Lêi nãi ®Çu
Chủ tịch Hồ Chí Minh - Anh hùng giải phóng dân tộc, lãnh tụ thiên tài của Đảng và dân tộc Việt Nam, nhà văn hóa kiệt xuất, chiến sĩ cộng sản quốc tế lỗi lạc.
Công lao của Chủ tịch Hồ Chí Minh với dân tộc ta như non cao, biển rộng. Người gắn bó và hiến dâng trọn đời mình cho sự nghiệp cách mạng của Đảng ta và dân tộc ta; hết lòng, hết sức phụng sự Tổ quốc, phụng sự nhân dân cho đến hơi thở cuối cùng. Ở Hồ Chí Minh, tư tưởng, đạo đức, phong cách thống nhất biện chứng, làm thành diện mạo nhân cách văn hóa, nhất là văn hóa lãnh đạo.
Với mỗi người dân Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn là biểu tượng ngời sáng về đạo đức cách mạng, tấm gương hi sinh, hiến dâng trọn đời cho sự nghiệp cách mạng của Đảng, của dân tộc. Người không chỉ đấu tranh, mưu cầu cuộc sống ấm no, hạnh phúc cho nhân dân, mà còn để lại cho các thế hệ sau một di sản tinh thần vô cùng quý báu, đó là tư tưởng, là đạo đức, là phong cách Hồ Chí Minh.
Nhân kỷ niệm kỷ 130 năm ngày sinh của Chủ tịch Hồ Chí Minh (19/5/1890 - 19/5/2020), Thư viện tỉnh Gia Lai biên soạn và phát hành Thư mục toàn văn chuyên đề: “Tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh”.
Nội dung gồm có 3 phần chính:
I. Hồ Chí Minh - chân dung một con người
II. Học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh
III. Những cá nhân điển hình trong học tập và làm theo gương Bác ở tỉnh Gia Lai
Các bài viết đưa vào tập Thư mục toàn văn chuyên đề: “Tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh” được chúng tôi chọn lọc từ các sách, báo, tạp chí lưu trữ trong Thư viện tỉnh Gia Lai. Trên mỗi bài trích, chúng tôi đều có mô tả thư mục về hình thức của tài liệu.
Bạn đọc muốn tìm hiểu thêm từ tài liệu gốc, xin vui lòng liên hệ với Thư viện chúng tôi để được phục vụ. Bạn đọc cũng có thể truy cập vào trang Website: “thuvientinhgialai.vn” để đọc tài liệu về “Tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh”, trong mục “Thư mục chuyên đề” .
Trong quá trình biên soạn, chúng tôi đã hết sức cố gắng, nhưng chắc chắn không tránh được sai sót xảy ra. Thư viện tỉnh Gia Lai mong nhận được ý kiến của bạn đọc cho “Thư mục toàn văn chuyên đề” ngày càng có chất lượng, phục vụ tốt nhu cầu đọc của bạn đọc.
THƯ VIỆN TỈNH GIA LAI
HỒ CHÍ MINH - CHÂN DUNG MỘT CON NGƯỜI
Cuộc đời và sự nghiệp Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh / Hải Nam biên soạn // Sách Tư tưởng, đạo đức phong cách Hồ Chí Minh - những giá trị bền vững. - H.: Dân trí, 2017. - Tr. 9-14,15
Chủ tịch Hồ Chí Minh sinh ngày 19-5-1890 trong một gia đình nhà Nho có nguồn gốc nông dân, ở làng Hoàng Trù, xã Kim Liên, huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An, nơi có truyền thống đấu tranh kiên cường chống ách thống trị của thực dân phong kiến. Hoàn cảnh xã hội và sự giáo dục của gia đình đã ảnh hưởng sâu sắc đến Người ngay từ thời niên thiếu.
Với tinh thần yêu nước nồng nàn, thương dân sâu sắc, sự nhạy bén về chính trị, Người đã bắt đầu suy nghĩ về những nguyên nhân thành bại của các phong trào yêu nước lúc bấy giờ và quyết tâm ra đi tìm con đường để cứu dân, cứu nước. Tháng 6-1911, Người đi ra nước ngoài, suốt 30 năm hoạt động, Người đã đi đến nước Pháp và nhiều nước châu Âu, châu Á, châu Phi, châu Mỹ. Người hòa mình với những phong trào của công nhân và nhân dân các dân tộc thuộc địa, vừa lao động kiếm sống, vừa học tập, hoạt động cách mạng và nghiên cứu các học thuyết cách mạng. Năm 1917, thắng lợi của Cách mạng tháng Mười Nga và sự ra đời của Quốc tế Cộng sản đã đưa Người đến với chủ nghĩa Mác - Lênin. Từ đây, Người đã nhận rõ đó là con đường duy nhất đúng đắn để giải phóng dân tộc và giải phóng giai cấp.
Năm 1919, Người gia nhập Đảng Xã hội Pháp và hoạt động trong phong trào công nhân Pháp. Tháng 6-1919, thay mặt Hội Những người Việt Nam yêu nước tại Pháp, Người gửi tới Hội nghị Versailles (Pháp) Bản yêu sách của nhân dân An Nam, yêu cầu Chính phủ Pháp thừa nhận các quyền tự do và quyền bình đẳng của dân tộc Việt Nam. Tháng 12-1920, tại Đại hội lần thứ 18 của Đảng Xã hội Pháp tại thành phố Tours, Người bỏ phiếu tán thành gia nhập Quốc tế Cộng sản và tham gia thành lập Đảng Cộng sản Pháp. Sự kiện này đánh dấu bước ngoặt quan trọng trong cuộc đời hoạt động cách mạng của Người, từ chủ nghĩa yêu nước chân chính đến chủ nghĩa cộng sản.
Năm 1921, tại Pháp, Người tham gia thành lập Hội Liên hiệp các dân tộc thuộc địa, nhằm tuyên truyền cách mạng trong nhân dân các nước thuộc địa. Người viết nhiều bài đăng trên các báo "Người cùng khổ", "Đời sống thợ thuyền"... Đặc biệt, Người viết tác phẩm "Bản án chế độ thực dân Pháp" lên án mạnh mẽ chế độ thực dân, thức tỉnh lòng yêu nước của nhân dân các nước thuộc địa. Tất cả các bài viết của Người đều được bí mật chuyển về nước và lưu truyền trong mọi tầng lớp nhân dân.
Ngày 30-6-1923, Người đến Liên Xô và bắt đầu một thời kỳ hoạt động, học tập và nghiên cứu về chủ nghĩa Mác - Lênin, về chế độ xã hội chủ nghĩa ngay trên đất nước Lênin vĩ đại. Tại Đại hội lần thứ I Quốc tế Nông dân (10-1923), Người được bầu vào Đoàn Chủ tịch Quốc tế Nông dân. Năm 1924, Người dự Đại hội lần thứ V của Quốc tế Cộng sản và được cử làm cán bộ Ban phương Đông của Quốc tế Cộng sản, đồng thời là ủy viên Đoàn chủ tịch Quốc tế Nông dân, Nguyễn Ái Quốc được giao theo dõi và chỉ đạo phong trào cách mạng ở một số nước Châu Á.
Năm 1925, tại Quảng Châu (Trung Quốc), Người tham gia thành lập Hội Liên hiệp các dân tộc bị áp bức Á Đông, sáng lập tổ chức Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên, ra báo Thanh niên để truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin về trong nước, đồng thời mở lớp đào tạo cán bộ cho cách mạng Việt Nam. Ngày 3-2-1930, tại Cửu Long (Hồng Kông), Người triệu tập Hội nghị hợp nhất các tổ chức cộng sản trong nước, thống nhất thành Đảng Cộng sản Việt Nam. Từ năm 1930 đến năm 1940, Người tham gia công tác của Quốc tế Cộng sản ở nước ngoài, đồng thời theo dõi sát phong trào cách mạng trong nước và có những chỉ đạo đúng đắn cho Ban Chấp hành Trung ương Đảng ta.
Sau 30 năm hoạt động ở nước ngoài, năm 1941 Người về nước, triệu tập Hội nghị Ban Chấp hành Trụng ương Đảng lần thứ VIII, quyết định đường lối đánh Pháp, đuổi Nhật, thành lập Mặt trận Việt Minh, gấp rút xây dựng lực lượng vũ trang, đẩy mạnh phong trào đấu tranh cách mạng quần chúng, chuẩn bị tổng khởi nghĩa giành chính quyền trong cả nước. Thực hiện Chỉ thị của Hồ Chí Minh, ngày 22-12-1944, tại khu rừng Sam Cao, thuộc huyện Nguyên Bình, tỉnh Cao Bằng, Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân được thành lập do đồng chí Võ Nguyên Giáp chỉ huy.
Tháng 8-1945, Người cùng Trung ương Đảng triệu tập Hội nghị toàn quốc của Đảng và chủ trì Đại hội Quốc dân ở Tân Trào. Đại hội tán thành chủ trương tổng khởi nghĩa của Đảng và Tổng bộ Việt Minh, cử Hồ Chí Minh làm Chủ tịch nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Thay mặt Chính phủ lâm thời, Người đã phát lệnh tổng khởi nghĩa giành chính quyền trong cả nước. Hưởng ứng lời kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh, toàn dân tộc Việt Nam đã nhất tề đứng lên Tổng khởi nghĩa vũ trang- giành chính quyền về tay nhân dân lao động. Ngày 2-9-1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc bản Tuyên ngôn độc lập khai sinh nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Người tuyên bố trước nhân dân cả nước và nhân dân thế giới quyền độc lập của dân tộc Việt Nam.
Tháng 9-1945, thực dân Pháp câu kết với đế quốc Mỹ, Anh và lực lượng phản động Quốc dân Đảng trở lại xâm lược nước ta một lần nữa. Quân đội Pháp mở rộng đánh chiếm miền Nam và lấn dần từng bước kéo quân đánh chiếm miền Bắc, âm mưu tiến tới xóa bỏ Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Ngày 9-1-1946, cuộc tổng tuyển cử bầu Quốc hội nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa lần đầu tiên trong cả nước. Tại kỳ họp thứ nhất Quốc hội khóa I, Người được bầu làm Chủ tịch Chính phủ Liên hiệp kháng chiến. Tháng 12-1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh kêu gọi toàn quốc kháng chiến, Người tiếp tục cùng Trung ương Đảng lãnh đạo toàn dân kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược.
Tháng 7-1954, với thắng lợi của chiến dịch Điện Biên Phủ, Hiệp định Géneva được ký kết. Miền Bắc được giải phóng. Miền Nam bị đế quốc Mỹ xâm lược biến thành thuộc địa kiểu mới của chúng. Người cùng với Trung ương Đảng lãnh đạo nhân dân cả nước thực hiện đồng thời hai nhiệm vụ chiến lược: cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc và cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam.
Tháng 9-1960, tại Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ ba của Đảng Lao động Việt Nam, Hồ Chí Minh được bầu làm Chủ tịch Ban Chấp hành Trung ương Đảng. Dưới sự lãnh đạo của Người, nhân dân ta vừa xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, vừa tiến hành cuộc kháng chiến chống Mỹ, bảo vệ miền Bắc, giải phóng miền Nam, thống nhất nước nhà, đưa cả nước tiến lên chủ nghĩa xã hội.
Ngày 2-9-1969, mặc dù đã được các giáo sư, bác sĩ tận tình cứu chữa nhưng do tuổi cao sức yếu Người đã từ trần, hưởng thọ 79 tuổi.
Cuộc đời Chủ tịch Hồ Chí Minh là một cuộc đời trong sáng cao đẹp của một người cộng sản vĩ đại, một anh hùng dân tộc kiệt xuất, một chiến sĩ quốc tế lỗi lạc, đã đấu tranh không mệt mỏi và hiến dâng cả đời mình cho Tổ quốc, cho nhân dân, vì lý tưởng cộng sản, vì độc lập, tự do của các dân tộc bị áp bức, vì hòa bình và công lý trên thế giới. Năm 1987, tại kỳ họp lần thứ 24, Tổ chức Giáo dục - Văn hóa - Khoa học của Liên hiệp quốc (UNESCO) đã ra Nghị quyết tôn vinh Hồ Chí Minh là "Anh hùng giải phóng dân tộc Việt Nam và nhà văn hóa kiệt xuất".
ĐỖ HOÀNG LINH. Hồ Chí Minh, một nhân cách lớn của thời đại / Đỗ Hoàng Linh // Sách Tuyên truyền giáo dục tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh góp phần xây dựng con người mới ở Việt Nam. - H.: Thanh niên, 2017. - Tr. 122-142
Tổ chức Văn hóa, Giáo dục và Khoa học Liên hợp quốc (UNESCO) đã quyết định kỷ niệm 100 năm ngày sinh của Chủ tịch Hồ Chí Minh khi đánh giá những cống hiến tư tưởng và đạo đức của Người trong quá trình phát triển theo quy luật của xã hội văn minh thế kỷ XX. Nhà sử học Italy - Perugia - nhận định: “Hồ Chí Minh là một trong những người hiếm có của thời đại chúng ta. Có thể nói rằng, không có Người, lịch sử có thể đã đi theo một con đường khác. Nhưng lịch sử đã đặt Người vào đúng chỗ của mình mà trong quá trình phát triển đó, Người là nhân vật sáng tạo quyết định”. Tư tưởng Hồ Chí Minh đã kế thừa và phát huy chủ nghĩa Mác - Lênin, đó là dân chủ xã hội chủ nghĩa, quyền làm chủ của nhân dân lao động, là sự nghiệp giải phóng hoàn toàn và triệt để mọi áp bức, bóc lột cùng sự nghèo nàn bất công, đem lại ấm no hạnh phúc cho con người. Đó cũng là lý tưởng chung, là khát vọng sống mãnh liệt của nhân loại trong thế kỷ XXI.
Cũng trong thế kỷ này, con người của hành tinh xanh đang phải giải quyết bao mối quan hệ chồng chéo, đan xen nhau: truyền thống - hiện đại, triết học phương Đông - phương Tây, dân tộc - nhân loại, loại trừ - phát huy, hội nhập - tiếp nối… các giá trị văn hóa tinh thần nhằm hình thành một khái niệm chung về đạo đức. Lịch sử cũng sản sinh ra những vĩ nhân mẫu mực về tư tưởng và đạo đức. Những con người ấy hết lòng yêu quý nhân dân, chí công vô tư, từ chối sùng bái cá nhân, lo trước thiên hạ, vui sau thiên hạ, giản dị nhân hậu, liêm khiết khiêm tốn… Theo Lênin, tiêu chuẩn đạo đức của một lãnh tụ của nhân dân phải: “Có tính kiên trì bền bỉ; Luôn luôn trung thành và ngay thẳng; khiêm tốn, dịu dàng, mềm mỏng; Có lòng nhân ái, biết quan tâm đến đồng chí mình; Có tính kiên định”. Ở Việt Nam, nếp sống có đạo đức, chuộng nhân nghĩa đã hình thành từ xa xưa. Tuy có thay đổi, bổ sung thuận theo sự tồn tại của từng xã hội, nhưng vẫn duy trì những phẩm chất đạo đức mang nội dung vĩnh cửu như: nhân đạo, giữ gìn hòa bình, chống chiến tranh, xóa đói giảm nghèo, chống thất học, bảo vệ môi sinh môi trường… Và dân tộc Việt Nam ta đã sinh ra Hồ Chí Minh - con người cần có cho thời đại và xã hội mới, góp phần to lớn vào sự phát triển của lịch sử thế giới.
Nhân loại đánh giá rất cao và ngợi ca chủ nghĩa nhân văn đích thực, phong cách sống mới, phẩm chất đạo đức cao đẹp Hồ Chí Minh. “Cần phải nhìn nhận thế giới như một quá trình phát triển mà sự thay đổi là cội nguồn của giàu có, tiến bộ và nhằm tìm kiếm ước muốn nhân đạo trong lĩnh vực đạo đức. Vì thế mà những con người như Hồ Chí Minh ngày càng trở nên vĩ đại, vì họ đã cho chúng ta lý do để sống và khả năng để thực hiện những giấc mơ của chính mình”. Phong cách sống của Người hoàn toàn xa lạ với mọi thứ chủ nghĩa cá nhân, là hiện thân của lòng nhân ái, là mẫu hình tương lai của xã hội xã hội chủ nghĩa. Chủ tịch Hồ Chí Minh quan niệm đạo đức là cái gốc, nền tảng và sức mạnh của mọi người cách mạng. Bản thân Người là một mẫu mực về đạo đức cách mạng. Người quan niệm rằng, đạo đức không phải từ trên trời rơi xuống mà do con người tích cực và bền bỉ rèn luyện mà nên. Bên cạnh phương pháp tự tu thân, sự hình thành tâm hồn đạo đức và tư tưởng nhân cách của Người cũng do những tác động, ảnh hưởng quan trọng khác nữa.
