chống càn tại quê nhà. Mẹ anh mất trước đó 5 năm (năm 1963) vì bị địch bắt, đánh đập, tra khảo dã man. Năm bà ra đi cũng là năm người con trai thứ hai, Nguyễn Đức Lân ngã xuống trên chiến trường Quảng Nam.
Người duy nhất hiện còn lại trong gia đình là anh Nguyễn Đức Xử. Một người bạn của tôi trong đợt đi làm phim về “Tàu Không số” kể chuyện đã được nghe anh Xử nói về người em trai của mình: "Phan Vinh tuy là con út trong gia đình, nhưng ngay từ nhỏ đã là người cứng cỏi, quyết đoán, và đặc biệt là giàu lý tưởng".
Có lẽ chính từ cái cứng cỏi, quyết đoán và giàu lý tưởng cách mạng đó đã làm nên một Phan Vinh với chiến công oanh liệt trên vùng biển Hòn Hèo.
Tàu 235 - bản anh hùng ca bất tử trên vùng biển Hòn Hèo
Hòn Hèo là tên chung chỉ vùng biển và dãy núi chạy qua hai xã Ninh Phước, Ninh Vân thuộc tỉnh Khánh Hòa. Hòn Hèo cách Nha Trang khoảng hơn chục cây số đường biển. Nơi đây, Thuyền trưởng Nguyễn Phan Vinh và đồng đội đã hy sinh cùng Tàu 235 vào năm 1968.
Thời kỳ đó, kẻ địch đã tìm mọi cách ngăn chặn con đường vận chuyển trên biển mà chúng gọi là con đường "cực kỳ nguy hiểm" này. Không quân, hải quân Mỹ và quân đội ngụy Sài Gòn tung lực lượng khá mạnh để giăng lưới bủa vây trên mặt biển đón bắt những con tàu cảm tử chở vũ khí chi viện cho chiến trường miền Nam. Trên biển, chúng chia từng tổ bố trí tàu chiến ngăn chặn và lắp đặt ra-đa quét sóng đêm ngày. Trên trời và trong đất liền, cả đêm lẫn ngày, chúng cho lính và máy bay trinh sát, tuần tra, canh phòng.
Ông Long An, một trong năm người sống sót đã kể lại chuyến đi của Tàu 235:
"11 giờ 30 phút ngày 27-2-1968, Tàu 235 xuất phát chở hơn 14 tấn vũ khí vào bến Hòn Hèo. Đây là bến hết sức khó vào, luồng hẹp, nhiều đá ngầm. Một tài liệu của Pháp viết rằng, tàu muốn ra vào Hòn Hèo phải có những tay thuyền trưởng lão luyện, với trên dưới 20 năm tuổi nghề.
Trung úy Nguyễn Phan Vinh tuy tuổi nghề chưa cao nhưng được tin cậy giao chỉ huy con tàu này. Tàu có 21 cán bộ, chiến sĩ: Chính trị viên Nguyễn Tương; Thuyền phó 1: Đoàn Văn Nhi; Thuyền phó 2: Võ Tá Tu; máy trưởng: Trương Văn Mùi; thợ máy: Ngô Văn Thứ, Nguyễn Minh Hải, Trần Lộc; thợ điện: Lê Duy Mai; báo vụ: Phạm Trường Nam, Doãn Quang Ruyện; ra-đa: Trần Thọ Thuyết; thủy thủ: Ngô Văn Dầu, Nguyễn Văn Phong, Hà Minh Thật, Đào Quang Ty; hàng hải: Mai Văn Khung, Lâm Quang Tuyến; y tá: Hoàng Văn Hòa; cơ yếu: Nguyễn Văn Dũng và tôi, thợ máy.
Trước giờ nhổ neo, thủy thủ Ngô Văn Dầu bị viêm phổi phải vào viện nên đội hình còn lại 20 người. Chúng tôi đi hai ngày đêm trên vùng biển quốc tế. Tối 29-2, tàu đến ngang vùng biển Nha Trang và chuyển hướng vào bờ. Phát hiện ra tàu ta, địch lập tức huy động 3 tàu chiến: Ngọc Hồi, 12, 617 và 4 tàu khác của Duyên đoàn 25 đến vùng biển Nha Trang với ý định bắt sống...
Biết đã bị lộ, Thuyền trưởng Phan Vinh khôn khéo điều khiển Tàu 235 luồn lách qua đội hình tàu địch và đến được bến Ninh Phước lúc 0 giờ 30 phút ngày 1-3. Anh quyết định thực hiện phương án 2, cho thả hàng xuống nước để quân dân ở bến mò vớt sau. Các kiện hàng được bao gói đặc biệt lần lượt lăn xuống biển. Lúc đó, chừng 1 giờ 30 phút, 3 tàu loại lớn và 4 tàu loại nhỏ của địch khép chặt vòng vây ở phía sau, phía trước là núi.
Phan Vinh cho tàu chạy ven bờ xuôi xuống bến Ninh Vân chừng độ mươi hải lý, nhằm mục đích giữ bí mật không để lộ vị trí thả vũ khí. Tàu địch lập tức đuổi theo, nã đạn dữ dội rồi bật đèn pha và gọi máy bay đến thả pháo sáng và bắn rốc-két. Trong lửa đạn, Nguyễn Phan Vinh bình tĩnh chỉ huy anh em chiến đấu, và điều khiển tàu chạy sát bờ. Các thủy thủ Thật, Phong liên tiếp dùng ĐKZ và 14ly5 bắn về phía tàu địch, một chiếc bốc cháy khiến chúng không dám vào gần.
Cuộc chiến đấu mỗi lúc một ác liệt. Hỏa lực của địch liên tục bắn vào tàu ta. 5 cán bộ, chiến sĩ trên tàu đã hy sinh, 2 người bị thương nặng, 7 người bị thương nhẹ. Thuyền trưởng Phan Vinh cũng bị mảnh đạn sượt qua đầu. Anh tự băng bó và vẫn đứng trong buồng lái động viên mọi người chiến đấu. Anh có ý định phá vòng vây bởi ngoài khơi dễ cơ động, nếu cần thì áp sát tàu địch và cho nổ tàu tiêu diệt bọn chúng. Nhưng rất không may, lúc đó máy tàu hỏng nặng. Ý định phá vòng vây không thành.
Anh chỉ huy cho tàu di chuyển vào sát bờ. Lúc đó chừng 2 giờ 20 phút, tàu cách bờ hơn 100m, anh tổ chức đưa người đã hy sinh và bị thương vào bờ, sau đó ra lệnh chuẩn bị điểm hỏa cho nổ tàu. Anh Vinh, Thứ và tôi cài kíp nổ ở khoang máy; các vị trí khác do Khung, Thật, Mai đảm nhiệm. Kiểm tra xong lần cuối, chúng tôi nhảy xuống nước bơi vào bờ. Tôi được giao nhiệm vụ nếu tàu không nổ phải quay lại kiểm tra các kíp nổ.
20 phút sau, lúc 2 giờ 40 phút, ngày 1-3, một cột lửa bùng lên, kế đó là tiếng nổ dữ dội, chấn động tới Nha Trang. Sức công phá của khói thuốc nổ khiến Tàu 235 đứt đôi, một nửa chìm xuống biển, một nửa văng lên lưng chừng núi Bà Nam, xã Ninh Vân. Sau những phút giây bàng hoàng, địch gọi máy bay đến bắn phá ven biển, nhằm dọn đường cho bộ binh bao vây, bắt sống các thủy thủ Tàu 235. Số thủy thủ rút lên bờ còn lại 9 người. Địch lập tức đổ quân lùng sục. Thuyền trưởng Vinh và thợ máy Thứ chốt ở đó, kiên cường chống trả; đánh lui nhiều đợt tấn công của địch, và cuối cùng, lực kiệt, vết thương ngày một nặng, súng không còn đạn, hai anh đã hy sinh. Số thủy thủ của Tàu 235 còn lại 7 người, đó là Thuyền phó Nhi và 6 thủy thủ: Mai, Thật, Phong, Khung, Tuyến và tôi. Tất cả đều thương tích đầy mình. Anh em cố gắng dìu nhau di chuyển khắp vùng núi đá Hòn Hèo.
Mười ngày phơi dưới nắng, không lương thực, không nước uống, chúng tôi kiệt sức. Ngày thứ 11, Khung đi tìm nước uống, rồi không trở về. Sau này mới hay Khung bị địch bắt. Ngày thứ 12, chúng tôi liên lạc được với du kích ở bến. Mọi người quay lại đón anh Nhi đang nằm trong rừng. Nhưng anh không còn ở đó nữa, chỉ thấy mảnh áo rách và cuốn băng cá nhân, máu đã khô...
Về sự kiện này, tạp chí "Lướt sóng" của Hải quân quân đội ngụy Sài Gòn viết: "Mười hai chiến hạm và hàng chục hải thuyền của Hoa Kỳ cùng quân lực Việt Nam cộng hòa có phi cơ yểm trợ, đụng độ ác liệt với một tiểu đoàn Việt Cộng (thực chất chỉ có 20 thủy thủ) gan góc và thiện chiến trên con tàu chở vũ khí từ Bắc Việt thâm nhập và tiếp tế cho Mặt trận giải phóng. Họ đã nổ súng đến viên đạn cuối cùng, đến người cuối cùng và hy sinh với con tàu bằng khối lượng hàng tấn bộc phá do chính tay họ tự hủy, không để lại một dấu vết"...
Thuyền trưởng Nguyễn Phan Vinh cùng 14 đồng đội thân yêu đã anh dũng hy sinh trên vùng biển Hòn Hèo. Khi ấy Nguyễn Phan Vinh mới ở tuổi 35. Sự hy sinh của anh đã trở thành bất tử trong lòng những người lính biển và quân dân cả nước".
Kể đến đây, ông Long An lặng đi, đôi mắt đỏ hoe. Đưa tay gạt những giọt nước mắt, ông nói tiếp:
- Phan Vinh là một thuyền trưởng giỏi, anh đã có 11 chuyến vận chuyển vũ khí thành công, dũng cảm, quyết đoán, sống chân thành, được anh em quý mến. Tôi chỉ tiếc chẳng giữ được chút kỷ vật nào của người thuyền trưởng anh hùng ấy.
Những dòng thư đầy ắp niềm tin và lý tưởng cách mạng
Điều mà ông Long An day dứt phần nào đã được giải tỏa bởi tại Bảo tàng Hải quân hiện còn lưu giữ những bức thư của Phan Vinh gửi người bạn thân là Trần Phong (đồng chí Trần Phong - nguyên quyền Đoàn trưởng Đoàn 125 Hải quân). Trần Phong và Phan Vinh là đôi bạn thân. Họ cùng quê, cùng tập kết ra Bắc, cùng học ở Trung Quốc và cùng về Quân chủng Hải quân làm thuyền trưởng. Những lá thư anh viết khi đang ở tại căn cứ trên nước bạn, chuẩn bị cho những chuyến đi.
Lá thư Trần Phong nhận ngày 26-10-1967 có đoạn:
"Chúng ta phải là những con lạc đà trên bãi sa mạc, mỗi bước đi, mỗi vết chân của chúng ta vì sự nghiệp của Đảng, chúng ta phải là những chiếc cầu chì, vui vẻ và lạc quan mà nhận lấy công tác ở những nơi nguy hiểm nhất. Và khi cần thiết ta hy sinh sinh mạng mình cho Đảng, cho nhân dân. Thời gian, thời gian sẽ ủng hộ chúng ta...".