A.1. Bối cảnh lịch sử xã hội Việt Nam cuối thế kỷ XIX có nhiều thay đổi cơ bản. Từ một nền phong kiến độc lập bị thực dân Pháp xâm lược, Việt Nam đã trở thành một nước thuộc địa, nửa phong kiến. Mâu thuẫn cơ bản nhất của xã hội lúc bấy giờ là toàn thể dân tộc với thực dân Pháp xâm lược. Phong trào yêu nước chống Pháp đang diễn ra mạnh mẽ ở nhiều nơi thì triều đình nhà Nguyễn đầu hàng, chấp nhận sự bảo hộ hoàn toàn của Pháp. Lúc đó, xã hội nổi lên hai mâu thuẫn: giữa dân tộc với thực dân cướp nước và giữa nông dân với triều đình bán nước. Giai cấp phong kiến đã mất vai trò lịch sử, giai cấp công nhân Việt Nam tuy đã hình thành nhưng chưa trở thành một lực lượng chính trị độc lập. Phong trào yêu nước do các sĩ phu tiến bộ lãnh đạo đã tiếp thu những luồng tư tưởng mới từ bên ngoài, đi theo hai xu hướng: bạo động và cải cách nhưng đều thất bại trước sự đàn áp của thực dân Pháp. Vấn đề đặt ra: làm thế nào tìm một con đường cách mạng đúng đắn để lãnh đạo nhân dân ta đánh đuổi thực dân, lật đổ phong kiến mà không bị hạn chế do ảnh hưởng tư tưởng giai cấp và điều kiện thời đại?.
2. Huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An là một vùng đất có tinh thần yêu nước kiên cường, truyền thống văn hóa mang đậm bản sắc dân tộc. Đây là nơi hội tụ của nền văn hóa Bắc Trung Bộ, nơi có nhiều di tích lịch sử quan trọng lưu lại những chiến công lừng lẫy, khí tiết anh hùng của những hào kiệt yêu nước. Truyền thống xứ Nghệ cần cù, hiếu học, tiết kiệm, là nơi sản sinh các hào kiệt, thân sĩ, nhà nho danh bất hư truyền: Nguyễn Du, Nguyễn Công Trứ, Hồ Xuân Hương, Phan Đình Phùng, Phan Bội Châu… Vùng quê nội Kim Liên (có 53 vị khoa bảng) và quê ngoại Hoàng Trù (29 vị) đều nổi tiếng về tính hiếu học, miệt mài kinh sử. Truyền thống anh dũng của quê hương và tinh hoa văn hóa ứng xử đã tác động sâu sắc đến việc hình thành tâm hồn Hồ Chí Minh. Những ảnh hưởng ấy đã đi theo suốt cuộc đời Người, trở thành động lực tạo ra bản lĩnh phi thường của vị lãnh tụ cách mạng thiên tài.
3. Sự giáo dục của gia đình cũng góp phần quyết định đến tính cách Người. Thân phụ Người, ông Nguyễn Sinh Sắc, là một nhà trí thức yêu nước, xuất thân từ một gia đình nghèo nhưng có nghị lực kiên cường trong cuộc sống; có ý chí tiến thủ trong học tập, khiêm tốn, giản dị và giàu lòng bác ái. Không có tiền đến lớp, ông đứng ngoài hiên nghe giảng bài rồi tự học để đỗ Phó bảng. Ông từ bỏ con đường quan lộc mà dấn thân vào cuộc đấu tranh yêu nước, sẵn sàng hy sinh tất cả cho mục đích cứu nước, cứu dân. Thân mẫu Người, bà Hoàng Thị Loan, sinh ra trong một gia đình có truyền thống nho học thông tuệ. Bà là người trực tiếp lao động, giàu lòng thương người, quý trọng tình nghĩa, không bị lễ giáo phong kiến ràng buộc. Đức tính giản dị, khiêm nhường, nhẫn nại hy sinh, chung thủy son sắt, yêu nước của bà có ý nghĩa giáo dục rất lớn cho các con cháu trong nhà. Các anh chị của Người đều là những người có học vấn, văn hóa đẹp, có lòng nhân ái, thông minh, khảng khái và rất yêu nước. Quê hương và gia đình đã sớm hun đúc tình cảm yêu nước, thương nòi cho Người, cái nôi văn hóa ấy đã nuôi dưỡng tinh thần Người trên suốt chặng đường cứu nước.
4. Nguyễn Tất Thành (Hồ Chí Minh) là một thanh niên vốn sớm có những nhận thức sâu sắc và rất đau xót trước nỗi thống khổ của đồng bào, Người đã nuôi ý chí đánh đuổi thực dân, giải phóng cho dân tộc. Tuy khâm phục các lãnh tụ cách mạng tiền bối nhưng Người muốn tìm một hướng đi riêng: rời Tổ quốc tìm hiểu thực tế về chủ nghĩa thực dân, học hỏi kinh nghiệm các nước khác để trở về giúp dân tộc và Tổ quốc mình. Trong cuộc viễn du hơn 30 năm tới 32 nước, Người đã tìm thấy Luận cương về dân tộc và thuộc địa của Lênin, cẩm nang thần kỳ này đã tạo ra bước ngoặt cơ bản trong tư tưởng cách mạng Người, giúp Người đưa ra một kết luận quan trọng: Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc không có con đường nào khác con đường cách mạng vô sản.
5. Sau khi chủ trì hội nghị hợp nhất 3 tổ chức Cộng sản để thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam, tư tưởng của Người về đường lối cách mạng ở nước ta đã cơ bản hình thành. Đó là lấy chủ nghĩa Mác - Lênin làm nền tảng, làm kim chỉ nam cho cách mạng Việt Nam, tiến hành giải phóng dân tộc, xây dựng chế độ dân chủ nhân dân, tiến dần lên chủ nghĩa xã hội. Chỉ có con đường cách mạng theo tư tưởng Hồ Chí Minh mới giành được độc lập thật sự cho dân tộc, làm cho độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, thực hiện được mục tiêu làm cho nước Việt Nam giàu mạnh, ấm no, hạnh phúc. Thực tế và thành quả đã và đang chứng minh tư tưởng đường lối cách mạng của Người phù hợp với tiến bộ lịch sử, theo đúng xu thế vận động của quá trình cách mạng thế giới.
Trên đây là những yếu tố chính tác động, ảnh hưởng đến quá trình hình thành tư tưởng và nhân cách đạo đức Chủ tịch Hồ Chí Minh. Mục đích của đạo đức Hồ Chí Minh là suốt đời phấn đấu cho Tổ quốc, trung thành với Đảng, tận tụy với nhân dân, khi thành công vẫn giản dị, chất phác, khiêm tốn, lo trước thiên hạ - vui sau thiên hạ, không kèn cựa, hưởng thụ, công thần, không quan liêu, kiêu ngạo, mất phẩm chất. Người cho rằng cần phải luôn luôn rèn luyện đạo đức như ngọc càng mài càng sáng - vàng càng luyện càng trong. Đó là đạo đức cách mạng, đạo đức mới, đạo đức vô sản. Tấm gương đạo đức mẫu mực của Chủ tịch Hồ Chí Minh được biểu hiện qua những phẩm chất sau:
B.1 Đức tính quyết tâm, kiên trì bền bỉ
Khi có chí hướng ra đi tìm đường cứu dân, cứu nước, Người chỉ có hai bàn tay trắng, bạn bè hỏi lấy tiền đâu mà ra nước ngoài? Người nói chúng ta sẽ làm việc. Chúng ta sẽ làm bất cứ việc gì để sống và để đi. Làm phụ bếp trên tàu quần quật vất vả từ 4 giờ sáng đến 9 giờ tối, nhưng Người vẫn đọc sách và học ngoại ngữ đến tận nửa đêm. Đến Pháp, Người lại xuống tàu khác phụ việc, tiếp tục đi thăm nhiều nước nữa. Để sống và học hỏi, Người đã làm 12 nghề nghiệp khác nhau: phụ bếp, quét tuyết, làm vườn, làm bánh mỳ, vẽ tranh… miệt mài tập viết cho kỳ được từng mẩu tin rồi làm chủ bút kiêm tổng biên tập một tờ báo. Năm 1943, Người bị Quốc dân Đảng bắt giam gần 13 tháng, trải qua 30 nhà lao, lúc được tự do thì sức khỏe đã rất yếu. Người quyết tâm rèn luyện bằng mọi cách: tập nhìn bóng tối để chữa mắt mờ, tập lết từ mươi bước đến leo được núi chữa thấp khớp, tiếp tục hoạt động cách mạng. Lúc tuổi cao, tay run khó viết, Người luyện tập bằng cách bóp chặt một hòn đá cuội cho gân tay thêm chắc. Năm 1960, khi bị rối loạn tuần hoàn não, nửa người bên phải hoạt động khó khăn, Bác kiên trì tập phản xạ hàng ngày bằng cách ném một quả bóng vào bồ đựng giấy từ khoảng cách gần đến xa hơn. Hàng ngày, cho dù trời mưa, đường ngập, Bác vẫn giữ thói quen đi bộ từ nhà sàn sang nhà ăn để tăng vận động, chống sức ì tuổi già. Năm 1968, cổ họng bị đau, giọng nói của Bác yếu hẳn đi, để không gây lo lắng cho đồng bào, Bác tập đọc Truyện Kiều hàng ngày, sau đó yêu cầu một đồng chí đứng lùi ra xa dần để nghe Bác đọc có rõ câu chữ hay không. Trên đường vào nhà sàn của Bác có một cây đa rủ rễ phụ xuống đường đi, Bác bày cho anh em kéo rễ cây xuống đất cho thêm đẹp và chắc, sau 3 năm mới thành công nên Bác đặt tên là cây đa kiên trì. Có lần Người nói: “Thay đổi tình hình và xây dựng không thể thực hiện trong thời gian ngắn một đêm như làm ảo thuật được. Cần phải có tính nhẫn nại cách mạng. Miễn là chúng ta không quên rằng: cách mạng không chỉ để giành độc lập chính trị mà còn phải nhằm mục đích phục vụ đời sống nhân dân. Nhân dân phải được ăn nhiều hơn, mặc đẹp hơn, sống hạnh phúc hơn. Nếu không thì cách mạng không có ích gì”. Chính vì vậy mà Bác dạy chúng ta: “Không có việc gì khó; Chỉ sợ lòng không bền; Đào núi và lấp biển; Quyết chí ắt làm nên”.
2. Luôn luôn trung thành, ngay thẳng và khảng khái
Ý tưởng trung thành với Tổ quốc, tận tụy với nhân dân luôn là phương châm sống của Người. Lúc hoạt động ở Pháp, khi được hỏi tại sao bỏ phiếu tán thành Quốc tế III, Người trả lời: “Rất đơn giản, Đệ tam Quốc tế nói sẽ giúp đỡ dân tộc bị áp bức giành lại tự do và độc lập của họ. Vì vậy tôi đã bỏ phiếu tán thành Đệ tam Quốc tế. Tự do cho đồng bào tôi, độc lập cho Tổ quốc tôi, đấy là tất cả những điều tôi hiểu”. Thời gian Người hoạt động ở Pháp, trùm thực dân Anbe Xaro đã mời Người đến gặp để phủ dụ và đe dọa: “Nước mẹ đại Pháp rất khoan hồng song cũng không tha thứ cho những kẻ gây rối loạn. Có chí khí là tốt, song còn phải thức thời mới là khôn ngoan. Tôi luôn luôn sẵn sàng giúp đỡ ông…”. Người đáp lại: “Cảm ơn ngài, cái mà tôi cần nhất trên đời này là đồng bào tôi được tự do, Tổ quốc tôi được độc lập”. Năm 1944 ở Liễu Châu, tuy được ra khỏi nhà tù nhưng Người vẫn bị quản thúc vì Quốc dân Đảng không muốn thả một lãnh tụ cộng sản về nước, Người đã nói với tướng Trương Phát Khuê: “Tôi là người cộng sản, nhưng điều mà tôi quan niệm hiện nay là độc lập và tự do của nước Việt Nam”. Trương cảm phục, không những trả lại tự do mà còn tạo điều kiện cho Người về nước. Sau khi nhận chức Chủ tịch nước, Người trả lời các nhà báo: “Tôi tuyệt nhiên không ham muốn công danh phú quý chút nào. Bây giờ phải gánh chức Chủ tịch là vì đồng bào ủy thác thì tôi phải gắng sức làm, cũng như một người lính vâng lệnh của quốc dân ra đi trước mặt trận. Bao giờ đồng bào cho tôi lui, thì tôi rất vui lòng lui”. Trước khi đi Pháp để đàm phán hòa bình, Người gửi thư cho đồng bào Nam Bộ: “Tôi xin đồng bào cứ bình tĩnh. Tôi xin hứa với đồng bào rằng Hồ Chí Minh không phải là người bán nước”. Có lần, báo Pháp phỏng vấn Người:
- “Thưa Chủ tịch, Chủ tịch ghét gì nhất?
- Điều ác!
- Thưa Chủ tịch, Chủ tịch yêu gì nhất?
- Điều thiện!
- Chủ tịch mong điều gì nhất?
- Nền độc lập của nước tôi và của tất cả các nước trên toàn cầu.
- Thưa Chủ tịch, Chủ tịch sợ cái gì nhất?
- Chẳng sợ gì cả. Một người yêu nước không sợ gì hết và nhất thiết không được sợ gì”.
Cho đến những năm tháng cống hiến cuối cùng trong cuộc đời, Người viết lại trong Di chúc: “Suốt đời tôi hết lòng hết sức phục vụ Tổ quốc, phục vụ cách mạng, phục vụ nhân dân. Nay dù phải từ biệt thế giới này, tôi không có điều gì phải hối hận, chỉ tiếc là tiếc rằng không được phục vụ lâu hơn nữa, nhiều hơn nữa”.
3. Mềm mỏng nhẹ nhàng nhưng khôn khéo, thông tuệ, quyết đoán, tự tin. Khiêm tốn, lịch lãm, giản dị, liêm khiết.
Cách mạng tháng Tám thành công nhưng chính quyền còn non trẻ, gặp khó khăn trăm bề, thù trong giặc ngoài, thiên tai, đói dốt. Bản thân Người cũng phải chuyển chỗ ở nhiều nơi, luôn cải trang, có khi cần đi sớm về tối để tránh nguy hiểm, nhưng sách lược và chiến lược tài tình của Người đã chèo lái con thuyền cách mạng vượt mọi thác ghềnh. Tận dụng mâu thuẫn giữa Pháp và Tưởng nên lúc hòa hoãn với Tưởng để rảnh tay đối phó với Pháp, lúc thì nhân nhượng với Pháp để đuổi Tưởng và bè lũ tay sai về nước, dành thời gian chuẩn bị kháng chiến lâu dài. Phương châm của Người là: “Găng nhưng không được bể. Đoàn kết và đoàn kết, đó là quan điểm của chính phủ ta. Chúng ta sẵn sàng nhân nhượng để có một giải pháp chung. Song, độc lập quốc gia và tự do dân tộc thì không được vi phạm”. Trước khi sang Pháp đàm phán, Người dặn lại quyền Chủ tịch nước Huỳnh Thúc Kháng bí quyết “Dĩ bất biến, ứng vạn biến” và kết quả mọi việc đều chu toàn. Người tuyên bố với báo giới: “Nước Việt Nam cần kiến thiết, nước Việt Nam không muốn là nơi chôn vùi bao nhiêu sinh mạng. Nhưng cuộc chiến tranh ấy, nếu người ta buộc chúng tôi phải làm thì chúng tôi sẽ làm”. Trên đường từ Pháp về Việt Nam, đô đốc Đácgiăngliơ xin gặp Người với mục đích diễu võ gương oai, uy hiếp tinh thần đối phương. Đến lúc gặp, Người chủ động ôm hôn đô đốc Pháp làm các đồng chí đi cùng thắc mắc. Người giải thích: “Đánh nhau thì đánh nhau, mình hôn nó một cái thì có mất gì!”. Trong buổi chiêu đãi, Người ngồi giữa, một bên là đô đốc hải quân Pháp, bên kia là thống soái lục quân Pháp ở Viễn Đông, Đácgiăngliơ bóng gió, hăm dọa: “Thưa ông Chủ tịch, ông đã được đóng bộ khung rất đẹp của hải và lục quân đó!”. Người mỉm cười: “Giá trị là ở bức tranh chứ không phải bộ khung. Chính bức họa đem lại giá trị cho bộ khung!”. Quan điểm của Người về kẻ đi xâm lược và nhân dân nước họ rất rõ ràng. Sau ngày ta thắng trận Điện Biên Phủ, Người khuyên báo chí nên biểu dương đồng bào và quân đội ta, không nên sỉ nhục quân Pháp vì động đến lòng tự ái dân tộc của họ. Thời chống Mỹ, khi một số đồng chí chủ trương giải phi công Mỹ ta bắt được đi diễu phố Hà Nội, Người đã phê bình vì hành động vô chính trị.
Tuần báo Paris nhận xét: Sự ăn ở giản dị đến cực độ như một nhà ẩn sĩ - đó là đức tính rõ rệt nhất của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Quả thực, Người luôn là tấm gương mẫu mực cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư. Sau khi giải phóng Thủ đô, từ chiến khu về, Người từ chối ở tại Phủ toàn quyền cũ mà dọn đến căn phòng của một người thợ điện, căn phòng thiếu gió và ánh sáng, mùa hè nóng như nung. Bốn năm sau, theo yêu cầu giản tiện - nhanh gọn - tiết kiệm của Người, một nếp nhà sàn đơn sơ được dựng phía bên kia bờ ao và ngôi nhà ấy - nơi quy tụ những gì vĩ đại nhất của một dân tộc anh hùng - đã đi vào lịch sử. Nhà thơ Cu ba Phêlích Rôđrighết cảm nhận: “Có lẽ phải nói đó là tinh thần chí công vô tư. Người chỉ sử dụng cho mình những gì tối cần thiết, chứ không phải bất cứ cái gì cần thiết. Chiếc giường, tủ quần áo, chiếc bàn, chiếc ghế, cái giá sách. Những thứ cần cho công việc và nghỉ ngơi để lấy lại sức làm việc. Chỉ có thế thôi, không có gì hơn nữa. Chí công vô tư. Đó là việc lãng quên đi tất cả mọi điều có thể làm trở ngại cho tinh thần phục vụ không điều kiện và không chút mặc cả của Người”.