Lý tưởng cách mạng cao đẹp của anh và của thế hệ thanh niên thời đó, sẵn sàng chấp nhận hiểm nguy, sẵn sàng hy sinh cho cách mạng. Các anh đã dấn thân vào chiến trận với một tâm hồn sôi nổi, giàu nhiệt huyết. Không phải một tấm gương mà hàng ngàn, hàng vạn tấm gương "Quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh" trên mặt biển, vì sự nghiệp chiến đấu giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc.
Lá thư gửi tháng 1-1968, trước khi anh hy sinh một tháng, có đoạn:
"Phong thân!
Mình không ngờ đến nơi đây, mùa hè đã qua mà nóng ghê, nhưng đâu có nóng bằng cõi lòng người chiến sĩ. Mọi việc ở đây diễn ra bình thường, rất mong ngày "thượng lộ", ấy thế mà cứ ăn chực nằm chờ mãi, kể cũng ê. Còn những gì tiếp theo nữa thì để lịch sử trả lời. Hẹn gặp Phong vào một ngày vinh quang, điều đó khẳng định.
...Phong hãy giúp mình biên thư cho anh Xử. Khi nào có dịp mình sẽ biên thư sau, hoặc sẽ có dịp gặp. Mình không muốn biên thư vì mình nghĩ rằng mọi riêng tư lúc này sẽ làm con người ta khó bước tới. Tình cảm đó có lẽ để dành cho sau chiến tranh. Bây giờ thì mình chỉ có một tình cảm duy nhất là hãy bước tới và xông vào cuộc cách mạng vĩ đại, con người hoàn toàn không sợ ràng buộc bởi những mối dây nào khác.
Thằng Thạnh sắp cưới vợ, mình không có gì làm quà. Phong mở trong gói đồ mình để lại, lấy chiếc khăn tay, lọ nước hoa nói rằng mình gửi tặng mối tình đó. Phong chuyển lời hỏi thăm và chúc mừng đôi bạn xinh đẹp ấy...
Tạm gác lại những tình cảm riêng tư để dồn cho điều duy nhất đó là bước tới và xông vào cuộc cách mạng vĩ đại, với niềm tin vững chắc vào thắng lợi".
TRỊNH DŨNG. Thuyền trưởng Lưu Đình Lừng và niềm tự hào về tàu 42 / Trịnh Dũng, Bùi Thu Hương // Sách Những người làm nên huyền thoại. - H.: Quân đội nhân dân, 2011. - Tr. 12-17
Theo lời hẹn trước, tôi đến thăm gia đình người Thuyền trưởng tàu Không số Lưu Đình Lừng vào một ngày chủ nhật đẹp trời. Trong nắng ấm áp buổi sớm đầu thu, ông đón tôi với nụ cười rạng rỡ, chân thành như bản tính hiếu khách của người dân miền biển Đồ Sơn. Ở tuổi xưa nay hiếm, màu thời gian đã phủ lên người thuyền trưởng ấy, tóc đã bạc, da đã nhăn nhưng bước đi hoạt bát, và ánh mắt tinh tường thì vẫn vẹn nguyên.
Ngôi nhà khang trang nằm sâu trong hẻm 171- phường Ngọc Hải-thị xã Đồ Sơn, tổ ấm của gia đình ông với bốn thế hệ cùng chung sống hạnh phúc. Trong căn phòng khách rộng rãi và thoáng mát, rất nhiều bức ảnh phóng to, được treo trang trọng - hình ảnh những con tàu Không số - khi ông và đồng đội làm nhiệm vụ vận chuyển vũ khí chi viện cho chiến trường miền Nam. Chiếc bình tích đựng trà xanh được rót ra. Ông cười và chỉ tay vào bức ảnh được phóng to nhất:
- Hình ảnh con tàu 42 đấy. Đây là con tàu anh hùng. Tôi đã có mười chuyến đi trên con tàu này, và chỉ ở tàu này mà thôi - Giọng nói từ tốn vang lên rành rọt, sang sảng của người miền biển.
Câu chuyện của chúng tôi xoay quanh con tàu 42 đó, và những ký ức sâu thẳm, tha thiết trong cuộc đời binh nghiệp của ông lại bừng thức, ào ào dữ dội như sóng biển khơi, nhấp nhô, ẩn hiện hình ảnh con tàu và những người thủy thủ mưu trí, dũng cảm, vượt qua giông bão, vượt qua tuyến phòng thủ dày đặc của địch, mang cả tình thương của miền Bắc, đưa từng khẩu súng, viên đạn... tới miền Nam ruột thịt, góp sức tiêu diệt quân thù.
- Năm 1964, tôi nhập ngũ, được biên chế vào đội quân của Đoàn tàu Không số, là thủy thủ của Tàu 42. Đời tôi thật may mắn khi được đi trên con tàu này, được làm việc với một người chỉ huy thông minh, trí tuệ, dũng cảm như Thuyền trưởng Nguyễn Văn Cứng...
Một thoáng buồn hiển hiện trên khuôn mặt hiền hậu, sạm nắng gió của ông khi nói về người thuyền trưởng năm xưa giờ không còn nữa. Sự xúc động như được nén trong ánh mắt đang nhìn xa xăm kia. Ngưng một lát, ông tiếp tục:
- Thuyền trưởng Cứng đi hàng hải thiên văn giỏi lắm. Anh em đã học tập được nhiều điều từ con người ấy. Những lúc khó khăn, nguy hiểm mới thấy cái tài của người thuyền trưởng này. Ông điều động tàu tránh địch rất giỏi, biết lợi dụng sơ hở của địch, vượt qua sự kiểm soát chặt chẽ trên biển của chúng. Trên mỗi chặng, địch xây dựng các trạm ra-đa quan sát chặt chẽ. Có lần, Thuyền trưởng Cứng đã đưa tàu đi qua giao điểm vùng quét ra-đa của hai trạm. Bọn địch đều phát hiện được nhưng trạm nọ tưởng trạm kia báo cáo về sở chỉ huy, ỷ vào nhau, thế là tàu ta chạy thoát. Thật là tài, chỉ một chi tiết nhỏ này, không phải ai cũng biết.
Một trong những chuyến đi mà tôi nhớ mãi đó là chuyến đi năm 1965 sau khi xảy ra sự kiện Vũng Rô.
Sự kiện Vũng Rô, ai cũng biết, con đường vận chuyển đã bị lộ. Tám tháng nằm im chờ đợi, tìm phương thức vận chuyển mới, ngày 15-10-1965, tại Bến K15-Đồ Sơn-Hải Phòng, Tàu 42 được cải dạng thành tàu đánh cá Phi-líp-pin nhổ neo ra khơi. Tàu có 16 thủy thủ do Thuyền trưởng Nguyễn Văn Cứng và Chính trị viên Trần Ngọc Ẩn chỉ huy, đi theo phương pháp hàng hải thiên văn, tức là đi theo các vì sao. Nhiệm vụ được giao là nghiên cứu tuyến đường vận chuyển mới, làm tiền đề cho những chuyến sau nhưng phải bảo đảm bí mật, bất ngờ. Chuyến đi này ngoài 60 tấn vũ khí tàu còn chở thêm 4 quả thủy lôi Kô, mỗi quả nặng tới một tấn. Dưới tàu còn găm hàng tấn thuốc nổ, nếu bị địch phát hiện thì tất cả anh em sẽ điểm hỏa và cảm tử cùng tàu để giữ bí mật cho con đường.
Mọi đồ dùng cá nhân phải xóa hết dấu vết, tuýp đánh răng Ngọc Lan, vỏ bao thuốc lá... phải cạo hết nhãn mác. Mấy khẩu súng đằng trước, đằng sau đều được ngụy trang. Mọi người đều mang mặc trang phục ngư dân đánh cá nước ngoài. Trông con tàu của chúng tôi chẳng khác gì một tàu câu cá vùng biển Đông Nam Á. Vậy mà anh em vẫn không khỏi lo lắng bởi đây là chuyến mở đường sau một thời gian dài ngừng vận chuyển, địch lại phong tỏa chặt chẽ con đường bằng "chiến dịch Makettime". Chúng xây dựng hàng loạt trạm ra-đa ngày đêm quan sát chặt chẽ vùng biển. Ngoài khơi, hải quân Mỹ thực hiện việc ngăn chặn. Hải quân ngụy thực hiện tuần tiễu ven bờ. Để dễ bề quản lý và phân định trách nhiệm, Mỹ-ngụy chia vùng biển Việt Nam làm 9 khu vực chiến sự. Ở mỗi khu vực, hải quân Mỹ-ngụy giành quyền kiểm soát mọi tàu thuyền qua lại, kể cả tàu buôn nước ngoài. Tình hình bến bãi, luồng lạch thay đổi ra sao, khó mà lường hết được.
Từ Bến K15, tàu chúng tôi vượt qua Long Châu đi về phía đảo Hải Nam (Trung Quốc). Đêm đó sóng rất lớn, gió cấp 6 cấp 7, những con sóng lớn chồm lên như muốn nhấn chìm chúng tôi xuống biển. Suốt một ngày đêm vật lộn với sóng gió, ai cũng mệt nhoài vì say sóng, đêm sau tàu đến eo biển Hải Nam. Khi gần tới khu vực Quần đảo Trường Sa thì bị máy bay Mỹ phát hiện, chúng vòng đi vòng lại hai lần, theo dõi hoạt động của tàu. Thuyền trưởng cho tàu giảm tốc độ, chạy vào hướng đảo Trường Sa để câu cá. Mọi người tất bật kéo lưới, gỡ cá như ngư dân đánh cá thực thụ. Khi máy bay đi khỏi, chúng tôi liền thay biển số để hợp với vùng biển, tiếp tục hành trình xuống đảo Na-tô Bắc, Na- tô Nam (Phi-líp-pin) từ đó chuyển hướng vào Cà Mau. Gần tới khu vực Hòn Khoai, chúng tôi phát hiện thấy vệt sáng đèn di chuyển phía trước. Tất cả vào vị trí chiến đấu. Các vị trí quan sát đều báo cáo trước mũi tàu, sau lái tàu, bên trái, bên phải đều có ánh đèn và cứ 400-500m lại có một chiếc tàu đỗ. Vậy là Tàu 42 đã lọt vào giữa vòng vây của địch. Một cuộc hội ý chớp nhoáng trong cấp ủy, tàu giảm tốc độ, chạy theo hướng đông, chạy vòng theo hướng bao vây của tàu địch, khi tới gần bờ, thuyền trưởng hạ lệnh tắt đèn hành trình, quặt tay lái tăng tốc chuyển hướng vào bờ... Những lúc thế này anh em mới thấy hết tài thao lược, mưu trí đặc biệt của Thuyền trưởng Cứng. Khi Tàu 42 lọt vào trong cửa Bồ Đề, nhìn xa xa thấy vài tàu địch dậu ở đó, người trong bến cho xuồng ra đón, sau khi phát tín hiệu nhận nhau, tàu chúng tôi được đưa vào bến Rạch Kiến Vàng an toàn. Ngoài súng đạn, cũng là lần đầu tiên chúng tôi đưa được thủy lôi sừng chạm vào cho bộ đội đặc công thủy, góp phần làm nên những trận đánh rung chuyển các căn cứ hải quân Mỹ-ngụy. Chuyến đi này chúng tôi đã đi trên 1.200 hải lý, cả đi và về 20 ngày.