Không chỉ là chuyện nơi ăn, chốn ở, mà phong cách sống của Người cũng bình dị, thân quen, không chút đặc quyền. Khi ô tô đến ngã tư đèn đỏ, Người đề nghị chờ đèn xanh mới đi tiếp. Vào nhà chùa, Người cũng bỏ dép để bên ngoài theo quy định chung. Lúc đến thăm đồng bào chống hạn, Người lội ngay xuống ruộng cùng đạp guồng nước với bà con nông dân. Người ghét cay ghét đắng thói tham ô, hối lộ, lãng phí, hình thức chủ nghĩa, công thần, dối trên lừa dưới. Một lần đi họp, khi nghe báo cáo cụ thể về tệ tham ô lãng phí, Người hỏi các cán bộ: Có bao giờ các chú bớt phần cơm của con mình không? Thế tại sao của cải của nhân dân, tiêu chuẩn của chiến sỹ hễ sểnh ra là đút túi? Ngày sinh nhật của mình, Người thường tạm lánh đi xa để khỏi ảnh hưởng đến thời gian và tiền bạc của tập thể. Nhà báo Mỹ David Stamp đã viết trong cuốn sách “Hồ” xuất bản năm 1971: “Hồ Chí Minh là một trong những nhân vật kỳ lạ của thời đại này - hơi giống Ghandi, hơi giống Lênin, hoàn toàn Việt Nam. Đối với dân tộc của mình và đối với cả thế giới, ông là hiện thân của một cuộc cách mạng. Thế nhưng, đối với hầu hết nông dân Việt Nam, ông là biểu tượng của cuộc sống, hy vọng, đấu tranh, hy sinh và thắng lợi của họ. Ông là một người Việt Nam lịch sự, khiêm tốn, nói năng hòa nhã, không màng địa vị… Tính giản dị của ông Hồ là một sức mạnh. Địa vị càng cao, ông càng giản dị và trong sạch. Ông Hồ không cố tìm kiếm cho mình những trang sức quyền lực vì ông tự tin ở mình và ở mối quan hệ của ông với nhân dân, với lịch sử”.
4. Lòng nhân ái bao la, quan tâm tận tình, sâu sắc đến từng đồng chí, đồng bào và tất cả mọi người.
Nâng niu hết thảy chỉ quên mình! Đó là lẽ sống, là mong muốn của Người. Năm 1946, Người tuyên bố với các nhà báo: “Tôi chỉ có một sự ham muốn, ham muốn tột bậc, là làm sao cho nước ta được hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành”. Gắng nhân nhượng với Pháp đến cùng nhưng không ngăn được chiến tranh, Người gửi thư chung cho cả hai dân tộc Việt - Pháp cùng toàn thể thế giới: “Tôi nghiêng mình trước anh hồn những chiến sĩ và đồng bào Việt Nam đã vì Tổ quốc mà hy sinh tính mệnh. Tôi cũng ngậm ngùi thương xót cho những người Pháp đã tử vong. Than ôi, trước lòng bác ái, thì máu Pháp hay máu Việt cũng đều là người”. Thành phố Huế bị bao vay, 600 linh mục không có lương thực ăn, Người tự tay viết giấy cho phép chở lúa gạo trợ cấp cho nhà chung, cả xứ đạo ai cũng hết lòng ca ngợi vị Chủ tịch có lòng bác ái của Chúa, tất cả vì lợi ích cuộc sống của nhân dân, không phân biệt lương giáo. Có lần sau phiên họp, một thành viên Chính phủ hỏi tại sao Chủ tịch không lập gia đình? Người trả lời: “Mình cũng chẳng thần thánh gì, cũng như tất cả mọi người thôi. Nhưng với hoàn cảnh đã qua và hiện nay, còn có điều kiện nào mà nghĩ đến chuyện lập gia đình, không phải vì đạo đức mà là phải chịu đạo đức đó thôi. Nhưng chưa lập được gia đình nhỏ thì ta hãy lo cho gia đình lớn đã vậy”. Cứ mỗi lần chiêu đãi khách, khi tan tiệc Người thường bảo theo phong tục người Việt, ăn cỗ phải mang phần về cho người ở nhà nên ai cũng được nhận quà Bác Hồ. Những cá nhân và tập thể đạt thành tích đều được Người gửi quà, thư khen, tặng thơ, tặng huy hiệu. Đêm mùa đông rét mướt, nghe tiếng chổi tre, Người cố tìm một loại cây ít rụng lá quanh năm (cây xanh bốn mùa) để những chị công nhân quét lá khô bớt phần vất vả. Trưa mùa hè nóng bức, Người thương anh em chiến sĩ trực chiến khát nước nên rút sổ tiết kiệm, chuyển cho Bộ Tổng tham mưu mua nước cho cán bộ. Đang cuộc họp, thấy còi báo động, Người nhường anh em trẻ vào hầm trước và giải thích: Bác già rồi, chẳng bom đế quốc nào ném đâu! Chú còn trẻ, chú cần vào hầm trước. Khi tiếp khách bạn Lào, thấy gió mùa Đông Bắc tràn về, Người lấy khăn tặng hai đồng chí quàng cho khỏi lạnh. Đến lúc trên giường bệnh trong cơn nguy kịch, Người còn lo phương án cứu đồng bào khi đê vỡ và nhắc nhân dịp quốc khánh nhớ mua tặng lụa cho các cụ phụ lão, tặng đường sữa cho những bà mẹ sinh hai, sinh ba… Bác Hồ thương yêu, lo lắng, giáo dục, gần gũi với nhân dân, bình thường như mọi người, lòng Bác bao la như biển rộng. Tình thương ở Bác là tình cảm của một vĩ nhân, bậc thánh hiền.
5. Kiên định về mục đích, vững vàng về tinh thần. Lạc quan cách mạng, tin tưởng vào sự tất thắng của chính nghĩa.
Bao năm bôn ba hải ngoại, hai lần bị giam cầm, bị kết án tử hình vắng mặt, cực khổ gian lao chồng chất nhưng Người không hề sờn lòng, quyết tìm cho ra con đường đúng đắn cứu dân, cứu nước. Hơn một năm bị xiềng xích trong nhà tù Quốc dân Đảng, Người vẫn ung dung làm thơ: “Ví không có cảnh đông tàn; Thì đâu có cảnh huy hoàng ngày xuân; Nghĩ mình trong bước gian truân; Tai ương rèn luyện tinh thần thêm hăng”, hay: “Kiên trì và nhẫn nại; Không chịu lùi một phân; Vật chất tuy đau khổ; Không nao núng tinh thần”. Thời gian gấp rút chuẩn bị khởi trang đang tới gần, dù ốm nặng, sốt mê man nhưng Người vẫn quyết định: “Dù hy sinh tới đâu, dù phải đốt cháy cả dãy Trường Sơn cũng phải kiên quyết giành cho được độc lập”. Thực dân Pháp trở mặt quay lại xâm lược nước ta, Người ra lời hiệu triệu: “Chúng ta thà hy sinh tất cả, chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ. Giờ cứu nước đã đến. Ta phải hy sinh đến giọt máu cuối cùng, để giữ gìn đất nước”. Chủ nghĩa đế quốc thay chân chủ nghĩa thực dân cũ với vũ khí tối tân hơn, nhiều tiền hơn, lắm lính đánh thuê hơn, Người gửi thư cho nhân dân Mỹ: “Chính phủ Mỹ lầm tưởng rằng với sức mạnh tàn bạo, họ có thể bắt nhân dân Việt Nam chúng tôi phải đầu hàng. Nhưng nhân dân Việt Nam quyết không bao giờ khuất phục, chúng tôi yêu chuộng hòa bình, nhưng phải là hòa bình chân chính trong độc lập, tự do. Vì độc lập tự do, nhân dân Việt Nam quyết không sợ gian khổ, hy sinh và quyết chiến đấu chống bọn xâm lược đến thắng lợi hoàn toàn”. Trước ý đồ đẩy miền Bắc Việt Nam về thời kỳ đồ đá bằng bom rải thảm hủy diệt hàng loạt, Người kêu gọi: “Chiến tranh có thể kéo dài 5 năm, 10 năm, 20 năm hoặc lâu hơn nữa. Hà Nội, Hải Phòng và một số thành phố, xí nghiệp có thể bị tàn phá, song nhân dân Việt Nam quyết không sợ! Không có gì quý hơn độc lập, tự do! Nhân dân Việt Nam nhất định thắng! Giặc Mỹ xâm lược nhất định thua”. Người luôn tin tưởng vào thắng lợi cuối cùng của nhân dân ta, đọc lời mừng quốc khánh 1960, Người dự báo: “Chúng ta gửi đến miền Nam mối tình ruột thịt và hứa với đồng bào rằng: Toàn dân ta đoàn kết nhất trí, bền bỉ đấu tranh, thì chậm lắm là 15 năm nữa, Tổ quốc ta nhất định sẽ thống nhất”. Trong Di chúc của mình, Người khẳng định lại: “Cuộc chống Mỹ cứu nước của nhân dân ta dù phải kinh qua gian khổ hy sinh nhiều hơn nữa, song nhất định thắng lợi hoàn toàn. Đó là một điều chắc chắn”. Nhà văn Stanlay Karent đã viết về Chủ tịch Hồ Chí Minh trong tạp chí Time: “Không hề có sự lay chuyển trong niềm tin của ông Hồ, không thể làm nhụt ý chí của Người. Ngay cả khi cuộc chiến tranh tàn phá đất nước của Người, Người vẫn tin tưởng vào ngày độc lập của Việt Nam. Và hàng triệu người Việt Nam đã chiến đấu và hy sinh để giành mục tiêu này”.
C. Hồ Chí Minh - một nhân cách lớn của thời đại
Tư tưởng và nhân cách Hồ Chí Minh là tiêu chuẩn đạo đức mang giá trị không phai mờ của nhân loại. Trong quan điểm của loài người tiến bộ, cuộc đời Chủ tịch Hồ Chí Minh là một tấm gương sáng nhất về tình thương yêu Tổ quốc, nhân dân, yêu những người lao động, yêu Đảng, yêu chủ nghĩa xã hội và lý tưởng cộng sản chủ nghĩa. Khó có thể kể hết những ngợi ca của thế giới về đạo đức Hồ Chí Minh bởi Người là một Con Người diệu kỳ qua tất cả mọi thời đại. Nhắc đến cuộc đời Người chính là nhắc đến lịch sử nhân loại. Chủ tịch Hồ Chí Minh là tinh hoa đất trời trong suốt mấy ngàn năm lịch sử đất Việt, là lãnh tụ ưu tú của Đảng và nhân dân ta, một người cộng sản có nhân cách vĩ đại. Nhà văn Sharp Plent đã viết trong cuốn Điều bí mật của Hồ Chí Minh: “Cụ Hồ như một ông tiên! Nếu có ai bảo đấy là một người cộng sản thì tôi có thể nói cụ là người cộng sản khác với quan niệm chúng ta vẫn thường nghĩ, theo tôi, có thể dùng một từ mới: một người cộng sản phương Đông, một người cộng sản Việt Nam”. Ngày trước, Lão tử - một triết gia có ảnh hưởng rất lớn tới hệ triết học Đông phương - từng nói: “Trời đất sở dĩ có thể dài và lâu vì không sống cho mình nên mới được trường sinh. Thánh nhân đặt thân mình ở sau mà lại lên trước, đặt thân mình ở ngoài mà lại còn”. Bác Hồ của chúng ta là bậc thánh hiền đã cống hiến quên mình mà sống mãi với nhân loại. Và để khẳng định sự trường tồn của đạo đức Hồ Chí Minh, đại hội đồng UNESCO đã kết luận: “Hồ Chí Minh là nhân cách của thời đại. Dân tộc Việt Nam mãi mãi tự hào về Hồ Chí Minh. Nền văn minh nhân loại của thế kỷ XX này tự hào có một vĩ nhân được cả thế giới phong tặng: Anh hùng giải phóng dân tộc và danh nhân văn hóa kiệt xuất. Hồ Chí Minh mãi mãi là tấm gương sáng về nhân cách của một Con Người cho mọi thế hệ tiếp sau”.
Cơ sở hình thành tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh / Hải Nam biên soạn // Sách Tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh - những giá trị bền vững. - H.: Dân trí, 2017. - Tr. 15-21
Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại, người sáng lập, giáo dục, rèn luyện Đảng ta, anh hùng giải phóng dân tộc, danh nhân văn hóa thế giới. Cuộc đời hoạt động cách mạng đầy nhiệt huyết, gian khổ, hết lòng vì nước, vì dân, Người đã để lại cho Đảng và nhân ta một di sản tinh thần hết sức sâu sắc, cao cả. Suốt 85 năm qua, tư tưởng, đạo đức và phong cách của Người luôn soi đường, chỉ lối cho cách mạng Việt Nam, cho cuộc đấu tranh của nhân dân ta giành thắng lợi.
Tư tưởng, đạo đức và phong cách Hồ Chí Minh hình thành bắt nguồn từ 4 nguồn gốc:
Thứ nhất, những truyền thống tốt đẹp của dân tộc trước hết là chủ nghĩa yêu nước Việt Nam
Hồ Chí Minh là người con ưu tú nhất của dân tộc Việt Nam nên tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh trước hết bắt nguồn từ những truyền thống tốt đẹp của dân tộc, đó là truyền thống yêu nước, cần cù lao động, anh dũng, sáng tạo trong dựng nước và giữ nước, đoàn kết, nhân ái của dân tộc Việt Nam... những truyền thống tốt đẹp đó đã hun đúc qua hàng ngàn năm đấu tranh dựng nước và giữ nước. Chủ nghĩa yêu nước đã trở thành động lực, sức mạnh truyền thống, đạo lý làm người, niềm tự hào và là nhân tố hàng đầu trong bảng giá trị tinh thần của con người Việt Nam. Bác Hồ kính yêu đã viết: "dân tộc ta có một lòng nồng nàn yêu nước. Đó là một truyền thống quí báu của ta. Từ xưa đến nay, mỗi khi Tổ quốc bị xâm lăng, thì tinh thần ấy lại sôi nổi, nó kết thành một làn sóng vô cùng mạnh mẽ, to lớn, nó lướt qua mọi sự nguy hiểm, khó khăn, nó nhấn chìm tất cả lũ bán nước và lũ cướp nước".
Năm 1858, Việt Nam từ một nước phong kiến độc lập đã bị thực dân Pháp xâm lược và đã trở thành một nước thuộc địa nửa phong kiến. Dưới ách thống trị của thực dân Pháp, nhân dân Việt Nam không có tự do. Cả dân tộc đắm chìm trong đêm dài nô lệ, lầm than "tình hình đen tối như không có đường ra". Sứ mệnh lịch sử đặt ra cho cả dân tộc, mỗi người yêu nước Việt là phải tìm con đường cứu nước, cứu dân thoát khỏi ách thống trị của thực dân Pháp và tay sai của chúng. Lúc này, sức mạnh của chủ nghĩa yêu nước chân chính và các giá trị văn hóa dân tộc Việt Nam là tiền đề tư tưởng quan trọng của Nguyễn Tất Thành khi rời Tổ quốc ra đi tìm đường cứu nước. Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh là người Việt Nam yêu nước trước khi trở thành một chiến sĩ cộng sản. Người cũng đã từng nói rằng: “lúc đầu chính chủ nghĩa yêu nước, chứ chưa phải chủ nghĩa cộng sản đã đưa tôi tin theo Lê nin, tin theo Quốc tế thứ III".
Thứ hai, là tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại: Phương Đông và phương Tây
Tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh không chỉ kết tinh từ những giá trị của dân tộc mà còn bắt nguồn từ tinh hoa văn hóa nhân loại cả phương Đông và phương Tây được người kế thừa và phát triển.
Trong văn hóa phương Đông, Hồ Chí Minh đặc biệt coi trọng việc kế thừa và phát triển những nhân tố tích cực của Nho giáo. Trong các tác phẩm bài viết, bài nói của mình, Hồ Chí Minh nhiều lần nhắc đến khái niệm phạm trù, mệnh đề của Nho giáo. Nho giáo thấm vào tư tưởng, tình cảm của Người. Những giáo điều trong "tam cương", "ngũ thường", đạo "tu thân"... của các nhà hiền triết phương Đông được Hồ Chí Minh hết sức trân trọng. Song trong khi vận dụng những yếu tố tích cực của Nho giáo, Người cũng đồng thời phê phán, loại bỏ những yếu tố tiêu cực của học thuyết đó. Nếu như chữ "trung", 'hiếu" trong Nho giáo là trung với vua, hiếu với cha mẹ, thì được Hồ Chí Minh nâng lên một tầm cao mới là trung với nước, hiếu với dân. Trung với nước, hiếu với dân là trung thành vô hạn với sự nghiệp dựng nước và giữ nước.
Có thể nói Hồ Chí Minh là hình ảnh của một bậc hiền triết phương Đông, cốt cách phương Đông của Người không chỉ là văn hóa ứng xử, một chủ nghĩa nhân văn cao cả, một tấm lòng thương yêu con người vô bờ bến mà còn thể hiện một bản lĩnh không bao giờ chịu khuất phục "quắc mắt khinh thường ngàn lực sĩ, cúi đầu làm ngựa các nhi đồng" hay "Giàu sang không quyến rũ, nghèo khó không chuyển lay, uy vũ không khuất phục" mà còn thể hiện ở phương pháp, phong cách tư duy và hành động. Người am hiểu sâu sắc những vấn đề lịch sử cũng như những vấn đề nóng hổi đương đại của các dân tộc phương Đông. Trong khi tiếp thu, vận dụng những luận điểm tích cực của Nho giáo, đồng thời Người cũng chỉ ra những hạn chế của nó như phân chia đẳng cấp, phân ra các hạng người: Thánh nhân, đại nhân, tiểu nhân, coi thường phụ nữ, coi khinh lao động chân tay, trọng nông, ức thương...
Trước khi đến với Chủ nghĩa Mác - Lê nin, Hồ Chí Minh đã quan tâm nghiên cứu, tìm hiểu tư tưởng nhân văn, dân chủ tư sản của cách mạng Pháp, Mỹ văn hóa Phục hưng, Thế kỷ ánh sáng và của các cuộc cách mạng tư sản phương Tây, Chủ nghĩa tam dân của Tôn Trung Sơn (Trung Quốc) "về dân tộc độc lập, dân quyền tự do, dân sinh hạnh phúc". Nguồn văn hóa phương Tây ảnh hưởng tới Hồ Chí Minh trước hết phải kể đến tư tưởng "tự do, bình đẳng, bác ái" mà giai cấp tư sản đã nêu cao để tập hợp lực lượng lật đổ chế độ phong kiến.
Trong quá trình tìm đường cứu nước bôn ba khắp các châu lục, đến những trung tâm văn minh của châu Âu, từ các thư viện ở Paris, Luân Đôn, từ những cuộc sinh hoạt luận bàn ở các câu lạc bộ chính trị, văn hóa, từ sách báo, từ những quan hệ tiếp xúc với nhiều nhà trí thức, các chính khách có tiếng ở Pháp và thế giới... Hồ Chí Minh đã tiếp thu những tinh hoa văn hóa phương Tây cần thiết cho sự nghiệp cách mạng của mình, góp phần hình thành những giá trị cốt lõi trong tư tưởng, đạo đức và phong cách của Người. Nhà nghiên cứu He-len Tuốc-mê-rơ đã có lý khi viết: "Hồ Chí Minh là hình ảnh hoàn chỉnh của sự kết hợp: Đức khôn ngoan của Phật, lòng bác ái của Chúa, triết học của Các Mác, thiên tài cách mạng của V. I. Lênin và tình cảm của người chủ gia tộc, tất cả đều hòa hợp trong một dáng dấp rất tự nhiên".
Thứ ba, tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh có nguồn gốc từ Chủ nghĩa Mác - Lênin.
Tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh là kết quả của sự vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện cụ thể của nước ta. Từ chủ nghĩa yêu nước, Hồ Chí Minh đến với chủ nghĩa Mác - Lênin, tiếp thu bản chất khoa học và cách mạng của học thuyết này. Từ đó, trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam, Người đã vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin để giải quyết thành công những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam, đưa cách mạng Việt Nam đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác. Trong quá trình vận dụng chủ nghĩa Mác - Lênin vào Việt Nam, Người đã có nhiều phát triển sáng tạo, làm phong phú thêm kho tàng lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin.
Thứ tư, tài năng bẩm sinh và hoạt động thực tiễn của Hồ Chí Minh.
Ngay từ khi còn trẻ, Hồ Chí Minh đã có hoài bão lớn, có bản lĩnh kiên định, giàu tình cảm nhân ái và sớm có chí cứu nước, giải phóng đồng bào mình. Vào đầu thế kỷ XX đã có nhiều người Việt Nam sang Pháp và đã có những người tham gia Đảng Xã hội Pháp. Thế nhưng trong số những người Việt Nam yêu nước ở Pháp vào năm 1920, duy nhất có Hồ Chí Minh trở thành người cộng sản và cũng là một công dân thuộc địa tham gia sáng lập Đảng Cộng sản Pháp. Tư chất thông minh, tư duy độc lập, sáng tạo, tính ham hiểu biết và nhạy bén với cái mới là những đức tính dễ thấy ở người thanh niên Nguyễn Tất Thành. Phẩm chất đó được rèn luyện phát huy trong suốt cuộc đời hoạt động cách mạng của Người.
Như vậy, có thể khẳng định rằng, tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh được hình thành trên cơ sở những phẩm chất và năng lực của một nhà hoạt động chính trị, một vị lãnh tụ của Đảng Cộng sản Việt Nam và dân tộc Việt Nam, anh hùng dân tộc vĩ đại và nhà văn hóa kiệt xuất, danh nhân văn hóa thế giới, tiêu biểu cho chủ nghĩa nhân văn thời đại ngày nay.
Hồ Chí Minh là một trong số ít nhân vật trên thế giới có ảnh hưởng sâu sắc nhất tới sự phát triển văn minh, tiến bộ của nhân loại. Tư tưởng, đạo đức, phong cách của Người không những soi sáng con đường phát triển của dân tộc Việt Nam và thế giới văn minh trong thế kỷ XX - thế kỷ phi thực dân hóa - mà còn có ý nghĩa tích cực cho thế kỷ XXI và các thế kỷ tiếp theo. Những luận điệu thù địch, xuyên tạc về cuộc đời, sự nghiệp, tư tưởng Hồ Chí Minh được nêu ra trên nhiều phương tiện truyền thông xưa nay không thể làm mờ các giá trị của nhà văn hóa Hồ Chí Minh.
HỌC TẬP VÀ LÀM THEO TƯ TƯỞNG, ĐẠO ĐỨC, PHONG CÁCH HỒ CHÍ MINH
Tư tưởng Hồ Chí Minh về đoàn kết thống nhất trong Đảng / Hải Nam biên soạn // Sách Hồ Chí Minh với sự nghiệp đại đoàn kết. - H.: Dân trí, 2017. - Tr. 31-48
1. Tư tưởng Hồ chí Minh về đoàn kết thống nhất trong Đảng
Trong di sản lý luận của mình, Hồ Chí Minh có hàng trăm bài nói và viết về đoàn kết. Tư tưởng đoàn kết nổi bật của Người là: "Đoàn kết làm ra sức mạnh"; "Đoàn kết là sức mạnh của chúng ta"; "Đoàn kết là thắng lợi"; "Đoàn kết là then chốt của thành công"; "Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết. Thành công, thành công, đại thành công".
Đoàn kết thống nhất trong Đảng là một trong những nguyên tắc cơ bản nhất trong xây dựng Đảng, là sự vận động và phát triển theo đúng quy luật của Đảng. Đoàn kết thống nhất trong Đảng là cơ sở để xây dựng khối đoàn kết toàn dân. Xây dựng và giữ gìn sự đoàn kết thống nhất trong Đảng luôn được Chủ tịch Hồ Chí Minh coi là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu, là nền tảng cho mọi thành công. Đoàn kết thống nhất không chỉ là vấn đề sinh tử của từng tổ chức Đảng các cấp, mà còn là sinh mệnh của toàn Đảng, là vấn đề sống còn của cách mạng. Trong bản Di chúc, vốn được Người dành nhiều tâm hụyết để hoàn thành, ngay từ năm 1965, Người đã viết: "Trước hết nói về Đảng" và Người cũng khẳng định sức mạnh to lớn của đoàn kết qua thực tiễn cách mạng nước ta: "Nhờ đoàn kết chặt chẽ, một lòng một dạ phục vụ giai cấp, phục vụ nhân dân, phục vụ Tổ quốc cho nên từ ngày thành lập đến nay, Đảng ta đã đoàn kết, tổ chức và lãnh đạo nhân dân ta hăng hái đấu tranh tiến từ thắng lợi này đến thắng lợi khác. Đoàn kết là một truyền thống cực kỳ quý báu của Đảng và dân tộc ta".
Như vậy có thể thấy, đoàn kết thống nhất trong Đảng không chỉ là mối quan tâm lớn hàng đầu của Người mà còn là sự trăn trở khi Người nghĩ về cả mai sau. Trong nhiều thời điểm, ở nhiều nơi, Chủ tịch Hồ Chí Minh đều thể hiện sự quan tâm, nhắc nhở toàn Đảng, toàn dân về xây dựng khối đoàn kết thống nhất. Trong Lời kêu gọi ở Lễ mừng Quốc khánh 2-9-1955, Người nhấn mạnh: "Đoàn kết là một lực lượng vô địch. Lực lượng đoàn kết đã giúp Cách mạng Tháng Tám thành công. Lực lượng đoàn kết đã giúp kháng chiến thắng lợi. Lực lượng đoàn kết sẽ động viên nhân dân từ Bắc đến Nam đấu tranh thực hiện hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ trong cả nước" .
Nói chuyện tại Hội nghị cán bộ cải cách miền biển, Người nói: "Một chiếc thuyền phải có người chèo, phải có người lái... người chèo và người lái phải đoàn kết với nhau".
Vì sao Chủ tịch Hồ Chí Minh lại luôn nhấn mạnh vai trò, ý nghĩa quan trọng của đoàn kết thống nhất. Người không chỉ nêu ra yêu cầu phải đoàn kết trong Đảng mà Người còn chỉ rõ sự đoàn kết ấy phải là đoàn kết nhất trí, đoàn kết thống nhất, đó không phải là đoàn kết giả tạo, hình thức, nó phải thể hiện cả ở tư tưởng, cả trong hành động. Tư tưởng và hành động phải thống nhất. Không thể bề ngoài là đoàn kết nhưng những khi cần ra một quyết định, ban hành một quyết sách thì không có được sự thống nhất hay khi cần thì liên minh nhau lại nhân danh đoàn kết, khi không cần thì tìm cách cản trở công việc của nhau. Trong tư tưởng của Người, đoàn kết phải là đoàn kết thống nhất, trước sau như một, tức là phải dựa trên nền tảng đường lối, quan điểm của Đảng và vì lợi ích của tập thể. Người luôn nhấn mạnh: Đảng tuy có nhiều đảng viên, song khi tiến hành nhiệm vụ cách mạng thì chỉ như một người, trong Đảng không cho phép có tình trạng "trống đánh xuôi, kèn thổi ngược".
Đảng là tổ chức chính trị cao nhất của Nhân dân, của dân tộc, các đảng viên đều tham gia tổ chức một cách tự giác, tự nguyện, việc giữ vững và thực hiện nghiêm minh các nguyên tắc của Đảng không chỉ là nguyện vọng của nhân dân mà còn là trách nhiệm của mỗi đảng viên. Người coi nguyên tắc tập trung dân chủ là nguyên tắc cơ bản và quan trọng, trong từng tổ chức Đảng phải thực hành dân chủ, mở rộng dân chủ, "Phải thực sự mở rộng dân chủ để tất cả đảng viên bày tỏ hết ý kiến của mình", mọi ý kiến, suy nghĩ của mỗi đảng viên đều phải được bày tỏ, được lắng nghe; mọi quyết định quan trọng đều phải được bàn bạc, thảo luận một cách dân chủ.
Trong Đảng thực hành dân chủ rộng rãi, thường xuyên và nghiêm túc tự phê bình và phê bình là cách tốt nhất để củng cố và phát triển sự đoàn kết và thống nhất của Đảng. Đoàn kết thống nhất trong Đảng đòi hỏi cán bộ, đảng viên phải thật thà tự phê bình và phê bình, đây chính là một hình thức rèn luyện đảng viên để xây dựng, chỉnh đốn Đảng ngày càng trong sạch, vững mạnh. Bởi theo Người: "Chỉ có đảng chân chính cách mạng và chính quyền thật dân chủ mới dám mạnh dạn tự phê bình, hoan nghênh phê bình và kiên quyết sửa chữa. Do tự phê bình và phê bình... mà chúng ta đoàn kết càng chặt chẽ". Đây cũng là quy luật phát triển của Đảng, tự phê bình và phê bình là để giúp nhau sửa chữa, giúp nhau tiến bộ, để công việc được hiệu quả hơn, để đoàn kết và thống nhất trong nội bộ. Để thực hiện đoàn kết thống nhất trong Đảng, Hồ Chí Minh yêu cầu phải thực hiện các nguyên tắc tổ chức và sinh hoạt của Đảng, đặc biệt là nguyên tắc dân chủ, nguyên tắc tự phê bình và phê bình. Người căn dặn "Trong Đảng thực hành dân chủ rộng rãi, thường xuyên và nghiêm chỉnh tự phê bình và phê bình". Theo Người, đó là cách tốt nhất để củng cố và phát triển sự đoàn kết và thống nhất của Đảng.
Để có sự đoàn kết thật sự, không chỉ cần thực hiện nguyên tắc, bản lĩnh, lý trí mà còn rất cần tình thương yêu, sự đồng cảm và chia sẻ với nhau. Năm 1966, Người bổ sung vào bản Di chúc cụm từ "Phải có tình đồng chí thương yêu lẫn nhau". Để có sự đoàn kết thống nhất thực sự thì bên cạnh tinh thần, lý trí, trong mỗi cán bộ, đảng viên phải có tình thương yêu đồng chí, có lòng nhân ái, nhân hậu. Trong thực hành công việc không chỉ là đặt ra yêu cầu hoàn thành công việc mà còn phải có sự cảm thông, chia sẻ, giúp đỡ nhau cùng hoàn thành công việc. Vì vậy, để duy trì và bồi đắp đoàn kết thống nhất thì từng tổ chức Đảng bên cạnh việc phải chú trọng giáo dục ý thức trách nhiệm, còn phải thường xuyên bồi dưỡng tình thân ái, tình thương yêu cảm thông chia sẻ, tình đồng chí.
Trong điều kiện Đảng cầm quyền, Hồ Chí Minh đặc biệt coi trọng yếu tố đạo đức trong Đảng, chống lại các căn bệnh "quan liêu", "tham nhũng, lãng phí", "xa dân". Theo Người, Đảng cầm quyền có nhiệm vụ to lớn là lãnh đạo nhân dân xây dựng xã hội mới, tiến hành "một cuộc chiến đấu khổng lồ", xóa đi những gì đã cũ kỹ, hư hỏng, xây dựng những cái mới mẻ, tốt tươi. Trong Di chúc, Chủ tịch Hồ Chí Minh căn dặn với 4 chữ thật: "Đảng ta là một Đảng cầm quyền. Mỗi đảng viên và cán bộ phải thật sự thấm nhuần đạo đức cách mạng, thật sự cần kiệm liêm chính, chí công vô tư. Phải giữ gìn Đảng ta thật trong sạch, phải xứng đáng là người lãnh đạo, là người đầy tớ thật trung thành của nhân dân".
Sự đoàn kết thống nhất trước hết phải được xây dựng trong Đảng, được thể hiện trong Đảng. Mỗi đảng viên, nhất là đảng viên giữ trọng trách lãnh đạo phải cương quyết chống chủ nghĩa cá nhân, chủ nghĩa cơ hội trong chính bản thân mình trước những tác động từ bên ngoài. Bởi như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã rút ra: chủ nghĩa cá nhân, chủ nghĩa cơ hội chính là căn nguyên của mất đoàn kết thống nhất trong Đảng.
Nhìn lại chặng đường đã qua với không ít giai đoạn rất phức tạp, nhưng Ban Chấp hành Trung ương mà hạt nhân là Chủ tịch Hồ Chí Minh đã luôn vững vàng, luôn đoàn kết thống nhất.
Thấm nhuần tư tưởng và thực hiện Di chúc của Người, những năm qua, Đảng ta luôn coi trọng, giữ gìn và phát huy đoàn kết thống nhất. Nhờ đó, Đảng đã quy tụ và phát huy được sức mạnh toàn dân, tạo nên sức mạnh tổng hợp để hoàn thành nhiệm vụ lãnh đạo đất nước mà Nhân dần đã tin tưởng giao phó. Trong nhiều kỳ đại hội Đảng, vấn đề đoàn kết thống nhất đều được nghiêm túc đặt ra, được xem xét, đánh giá một cách toàn diện và sâu sắc. Nghị quyết Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa I (tháng 11-1939) trong phần nói về Đảng cũng chỉ rõ: "Phải thống nhất ý chí và hành động” và "sự thống nhất ý chí và hành động của Đảng buộc phải có ý chí giác ngộ của toàn thể đảng viên, chớ không phải nhắm mắt phục tùng". Đến Đại hội VI (năm 1986), Đảng ta rút ra 4 bài học kinh nghiệm quý, trong đó có bài học về tăng cường sự đoàn kết nhất trí, sự thống nhất ý chí và hành động trong Đảng. Trong Điều lệ Đảng Cộng sản Việt Nam do Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV thông qua, đã được sửa đổi, bổ sung tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ V, VI đều khẳng định "Đảng coi việc giữ gìn đoàn kết nhất trí trong Đảng trên cơ sở đường lối chính trị và nguyên tắc tập trung dân chủ là sinh mệnh của Đảng, và kiên quyết đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân, chống mọi biểu hiện chia rẽ, bè phái trong Đảng". Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII nhấn mạnh: "Đoàn kết thống nhất trong Đảng, trước hết là ở cơ quan lãnh đạo, có ý nghĩa quyết định sự thành công của cách mạng. Cán bộ, đảng viên giữ gìn sự đoàn kết thống nhất trong Đảng trên cơ sở đường lối chính trị, nguyên tắc tổ chức và tình yêu thương đồng chí". Đại hội IX yêu cầu: "Từng đảng bộ giữ vững sự đoàn kết thống nhất trong tập thể lãnh đạo. Đối với những cấp ủy, tổ chức Đảng vi phạm nguyên tắc tập trung dân chủ, cán bộ lãnh đạo độc đoán, chuyên quyền, kéo bè, kéo cánh, gây mất đoàn kết nội bộ, cấp ủy cấp trên phải chỉ đạo kiểm điểm làm rõ đúng sai, xử lý nghiêm những người có khuyết điểm".