Thắng lợi chuyến đi mở đường của Tàu 42 trong tình hình địch phong tỏa ác liệt có một ý nghĩa hết sức quan trọng. Ta đã nắm được quy luật hoạt động ngoài khơi và gần bờ của địch để tìm cách ứng phó linh hoạt. Tiếp đó ta đã tổ chức hai chuyến tiếp theo đều thắng lợi.
Sau chuyến đi này, Ban chỉ huy tàu vinh dự được báo cáo kết quả chuyến đi với Quân ủy Trung ương và Bộ Quốc phòng. Được Đảng và Nhà nước tặng thưởng Huân chương Quân công hạng Ba và được Bác Hồ tặng mấy tút thuốc lá có ghi dòng chữ "Bác Hồ tặng".
Với bề dày thành tích, qua 7 năm liên tục, Tàu 42 luôn hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ, giữ vững quyết tâm, anh dũng, mưu trí, linh hoạt, khắc phục vượt khó khăn trong mọi tình huống, gặp địch đã chiến đấu kiên cường, dũng cảm. Ngày 8-10-1972, Tàu 42 vinh dự được Đảng, Nhà nước ta phong tặng danh hiệu cao quý: "Đơn vị Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân”.
Năm 2005, Thuyền trưởng Nguyễn Văn Cứng - người đã trực tiếp chỉ huy 15 chuyến đi thành công được truy tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân. Tàu anh hùng, thuyền trưởng anh hùng. Còn vinh dự nào hơn…
Trong suốt 10 năm gắn bó với Tàu 42, ông Lưu Đình Lừng đã đi 10 chuyến vận chuyển trên con đường biển mang tên Bác, 5 chuyến thành công, 5 chuyến bị địch phát hiện phải quay về, ông đã trưởng thành từ một thủy thủ thành một thuyền trưởng dạn dày kinh nghiệm. Nhưng theo ông, những ngày được làm việc bên Thuyền trưởng Nguyễn Văn Cứng, được sống trong một tập thể đoàn kết, anh dũng, đó là những tháng ngày quý báu để ông học hỏi, trưởng thành và vững bước trên con đường đời sau này.
TRỊNH DŨNG. Thuyền trưởng Nguyễn Chánh Tâm, người anh hùng sống mãi / Trịnh Dũng, Bùi Thu Hương // Sách Những người làm nên huyền thoại. - H.: Quân đội nhân dân, 2011. - Tr. 150-155
Trong chuyến chở vũ khí chi viện cho quân và dân ta tham gia Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân 1968, bốn con tàu mang số hiệu 43, 56, 235, 165 của Lữ đoàn 125 vào đêm 29-2 rạng ngày 1-3 đều gặp địch. Chỉ còn tàu 56 trở về. Cũng như tàu 43 và 235, Tàu 165 của Thuyền trưởng Nguyễn Chánh Tâm đã chiến đấu anh dũng và đi vào huyền thoại cùng với 17 cán bộ, thủy thủ đã ra đi, không để lại một dấu vết...
Quyết tử giữa biển khơi
Đêm 25-2, từ căn cứ A2, Tàu 165 được lệnh xuất phát, chở hàng vào bến Vàm Lũng (Cà Mau). Cán bộ, thủy thủ gồm Thuyền trưởng Nguyễn Chánh Tâm; Chính trị viên Nguyễn Ngọc Lương; Thuyền phó Hoàng Văn Thuyết và Nguyễn Văn Thông; Chính trị viên phó Nguyễn Văn Danh; thợ máy Nguyễn Văn Thị, Trần Văn Dựng, Nguyễn Duy Tạo; báo vụ: Lý Khánh Hồng và Vương Văn Diêng; thủy thủ trưởng: Nguyễn Kính; hàng hải: Nguyễn Văn Em và Mai Đức Long; y tá: Nguyễn Đình Văn; thủy thủ: Trần Văn Quồi, Phạm Văn Phương, Trần Văn Bé; cơ yếu: Vũ Hữu Nghị.
Theo tuyến đường của những chuyến đi trước, Tàu 165 đi qua Hoàng Sa, Trường Sa, hòa vào dòng tàu buôn nước ngoài ngược xuôi trên biển quốc tế, hướng về phía Nam. Thông tin giữa tàu với sở chỉ huy và bến vẫn giữ liên lạc tốt. Ngay tại hải phận quốc tế tàu đã bị địch theo dõi. Thuyền trưởng Nguyễn Chánh Tâm bình tĩnh, mưu trí cùng anh em vượt qua vòng phong tỏa của địch. Đêm 29-2, tàu đến vùng biển Cà Mau, chuẩn bị chuyển hướng. Mọi phương án đón tàu ở bến được chuẩn bị chu đáo, kể cả trong "trường hợp xấu nhất", bến sẵn sàng "chia lửa" với tàu.
Nhưng dự định đó đã không thành hiện thực. Trời biển Cà Mau đêm đó đã chứng kiến trận đấu quyết tử của những người lính tàu Không số với gần chục tàu chiến và máy bay địch. Con tàu 165 nhỏ nhoi đã hóa thân vào biển không để lại một dấu vết gì ngoài hai bức điện cuối cùng gửi về sở chỉ huy trong đêm 29 rạng ngày 1-3-1968. Bức điện thứ nhất đề lúc 18 giờ ngày 29-2: "Chuyển vào. Gặp máy bay trinh sát đi qua tàu - Lương" (tức Chính trị viên Nguyễn Ngọc Lương). Bức điện thứ hai, ngày 1 tháng 3: "Chúng tôi gặp 8 tàu địch bao vây, quyết cảm tử!". Đó là hai lời nhắn nhủ cuối cùng trước lúc Tàu 165, Thuyền trưởng Nguyễn Chánh Tâm và 17 thủy thủ đi vào huyền thoại.
Các anh đã chiến đấu, đã hy sinh như thế nào, đến nay cũng chưa ai biết rõ. Nhớ lần tôi tới thăm chú Khưu Ngọc Bảy trong ngôi nhà đầy hoa và cây cảnh tại thành phố Cần Thơ, chú Bảy đã bùi ngùi kể cho tôi nghe về sự kiện bi hùng này: "Đêm đó, tất cả chúng tôi đã sẵn sàng, chuẩn bị đón tàu, rất chặt chẽ, bỗng thấy máy bay địch lượn nhiều. Hình như chúng báo động. Trên bờ, ngóng ra biển ai cũng nơm nớp lo âu... Rồi chừng hơn 1 giờ sáng, phía ngoài khơi nhiều ánh lửa và đường đạn vạch lên trời... Chừng 20 phút sau, loáng lên những tia chớp, và một ngọn lửa hình nấm vọt lên kèm theo tiếng nổ lớn trùm xuống biển...
Chúng tôi vẫn tin anh em còn sống và tìm đón nhiều ngày dọc ven biển. Nhưng chỉ lượm được hai báng súng K44, vài mảnh ra-đi-ô màu nâu đỏ, một đoạn cột ăng ten tàu và một mảnh áo phao... Tất cả chỉ còn vậy. Tàu 165, Thuyền trưởng Nguyễn Chánh Tâm và 17 thủy thủ đoàn đã vĩnh viễn ra đi. Các anh mãi mãi nằm lại vùng biển Tây Nam của Tổ quốc - vùng biển Cà Mau... không bao giờ trở lại...".
Anh còn sống mãi
Với thành tích 8 chuyến đi, chở trên 600 tấn vũ khí chi viện cho chiến trường miền Nam trong điều kiện hết sức khó khăn, gian khổ, năm 2005, Thuyền trưởng Nguyễn Chánh Tâm được Nhà nước truy tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân. Hơn 40 năm đã trôi qua, những ký ức về anh - người thuyền trưởng anh hùng, người bạn thủy chung vẫn khắc ghi mãi trong lòng bạn bè và những người thân của anh.
Bà Đỗ Thị An, tuổi ngoài 90, hiện ở Ngõ Cấm, thành phố Hải Phòng khi nhắc đến tên người con rể Nguyễn Chánh Tâm vẫn rưng rưng xúc động: "Bố các cháu là người nhân hậu, sống có nghĩa có tình, cứ mỗi lần công tác về là có quà cho mọi người, tranh thủ giúp bà, giúp vợ mọi việc lớn nhỏ... Nhớ mãi chuyến đi lần cuối của bố các cháu. Tối đó mấy bố con cứ quấn quýt mãi bên nhau. Sáng ra, Tâm dậy sớm, chắp tay: “Chào mẹ, con đi công tác, chưa biết bao giờ mới về...". Ba bà cháu tiễn bố” ra ngõ, bịn rịn. "Mẹ về đi!" - Tâm động viên tôi. Hai cháu Tuấn, Tú cứ ôm chặt lấy ba, mãi không rời... Ba Tâm xoa đầu hai con, nựng: "Các con ở nhà ngoan ngoãn, nghe lời bà và mẹ, vài bữa nữa ba về... Tôi cũng không thể ngờ rằng đó là lần chia tay cuối cùng!".
Với Đại tá, Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân Nguyễn Đắc Thắng hiện ở thành phố Cần Thơ thì Chánh Tâm là "người bạn thân thiết, thủy chung, ngay từ ngày đầu vào bộ đội".
Đôi bạn Đắc Thắng - Chánh Tâm đều sinh năm 1935 tại Cần Thơ. 19 tuổi, hai anh cùng nhập ngũ vào bộ đội và tập kết ra Bắc, sau đó được đi học lớp thuyền trưởng Hải quân. Tốt nghiệp, Đắc Thắng được điều về Đoàn 759 (tiền thân Đoàn 125 ngày nay), còn Chánh Tâm về Đoàn tàu tuần tiễu ở Căn cứ 2. Sau chiến thắng trận đầu ngày 5-8-1964, Nguyễn Chánh Tâm được điều về Đoàn tàu Không số làm Thuyền trưởng Tàu 165. Đôi bạn ngày xưa lại được chung cùng một nhiệm vụ vẻ vang và tình bạn của họ ngày càng thắm thiết. "Tâm là một người bạn nhiệt tình, sống hết mình với bạn bè, anh ấy còn là "nhịp cầu" tình yêu của tôi và Sáu Thùy, người vợ yêu quý của tôi sau này" - Ông Thắng bồi hồi nhớ lại.