2. Tăng cường đoàn kết trong Đảng theo Di chúc Chủ tịch Hồ Chí Minh
Sinh thời, trên cương vị là người đứng đầu Đảng Cộng sản Việt Nam, vấn đề quan tâm hàng đầu của Chủ tịch Hồ Chí Minh là củng cố và giữ gìn đoàn kết, thống nhất trong Đảng. Người nhấn mạnh "Đoàn kết là sức mạnh nhất của ta", là then chốt của thành công, "Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết. Thành công, thành công, đại thành công".
Trước lúc đi xa, trong Di chúc thiêng liêng, Người đặc biệt căn dặn: "Đoàn kết là một truyền thống cực kỳ quý báu của Đảng và của dân ta. Các đồng chí từ Trung ương đến các chi bộ cần phải giữ gìn sự đoàn kết nhất trí của Đảng như giữ gìn con ngươi của mắt mình". Bác nhấn mạnh đoàn kết, thống nhất trong Đảng phải được xây dựng, củng cố trên cơ sở vì mục đích cao cả "một lòng một dạ phục vụ giai cấp, phục vụ nhân dân, phục vụ Tổ quốc". Chỉ trên cơ sở đó, trong Đảng mới có sự thống nhất về ý chí và hành động "triệu người như một" để vượt qua mọi khó khăn trở ngại. "Nhờ đoàn kết chặt chẽ, một lòng một dạ phục vụ giai cấp, phục vụ nhân dân, phục vụ Tổ quốc, cho nên từ ngày thành lập đến nay, Đảng đã đoàn kết, tổ chức và lãnh đạo nhân dân ta hăng hái đấu tranh tiến từ thắng lợi này đến thắng lợi khác".
"Di chúc" của Bác không những chỉ rõ vai trò quan trọng của sự đoàn kết, tính tất yếu của việc giữ gìn, củng cố, phát triển sự đoàn kết, thống nhất trong Đảng mà còn nêu bật những nguyên tắc quan trọng, hiệu quả nhất để xây dựng, củng cố sự đoàn kết, thống nhất: "Trong Đảng, thực hành dân chủ rộng rãi, thường xuyên và nghiêm chỉnh tự phê bình và phê bình là cách tốt nhất để củng cố và phát triển sự đoàn kết và thống nhất của Đảng. Phải có tình đồng chí thương yêu lẫn nhau". Vận dụng tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh, trong quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn coi trọng công tác xây dựng đảng, coi đây là một nhiệm vụ đặc biệt quan trọng, có ý nghĩa sống còn đối với Đảng và chế độ ta, trong đó, đặt lên hàng đầu xây dựng khối đại đoàn kết... Để tiếp tục thực hiện tốt "Di chúc" của Chủ tịch Hồ Chí Minh về xây dựng mối đoàn kết thống nhất trong Đảng, các cấp ủy, tổ chức đảng cần thực hiện tốt một số nội dung sau:
- Tăng cường mở rộng dân chủ trong Đảng, đề cao tính tổ chức, tính kỷ luật, thực hiện tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách
Dân chủ trong Đảng là nền tảng cho sự đoàn kết. Trên cơ sở dân chủ nội bộ trong Đảng, đảng viên mới thực sự trung thực, thẳng thắn, chân thành với nhau. Từ đó, "tình đồng chí thương yêu lẫn nhau" mới được phát huy trong công tác xây dựng Đảng. Dân chủ sẽ khơi dậy, phát huy cao nhất trí tuệ, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu, khắc phục được tình trạng bè cánh, cục bộ, địa phương chủ nghĩa, quan liêu, hách dịch, cửa quyền, xa rời quần chúng. Thực hành dân chủ rộng rãi thực sự, thường xuyên, dân chủ phải gắn với tập trung. Đây là nguyên tắc sống còn, quán triệt sâu sắc và thực hiện tốt nguyên tắc tập trung dân chủ giúp Đảng không ngừng lớn mạnh.
Các cấp ủy đảng phải bảo đảm thực hành dân chủ từ cơ sở, đề cao tính tổ chức, tính kỷ luật, thực hiện tốt nguyên tắc tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách nhằm tạo cơ sở đảm bảo sự đoàn kết thống nhất trong Đảng. Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XI) chỉ ra: phát huy dân chủ thật sự trong Đảng, thực hiện nghiêm túc Quy chế chất vấn trong Đảng, nhất là chất vấn tại các kỳ họp Ban Chấp hành Trung ương và cấp ủy các cấp. Đổi mới cách lấy phiếu tín nhiệm để đánh giá, nhận xét cán bộ theo hướng mở rộng đối tượng tham gia. Những người không đủ năng lực, không hoàn thành nhiệm vụ, có tín nhiệm thấp được sắp xếp phù hợp, có cơ chế kịp thời thay thế không chờ hết nhiệm kỳ, hết tuổi công tác. Đây không chỉ là điểm mới được đề xuất từ yêu cầu bức thiết của thực tiễn xây dựng Đảng hiện nay mà còn được đông đảo quần chúng nhân dân đồng tình hưởng ứng, tạo ra bầu không khí hồ hởi, mới mẻ trong tổ chức và sinh hoạt ở hầu hết các cấp ủy Đảng.
- Thường xuyên và nghiêm túc thực hiện nguyên tắc tự phê bình và phê bình trong sinh hoạt Đảng
Tự phê bình và phê bình là quy luật tồn tại và phát triển của Đảng, là vũ khí sắc bén để xây dựng Đảng, để giáo dục, rèn luyện cán bộ, đảng viên. Thực tế công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng thời gian qua, không ít tập thể, cá nhân chưa thực hiện tốt nguyên tắc này, do ý thức tự giác của một số cán bộ, đảng viên không cao, dẫn đến quá trình thực hiện vẫn rơi vào tình trạng "không đạt yêu cầu". Do đó, cấp ủy, các tổ chức Đảng cần quyết liệt thực hiện tự phê bình và phê bình theo tinh thần của Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XI). Khắc phục tình trạng nể nang, dĩ hòa vi quý, đoàn kết xuôi chiều, bị tình cảm cá nhân chi phối, đồng thời nghiêm khắc xử lý những biểu hiện lợi dụng phê bình để đấu đá, làm mất uy tín của nhau, gây rối đối với tổ chức, ảnh hưởng đến đoàn kết trong tổ chức đảng, tạo kẽ hở cho kẻ xấu lợi dụng kích động, chia rẽ. Mỗi cán bộ, đảng viên phải phê bình một cách thẳng thắn, chân thành nhằm giúp đồng chí, đồng đội nhận rõ sai lầm, sửa chữa khuyết điểm để không ngừng tiến bộ, tuyệt đối không vì mâu thuẫn cá nhân, động cơ cá nhân mà phê bình theo kiểu "vạch lá tìm sâu", "bới lông tìm vết" nhằm trù dập, đấu đá, hạ bệ lẫn nhau. Từ đó, góp ý cho nhau, cùng nhau tiến bộ, nâng cao phẩm chất con người, phát huy tính tích cực của con người. Thực hiện Di chúc của Người, mỗi chúng ta cần nhận thức sâu sắc hơn, thực hiện triệt để hơn nguyên tắc tự phê bình và phê bình để Đảng luôn trong sạch, làm cho uy tín, năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng không ngừng được nâng cao.
- Phải có tình đồng chí thương yêu lẫn nhau
Tình đồng chí thương yêu lẫn nhau là điểm cơ bản nhất của vấn đề đoàn kết trong Đảng. Bởi không xuất phát từ "tình đồng chí thương yêu lẫn nhau" thì dù có thường xuyên tự phê bình và phê bình, dù được gọi là "có tinh thần thẳng thắn đấu tranh", thì hiệu quả cũng không được như mong muốn. Khi tiến hành tự phê bình và phê bình phải xuất phát từ "tình đồng chí thương yêu lẫn nhau", phê phán tư tưởng việc bé xé ra to, "bới lông, tìm vết", "gắp lửa bỏ tay người" nhằm hạ thấp uy tín của đồng chí, đồng nghiệp, nhất là đối với những "kẻ" có nhiều "mánh khóe" cạnh tranh trên con đường danh lợi, kéo bè kéo cánh, gây mất đoàn kết trong chi bộ. Trên tinh thần yêu thương đồng chí, đồng đội để chỉ rõ những khuyết điểm nhằm giúp đồng chí mình không lấn sâu vào những sai lầm, khuyết điểm. Trong công tác xây dựng Đảng, chỉ có xuất phát từ "tình đồng chí thương yêu lẫn nhau" thì mọi cuộc phê bình và tự phê bình mới đưa lại kết quả tốt đẹp, ngược lại, nó sẽ làm thêm mất đoàn kết, dẫn đến việc suy yếu sức mạnh của Đảng.
- Tăng cường công tác kiểm tra, giám sát của Đảng, kiên quyết giải quyết dứt điểm hiện tượng gây mất đoàn kết trong nội bộ Đảng
Tăng cường kiểm tra, giám sát giúp cho các cấp ủy kịp thời phát hiện và ngăn chặn nguyên nhân, hiện tượng mất đoàn kết. Đồng thời biểu dương kịp thời và có biện pháp cụ thể, thiết thực giúp cho các tổ chức đảng, cán bộ, đảng viên chấp hành nghiêm kỷ luật của Đảng. Kiểm tra, giám sát trong Đảng, một mặt phải tăng cường sự lãnh đạo chỉ đạo của cấp ủy các cấp, đề cao trách nhiệm của các cơ quan chức năng, tích cực đổi mới nội dung, phương pháp, cách thức tiến hành, đồng thời cần có cơ chế, qui chế cụ thể để bảo vệ và phát huy vai trò giám sát của quần chúng, nhân dân đối với đội ngũ cán bộ, đảng viên của Đảng.
Để bảo đảm cho công tác kiểm tra, giám sát chặt chẽ theo quy định, cấp ủy, chi bộ cần xây dựng, bổ sung và hoàn thiện hệ thống quy chế làm việc, quy chế lãnh đạo, phù hợp với tính chất nhiệm vụ của mình; gắn kiểm tra thường xuyên với kiểm tra đột xuất; kiểm tra kết quả lãnh đạo của chi bộ với việc thực hiện chức trách, nhiệm vụ của cán bộ lãnh đạo.
Trước yêu cầu của nhiệm vụ cách mạng giai đoạn mới, hơn lúc nào hết, Đảng ta cần tiếp tục kế thừa và phát huy xây dựng khối đoàn kết trong Đảng theo Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh bằng hành động cụ thể, thiết thực gắn với tiếp tục thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XI) và Chỉ thị số 03 của Bộ Chính trị, góp phần nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu, của Đảng phát huy sức mạnh toàn dân tộc, đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi mới, tạo nền tảng để đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại.
3. Đoàn kết thống nhất trong Đảng trong tình hình hiện nay
Bước vào thời kỳ hội nhập quốc tế, trước những tác động của kinh tế thị trường, một bộ phận cán bộ, đảng viên, kể cả cán bộ cấp cao có xu hướng chạy theo chủ nghĩa cá nhân; một số tổ chức Đảng có biểu hiện mất đoàn kết nội bộ, chưa tôn trọng và thực hiện chưa đúng nguyên tắc tập trung dân chủ. Việc tự phê bình và phê bình có nơi trở nên hình thức, có nơi bị lợi dụng để đấu đá, hạ bệ lẫn nhau. Bên cạnh đó, những biểu hiện cơ hội chủ nghĩa, "lợi ích nhóm", tính cục bộ địa phương có nơi đã xuất hiện và phá hoại sự đoàn kết thống nhất trong Đảng.
Những năm gần đây, Đảng ta đề cao vai trò, trách nhiệm của người đứng đầu đối với việc giữ vững sự đoàn kết thống nhất trong tổ chức Đảng và trong các cơ quan, đơn vị. Tuy nhiên, thực tế là ở nhiều nơi, chính người đứng đầu chịu trách nhiệm trước cấp ủy cấp trên và cấp mình về sự đoàn kết thống nhất nội bộ lại chưa thực sự gương mẫu, chưa thấm nhuần ý thức xây dựng khối đoàn kết thống nhất trong nội bộ. Chính vì vậy, việc lựa chọn người đứng đầu có đủ phẩm chất, năng lực, có vai trò tiền phong, gương mẫu là rất quan trọng. Người đứng đầu cấp ủy, chính quyền phải thực sự công bằng, công tâm trong xử lý công việc, phải thực sự là trung tâm quy tụ, đoàn kết của tổ chức Đảng, của tập thể cơ quan, đơn vị.
Thực tế cho thấy, đoàn kết thống nhất trong cán bộ lãnh đạo ở cấp càng cao thì tác động, ảnh hưởng đối với Đảng càng mạnh, sức lan tỏa ra xã hội càng lớn. Ngược lại, nếu những người nắm trọng trách lãnh đạo, nhất là ở cấp cao nếu không có ý thức đoàn kết thống nhất thì không những gây nguy hại mà còn tạo ra những nguy cơ lớn, khó lường cho toàn Đảng.
Trong thời điểm đất nước đang đứng trước những thời cơ vận hội mới nhưng cũng đầy những thử thách lớn lao, những thành tựu toàn Đảng, toàn dân đạt được qua gần 30 năm thực hiện công cuộc đổi mới toàn diện đất nước chính là kết quả của sự đoàn kết thống nhất của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta, là minh chứng khẳng định sự trưởng thành và vững mạnh của Đảng.
Tuy nhiên, trong bối cảnh tình hình thế giới diễn biến phức tạp, khó lường, bên cạnh những thành tựu đạt được, chúng ta vẫn đang phải đối mặt với nhiều khó khăn, phức tạp. Các thế lực thù địch luôn tìm mọi cách, bằng nhiều âm mưu thâm độc, xảo quyệt, kích động chia rẽ nội bộ, gây mất đoàn kết trong Đảng. Chính vì vậy, tăng cường đoàn kết và thống nhất trong Đảng từ Trung ương đến cơ sở là điều tất yếu và cấp thiết trong giai đoạn hiện nay.
Giờ đây, đoàn kết thống nhất trong Đảng càng phải được xem là một chiến lược lâu dài đối với sự nghiệp cách mạng. Là Đảng duy nhất cầm quyền, Đảng ta càng phải xây dựng, củng cố sự đoàn kết thống nhất, có như vậy thì hệ thống chính trị, các tầng lớp nhân dân, các dân tộc mới đoàn kết xung quanh Đảng. Đoàn kết của Đảng chính là tấm gương cho cả hệ thống chính trị và là nhân tố quyết định bảo đảm đoàn kết dân tộc.
Phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc trước yêu cầu mới / Hải Nam biên soạn // Sách Hồ Chí Minh với sự nghiệp đại đoàn kết. - H.: Dân trí, 2017. - Tr.76-87
Trải qua hàng nghìn năm dựng nước và giữ nước, đại đoàn kết dân tộc đã trở thành di sản vô giá, truyền thống cực kỳ quý báu của dân tộc ta. Lòng yêu nước, tinh thần đoàn kết, trọng nhân nghĩa, khoan dung, đùm bọc yêu thương lẫn nhau đã thấm sâu vào tư tưởng, tình cảm, tâm hồn mỗi người con đất Việt, trở thành lẽ sống, chất kết dính gắn bó các thành viên trong đại gia đình các dân tộc Việt Nam. Lịch sử đã chứng minh truyền thống đại đoàn kết toàn dân tộc ở nước ta bất luận trong hoàn cảnh nào, đã kết thành sức mạnh vô địch, đưa dân tộc ta vượt lên mọi khó khăn, thử thách, đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác, lập nên những kỳ tích vẻ vang.
Ngay từ khi mới ra đời và trong quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng ta luôn xác định đại đoàn kết toàn dân tộc là đường lối chiến lược, là nguồn sức mạnh, động lực chủ yếu và là nhân tố có ý nghĩa quyết định thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Phát huy sức mạnh đại đoàn kết dân tộc trở thành một trong những bài học kinh nghiệm lớn, là phương thức và cũng là điều kiện bảo đảm thực hiện thành công sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, xây dựng, bảo vệ và phát triển đất nước trong mỗi giai đoạn cách mạng.
Từ thực tiễn đấu tranh cách mạng phong phú, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khái quát thành tư tưởng đại đoàn kết toàn dân tộc và nhấn mạnh: “Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết,/Thành công, thành công, đại thành công”.