Về câu chuyện tình của Thuyền trưởng Nguyễn Đắc Thắng và nữ y tá Huỳnh Biên Thùy đến nay không kể hết bao nhiêu bài báo đã viết về họ. Đó là mối tình xuyên biển Đông. Mối tình rất "nổi tiếng" của Đoàn tàu Không số. Chuyện là, trong một chuyến chở hàng vào Cà Mau, Thuyền trưởng Đắc Thắng đã "phải lòng" cô "nuôi quân" kiêm y tá Huỳnh Biên Thùy có giọng ca cải lương ngọt ngào. Tình yêu của họ chỉ chờ ngày sum họp sau khi anh ra Bắc báo cáo tổ chức, sau đó sẽ trở lại bến làm đám cưới. Thế rồi nhiệm vụ vận chuyển bí mật, những chuyến đi mở bến mới ở miền Trung... Thuyền trưởng Đắc Thắng không còn cơ hội trở lại bến xưa để "kết tóc xe duyên" với người nữ y tá. Lúc này, Thuyền trưởng Nguyễn Chánh Tâm với những chuyến đi vào Cà Mau đã trở thành sợi dây liên lạc tình cảm giữa hai người. Sáu Thùy vẫn thường xuyên nhận được "quà của người yêu" gửi vào. Khi thì cuốn sách "Ruồi Trâu", "Thép đã tôi thế đấy", khi là chiếc nón Bài Thơ xinh xắn... Sáu Thùy cũng nhờ Chánh Tâm chuyển tới người yêu những món quà đầy ý nghĩa như món tóc thề hay những chiếc khăn thêu... Tình yêu của họ vì thế vẫn được kết nối, tình cảm ngày càng thêm gắn bó. Mãi sau này, khi thành vợ chồng, Sáu Thùy mới biết những món quà cô vẫn đều đặn nhận được trong những ngày xa cách đó đều là của Thuyền trưởng Nguyễn Chánh Tâm mua tặng. "Anh ấy tốt lắm, mỗi chuyến trở về Bắc tàu anh ấy còn tặng lại chúng tôi rất nhiều lương khô để dùng khi giặc càn" - Cô Sáu Thùy kể lại - "Ngày nghe tin tàu nổ trên biển, ngỡ là anh Thắng, tôi đã khóc ròng ròng, rồi lập bàn thờ để tang anh. Sau này mới biết đó là anh Chánh Tâm. Tôi đã khóc rất nhiều thương tiếc anh...".
… Thuyền trưởng Nguyễn Chánh Tâm và đồng đội Tàu 165 đã ra đi... không để lại một dấu vết. Nhưng dấu ấn về một con đường vận tải trên biển, con đường của những huyền thoại và những chiến công thầm lặng của những người lính biển anh hùng vẫn sống mãi với dân tộc Việt Nam.
VŨ THANH SƠN. Nguyễn Bất người khởi đầu đường Hồ Chí Minh trên biển / Vũ Thanh Sơn // Sách Đường mòn Hồ Chí Minh trên biển: Cung đường bất tử T.1. - H.: Hội nhà văn, 2021. - Tr. 31-35
Sau Hiệp định Genève (năm 1954), từ năm 1954 đến 1959, quân và dân ta kiên trì đấu tranh chính trị buộc địch thi hành đòi Hiệp thương tổng tuyển cử thống nhất đất nước vào tháng 7 năm 1956. Nhưng đế quốc Mỹ đã hất cẳng thực dân Pháp, Bảo Đại đưa Ngô Đình Diệm được Mỹ nuôi dưỡng từ lâu ở Mỹ về làm thủ tướng Việt Nam cộng hòa.
Bọn Mỹ Diệm công khai cự tuyệt hiệp thương tổng tuyển cử thực hiện âm mưu biến vĩ tuyến 17 giới tuyến quân sự tạm thời thành biên giới vĩnh viễn chia cắt nước Việt Nam. Để đạt được âm mưu đen tối trên, Mỹ - Diệm liên tiếp mở những cuộc tàn sát đẫm máu những người đã tham gia kháng chiến và ủng hộ bệ kháng chiến chống Mỹ bằng các đợt "Tố Cộng", "diệt Cộng" giết hại hàng chục vạn người.
Đảng ta, trên cơ sở phong trào Đồng khởi, Bộ Chính trị quyết định chuyển cách mạng miền Nam sang giai đoạn mới, phát triển cuộc khởi nghĩa từng phần ở các tỉnh thành chiến tranh cách mạng trên quy mô toàn miền Nam với phương châm: "Đẩy mạnh hơn nữa đấu tranh chính trị, đồng thời đẩy mạnh đấu tranh vũ trang lên song song với đấu tranh chính trị, tấn công địch bằng cả hai mặt chính trị và quân sự.
Thực hiện quyết tâm đánh thắng giặc Mỹ giải phóng miền Nam, Đảng ta chủ trương nhanh chóng tổ chức chi viện sức người sức của vũ khí cho cách mạng miền Nam, Bộ Chính trị giao cho Tổng quân ủy phối hợp với ủy ban Thống nhất Trung ương đảm nhận công tác chi viện cho miền Nam và quyết định mở đường giao thông quân sự đặc biệt cho Tổng quân ủy Trung ương và Bộ Tổng tư lệnh giao cho Thượng tá Võ Bẩm, Cục phó cục Nông trường đã bí mật chọn người để thành lập đơn vị. Chỉ sau chưa đầy 2 tháng, Thượng tá Võ Bẩm đã thành lập 2 tiểu đoàn 603 và 604 ngày 19/5/1959, đơn vị chính thức ra đời nên lấy phiên hiệu là "Đoàn 559". Tiểu đoàn 603 do Thượng úy Hà Văn Xá được bổ nhiệm làm Tiểu đoàn trưởng, Thượng úy Lun Đức làm chính trị viên. Đại đội 1 do Nguyễn Bất làm Đại đội trưởng, trung úy Đồng Yên làm chính trị viên làm nhiệm vụ mở đường trên biển. Để giữ bí mật, tiểu đoàn ngụy trang dưới cái tên là "Tập đoàn đánh cá Sông Gianh". Tiểu đoàn 604 làm nhiệm vụ mở đường bộ trên dãy Trường Sơn, dựa theo đường "Thống nhất" của Khu 5 ra Bắc trong kháng chiến chống Pháp.
Ngay sau khi thành lập, Tiểu đoàn 603 khẩn trương bắt tay vào làm doanh trại tại thôn Thanh Khê, xã Thanh Bình. Trong khi xây dựng doanh trại, chuẩn bị thuyền lớn, Tiểu đoàn không dùng thuyền của tỉnh Quảng Bình mà cử người ra làng Trung Kiên, huyện Nghi Lộc, tỉnh Nghệ An là một làng chuyên đóng thuyền hai đáy theo mẫu của Ủy ban Thống nhất Trung ương. Trong vòng 2 tháng đã đóng được 4 chiếc thuyền trọng tải 20 tấn, mua được 8 vàng lưới. Thuyền đánh cá của miền Nam dùng buồm bằng lá nón và dây rulong hoặc dây bện bằng bẹ dừa, nên tiểu đoàn phải nhờ bà con cơ sở của ta ở vùng địch tại Quảng Trị mua giúp gửi ra.
Để chuẩn bị chuyến đi, ngày 5/9/1959, tiểu đoàn tổ chức một tổ điện đài 5 ngày đi bộ theo đường giao liên vào đèo Hải Vân. Đến trung tuần tháng 10, tổ điện đài liên lạc được với tiểu đoàn từ đó xác định được bến sẽ đổ hàng.
18 giờ ngày 27/1/1960 tức 30 Tết Canh Tý, thuyền của đại đội 1 tiểu đoàn 603 gồm 6 người do Nguyễn Bất đội trưởng làm thuyền trưởng, Trần Mức làm thuyền phó, Nguyễn Sanh, Nguyễn Nữ, Huỳnh Sơn, Huỳnh Ba (Nguyễn Nữa) là thuyền viên. Trong 6 người thì 5 người quê ở Quảng Nam, chỉ có Trần Mức quê ở Quảng Ngãi. Thuyền xuất phát từ cửa Sông Gianh mang theo 5 tấn vũ khí, thuốc tân dược vào bến Hố Chuối ở chân đèo Hải Vân chi viện cho Khu 5.
Thuyền xuất phát, đêm đầu tiên hành trình bình thường, sang ngày thứ hai khi ra đến vùng biển do địch kiểm soát thuyền gặp gió mùa đông bắc thổi mạnh. Sóng lớn đánh gãy mái chèo và bánh lái. Sáu thủy thủ phải chèo thuyền bằng tay, song không điều khiển được thuyền. Thuyền bị trôi giạt đến Cù Lao Ré Lý Sơn, tỉnh Quảng Ngãi. Thuyền trưởng Nguyễn Bất biết sẽ bị địch bắt liền cho thả hết vũ khí, thuốc tân dược xuống biển.
Chừng nửa giờ sau, tàu địch từ Cù Lao Ré ra bắt kéo thuyền vào bến. Tuy không còn chứng cứ thuyền từ Bắc vào, nhưng tất cả 6 anh em đều bị bắt. Chúng giam mỗi người một nơi hỏi cung, tra tấn để khai thác bí mật của con thuyền. Các đồng chí đều kiên cường, bất khuất không khai báo tiết lộ bí mật về con đường biển vận chuyển vũ khí vào Quảng Nam, Quảng Ngãi.
Nhận được điện của Trung ương, Tỉnh ủy Quảng Nam cử đồng chí Nguyễn Chơn, Trưởng ban Quân sự tỉnh đi đón hàng. Chờ cả tháng không thấy, sau này mới được biết trên đường đi thuyền gặp sóng lớn, gãy bánh lái, thuyền trôi giạt vào Cù Lao Ré. Trong khi đồng chí Nguyễn Chơn chờ đợi thì 6 anh em bị địch bắt, giam mỗi người một nơi bị hỏi cung tra tấn dã man. Trải qua nhiều nhà tù, cuối cùng chúng chuyển Nguyễn Bất đến nhà lao Đà Nẵng. Đồng chí móc nối được với cơ sở được cơ sở tổ chức vượt ngục thành công, tìm đường ra Bắc báo cáo với bộ Tư lệnh Đoàn 5591.
Các đồng chí Trần Mức, Nguyễn Sanh, Nguyễn Nữ, Huỳnh Sơn bị giam ở các nhà tù khác nhau, và bị tra tấn đến chết. Đồng chí Huỳnh Ba bị giam ở Đà Nẵng sau đó chuyển vào khám Chí Hòa rồi bị đày ra đảo Phú Quốc và Côn Đảo. Sau đó được trao trả vào cuối năm 1973.
Chuyến xuất quân đầu tiên bị thất bại, nhưng bí mật về tuyến đường vận tải biển vẫn được đảm bảo tuyệt đối bí mật. Nhận thấy việc sử dụng thuyền gỗ chạy bằng buồm chuyển vũ khí vào chiến trường gặp rất nhiều khó khăn và không an toàn. Tổng Quân ủy và Bộ Tổng Tư lệnh quyết định giải thể tiểu đoàn 603. Số cán bộ chủ chốt của tiểu đoàn được chuyển về Cục Hải quân, số còn lại bổ sung cho tiểu đoàn 301 vận tải bộ thuộc Đoàn 559 để nghiên cứu tìm một phương thức mới vận tải thích hợp hơn.
NGÔ MINH. Người thay đổi gương mặt và những chuyến tàu công khai / Ngô Minh // Sách Huyền thoại đường Hồ Chí Minh trên biển. - H.: Lao động, 2011. - Tr. 247-250
Hoạt động của những đoàn tàu không số là bí mật, nhưng có một thời kỳ các tàu ta vào Nam, ra Bắc công khai trên biển. Nghĩ ra hành trình công khai ấy là Tư Mau, người phải phẫu thuật gương mặt để tiếp tục đi chở vũ khí...
Hạm đội 7 tung quân
Từ năm 1962 - 1965, những thủy thủ tàu không số đã thực hiện thành công 90 chuyến chở 4.919,636 tấn vũ khí, quân trang, thuốc men vào chi viện cho chiến trường. Sau vụ tàu 143 của thuyền trưởng Lê Văn Thiêm và chính trị viên Phan Văn Bảng chở 63 tấn vũ khí cập bến Vũng Rô bị địch phát hiện ngày 15.2.1965, con đường bí mật trên biển Đông đã bị lộ. Từ đó, Hạm đội 7 Mỹ tung 40% lực lượng tàu chiến, cùng máy bay và tàu của hải quân chính quyền Sài Gòn phong tỏa biển Đông rất gắt gao. Mỹ điều khu trục hạm Higbec D806, Alaele D666 và 40 tàu chiến khác vào vùng biển miền Nam làm nhiệm vụ “chống Việt Cộng thâm nhập”. Ở miền Bắc, Mỹ leo thang bắn phá bằng không quân rất quyết liệt.
Tháng 7-1967, ta tổ chức 5 tàu đưa hàng vào Khu 5. Cả 5 tàu đều bị địch phát hiện; 3 tàu phải quay ra, 2 tàu bị đánh phá, tổn thất lớn. Quý 4/1971, ta tổ chức 11 tàu trọng tải 50, 100, 200 tấn vượt biển vào Nam, nhưng tất cả đều bị ngăn chặn, phải quay lại. Năm 1972, ta tổ chức 12 chuyến tàu, nhưng 11 chuyến phải quay lại. Tình hình hết sức khó khăn. Chiến trường thì luôn thiếu súng ống, đạn dược. Các sư đoàn, trung đoàn liên tục điện về Trung ương Cục miền Nam xin vũ khí.
Trước tình thế khó khăn đó, Tư Mau (tức Phan Văn Nhờ) đề nghị Khu ủy Khu 9 báo cáo Quân ủy Trung ương cho chuyển hướng “vận tải công khai”. Quân khu 9 cử ngay Tư Mau ra Bắc để bàn với Quân ủy Trung ương về phương thức vận tải hợp pháp này. Tư Mau là một con người mưu trí, gan cóc tía, nhiều kinh nghiệm đi biển và có những sáng tạo hết sức táo bạo, nguyên Đoàn trưởng Đoàn vận tải 962 của Quân khu 9. Tư Mau nhờ bà Võ Thị Đảnh (cơ sở của ta) đứng tên mua một chiếc thuyền đánh cá, lắp máy Nhật 33 mã lực, với mã số đăng ký là 3308KG. Sau một thời gian chuẩn bị, ngày 11.3.1971, thuyền do Bí thư Chi bộ Tư Mau lái, Tám Sơn làm thuyền trưởng cùng 3 chiến sĩ rời cảng Rạch Giá ra Bắc. Trưa ngày 30.3, tàu cập bến Đồ Sơn. Sau khi nghe Tư Mau báo cáo, Cục Tác chiến, Bộ Tư lệnh Hải quân trình bày đề án, Đại tướng Võ Nguyên Giáp nói: “Quân ủy đồng ý cho Quân khu 9 sử dụng phương thức vận chuyển “công khai”. Bộ Tư lệnh cung cấp mọi chi phí cho công tác này. Trước mắt gửi cho quân khu 20.000 đô la Mỹ và 2 triệu tiền Sài Gòn; đồng thời cho đóng 10 thuyền ở miền Bắc theo kiểu thuyền đánh cá Nam Bộ. Giao cho hải quân lo bến bãi ở miền Bắc, chọn các đồng chí là người miền Nam lớn tuổi, có kinh nghiệm đi biển ở Đoàn 125 tăng cường cho đội thuyền Quân khu 9. Quân ủy không đồng ý chọn đảo Nam Du làm điểm trung chuyển hàng vì ở đó dân qua lại làm ăn nhiều, dễ bị lộ. Giao cho Bộ Tư lệnh Hải quân chọn 5 điểm ở quần đảo phía vịnh Thái Lan và Malaysia, cho tàu chở hàng từ Bắc vào đó, rồi Quân khu 9 đưa thuyền hợp pháp ra chuyển vào bờ”.
Ngày 28.4.1971, thuyền đánh cá do Tư Mau làm chính trị viên cùng 4 thuyền viên rời vịnh Hạ Long mang theo vũ khí vào chiến trường. Đoàn 125 cử tàu V605 do thuyền trưởng Nguyễn Đình Phồn chỉ huy đi hộ tống. Đội thuyền qua đảo Hải Nam, rồi đến Hoàng Sa thì được lệnh quay lại để chuẩn bị thêm. Ngày 27.6 tiếp tục ra biển, lần này không có tàu hộ tống. Ngày 7.7, đội thuyền đã cập cảng Rạch Giá an toàn. Sau đó bằng phương thức địch không ngờ tới này, anh em còn đi nhiều chuyến thành công nữa.
Để hoạt động công khai, cuối tháng 7.1972, Tư Mau trong vai một nhà tư sản đến mua căn nhà số 27/20 đường Âu Dương Lân, phường Rạch Ông, quận 8, Sài Gòn. Lấy danh nghĩa là một gia đình chủ tàu đánh cá, Tư Mau xin giấy phép thành lập Công ty Việt Long, chuyên chở hàng thuê đi miền Trung, mua bán thuyền đi biển, máy cũ và cây cảnh. Đoàn 371 đã mua các thuyền SG66, SG67, SG158, SG159 để vận chuyển vũ khí và mua 3 thuyền vận tải VT235, VT254, 2674KG để đi làm kinh tế kết hợp nghi trang che mắt địch. Công ty còn mướn thợ đóng 2 chiếc tàu ở Biên Hòa trọng tải 120 tấn, 500 mã lực có gắn máy lạnh. Công ty có 10 kho cất giấu vũ khí, hàng hóa ở ngay Sài Gòn. Thời gian này Công ty Việt Long (tức Đoàn 371) thường xuyên tổ chức mỗi chuyến 2 thuyền, có lần 3 thuyền ra vịnh Hạ Long nhận vũ khí, mỗi lần từ 15 đến 27 tấn về bến an toàn. Bến giao hàng cũng được điều chỉnh. Ngoài bến Đông Cùn, Đoàn 371 mở thêm Bến Hố, Cà Mau, Trà Vinh. Cơ sở của đoàn mở rộng từ Rạch Giá đến duyên hải Trà Vinh, Vũng Tàu, Sài Gòn và Long Hải (Bà Rịa). Đoàn 125 ở Bắc có nhiệm vụ tiếp đón các đội công tác, sửa chữa tàu thuyền, chuyển giao hàng và hộ tống thuyền của đoàn qua các vùng biển phức tạp.
“Thay đổi hẳn gương mặt tôi”
Sau vụ phản bội của Ba Tam (tức Nguyễn Văn Rớt, một cán bộ của văn phòng công ty, vốn là em trai của một cán bộ Tỉnh đội Bến Tre), Đoàn 371 bị tổn thất nặng nề. 100 cán bộ và công nhân bị bắt, văn phòng ở Sài Gòn và một số thuyền bị địch tịch thu. May thuyền vẫn còn lại 5 chiếc, trong đó 4 chiếc đang ở miền Bắc với 23 người, trong đó có 3 cán bộ chỉ huy là Tư Mau, Mười Thượng, Mười Khanh; một thuyền ở Bến Hố không bị lộ, lực lượng ở các bến vẫn còn đầy đủ. Quân khu 9 điện cho biết, bọn phản bội đã cung cấp cho địch nhân dạng Tư Mau. Vì thế Tư Mau đề nghị: “Thay đổi hẳn gương mặt tôi”. Theo nhà văn Nguyên Ngọc thì Tư Mau phải đi phẫu thuật chỉnh hình ở Bệnh viện 108. Mổ chân mày từ cong, dài, làm cho thẳng và ngắn lại. Mũi bạnh ra, miệng cũng rộng hơn. Khi vết mổ đã lành, Tư Mau về gặp đồng chí Lê Đức Anh ở Bộ tổng tham mưu. Tư Mau hỏi: “Anh coi tôi có khác không?”. Ông Lê Đức Anh lắc đầu: “Mình vẫn nhận ra mà! Chưa được đâu”. Thế là Tư Mau lại vào Bệnh viện 108, cắt sườn non độn cho mũi cao lên. Bứng hết cả da đầu, xoay ngược mái tóc từ trước ra sau. Đôi má cho đầy tàn hương. Đốt cả đầu ngón tay để làm biến dạng dấu vân tay. Lần này về Bộ tổng tham mưu, ông Lê Đức Anh không nhận ra được, Tư Mau lên đường về Nam theo đường Trường Sơn... Một thời gian sau ở Sài Gòn xuất hiện một nhà tư sản mới, chủ vựa cá Sáu Thuận. Và những đoàn thuyền hợp pháp lại ra Bắc chở vũ khí vào Quân khu 9 cho đến năm 1975...
Bằng phương thức hoạt động công khai này, từ đầu năm 1972 cuối năm 1973, Đoàn 371 đã thực hiện 37 chuyến ra Bắc, chở 600 tài khí, hàng hóa, thuốc chữa bệnh vào chiến trường Nam Bộ an toàn, bí mật. Đặc biệt, đoàn còn chở những cán bộ cao cấp là đồng chí Sáu (Lê Đức Anh) ra Bắc và Sáu Dân (Võ Văn Kiệt) từ Bắc vào Nam tuyệt đối an toàn…
PHAN TIẾN DŨNG. Tên anh hóa thành bất tử / Phan Tiến Dũng // Sách Huyền thoại đường Hồ Chí Minh trên biển. - H.: Lao động, 2011. - Tr. 240-243
Năm 1972, trong chuyến chở vũ khí từ miền Bắc vào chi viện cho miền Nam, "tàu không số" mang số hiệu bí mật là 645, do chính trị viên Nguyễn Văn Hiệu chỉ huy bị địch phát hiện và tấn công. Trong lúc gian nguy, anh yêu cầu tất cả các chiến sĩ nhảy xuống biển, bơi ra xa, còn mình ở lại, điểm hỏa cho tàu nổ tung cùng với tàu địch. Sự hi sinh cao đẹp, sáng ngời lý tưởng cách mạng của anh đã hóa thành bất tử...
“Các đồng chí về báo cáo với đoàn là tôi đã hoàn thành nhiệm vụ!”, Đó là lời nói cuối cùng của đồng chí Nguyễn Văn Hiệu, Chính trị viên tàu 645 trong trận chiến đấu của chuyến đi ngày 23-4-1972.
Liệt sỹ - anh hùng Nguyễn Văn Hiệu sinh năm 1932 tại xã Thắng Phương, huyện Thăng Bình (Quảng Nam). Năm 1954 anh tập kết ra Bắc, công tác ở Đoàn tàu đánh cá Hạ Long, Hải Phòng. Như những người con miền Nam tập kết ra Bắc, Nguyễn Văn Hiệu chỉ mong chờ từng ngày được trở về quê hương chiến đấu. Khát vọng ấy sớm thành hiện thực khi năm 1962 anh trở thành chiến sỹ hải quân, được biên chế vào Đoàn 125 - Bộ Tư lệnh Hải quân và rồi trở thành sĩ quan, giữ chức chính trị viên, kiêm bí thư chi bộ tàu 645. Anh đã cùng đồng đội thực hiện thành công 13 chuyến vượt biển vận chuyển vũ khí vào chiến trường miền Nam. Đến chuyến thứ 14, tàu 645 hai lần nhổ neo ra đi, song đều bị tàu địch theo dõi nên đành quay lại.