Văn kiện Đại hội XII của Đảng cũng đã chỉ rõ: “Phát huy mạnh mẽ mọi nguồn lực, mọi tiềm năng sáng tạo của nhân dân để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; lấy mục tiêu xây dựng một nước Việt Nam hòa bình, độc lập, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ”, “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” làm điểm tương đồng; tôn trọng những điểm khác biệt không trái với lợi ích chung của quốc gia - dân tộc; đề cao tinh thần dân tộc, truyền thống yêu nước, nhân nghĩa, khoang dung để tập hợp, đoàn kết mọi người Việt Nam ở trong và ngoài nước, tăng cường quan hệ mật thiết giữa nhân dân với Đảng, Nhà nước, tạo sinh lực mới của khối đại đoàn kết toàn dân tộc”.
Từ sau Cách mạng Tháng Tám đến nay, Đảng, Nhà nước ta đã ban hành nhiều chủ trương, chính sách, pháp luật về dân tộc, tôn giáo, thanh niên, phụ nữ, công nhân, nông dân, trí thức, văn nghệ sĩ, người Việt Nam ở nước ngoài… nhằm khơi dậy, phát huy sức mạnh đại đoàn kết dân tộc trong sự nghiệp xây dựng, bảo vệ và phát triển đất nước.
Nhận thức và trách nhiệm của cấp ủy, chính quyền các cấp đối với việc phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc trong việc thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh của cơ quan, đơn vị, địa phương ngày càng được coi trọng, có nhiều chuyển biến tích cực. Các cấp, các ngành đã hướng mạnh về cơ cở, bám sát địa bàn, bám dân, tăng cường đối thoại với nhân dân, kịp thời nắm bắt tâm tư, nguyện vọng và những đề xuất, kiến nghị của nhân dân để tham mưu với Đảng, Nhà nước đề ra các chủ trương, chính sách xử lý có hiệu quả những vấn đề liên quan trực tiếp đến đời sống người dân.
Việc triển khai thực hiện nhiều chính sách, chương trình, mục tiêu đã làm cho kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội và đời sống nhân dân ở các vùng đồng bào dân tộc được cải thiện rõ rệt; văn hóa truyền thống của các dân tộc được tôn trọng, giữ gìn và phát huy. Công tác vận động đồng bào có đạo, các tín đồ, chức sắc hưởng ứng tham gia các cuộc vận động, các phong trào thi đua yêu nước, xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc đạt được nhiều kết quả thiết thực.
Với phương châm “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra”, quyền làm chủ của nhân dân trong quản lý nhà nước, quản lý kinh tế - xã hội từng bước được tăng cường; dân chủ đại diện, dân chủ trực tiếp ở cơ sở được mở rộng, góp phần động viên các tầng lớp nhân dân đẩy mạnh lao động, sản xuất, tích cực tham gia thực hiện các nhiệm vụ phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, xóa đói, giảm nghèo, thực hiện chính sách hậu phương, chăm sóc thương binh, bệnh binh, gia đình liệt sĩ, người có công với cách mạng; xây dựng nền quốc phòng toàn dân, thế trận quốc phòng toàn dân, gắn với nền an ninh nhân dân, thế trận an ninh nhân dân vững chắc, không ngừng củng cố và tăng cường “thế trận lòng dân”, góp phần xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc.
Việc tập hợp các tầng lớp nhân dân trong nước và đồng bào ta ở nước ngoài với các hình thức đa dạng có bước phát triển mới. Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể nhân dân được mở rộng, vai trò và vị trí trong xã hội được nâng cao; nội dung, phương thức hoạt động được đổi mới, đáp ứng tốt hơn nguyện vọng, quyền lợi các đoàn viên, hội viên, động viên, lôi cuốn đông đảo các tầng lớp nhân dân tích cực tham gia các cuộc vận động, phong trào thi đua yêu nước, xây dựng hệ thống chính trị cơ sở trong sạch, vững mạnh; thu hút đồng bào ta ở nước ngoài đóng góp nhân lực, vật lực, tham gia xây dựng quê hương, đất nước ngày càng giàu mạnh. Qua đó, đã tăng cường không khí dân chủ và sự đồng thuận trong xã hội, tạo điều kiện để các tầng lớp nhân dân tích cực thực hiện chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước.
Trong bối cảnh xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, hội nhập quốc tế, đất nước ta đang đứng trước nhiều vấn đề mới đặt ra, tác động đến tư tưởng, tình cảm, đời sống của nhân dân.
Sự phân hóa giàu nghèo, phân tầng xã hội ngày càng gay gắt; tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí, xâm phạm quyền, lợi ích chính đáng, hợp pháp của người dân… còn diễn biến phức tạp, gây bức xúc trong dư luận cùng với các biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ đang làm xói mòn lòng tin của nhân dân, trở thành thách thức đối với mối quan hệ máu thịt giữa Đảng, Nhà nước với nhân dân. Thực tiễn đòi hỏi phải tiếp tục củng cố vững chắc khối đại đoàn kết toàn dân tộc, phát huy sức mạnh to lớn của toàn dân trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Để thực hiện thắng lợi công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, hội nhập quốc tế, giữ vững độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, cần nâng cao nhận thức, trách nhiệm của hệ thống chính trị, các cấp, các ngành và toàn xã hội đối với việc xây dựng, củng cố khối đại đoàn kết toàn dân tộc trong tình hình mới.
Quán triệt sâu sắc trong tư tưởng và thực hiện nhất quán trong hành động của từng cán bộ, đảng viên quan điểm mấu chốt: Cách mạng là sự nghiệp của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân, nhân dân là chủ, nhân dân làm chủ; đại đoàn kết toàn dân tộc phải dựa trên cơ sở giải quyết hài hòa quan hệ lợi ích giữa các thành viên trong xã hội, không ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân, bảo đảm mỗi người dân đều sống trong môi trường an toàn, an ninh và được thụ hưởng những thành quả của công cuộc đổi mới. Nhiệm vụ bao trùm, xuyên suốt của tất cả các cấp, các ngành là tập hợp, động viên được mọi tầng lớp nhân dân ở trong nước và đồng bào ta ở nước ngoài không ngừng đoàn kết, nỗ lực tham gia xây dựng, bảo vệ, phát triển đất nước.
Tiếp tục thể chế hóa phương châm “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra” thành những chính sách, quy chế, quy định cụ thể để nhân dân phát huy quyền làm chủ trên thực tế và thực hiện tốt trách nhiệm và nghĩa vụ đối với Nhà nước và xã hội.
Xây dựng cơ chế, chính sách và các hình thực tổ chức để nhân dân được phát huy quyền làm chủ trên các lĩnh vực của đời sống xã hội, phát triển tài năng, sức sáng tạo, phát triển sản xuất, kinh doanh làm giàu chính đáng, mang lại lợi ích cho mình và cho đất nước.
Tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức “gần dân, hiểu dân, học dân, trọng dân và có trách nhiệm với dân”, gương mẫu, tận tụy với công việc, nói đi đôi với làm, thực sự là công bộ của nhân dân.
Tăng cường kỷ cương, kỷ luật trong Đảng và trong bộ máy công quyền trên cơ sở làm rõ trách nhiệm cá nhân đối với những hành vi coi thường và làm tổn hại đến quyền, lợi ích hợp pháp của người dân, xử lý nghiêm minh theo quy định của pháp luật, củng cố lòng tin của nhân dân vào Đảng, Nhà nước.
Kiên quyết, kiên trì thực hiện có hiệu quả Nghị quyết Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa XI) “Một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay” gắn với đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh theo Chỉ thị số 05-CT/TW của Bộ Chính trị (khóa XII), xây dựng các tổ chức đảng, cơ quan nhà nước thật sự trong sạch, vững mạnh.
Cấp ủy, chính quyền các cấp cần đa dạng hóa các hình thức tuyên truyền, mở rộng và nâng cao chất lượng giáo dục truyền thống yêu nước, trách nhiệm công dân, đạo đức xã hội, đạo đức nghề nghiệp, xây dựng sự đồng thuận xã hội và đề cao ý thức trách nhiệm cộng đồng, ý chí tự lực, tự cường xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, coi đó là những yếu tố quan trọng để củng cố và phát triển khối đại đoàn kết toàn dân tộc.
Chăm lo lợi ích thiết thực, chính đáng, hợp pháp của nhân dân; kết hợp hài hòa lợi ích cá nhân, lợi ích tập thể và lợi ích của toàn xã hội; huy động sức dân đi đôi với bồi dưỡng sức dân; phát huy dân chủ gắn liền với giữ nghiêm kỷ cương, phép nước, chống quan liêu, tham nhũng, lãng phí.
Đẩy mạnh cải cách tư pháp, cải cách hành chính, đổi mới phong cách, lề lối làm việc, chấn chỉnh thái độ phục vụ nhân dân; hướng hoạt động nhiều hơn về cơ sở, đến từng hộ dân, nhất là vùng sâu, vùng xa, vùng đặc biệt khó khăn, vận động và giúp nhân dân xóa đói, giảm nghèo, xây dựng đời sống ấm no, hạnh phúc ở từng cộng đồng dân cư.
Thực hiện tốt Quy chế dân chủ ở cơ sở, tạo điều kiện để nhân dân tích cực, chủ động tham gia xây dựng và giám sát việc thực hiện các chính sách, chương trình, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng an ninh ở địa phương.
Thường xuyên đối thoại, lắng nghe, tiếp thu, tập trung giải quyết các khó khăn, vướng mắc, bức xúc, nguyện vọng chính đáng của người dân, nhất là những vấn đề liên quan trực tiếp đến đời sống, việc làm, đất đai, môi trường…; xử lý nghiêm minh các vụ việc tiêu cực, tham nhũng; giải quyết ổn định những vụ việc khiếu kiện đông người, không để kéo dài, phức tạp.
Chủ động đấu tranh phản bác các luận điệu xuyên tạc, kích động của các thế lực thù địch, phản động chống phá khối đại đoàn kết toàn dân tộc hòng chia rẽ nhân dân với Đảng, Nhà nước.
Tiếp tục thực hiện tốt các chính sách phát triển kinh tế - xã hội vùng dân tộc và miền núi; rà soát, điều chỉnh, bổ sung để hoàn thiện những chính sách đã có và nghiên cứu ban hành những chính sách mới để đáp ứng yêu cầu phát triển các vùng dân tộc và nhiệm vụ công tác dân tộc trong giai đoạn mới.
Giữ gìn và phát huy truyền thống thờ cúng tổ tiên, tôn vinh và tri ân những người có công với nước; tôn trọng tín ngưỡng truyền thống của đồng bào các dân tộc và đồng bào có đạo, qua đó tăng cường sự đồng thuận giữa những người có tín ngưỡng, tôn giáo và những người không tín ngưỡng, tôn giáo, giữa những người có các tín ngưỡng, tôn giáo khác nhau; đồng thời, tích cực đấu tranh chống những biểu hiện, hành vi tà đạo, mê tín, dị đoan, lợi dụng tôn giáo làm phương hại đến lợi ích của Tổ quốc và nhân dân.
Nâng cao vị trí, vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể nhân dân trong việc thực hiện chính sách đại đoàn kết toàn dân tộc, công tác dân tộc, tôn giáo. Đa dạng hóa các hình thức tập hợp, động viên nhân dân đồng tâm, hiệp lực thực hiện thắng lợi chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước; tích cực nắm bắt, phản ánh kịp thời tâm tư, nguyện vọng của các tầng lớp nhân dân, bảo vệ quyền, lợi ích chính đáng của đoàn viên, hội viên; đồng thời làm tốt vai trò giám sát đối với các cơ quan nhà nước, cán bộ, công chức, góp phần xây dựng chính quyền các cấp trong sạch, vững mạnh.
Đẩy mạnh thực hiện các cuộc vận động, phong trào thi đua yêu nước, nhất là cuộc vận động “Toàn dân đoàn kết xây dựng nông thôn mới, đô thị văn minh” giai đoạn 2016-2020 do Mặt trận Tổ quốc Việt Nam phát động.
Trân trọng, tôn vinh những cống hiến, đóng góp của nhân dân, biểu dương kịp thời những tấm gương người tốt, việc tốt và nhân rộng các điển hình tiên tiến.
Có chính sách động viên, bồi dưỡng, hướng dẫn và phát huy vai trò của người có uy tín trong đồng bào dân tộc, chức sắc tôn giáo trong việc thực hiện chính sách vận động và có chính sách thu hút người Việt Nam ở nước ngoài hướng về Tổ quốc, xây dựng quê hương, đất nước giàu mạnh, giữ gìn bản sắc dân tộc, hình ảnh con người, đất nước Việt Nam; khen thưởng, động viên kịp thời những người có thành tích tiêu biểu, đồng thời chủ động phối hợp với các cơ quan chức năng nước sở tại có các biện pháp hữu hiệu bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của đồng bào.
Sức mạnh của Đảng chính là mối quan hệ gắn bó máu thịt giữa Đảng với nhân dân. Do vậy, mọi chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước phải hợp lòng dân, xuất phát từ lợi ích và nguyện vọng chính đánh của người dân, phải làm cho nhân dân hiểu, thấm nhuần, biến thành ý chí và hành động của toàn dân và đi vào cuộc sống.
Sứ mệnh của Đảng và cả hệ thống chính trị là phải không ngừng đổi mới phương thức lãnh đạo, nâng cao tầm trí tuệ, sức chiến đấu để tập hợp các tầng lớp nhân dân trong khối đại đoàn kết toàn dân tộc, tạo thành sức mạnh vững chắc trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
CAO HẢI YẾN. Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng đạo đức con người mới Việt Nam / Cao Hải Yến // Sách Tuyên truyền, giáo dục tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh góp phần xây dựng con người mới ở Việt Nam. - H.: Dân trí, 2018. - Tr. 158-165
Chủ tịch Hồ Chí Minh là một trong những nhà tư tưởng, lãnh tụ cách mạng bàn nhiều nhất đến vấn đề đạo đức. Tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh đã được thể hiện rất rõ nét trong những bài viết, bài nói ngắn gọn, được diễn đạt rất cô đọng, hàm súc theo phong cách riêng của Người. Bản thân Chủ tịch Hồ Chí Minh là người thực hiện trước nhất, đầy đủ nhất những tư tưởng đạo đức đó, nhiều hơn cả những điều mà Người đã nói, đã viết về đạo đức. Đó là điều nổi bật, đặc trưng và đặc sắc của tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh.
Nói về vai trò đạo đức, Chủ tịch Hồ Chí Minh nhấn mạnh: "Cũng như sông có nguồn thì mới có nước, không có nguồn thì sông cạn. Cây phải có gốc, không có gốc thì cây héo. Người cách mạng phải có đạo đức, không có đạo đức thì dù tài giỏi mấy cũng không lãnh đạo được nhân dân”.
Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, đạo đức gắn liền với năng lực, chính nhờ có đạo đức cách mạng mà mỗi người tự phấn đấu để hoàn thiện mình, chuẩn mực giá trị tạo nên năng lực để hoàn thành nhiệm vụ cách mạng vẻ vang. Vì vậy, đạo đức cách mạng là nền tảng vững chắc để mỗi người hoàn thành được nhiệm vụ của mình. Trước lúc đi xa, Người căn dặn Đảng ta: "Cần phải chăm lo giáo dục đạo đức cách mạng cho họ (thanh niên Việt Nam) để đào tạo họ thành những người kế thừa xây dựng chủ nghĩa xã hội vừa hồng vừa chuyên”. Xuất phát từ tư tưởng đạo đức cách mạng là cái gốc, nền tảng của người cách mạng, mà Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn luôn nhắc nhở, căn dặn cán bộ, đảng viên phải tự rèn luyện bản thân mình. Tư tưởng về đạo đức cách mạng của Người luôn nhất quán và xuyên suốt từ những ngày đầu hoạt động cách mạng cho đến lúc vĩnh biệt nhân dân ta. Kể từ những bài giảng đầu tiên được tập hợp lại cho tác phẩm của Người Đường Kách mệnh (năm 1927) cho đến tác phẩm Sửa đổi lối làm việc (năm 1947) rồi bản Di chúc (năm 1969) đã toát lên tư tưởng của Hồ Chí Minh về vị trí, tầm quan trọng đặc biệt của đạo đức cách mạng đối với cán bộ, đảng viên, thanh niên trong sự nghiệp cách mạng của dân tộc.
Đạo đức mà Chủ tịch Hồ Chí Minh đề xướng để thực hành và giáo dục nhân dân ta là nền đạo đức mới, đạo đức cách mạng, khác hẳn về bản chất với đạo đức cũ của giai cấp phong kiến. Đạo đức mới của Người xóa bỏ những chuẩn mực của đạo đức phong kiến trói buộc nhân dân lao động vào những lễ giáo khắt khe phục vụ chế độ đẳng cấp, bóc lột áp bức phong kiến. Đạo đức mới cũng đối lập với đạo đức cá nhân chủ nghĩa, ích kỷ, cực đoan của giai cấp tư sản, đạo đức của tiểu tư sản kìm hãm con người trong những lợi ích hẹp hòi, cục bộ. Nó cũng xa lạ với đạo đức của tôn giáo khép con người vào khuôn khổ chật hẹp, cam chịu, chấp nhận số phận để bản thân mong có được cuộc sống tốt đẹp ở thế giới bên kia sau khi qua đời.
Đạo đức mới mang bản chất của giai cấp công nhân, kết hợp với truyền thống đạo đức tốt đẹp của dân tộc và tinh hoa đạo đức của nhân loại.
Đạo đức mới, đạo đức cách mạng do Chủ tịch Hồ Chí Minh đề xướng không phải vì danh dự cá nhân mà vì lợi ích chung của Đảng, của dân tộc, của loài người.