Ngày 12-4-1972, tàu 645 ra khơi lần thứ ba. Sau nhiều ngày lênh đênh trên biển, đối mặt với bão tố và sự phong tỏa của địch, các anh đã mưu trí tránh né. Đến ngày 23-4, tàu 645 đến tọa độ chuyển hướng vào bờ, chỉ còn cách đảo Phú Quốc chừng 60 hải lý.
Tất cả đang háo hức nghĩ tới giây phút gặp lại đồng chí, đồng bào tại bến, thì vào lúc 14 giờ, tàu nhận điện từ Sở Chỉ huy thông báo: “Đêm nay sẽ có thuyền đón ở mũi Cà Mau”. Nhưng đến lúc 17 giờ lại có điện: “Bến động, tàu quay ra chờ đợi”. Trong lúc cán bộ, thủy thủ đang chuẩn bị quay ra, thì gặp một tàu khu trục của Mỹ từ Vịnh Thái Lan đi tới. Chúng đánh tín hiệu hỏi: “Tàu từ đâu đến và đi đâu?”. Tàu 645 trả lời: “Tàu từ Trung Quốc xuống, chúng tôi bị lạc!”. Tàu khu trục địch bắn hàng loạt pháo sáng lên trời. Chính trị viên Hiệu quan sát thấy ở phía trước còn có 3 tàu địch nữa. Linh tính mách bảo với anh, địch đã phát hiện ra tàu ta. Để tránh đụng độ, thuyền trưởng Lê Hà ra lệnh tàu tăng tốc độ chạy ra vùng biển quốc tế. Lúc này, chiếc khu trục 04 cũng tăng tốc, bám sát tàu 645 với ý đồ bắt sống. Các tàu còn lại của địch thay nhau “vờn” tàu ta. Lúc thì chúng chạy phía trước, lúc lại lùi về phía sau rồi vòng sang mạn trái, mạn phải của tàu ta. Đôi bên giằng co nhau cho đến 5 giờ sáng.
Tàu 645 vừa ngụy trang, vừa bí mật chuẩn bị chiến đấu và giữ nguyên hướng tiến như không có chuyện gì xảy ra. Khoảng 7 giờ 45 phút, sau một thời gian dài quan sát, địch khẳng định: “Đây là tàu Bắc Việt giả dạng”. Chúng dùng loa dụ hàng, anh em trên tàu lờ đi như là không biết gì và động viên nhau giữ vững ý chí chiến đấu.
Thấy gọi hàng không có kết quả, lính ngụy trên tàu liền bắn dọa, nhưng tất cả các cờ đạn chúng bắn đều rơi trước mũi tàu ta. Biết không còn giữ được yếu tố bí mật nữa, thuyền trưởng Lê Hà chỉ huy tàu 645 bất ngờ cho các loại súng 12,7 ly, B40, B41 đồng loạt nhả đạn về phía tàu địch. Tàu ta vừa đánh trả quyết liệt vừa cơ động vào gần bờ. Lúc này một số đồng chí của ta bị thương nặng. Một quả đạn lớn của địch trúng vào xích lái, tàu không còn điều khiển được nữa, cứ chạy vòng tròn. Chính trị viên Nguyễn Văn Hiệu đến các vị trí động viên tinh thần anh em. Anh đề nghị thuyền trưởng Lê Hà tổ chức cho anh em rời tàu, còn anh ở lại điểm hỏa bộc phá hủy tàu rồi sẽ rời tàu sau cùng.
Chiến sỹ lái tàu Thẩm Hồng Lăng cũng nấn ná, đòi ở lại điểm hỏa với chính trị viên Nguyễn Văn Hiệu. Ánh mắt người chính trị viên vốn bình thường đầy nghiêm khắc, sao lúc này bỗng dịu dàng thân thương đến lạ kỳ.
Hiệu nói với Lăng, nửa như ra lệnh, nửa như khẩn khoản: “Em còn trẻ, còn cống hiến cho cách mạng dài lâu... Anh đã có vợ con, em chưa có người yêu, hãy sống đến ngày chiến thắng. Thôi, nghe anh! Em nhảy xuống biển bơi cùng đồng đội đi...”.
Nước mắt thương người anh, người chính trị viên của mình, nhưng Lăng vẫn quyết không rời tàu, không muốn để anh Hiệu một mình ra đi, vẫn vờ như không nghe thấy, cứ lúi húi ngồi đốt hủy tài liệu trên boong tàu. Nói nhỏ không được, chính trị viên Hiệu nghiêm giọng: “Đồng chí hãy chấp hành mệnh lệnh!”, rồi bất ngờ anh lao tới đẩy Lăng xuống biển. Khi mọi người đã xuống biển, Nguyễn Văn Hiệu phát tín hiệu giả đánh lừa địch, tranh thủ hủy hết tài liệu. Xong việc, anh định nhảy xuống nước, thì phát hiện tình huống vô cùng nguy hiểm: 16 chiến sĩ ta, phần lớn bị thương, phải cụm lại dìu nhau bơi. Con tàu mất lái, chạy vòng tròn, lúc thì đến gần đồng đội của anh, lúc thì lùi ra xa. Nếu tàu nổ tung, tính mạng của đồng đội sẽ lâm nguy! Chính vì vậy, anh quyết định không rời tàu, thay đổi cách thức điểm hỏa hủy tàu.
Đứng trên mạn tàu, nhìn về hướng đồng đội đang dìu nhau bơi dưới nước, Nguyễn Văn Hiệu dùng tay làm loa gọi lên: “Các đồng chí về báo cáo với đoàn là tôi đã hoàn thành nhiệm vụ rồi!”. Dứt lời, anh quay vào buồng lái, đôi mắt căm hờn khi nhìn thấy tàu địch đang đến gần và biết chắc đồng đội đã ở khoảng cách an toàn, anh điểm nổ. Con tàu phát ra tiếng nổ long trời, tung lên cột nước trắng xóa, cao hàng chục mét... Chính trị viên tàu 645 đã ra đi bình thản như thế đó... Năm ấy anh vừa tròn 40. Anh ra đi, để lại bốn đứa con còn thơ dại cùng người vợ trẻ ở phường Máy Tơ, quận Hồng Bàng, Hải Phòng...
Với hành động quả cảm, thanh thản chấp nhận hi sinh để bảo toàn tính mạng cho đồng đội, Trung úy Nguyễn Văn Hiệu đã được Nhà nước tặng thưởng Huân chương Chiến công Giải phóng hạng Nhất. Sau ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng, anh được truy tặng danh hiệu Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân. 16 cán bộ, thủy thủ còn lại của tàu 645 đều bị địch bắt, giam tại nhà tù Phú Quốc. Năm 1973, sau Hiệp định Paris, các anh mới được trao trả tự do.
Tháng 5-2004, tôi được Ban liên lạc cựu chiến binh tàu “không số khu vực miền Bắc mời tham gia cùng đoàn lên thăm Đại tướng Võ Nguyên Giáp và dự lễ kỷ niệm 50 năm chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ. Tôi đã xuống Hải Phòng thăm gia đình và thắp hương lên bàn thờ liệt sỹ - anh hùng Nguyễn Văn Hiệu. Trong khung cảnh bùi ngùi, xúc động, tôi đã gặp cháu Nguyễn Văn Phương - con trai anh Hiệu - hiện là Phó phòng cảnh sát hình sự Công an Hải Phòng. Cùng đi với tôi còn có Lê Hà, nguyên thuyền trưởng tàu 645 - nhân chứng lịch sử. Thấy chị Phạm Thị Vi (vợ anh Hiệu) mạnh khỏe, các con anh trưởng thành, lòng tôi vui mừng, phấn khởi. Anh đã thanh thản ra đi để cho đồng đội của mình được sống trở về đoàn tụ cùng gia đình. Sự hi sinh vô cùng cao thượng của anh đã tiếp thêm sức mạnh cho những người thủy thủ kiên cường vượt biển, góp phần làm nên chiến thắng Hồ Chí Minh lịch sử. Tấm gương sáng ngời lý tưởng cách mạng của anh lại thắp sáng niềm tin cho thế hệ trẻ những người lính biển chắc tay súng, vững tay lái, sẵn sàng ra khơi bảo vệ vững chắc chủ quyền biển, đảo, thềm lục địa thiêng liêng của Tổ quốc. Anh ngã xuống giữa lòng biển xanh, nhưng tên anh đã hóa thành bất tử.
PHAN TIẾN DŨNG. Xứng đáng là người con của biển / Phan Tiến Dũng // Sách Huyền thoại đường Hồ Chí Minh trên biển. - H.: Lao động, 2011. - Tr. 236-239
Đại tá Phạm Duy Tam - Nguyên Phó tham mưu trưởng Quân chủng Hải quân chính là người đã có 7 lần vượt biển trên con tàu không số chở vũ khí vào chiến trường miền Nam. Ông cũng là người vinh dự được giao trọng trách chỉ huy tàu 675 thần tốc hành quân trong điều kiện sóng to, gió lớn, vượt gần 500 hải lý để cùng với các lực lượng dũng cảm truy kích địch và giải phóng hoàn toàn quần đảo Trường Sa vào rạng sáng ngày 29-4-1975.
Người 7 lần “truy điệu sống”
Chiến tranh đã đi qua hơn 1/3 thế kỷ, nhưng dường như kỷ niệm về những năm tháng lênh đênh trên con tàu không số vượt biển “tiếp máu” cho chiến trường miền Nam chưa bao giờ phai nhạt trong tâm trí Đại tá Phạm Duy Tam.
Ông quê Hải Trạch, Bố Trạch (Quảng Bình). Tuổi thơ gắn liền với biển cả, nên lớn lên ông trở thành lính thủy, rồi sau đó tốt nghiệp sĩ quan hải quân, đến năm 1969 thì về nhận công tác tại Đoàn tàu không số, được bổ nhiệm Phó Thuyền trưởng tàu 42.
Ngày còn giữ chức Phó chỉ huy trưởng Vùng 3 Hải quân ông là người thường xuyên sâu sát kiểm tra, bám nắm tình hình cơ sở. Những lần như thế cánh lính trẻ thường yêu cầu thủ trưởng kể chuyện về đoàn tàu không số. Trước khi kể bao giờ ông cũng không quên câu “nhắc khéo”: “Các cậu bây giờ quá sướng, chứ hồi “tớ” làm gì có được tàu to, trang bị vũ khí, máy móc, khí tài hiện đại như bây giờ. Vì thế “các cậu” phải lo mà bảo quản cho thật tốt để dùng bền đó!”.
Cánh lính trẻ đồng thanh: “Thưa thủ trưởng, chúng em sẽ cố gắng”, rồi mắt tròn, mắt dẹt lắng nghe. Ông kể: “Ngày ấy vượt biển, trên tàu chỉ có chiếc la bàn từ, đồng hồ thiên văn, máy 1/6 dùng để đo mặt trời, trăng, sao và một bộ tính thiên văn, không có định vị, la bàn con quay, máy đo sâu, máy tính đường, máy móc thông tin liên lạc chủ yếu đánh moóc tạch tè. Để phục vụ cho mỗi chuyến đi, tàu phải chuẩn bị đầy đủ một tháng lương thực, thực phẩm, nhiên liệu, nước uống... Cán bộ, thủy thủ còn tranh thủ thời gian huấn luyện sử dụng các loại vũ khí, luyện tập xử lý tình huống có thể xảy ra trên biển, các phương án rời tàu, đánh bộc phá khi cần phá hủy tàu....
Do tính chất thực thi “nhiệm vụ đặc biệt”, vì thế trước khi vượt biển, tổ chức làm lễ “truy điệu sống” cho tất cả thủy thủ trên tàu không số, cấp trên và những người ở lại coi chúng tôi là những chiến sỹ cảm tử quân. Nguyên tắc bất di bất dịch là phải giữ cho bằng được bí mật của con đường. Trường hợp bị địch phát hiện, truy kích, không thoát khỏi vòng vây của chúng thì phải tự dùng bùng bộc phá để hủy tàu, không để người và vũ khí rơi vào tay giặc.
Cứ thế, những con tàu không số âm thầm, lặng lẽ ra đi. Phía trước là bão tố, chông gai, là bom rơi, đạn nổ và mất mát, hi sinh. Phía sau là tiếng gọi quê hương thôi thúc. Do vậy mỗi lần đi chẳng ai biết trước số phận mình sẽ ra sao. Sự sống và cái chết quá mong manh vì tàu ta thì bé nhỏ mà biển khơi thì bao la, đã vậy kẻ thù luôn rình rập ngày đêm.
Lễ “truy điệu sống” diễn ra trang nghiêm. Những người ở lại từ thủ trưởng Bộ Tư lệnh cho tới đồng đội đều không cầm được lòng mình. Nhưng chúng tôi - thủy thủ của tàu không số chẳng mấy ai sờn lòng. Chúng tôi hiểu, mỗi khẩu súng, thùng đạn, hộp thuốc... được vận chuyển vào chiến trường miền Nam là quý giá vô ngần. Vì thế 100% cán bộ, thủy thủ đều quyết tâm lên đường...”.
Gần chục năm lênh đênh cùng các con tàu không số vượt biển, Đại tá Phạm Duy Tam có 7 lần được “truy điệu sống”. Nhưng điều kỳ diệu là những chuyến đi của ông và đồng đội nhiều lần gặp bão tố và sự theo dõi gắt gao của kẻ địch nhưng nhờ sự mưu trí, khôn khéo và tinh thần quả cảm, họ đã vượt qua tất cả để hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ...
Thần tốc, giải phóng Trường Sa
Nhân dịp Đại tá Phạm Duy Tam về Đà Nẵng thăm gia đình, tôi đã gặp và đề xuất ông kể lại chuyến vượt biển giải phóng Trường Sa năm ấy. Vốn là sỹ quan cấp dưới của ông từ hồi còn ở Vùng 3 Hải quân, thế nên khi tôi đề đạt “nguyện vọng” là ông “chiều” ngay.
Và câu chuyện ông kể như thước phim quay chậm giúp tôi hiểu thêm về biên đội tàu ngày ấy thần tốc vượt biển, giải phóng Trường Sa... “Hai tuần sau ngày thành phố Đà Nẵng được giải phóng, tôi được Bộ Tư lệnh Quân chủng giao nhiệm vụ làm biên đội trưởng một biên đội tàu cá giả dạng (tàu không số) hành quân cấp tốc từ Hải Phòng vào quân cảng Tiên Sa (Đà Nẵng), cấp trên xác định, lực lượng của chúng tôi là mũi tiến công duy nhất trên hướng biển do các đoàn tàu không số (Đoàn 125) được lệnh phối hợp cùng lực lượng đặc công nước và Sư đoàn 2 bộ binh, Quân khu 5.
Đúng 4 giờ ngày 11-4-1975, biên đội ba tàu 675, 673 và 674 lên đường. Chuyến đi ấy ngoài chức trách là biên đội trưởng, tôi còn làm Thuyền trưởng tàu 675. Đồng chí Nguyễn Xuân Thơm - Thuyền trưởng tàu 673. Còn tàu 674 do đồng chí Nguyễn Văn Đức làm Thuyền trưởng. Do tính cấp thiết của nhiệm vụ nên biên đội tàu chúng tôi chạy hết công suất, thẳng hướng đảo Song Tử Tây. Chuyến đi ấy gió lớn trong khi tàu ta là loại tàu nhỏ nên bị sóng quần cho tơi tả. Tất cả thành viên vẫn phấn chấn vì được ra giải phóng Trường Sa là niềm vinh dự quá đỗi tự hào của người chiến sỹ. Những cơn sóng biển đổ chụp xuống con tàu, ai cũng say sóng nhưng vẫn kiên cường bám trụ. Lực lượng đặc công thủy nằm bẹp dưới hầm tàu để tránh bị phát hiện. Anh em say sóng lừ đừ nhưng vẫn ráng chịu đựng. Biển sóng to, gió lớn trong khi tàu ta bé nhỏ, mọi người quyết định vẫn mở hết công suất máy. Rồi một chiếc tàu bị hỏng máy. Khó khăn hơn, cả đội tàu không thể liên lạc được với Sở Chỉ huy tiền phương của Bộ tư lệnh Quân chủng đóng ở Đà Nẵng. Trước tình hình đó, chúng tôi vượt biển bằng la bàn, dõi theo con nước và ngắm sao trời... Sau 3 ngày đêm vật lộn với sóng, gió vượt gần 500 hải lý, chúng tôi đã thấy đảo Song Tử Tây như một chấm nhỏ xa mờ. Ngày đó các đảo còn thấp lè tè, chiều cao chỉ từ 1,5m đến 4,5m so với mặt nước biển. Ban ngày phát hiện đã khó, ban đêm lại càng khó hơn vì đảo không có điện, lại nhấp nhô giữa biển nước mênh mông biết đâu là đảo có quân đội ngụy quyền Sài Gòn chiếm giữ”.
Đại tá Phạm Duy Tam bỗng hạ giọng: “Ngày đó, chúng tôi được trên chỉ thị là tuyệt đối không đánh nhầm. Đây là một nhiệm vụ cực kỳ khó khăn bởi máy móc, thiết bị hàng hải mà ta có được lúc đó quá thô sơ. Cuối cùng bằng kinh nghiệm, chúng tôi cũng phát hiện quân đội Sài Gòn chiếm giữ những đảo nổi của Trường Sa. Trong đó đảo Nam Yết là Sở Chỉ huy với lực lượng lên đến 60 lính; các đảo Song Tử Tây, Trường Sa Lớn đều có 40 lính; các đảo Sơn Ca, Sinh Tồn, An Bang có 20 lính... Thời cơ ngàn năm có một đã tới, biên đội nhanh chóng triển khai đội hình chiến đấu. Hai tàu 674 và 673 án ngữ phía Bắc đảo 15 hải lý đề phòng đối phương từ phía Bắc xuống và nghi binh hai tàu chiến của ngụy đang lởn vởn ở khu vực đảo Nam Yết. Tàu 675 do tôi chỉ huy bí mật tiếp cận gần mép san hô của đảo, rồi thả xuồng cao su, lần lượt chở bộ đội đặc công nước do đồng chí Nguyễn Ngọc Quế (Đội trưởng Đội 1 - Đoàn 126) chỉ huy đổ bộ lên đánh chiếm đảo.
Đúng 4 giờ 30 phút, ngày 14-4-1975, ta bất ngờ đồng loạt nổ súng, tiêu diệt 7 tên, bắt sống 33 tên, giải phóng hoàn toàn đảo Song Tử Tây. Ngay trong đêm đó, tôi tiếp tục chỉ huy tàu chở tù binh từ đảo Song Tử Tây về Quân cảng Đà Nẵng an toàn. 10 ngày sau, tàu 641 (Đoàn 125) tiếp tục chở phân đội đặc công nước do đồng chí Đỗ Viết Cường (Đội phó Đội 1- Đoàn 126) đổ bộ đánh chiếm và giải phóng đảo Sơn Ca, bắt sống 17 tên ngụy. Thừa thắng xông lên, quân ta tấn công giải phóng đảo Nam Yết.
Đúng 2 giờ sáng ngày 29-4-1975 trên hướng tiến công đường biển ta đã kéo cờ Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam, giải phóng những đảo thuộc quần đảo Trường Sa do ngụy quyền Sài Gòn chốt giữ. Ngày đó, ngắm nhìn lá cờ Tổ quốc phần phật tung bay trên các đảo tiền tiêu, chúng tôi ôm chầm lấy nhau, niềm vui vỡ òa trên từng gương mặt. Thắng lợi trên mặt trận Biển Đông, giải phóng Trường Sa góp phần quan trọng vào chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất Tổ quốc”...
Những kỷ niệm của một thời chiến tranh vẫn tươi nguyên trên khuôn mặt dạn dày sương gió của người thuyền trưởng 7 lần “truy điệu sống”. Tuy trở về với đời thường, nhưng người cựu binh già vẫn còn nặng nợ với “binh nghiệp”. Ngôi nhà ông là địa chỉ tin cậy mà thế hệ sỹ quan trẻ hôm nay tìm đến học hỏi, trau dồi kinh nghiệm và bản lĩnh của người thủy thủ. Và trong con mắt họ, bao giờ ông cũng xứng đáng là người con của biển...
TRỊNH DŨNG. Má Mười Rìu người bán gia tài mua tàu không số / Trịnh Dũng, Bùi Thu Hương // Sách Những người làm nên huyền thoại. - H.: Quân đội nhân dân, 2011. - Tr. 190-196
Nằm khép mình trong khu phố Hải Tân, thị trấn Phước Hải, huyện Đất Đỏ, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu là ngôi nhà của má Mười Rìu - một đảng viên, nữ dũng sĩ can trường, người đã bỏ tiền mua thuyền cho 6 chiến sĩ miền Đông vượt biển ra Bắc chở vũ khí vào Nam đánh giặc.
Vừa thấy chúng tôi bước vào, má đã nở nụ cười hiền khô: "Mấy đứa lại xuống thăm má đó hả. Má còn khỏe mà. Công việc đơn vị bộn bề, đi ai lo con?". Nghe vậy, bác Lê Hà - con trai má vội đỡ lời: "Má à! Không phải mấy anh trên Đoàn 125 Hải quân đâu. Mấy chú đây là nhà báo, muốn hỏi má về chuyện mua tàu cho chúng con ra Bắc. Rồi chuyện má huy động vật chất lo cho 3 chuyến tàu Không số cập bến Lộc An đó".
- Ủa! Vậy hả. Thế ngồi đây để má đi lấy nước.
Nhìn má, tôi không thể tin đây là một người đã 91 tuổi, nhưng vẫn còn minh mẫn, giọng nói rành rọt và am hiểu tường tận cuộc sống. Tiếp chuyện chúng tôi, má bảo: "Má nhớ mấy đồng chí, mấy thằng con trên tàu Không số. Ngày đó, các đồng chí, các con cực quá trời. Thương lắm, nhưng má để trong lòng à...". Nói đến đây, mắt má rơm rớm. Bao ký ức cứ dần hiện về làm cho giọng má cứ nghèn nghẹn.