Trong tác phẩm Đường Kách mệnh, tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh về đạo đức cách mạng, bao gồm những nội dung: "Cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư", "Cả quyết sửa lỗi mình", "Không hiếu danh, không kiêu ngạo", "Nói thì phải làm”, phải "Giữ chủ nghĩa cho vững”, phải "Dám hy sinh", "ít lòng tham muốn về vật chất, trung thực, phục tùng đoàn thể”. Trong Sửa đổi lối làm việc - một tác phẩm viết về đạo đức cách mạng của Người được thể hiện ở những mặt "Nhân, nghĩa, trí, dũng, liêm". Người luôn nhắc nhở: "Đạo đức cách mạng là bất kỳ ở cương vị nào, bất kỳ làm công việc gì, đều không sợ khó, không sợ khổ, đều một lòng, một dạ phục vụ lợi ích chung của giai cấp, của nhân dân, đều nhằm mục đích xây dựng chủ nghĩa xã hội”. Tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh nổi bật, bao gồm mấy điểm chính:
- Trung với nước, hiếu với dân. Đây là phẩm chất bao trùm và quan trọng nhất. Trọn đời trung thành với sự nghiệp cách mạng, với Tổ quốc, với Đảng, với nhân dân, với giai cấp. Người cán bộ là người đầy tớ của nhân dân chứ không phải là "quan nhân dân".
- Dũng cảm, không sợ khó khăn, gian khổ, dù trong hoàn cảnh nào cũng phải quyết tâm hoàn thành nhiệm vụ. Phải chiến thắng chủ nghĩa cá nhân ích kỷ, biết hy sinh lợi ích cá nhân để phục vụ lợi ích tập thể, đất nước, dân tộc và nhân loại, thật chí công vô tư.
- Khiêm tốn, không nên tự cho mình là tài giỏi, không khoe công, tự phụ, cần, kiệm, liêm, chính.
- Tinh thần đoàn kết, hữu nghị với các dân tộc bị áp bức, với nhân dân lao động các nước nhằm những mục tiêu lớn của thời đại là hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội. Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, hợp tác hữu nghị với tất cả các nước, các dân tộc.
Qua đó, chúng ta thấy rằng tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh thể hiện sự bao quát đầy đủ các mối quan hệ xã hội cơ bản của mỗi người. Nó cũng phản ánh con đường biện chứng của quá trình rèn luyện đạo đức cách mạng của mỗi người từ tình cảm đến nhận thức trách nhiệm và tiến lên xây dựng ý chí cách mạng để hành động cách mạng.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức cách mạng là động cơ cách mạng, là ý chí cách mạng, quyết tâm hành động để thực hiện tốt nhiệm vụ cách mạng. Người thường huấn thị rằng: "Đạo đức cách mạng thể hiện tinh thần tuyệt đối trung thành với cách mạng, với nhân dân, quyết tâm suốt đời đấu tranh cho Đảng, cho cách mạng. Đó là điều chủ chốt nhất”. Đối với chúng ta, đó là phẩm chất quan trọng nhất của nhân cách con người. Động cơ định hướng giá trị xã hội của đạo đức, nhân cách và sự tìm kiếm những hành động và hành vi cần thiết thực thi động cơ xã hội, là dấu hiệu cơ bản của đạo đức, nhân cách và sự tìm kiếm những hành động và hành vi cần thiết thực thi động cơ xã hội, là dấu hiệu cơ bản của đạo đức, nhân cách của con người mới. Tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức cách mạng phải được thể hiện qua hành động, ý chí, nhất là giá trị xã hội của hành động đó. Hành động đó phải đem lại lợi ích cho cách mạng, cho nhân dân.
Tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh ngày nay vẫn đáp ứng những yêu cầu, nhiệm vụ lớn lao của thời đại, soi sáng con đường phát triển của tương lai dân tộc và nhân loại tiến bộ. Đúng như đồng chí Phạm Văn Đồng khẳng định: "Trong thế giới ngày nay đang sôi sục cách mạng chống cái cũ, đòi cái mới. Hồ Chủ tịch là người tiêu biểu cho thời đại, tiêu biểu cho xu thế của thời đại và sức mạnh đưa thời đại tiến lên. Những người trên thế giới này, miễn là không phải bọn bóc lột, áp bức, bọn xâm lược và tay sai của chúng, thì mỗi người có thể thấy ở cuộc chiến đấu và cuộc sống của Hồ Chủ tịch điều mà mình hằng mong muốn, những giá trị tinh thần mà mình thiết tha, những mục tiêu mà mình khao khát muốn vươn tới".
Lịch sử nhân loại và dân tộc đã sản sinh ra nhiều vĩ nhân nổi tiếng, nhưng cũng hiếm có những vĩ nhân mà tác dụng đạo đức của họ lúc sinh thời cũng như khi qua đời lại có ảnh hưởng to lớn, sâu rộng, tỏa sáng đến mọi người như tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh.
Nhiều công trình nghiên cứu của người Việt Nam và người nước ngoài bàn rất nhiều về tác dụng tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh đối với sự nghiệp cách mạng của dân tộc Việt Nam và của nhân loại tiến bộ. Bớc sét, nhà báo Úc đã nói: "Sức thu hút của Người thể hiện ở chỗ: Đồng chí Hồ Chí Minh là một người đã cảm hóa tình cảm mọi người Việt Nam từ già đến trẻ... Hình ảnh anh hùng không nghĩ tới mình, trước sau như một của Người đã cổ vũ và trở thành tấm gương cho hàng chục vạn thanh niên Việt Nam thà chết không chịu làm nô lệ".
Inđira Găngđi (Ấn Độ) nhận xét về Người: "Đức độ lượng, tính giản dị, tình yêu nhân loại, sự tận tụy hy sinh của Người sẽ cổ vũ các thế hệ mai sau”.
Một nhà báo Anh đã viết: "Cụ Hồ Chí Minh xem khinh mọi vinh hoa và quyền cao chức trọng và cụ sống không phải trong Phủ Chủ tịch mà trong một căn nhà nhỏ bằng gỗ. Cụ mặc bộ quần áo ka ki bạc màu, đi dép bằng lốp ô tô cũ. Đây không phải là một hình ảnh nhằm phục vụ mục đích tuyên truyền hay chính trị. Cụ không phải con người như vậy”.
Ngày nay, cục diện thế giới đang có nhiều biến động sâu sắc. Nguy cơ chiến tranh xâm lược vẫn còn vì các thế lực thù địch đang trăm phương ngàn kế chống phá sự nghiệp cách mạng nước ta cũng như các nước khác. Đối với nước ta, nhiều tác động của điều kiện khách quan, chủ quan, bên cạnh những mặt tích cực, tốt đẹp do công cuộc đổi mới đem lại, còn nổi lên không ít những vấn đề làm chúng ta băn khoăn, lo lắng, đang phá hoại những giá trị đạo đức truyền thống dân tộc. Không hiếm những biểu hiện hư hỏng về đạo đức, lẽ sống trong một số người. Các tệ nạn xã hội tham nhũng, làm ăn phi pháp đang diễn ra phổ biến ở nhiều nơi. Chính vì vậy, vấn đề bồi dưỡng đạo đức cho con người mới Việt Nam đang là yêu cầu hết sức bức xúc, có tầm quan trọng lớn lao. Cần có nhiều hình thức, phương thức tổ chức giáo dục tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh một cách sâu rộng, thường xuyên trong toàn xã hội. Điều này sẽ góp phần quan trọng thực hiện mục tiêu chiến lược của Đảng đã đề ra trong Nghị quyết Đại hội VII: "Xây dựng một xã hội dân chủ, văn minh, vì lợi ích chân chính và phẩm giá con người" và thực hiện lời dạy của Bác Hồ: "Muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội phải có con người xã hội chủ nghĩa”.
TÔ BÁ TRƯỢNG. Tư tưởng “giáo dục cho mọi người” và “học tập suốt đời” của Chủ tịch Hồ Chí Minh / Tô Bá Trượng // Sách Tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề học tập. - TP. Hồ Chí Minh.: Thanh niên, 2017. - Tr. 119-125
Trả lời các nhà báo (1 -1946), Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói rằng: "Tôi chỉ có một ham muốn, ham muốn tột bậc là làm sao cho nước ta hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn, áo mặc, ai cũng được học hành". Sự ham muốn: "ai cũng được học hành" của Chủ tịch Hồ Chí Minh chính là tư tưởng "giáo dục cho mọi người" của Người.
Để thực hiện "giáo dục cho mọi người", chỉ 6 ngày sau khi đọc bản Tuyên ngôn Độc lập lịch sử, khai sinh nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, ngày 8 - 9 - 1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ban hành ba Sắc lệnh 17,19 và 20 về chống nạn thất học: "Đặt ra một bình dân học vụ trong toàn cõi Việt Nam sẽ thiết lập cho nông dân và thợ thuyền những lớp học buổi tối"; "Trong khi chờ đợi lập được nền tiểu học cưỡng bách, việc học chữ quốc ngữ từ nay bắt buộc và không mất tiền cho tất cả mọi người".
Để giải thích những điều quy định bắt buộc đó, tháng 10 - 1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh ra lời kêu gọi toàn dân chống nạn thất học: "Muốn giữ vững nền độc lập, muốn cho dân mạnh nước giàu, mọi người Việt Nam phải hiểu biết quyền lợi của mình, phải có kiến thức mới để có thể tham gia vào công cuộc xây dựng nước nhà và trước hết phải biết đọc, biết viết chữ quốc ngữ".
Với lời kêu gọi đó, Người muốn mọi người dân nước Việt phải được đi học và để mọi người đều có thể biết chữ. Người viết tiếp: "Những người đã biết chữ dạy cho người chưa biết chữ, hãy góp sức vào bình dân học vụ như anh chị em trong sáu bảy năm nay đã gây dựng phong trào truyền bá quốc ngữ giúp đồng bào thất học" và "người chưa biết chữ gắng mà học cho biết, vợ chưa biết chữ thì chồng bảo, em chưa biết chữ thì anh bảo, cha mẹ không biết chữ thì con bảo, người ăn người làm không biết chữ thì chủ bảo, các người giàu có thì mở lớp học ở tư gia dạy cho những người không biết chữ".
Với cương vị là Chủ tịch nước, Người phát động phong trào thi đua rộng khắp để quần chúng tham gia đi học bình dân học vụ, với những khẩu hiệu: Đi học bình dân học vụ là yêu nước; Đi dạy bình dân học vụ là yêu nước; Giúp đỡ bình dân học vụ là yêu nước; Mỗi gia đình là một lớp bình dân học vụ; Mỗi trại ấp là một lớp bình dân học vụ; Mỗi nhà máy là một lớp bình dân học vụ; Mỗi công, tư sở là một lớp bình dân học vụ...
Tuy bận trăm công ngàn việc, Người vẫn dành thời gian để đến thăm các lớp học bình dân học vụ, bổ túc văn hóa và các lớp chính trị, nghiệp vụ; vẫn dành thời gian để theo dõi phong trào và nhiều lần gửi thư động viên đồng bào cả nước thi đua dạy và học, thi đua góp công sức vào việc học tập.
Chỉ sau một năm, từ 8 - 9 - 1945 đến 8 - 9 - 1946, phong trào bình dân học vụ đã thu được những thành tích đáng kể, như đã tổ chức được 74.957 lớp học, có 95.665 giáo viên tham gia dạy học và thu hút được 2.520.678 người đi học. Trong thư gửi đồng bào nhân dịp 2 - 9 - 1947, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khen ngợi thành tích của bình dân học vụ như sau: "Trong hai năm, chúng ta đã dạy hơn bốn triệu đồng bào, nam, nữ biết đọc, biết viết và đã có nhiều làng xã toàn dân đều biết chữ. Đó là thành tích vẻ vang, nhất là trong lúc cái gì cũng thiếu thốn".
Thấm nhuần tư tưởng "giáo dục cho mọi người" của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Đảng và Nhà nước ta đã có nhiều chủ trương, chính sách tạo mọi điều kiện thuận lợi để "ai cũng được học hành", đặc biệt ngày 11 - 1 - 1979, Bộ Chính trị, Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam ra Nghị quyết về cải cách giáo dục, trong đó có đoạn viết: "Phấn đấu cho công nhân, nông dân và mọi người lao động ở tất cả các địa phương, thuộc tất cả các dân tộc, được hưởng đầy đủ quyền lợi học tập... bảo đảm cho nhân dân lao động có điều kiện thuận lợi để học tập kiến thức phổ thông và thường xuyên trau dồi nghiệp vụ". Đây là nghị quyết cực kỳ quan trọng. Nó xác định vị trí, vai trò và nhiệm vụ của toàn Đảng, toàn dân phải chăm lo đến việc giáo dục cho mọi người. Đó cũng là tiền đề, là cơ sở để đến năm 1990, nước ta ký vào bản tuyên bố chung chương trình "giáo dục cho mọi người" và cam kết với thế giới: tiến hành xây dựng chương trình hành động tích cực trong 10 năm (1990 - 2000) sẽ hoàn thành phổ cập giáo dục tiểu học cho trẻ em và xóa mù chữ cho người lớn. Tiếp tục với tư tưởng "giáo dục cho mọi người" của Chủ tịch Hồ Chí Minh, nghị quyết của Đảng trong các kỳ đại hội đều nhắc tới vấn đề đó, đặc biệt Nghị quyết Trung ương 2 (khóa VIII) đã nhấn mạnh: "Tạo điều kiện để ai cũng được học hành", "tạo cơ hội để mọi người có thể lựa chọn cách học phù hợp với nhu cầu và hoàn cảnh của mình. Với sự nỗ lực của toàn Đảng, toàn dân, tháng 12 - 2000, Chính phủ đã long trọng tuyên bố với thế giới, Việt Nam đã hoàn thành xóa mù chữ và phổ cập giáo dục tiểu học trong cả nước.
Với mục đích: "Phải làm cho dân tộc Việt Nam trở thành một dân tộc thông thái", Chủ tịch Hồ Chí Minh không những chỉ kêu gọi mọi người học tập, mà còn kêu gọi mọi người, cả cán bộ và nhân dân đều phải "học tập suốt đời". Người nói: "Học hành là vô cùng, học càng nhiều, biết càng nhiều càng tốt". Trong thư gửi nam nữ chiến sĩ bình dân học vụ nhân ngày Quốc khánh 2 - 9 - 1948, Người viết: "Vùng nào đã hết nạn mù chữ thì các bạn thi đua để tiến lên một bước nữa bằng cách dạy cho đồng bào:
1. Thưởng thức vệ sinh để dân bớt đau ốm.
2. Thường thức khoa học để bớt mê tín nhảm.
3. Bốn phép tính để làm ăn có ngăn nắp.
4. Lịch sử và địa dư nước ta (vắn tắt bằng thơ hoặc ca) để nâng cao lòng yêu nước.
5. Đạo đức công dân để thành người công dân đúng đắn.
Các bạn hãy làm cho được chừng ấy đã, sau chúng ta sẽ tiến lên bước cao hơn".
Đó là tư tưởng "học suốt đời" của Chủ tịch Hồ Chí Minh đối với những người mới biết chữ, những người lao động cần phải học thường xuyên, học những cái cần thiết cho cuộc sống hiện tại để họ có thể sống tốt hơn. Còn đối với cán bộ chủ chốt, cán bộ lãnh đạo, Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng luôn khuyên răn phải học thường xuyên, học tập suốt đời. Khi Người đến dự khai mạc lớp nghiên cứu chính trị ở Trường Đại học Nhân dân, ngày 21 - 7 - 1956, Người nói: "Học hỏi là một việc phải tiếp tục suốt đời... Không ai có thể tự cho mình là đã biết đủ rồi, biết hết rồi. Thế giới ngày ngày đổi mới, nhân dân ta ngày càng tiến bộ, cho nên chúng ta phải tiếp tục học và hành để tiến kịp nhân dân" hoặc "Chúng ta phải học và hoạt động suốt đời. Còn sống thì còn phải học, còn phải hoạt động cách mạng".
Chủ tịch Hồ Chí Minh còn nêu tấm gương sáng cho mọi người Việt Nam về tư tưởng "học tập suốt đời". Tại Đại hội Quốc tế Cộng sản lần thứ VII (năm 1935), trong lý lịch với bí danh là Lin, trả lời các câu hỏi về trình độ văn hóa (đại học, trung học, tiểu học), Người ghi: "tự học"; tiếp theo là câu hỏi: "Đồng chí biết ngoại ngữ gì?", trả lời: "Anh, Pháp, Trung Quốc, Đức, Ý, Nga". Khi bắt đầu đi tìm đường cứu nước, trình độ học vấn mà Người được đào tạo ở nhà trường chẳng được là bao. Thế mà chỉ bằng việc tự học, tự học suốt đời, học ở nhà trường, học sách vở, học lẫn nhau và học nhân dân... mà Người đã trở thành một Danh nhân văn hóa thế giới.