"... Hồi đó, anh Năm (tức cố lão thành cách mạng Dương Quang Đông) được tổ chức giao nhiệm vụ về làm Phó ban Hàng hải Nam Bộ và về miền Đông xây dựng "hải cảng" tại Bà Rịa-Vũng Tàu. Nhiệm vụ là tìm đường vận chuyển vũ khí từ Bắc vào Nam trên con đường biển. Đó là vào năm 1961, phiên hiệu đơn vị là 555 (sau này là Đoàn 1500, Quân khu 7).
Ngày đầu mới về xây dựng cơ sở, anh Năm cực lắm. Dân ở đây thưa thớt, lại nghèo nên làm gì cũng khó. Thời điểm này, chồng má (tức ông Lê Rìu) đã vào bộ đội được mấy năm. Ít lâu, được anh Năm vận động, má xung phong vào quân giải phóng. Hà - con trai má lúc đó 17 tuổi cũng tình nguyện làm giao liên. Vậy là gia đình má thành tổ "quân sự" nòng cốt để vận động nhân dân Hồ Tràm, Lộc An.
Sau một thời gian xác định được luồng lạch ở cửa biển Lộc An để cho tàu bí mật chở vũ khí vào bến, Đơn vị 555 đã bàn bạc mua sắm phương tiện tìm đường ra Bắc. Ngặt một nỗi, tiền mua tàu để đi chuyến đầu tiên thì Trung ương Cục không có. Lúc này, đồng chí Phạm Hùng đã phải viết thư cho đồng chí Mai Chí Thọ - Bí thư Khu 1 (tức Quân khu 7 bây giờ) để xin tiền mua phương tiện, Đồng chí Mai Chí Thọ vét quỹ được 100.000 đồng rồi giao cho đồng chí Bửu Hoa mang tiền xuống. Nào ngờ, khi trở lại căn cứ, đồng chí Bửu Hoa bị địch phục kích bắn chết và 100.000 đồng mất trọn. Vậy là hy vọng mua thuyền rơi vào bế tắc.
Thấy mấy ảnh lòng như lửa đốt, má biết, việc mua thuyền tìm đường ra Bắc là việc làm hết sức quan trọng. Trong lúc bàn bạc, má liền nói với anh Năm:
- Tôi còn được vài trăm ngàn và mấy lượng vàng. Bây giờ xin các anh cho tôi được bỏ tiền ra mua tàu.
Chuyện má nói ra ai cũng bất ngờ. Mừng quá, mọi người đồng ý cho má vào chi khu tìm cách mua tàu. Ngay tối hôm ấy, má đã chui rào, bò vào chi khu. Má tìm đến nhà một người bà con, mượn thẻ kiểm tra, rồi lần dò tìm mua được chiếc tàu, máy Yamaha cả lưới và câu. Má biến nó thành một chiếc tàu đánh cá, rồi gửi chỗ bà con ngư dân để hợp thức hóa con tàu. Má ở lại Phước Hải theo dõi vài ngày thấy êm, má liền trở lại báo cáo tổ chức. Mọi người mừng quá trời.
- Có tàu, anh Năm liền chọn sáu đồng chí cho đi học tập chính trị, chuẩn bị tư tưởng, đồng thời cho học cả tiếng Hoa. Sáu đứa trong đó có con trai má đây - Má nói và nhìn về phía bác Lê Hà với ánh mắt đầy tự hào và trìu mến.
Để chuẩn bị chu đáo cho chuyến đi, má Mười Rìu đã hẹn bà con đem thuyền ra tận Hồ Cốc. Ngày 17-2-1962, sáu đồng chí nhận tàu và lên đường.
Số phận con tàu đầu tiên từ Bà Rịa - Vũng Tàu ra Bắc thật lắm gian nan. Vừa ra khỏi vịnh chưa được bao xa thì gặp một cơn bão, tàu phải tấp vào vịnh Cam Ranh, tỉnh Khánh Hòa. Không ngờ vừa vào đến cửa vịnh, cả sáu đồng chí bị bắt, địch đưa về nhà tù giam 1 tháng. Thấy không có gì khả nghi, chúng thả ra. Anh em lại chuẩn bị thêm xăng dầu, nước uống, cơm gạo, muối ra khơi nhằm hướng Bắc mà chạy. Đến ngày 25-4, tàu tấp vào vịnh Duy Linh phía Tây đảo Hải Nam, Trung Quốc, gặp lính tuần bắt về cảng Hải Khúy. Xem xét không thấy gì, họ giao lại cho Lãnh sự quán nước ta tại Quảng Châu. Ngày 10-5-1962, tàu về đến Hải Phòng. Sáu đồng chí được Trung ương cho học thêm về chuyên môn một thời gian, sau đó được cử chính thức làm thuyền trưởng, thuyền phó chở vũ khí vào Nam.
Đơn vị tính toán, cho sáu đứa chúng nó đi chỉ trong vòng một tháng ra đến Bắc rồi trở về. Nào ngờ, chúng đi miết. Không một dòng tin tức, biển sóng gió dữ dằn, địch rình mò càn quét. Lòng má quặn đau. Má nghĩ quẩn: Hay chúng nó bị lộ, bị địch bắt và hy sinh? Bão gió đã nhấn chìm chúng ngoài biển khơi rồi chăng?... Nghĩ thì nghĩ vậy nhưng trong lòng má vẫn lóe lên một tia hy vọng. Một ngày nào đó chúng sẽ trở về.
Cho đến rạng ngày 29-11-1963, má nhận được điện có tàu đã vào bến. Trời ơi má mừng thiệt là mừng. Vội hỏi thăm mấy ảnh xem có tụi thằng Hà, thằng Sơn không. Mấy ảnh không nói, má tưởng chúng nó chết cả rồi nên khóc thảm. Thấy vậy, anh Năm liền cười khà khà: "Chúng nó trở về rồi. Chị đi vận động bà con đem ghe bí mật chở vũ khí về căn cứ, rồi chuẩn bị lương thực, thực phẩm cho anh em tiếp tục ra Bắc". Vui quá, má đi vận động bà con đem ghe đi chở vũ khí. Má kêu gọi bà con Lộc An, ai có gạo cho gạo, ai có gà vịt cho gà vịt... được bao nhiêu má gom lại. Riêng má, trong nhà có tài sản gì đáng giá, má bán hết để lấy tiền mua xăng dầu, mua gạo, mua thuốc men cho các đồng chí quay ra Bắc tiếp tục chở vũ khí vào đây. Những ngày tàu cập bến, má đưa cán bộ, chiến sĩ trên tàu về nhà chăm sóc. Trông thấy anh em mà tội quá trời. Ai nấy gầy rộc, mặt hốc hác, da đen như củ súng. Thương quá, má gắng chăm. Các đồng chí, các con muốn ăn gì là má mua bằng được... .
Ba chuyến tàu Không số cập bến Lộc An trong những năm 1963-1965 đều một tay má Mười Rìu lo hậu cần cấp dưỡng và tham gia huy động nhân dân vận chuyển vũ khí mỗi khi có tàu cập bến. Tính ra không biết bao nhiêu công sức và tiền của nhưng khi kể về chuyện này, má Mười nói nhẹ như không vậy. Má bảo, lúc đó tiếc chi vài trăm ngàn bạc, dăm bảy lượng vàng, cuộc sống bình yên không tiếng súng, không chết chóc mới là quan trọng. Má khao khát từng ngày quê hương mình được giải phóng. Má cũng nuôi hy vọng, một ngày nào đó, Nam-Bắc sum họp một nhà, con trai mình sẽ là thuyền trưởng của những con tàu hiện đại đi khắp năm châu bốn biển.
Công sức của má đã góp phần làm cho 3 chuyến tàu của Đoàn tàu Không số chở hơn 100 tấn vũ khí cập bến Lộc An, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu an toàn. Số vũ khí ấy đã giúp quân dân miền Đông gian lao mà anh dũng làm nên chiến thắng Bình Giã vang dội.
Sau khi hoàn thành nhiệm vụ đón 3 chuyến tàu của các chiến sĩ Đoàn tàu Không số chở vũ khí vào chiến trường miền Đông Nam Bộ, má Mười Rìu trở về đơn vị cũ tiếp tục công tác, đó là Đoàn 814, Quân khu 7. Ở đơn vị, má làm công tác cấp dưỡng, ngày ngày lo cơm ngon canh ngọt cho các đồng chí của mình. Một thời gian sau, má được điều động đi công tác tại Chiến khu Đ. Tại đây, má tiếp tục làm giao liên và cấp dưỡng. Công việc của má thầm lặng nhưng rất quan trọng, nếu thiếu má anh em trong đơn vị như thiếu đi một cánh tay đắc lực. Vì vậy, khi ông Mười Rìu - chồng má hy sinh, tổ chức đã giấu không cho má biết để má yên tâm làm nhiệm vụ. Bốn năm sau khi trở lại Sài Gòn má mới hay tin chồng mình đã hy sinh trong trận càn Đông Dương năm 1970. Nỗi đau mất chồng, xa con tưởng má sẽ suy sụp không gượng dậy nổi nhưng má đã để nước mắt chảy ngược vào trong, biến đau thương thành hành động cách mạng. Má nói, má làm, má căng mình băng qua mưa bom bão đạn, khôn khéo trước thủ đoạn thâm độc của kẻ thù. Và ngày độc lập đã chào đón má. Má mừng đến rơi nước mắt khi trở về quê hương Lộc An. Bom đạn sẽ không còn nữa, chồi non, sự sống sẽ vươn lên mang niềm vui, niềm hạnh phúc đến. Lúc này, bác Lê Hà con trai má đã trưởng thành, trở thành cán bộ chỉ huy thuyền của Hải quân nhân dân Việt Nam.
Trò chuyện với má, chúng tôi muốn má kể thật nhiều nhưng má chỉ nhắc lại: "Công sức tiền bạc của má bỏ ra lúc đó có đáng chi. Sao sánh được với sự nhọc nhằn hiểm nguy của các đồng chí, các con trên đoàn tàu Không số. Tiếc là lúc đó, dân nghèo quá, gia đình má không thể đủ lực để lo cho các đồng chí, các con ăn ngon hơn, đầy đủ hơn... Đời má thế là mãn nguyện rồi, được ra Hà Nội viếng Lăng Bác Hồ, thăm Đại tướng Võ Nguvên Giáp, Chủ tịch nước Lê Đức Anh; rồi được cán bộ, chiến sĩ Đoàn 125 Hải quân phụng dưỡng hằng tháng. Con cái, cháu chắt cơ bản đã trưởng thành. Má thấy thanh thản lắm...".
Trước lúc ra về, má nắm tay tôi nói: "Con ra Hà Nội cho má gởi lời hỏi thăm thằng Cường. Nó là giảng viên đại học. Lần má ra Hà Nội, gặp má nó thương má lắm con ơi. Rồi nó nhận má làm má nuôi đó...".
Tôi không biết anh Cường mà má nhắc đến ở đâu, làm gì nhưng anh đã gieo vào lòng má tình yêu thương vô bờ bến. Rất mong anh Cường về thăm má Mười thêm một vài lần nữa, bởi giờ đây má tuổi cao như chuối chín cây, gió lay là rụng...