Tiếp thu những tư tưởng vĩ đại của Người, những năm gần đây, Đảng và Nhà nước ta đã luôn chú trọng đến việc giáo dục, nâng cao nhận thức cho toàn Đảng, toàn dân là phải thực hiện một nền giáo dục cho mọi người, học tập thường xuyên, học tập suốt đời như Nghị quyết Trung ương 4 (khóa VII) đã chỉ ra: "Cần phải thực hiện một nền giáo dục thường xuyên cho mọi người, xác định học tập suốt đời là quyền lợi và trách nhiệm của mỗi công dân". Trong điều kiện hiện nay, xu thế toàn cầu hóa trên tất cả các lĩnh vực, nền kinh tế tri thức đã và đang hình thành trên các quốc gia, thời kỳ mà nền "văn minh tin học" đã dần thay thế các nền văn minh trước nó, thì việc xây dựng một xã hội học tập, học tập thường xuyên, học tập suốt đời là một xu thế tất yếu của sự phát triển xã hội loài người. Đó chính là điều mà Bác Hồ kính yêu của chúng ta đã dự báo từ hơn nửa thế kỷ qua. Tư tưởng "giáo dục cho mọi người" và "học tập suốt đời" của Chủ tịch Hồ Chí Minh vừa mang tính khoa học, tính thời đại, hơn nữa còn thể hiện tính nhân văn rất sâu sắc.
Nâng cao ý thức tự phê bình và phê bình về đạo đức, lối sống của mỗi cán bộ, đảng viên / Quang Lân tuyển chọn// Sách 9 năm thực hiện chỉ thị 03-CT/TW - 3 năm thực hiện chỉ thị 05-CT/TW của Bộ Chính trị - Học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh và một số bài dự thi đoạt giải. - H.: Dân trí, 2019. - Tr. 237-241
Với mỗi đảng viên và tổ chức đảng, tự phê bình và phê bình là một trong những nguyên tắc cơ bản trong sinh hoạt đảng, là nội dung quan trọng của công tác xây dựng đảng. Gắn liền với quá trình trưởng thành và phát triển của Đảng ta, tự phê bình và phê bình là một nội dung phản ánh tính chất và trình độ dân chủ trong Đảng, đồng thời là yếu tố quan trọng góp phần duy trì đoàn kết thống nhất, phát huy cao độ khả năng lãnh đạo của Đảng trong thực hiện sứ mệnh lịch sử giao phó. Trong công tác xây dựng đảng, việc tổ chức thực hiện tốt tự phê bình và phê bình được coi là biện pháp hiệu quả và khoa học, góp phần củng cố, tăng cường bản chất giai cấp công nhân của Đảng, giữ gìn mối quan hệ máu thịt giữa Đảng với nhân dân; là biện pháp thiết thực nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của từng tổ chức đảng.
Thông qua tự phê bình và phê bình, bản chất tiền phong giai cấp công nhân của Đảng luôn được giữ vững và không ngừng phát triển, trình độ giác ngộ của đội ngũ cán bộ, đảng viên không ngừng được nâng cao, phát huy tốt vai trò trách nhiệm và khả năng trong mọi lĩnh vực hoạt động.
Thực tiễn công tác xây dựng đảng cũng cho thấy, ở đâu tự phê bình và phê bình yếu hoặc không được thực hiện nghiêm túc thì ở đó năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của tổ chức đảng bị suy giảm, chất lượng công tác của cán bộ, đảng viên thấp, các biểu hiện tiêu cực không được đấu tranh khắc phục kịp thời và có hiệu quả. Đặc biệt là trong những năm gần đây, trước những diễn biến chính trị phức tạp trên thế giới và tác động tiêu cực của nền kinh tế thị trường kéo theo sự du nhập của văn hóa lối sống nước ngoài, các hiện tượng tham nhũng, tiêu cực trong hệ thống chính trị, sự chống phá của kẻ thù cùng với sự phát triển của chủ nghĩa cá nhân v.v. đã làm suy giảm đáng kể sức chiến đấu của nhiều tổ chức đảng cơ sở; nhiều cán bộ, đảng viên bị biến chất, bị tha hóa trước những cám dỗ vật chất, đánh mất lòng tin của quần chúng, làm mất sợi dây liên hệ mật thiết, máu thịt giữa Đảng với nhân dân.
Chủ tịch Hồ Chí Minh từng khẳng định: Chi bộ tốt là nhờ có đảng viên tốt. Nghĩa là, khả năng lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ chức đảng cơ sở phụ thuộc vào yếu tố con người, hay nói cách khác, phụ thuộc vào chất lượng của đảng viên do tổ chức đảng cơ sở quản lý. Trong tình hình hiện nay, nhiệm vụ quan trọng của tự phê bình và phê bình phải được tập trung vào đạo đức, lối sống của cán bộ, đảng viên, làm rõ các mối quan hệ trong đời sống và hoạt động của cán bộ, đảng viên. Bởi vì, giống như mọi thành viên trong xã hội, đội ngũ cán bộ, đảng viên ngày nay đang chịu sự tác động, chi phối của nhiều yếu tố, không chỉ là những tác động tiêu cực từ đời sống xã hội mang đến mà còn bởi sự xuất hiện của những vấn đề mới khiến nhận thức, tư tưởng và hành động của nhiều cán bộ, đảng viên không theo kịp; hoặc không dễ nhận thấy trong quá trình sàng lọc, tiếp nhận và trở nên thụ động trước các hiện tượng tiêu cực.
Hiện nay, chúng ta cũng thừa nhận rằng đạo đức, lối sống của không ít cán bộ, đảng viên bị suy thoái nghiêm trọng với các biểu hiện như: tôn sùng chủ nghĩa cá nhân, sống thực dụng, cục bộ, ích kỷ, vụ lợi; tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí, bòn rút của công, làm giàu bất chính ngày càng nghiêm trọng; lối sống xa hoa, hưởng lạc, kèn cựa địa vị, mất đoàn kết, thiếu trung thực, móc ngoặc, chạy chức, chạy quyền diễn ra phức tạp, tinh vi; nhất là trong một bộ phận cán bộ có chức, có quyền... Tất thảy đều trái với đạo đức, lối sống của người cộng sản. Những cán bộ, đảng viên biến chất đó đã và đang làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến thanh danh và uy tín của Đảng, phá hoại bản chất của Đảng, làm giảm lòng tin của quần chúng nhân dân đối với Đảng, hạ thấp vai trò lãnh đạo của Đảng.
Trước tình trạng đó, hơn lúc nào hết cần phải huy động sức mạnh tổng hợp của toàn Đảng, toàn dân, của cả hệ thống chính trị với những nội dung, biện pháp toàn diện và đồng bộ, trong đó tự phê bình và phê bình là biện pháp cơ bản, có ý nghĩa quyết định đối với công tác xây dựng đảng trong tình hình hiện nay. Đấu tranh tự phê bình và phê bình phải được tiến hành một cách kiên quyết, thường xuyên, liên tục trong mọi hình thức sinh hoạt và hoạt động của Đảng cũng như của cán bộ, đảng viên.
Để phát huy hiệu quả tự phê bình và phê bình cần phải thực hiện tốt dân chủ trong Đảng và trong bộ máy nhà nước. Hiện nay, việc thực hiện tự phê bình và phê bình đang chịu những ảnh hưởng và sức ép tiêu cực của tình trạng mất dân chủ. Ở nhiều nơi và trong nhiều tổ chức đảng cơ sở, tình trạng tập trung quan liêu, gia trưởng, dân chủ hình thức và dân chủ cực đoan đang tồn tại khá phổ biến và dù nhận thức theo góc độ nào thì về thực chất nguyên tắc tập trung dân chủ trong sinh hoạt đảng đang bị vi phạm một cách nghiêm trọng. Hậu quả là, khi nguyên tắc tập trung dân chủ đã không được phát huy đầy đủ thì việc tổ chức tự phê bình và phê bình gặp nhiều khó khăn, không đem lại hiệu quả đích thực.
Cần phải nhấn mạnh thêm rằng, hiện nay, các hiện tượng hữu khuynh, né tránh, kém tính chiến đấu trong không ít cán bộ, đảng viên và tổ chức đảng là một cản trở không nhỏ đến việc tiến hành tự phê bình và phê bình. Suy cho cùng, đó cũng là một biến tướng của chủ nghĩa cá nhân và tư tưởng cơ hội và ở một khía cạnh khác, nó còn là hậu quả của hiện tượng độc đoán, chuyên quyền, định kiến, trù dập người phê bình của một số cán bộ có chức, có quyền. Do đó, tự phê bình và phê bình nếu tiến hành trong những tổ chức có nhiều người hữu khuynh, né tránh, thiếu quyết tâm và dũng khí của người cộng sản thì không thể đem lại hiệu quả mong muốn.
Trong mỗi tổ chức đảng, thực hiện tự phê bình và phê bình về đạo đức, lối sống không chỉ đòi hỏi phải kiên quyết mà còn phải thận trọng và khéo léo. Bởi vì mỗi nội dung, biện pháp tự phê bình và phê bình đều liên quan trực tiếp đến phẩm chất, đạo đức, uy tín chính trị, đời sống vật chất, tinh thần của cán bộ, đảng viên và tổ chức đảng. Phê bình và tự phê bình phải tạo điều kiện để cán bộ, đảng viên thấy được khuyết điểm, xây dựng động cơ phấn đấu tiến bộ. Khi tổ chức phê bình và tự phê bình phải thận trọng, quán triệt rõ mục tiêu, yêu cầu, không nên để tự phê bình và phê bình trở thành cơ hội cho những người có động cơ cá nhân lợi dụng vu cáo, đả kích, hạ bệ người khác, gây mất đoàn kết nội bộ. Đặc biệt là trong thời gian tới, việc tiếp tục đẩy mạnh triển khai thực hiện các chủ trương của Đảng, Nhà nước về chống tham nhũng, công khai hóa và thực hiện đúng các chế độ, chính sách đối với cán bộ; thực hiện quy định những việc đảng viên không được làm,... Đây cũng là một đợt sinh hoạt chính trị sâu rộng nhằm giữ vững đạo đức, lối sống tốt đẹp của cán bộ, đảng viên. Nếu không được chuẩn bị tốt, thì tự phê bình và phê bình không những không đạt được kết quả mà còn làm giảm hiệu quả việc thực hiện các chủ trương đúng đắn đó, thậm chí còn gây nên những khó khăn mới cho quá trình thực hiện.
Với ý nghĩa ấy, trong thời gian tới, để thực hiện tốt tự phê bình và phê bình trong Đảng, trọng tâm là vấn đề đạo đức, lối sống của cán bộ đảng viên, theo chúng tôi cần thực hiện tốt một số biện pháp sau:
Một là, tăng cường hơn nữa công tác giáo dục chính trị tư tưởng, làm cho mọi cán bộ, đảng viên có nhận thức đúng và đầy đủ về ý nghĩa, nội dung, phương pháp của tự phê bình và phê bình; thấy rõ những thuận lợi và khó khăn phức tạp đang đặt ra, đặc biệt là xu hướng phát triển ngày càng tinh vi của các hiện tượng tiêu cực cũng như số lượng cán bộ, đảng viên vi phạm. Công tác tuyên truyền và tổ chức thực hiện phải bám sát những chủ trương, giải pháp nêu trong Nghị quyết Trung ương 6 (lần 2) khóa VIII, từ đó đề cao trách nhiệm, xác định các nội dung, biện pháp tiến hành tự phê bình và phê bình sát với thực trạng đạo đức, lối sống của cán bộ, đảng viên ở từng đảng bộ. Mỗi nội dung tự phê bình và phê bình xung quanh vấn đề đạo đức, lối sống, một mặt phải gắn với công việc, con người và tổ chức cụ thể, đặt trong điều kiện, hoàn cảnh, không gian cụ thể, xác định rõ trách nhiệm của tập thể và cá nhân trong từng nội dung tiến hành. Mặt khác phải tìm rõ nguyên nhân, bảo đảm tính khách quan, làm cơ sở để xem xét, xử lý chính xác từng trường hợp sai trái nhằm từng bước loại bỏ những nhận thức tư tưởng không đúng, những hiện tượng tiêu cực trong bộ máy của Đảng và Nhà nước.
Hai là, từng tổ chức đảng phải duy trì tốt chế độ tự phê bình và phê bình, chuẩn bị tốt cả nội dung và phương pháp; xác định thời gian, nội dung cụ thể, góp phần thực hiện thắng lợi mục tiêu của Cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh" về xây dựng, chỉnh đốn Đảng. Trong triển khai thực hiện cần tuyệt đối giữ vững nguyên tắc sinh hoạt đảng, nhưng đồng thời tạo mọi điều kiện để cán bộ, đảng viên tự phê bình và phê bình, từ đó tập hợp, xem xét, thảo luận và biểu quyết một cách chính xác.
Ba là, kết hợp chặt chẽ tự phê bình và phê bình trong nội bộ đảng với động viên quần chúng tham gia phê bình đảng viên, tổ chức đảng. Đây là nội dung, biện pháp rất quan trọng không những phản ánh trực tiếp mối liên hệ giữa Đảng với quần chúng, kiểm nghiệm uy tín của Đảng và của cán bộ, đảng viên mà còn chi phối trực tiếp đến giá trị và hiệu quả của tự phê bình và phê bình trong Đảng trong tình hình hiện nay. Việc tổ chức cho quần chúng tham gia ý kiến phê bình đối với các tổ chức đảng và cán bộ, đảng viên phải chặt chẽ, đúng nguyên tắc, có mục đích, nội dung rõ ràng, tạo điều kiện để quần chúng góp ý kiến một cách tự nhiên, thoải mái, thực sự dân chủ với ý thức xây dựng cao, phản ánh đúng và chân thực những gì quần chúng quan sát được cả mặt tốt và mặt chưa tốt của cán bộ, đảng viên, nhất là về đạo đức, lối sống. Các tổ chức đảng và chính quyền cơ sở phải tiếp thu các ý kiến đóng góp của quần chúng một cách chân thành, cầu thị và giải đáp thấu đáo những vấn đề quần chúng yêu cầu. Trong từng trường hợp cụ thể cần kết hợp ý kiến phê bình của quần chúng với ý kiến phê bình, tự phê bình trong nội bộ tổ chức đảng để xem xét và kết luận, bảo đảm tính chính xác và khách quan.
Bốn là, phải gắn tự phê bình và phê bình với công tác kiểm tra, thanh tra và xử lý kỷ luật. Cán bộ cấp trên, cán bộ chủ trì, cấp ủy viên các cấp phải thực sự gương mẫu trong tự phê bình và phê bình. Cùng với xử lý kỷ luật phải có nội dung, biện pháp giúp đỡ cán bộ, đảng viên vi phạm khuyết điểm phấn đấu sửa chữa và tiến bộ.
Trong tự phê bình và phê bình phải chống cách làm qua loa đại khái, hình thức, chiếu lệ, phê bình xong rồi lại đâu vào đấy. Đặc biệt, phải chú ý khắc phục hiện tượng hữu khuynh, né tránh, kém tính chiến đấu, che giấu khuyết điểm hoặc bao che, chạy tội. Nghiêm cấm hiện tượng trấn áp, trù dập, vô hiệu hóa người phê bình hay phân biệt đối xử, định kiến với người có ý kiến thuộc về thiểu số. Phát hiện kịp thời và xử lý nghiêm khắc những hiện tượng lợi dụng phê bình để vu cáo, đả kích cá nhân, gây nghi ngờ và mất đoàn kết nội bộ.
BÙI KIM HỒNG. Thấm nhuần những lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh về chống “giặc nội xâm” để xây dựng con người Việt Nam trong thời kỳ đổi mới / Bùi Kim Hồng // Sách Tuyên truyền, giáo dục tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh góp phần xây dựng con người mới ở Việt Nam. - H.: Dân trí, 2018. - Tr. 75-82
Trong thế kỷ XX, nhân loại có nhiều vĩ nhân. Nhưng với Hồ Chí Minh, nhân loại đánh giá cao và ngày càng được khẳng định. Bởi lẽ:
1. Hồ Chí Minh là một trong những người khởi xướng phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc trên thế giới trong thế kỷ XX. Và chính Người đã lãnh đạo thành công cuộc cách mạng đó.
2. Hồ Chí Minh là người tiêu biểu cho phong trào đấu tranh vì hòa bình và giàu lòng nhân ái.
3. Hồ Chí Minh là người góp phần chi phối sự phát triển của thế kỷ XX.
Từ đó, tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa Liên hợp quốc (UNESCO) đã ra Nghị quyết ghi nhận rằng "Chủ tịch Hồ Chí Minh, vị anh hùng giải phóng dân tộc Việt Nam và là một nhà văn hóa xuất sắc".
Đảng ta, từ Đại hội VI đã đặt ra vấn đề lấy chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng và kim chỉ nam cho hành động. Đến Đại hội lần thứ VII, với hơn 90% ý kiến tán thành, Đảng ta đã đưa vào Cương lĩnh và Điều lệ sửa đổi của Đảng: Lấy chủ nghĩa Mác - Lênin làm nền tảng và kim chỉ nam cho hành động. Đảng đã giáo dục cho toàn dân ta không ngừng học tập tư tưởng, đạo đức và phong cách Hồ Chí Minh. Nhiều văn kiện của Đảng, nhiều bài nói và viết của các đồng chí lãnh đạo Đảng và Nhà nước, của các nhà lý luận đề cập khá sâu sắc những vấn đề kế thừa những di sản quý báu của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Trong bài viết hạn hẹp này, tôi chỉ muốn nêu một vài suy nghĩ về những lời dạy của Người về việc chống thứ "giặc nội xâm", đặng góp phần tìm hiểu, học tập, rèn luyện và phấn đấu theo phong cách Hồ Chí Minh.
Nói đến "giặc nội xâm" tức là nói đến thứ "giặc ở trong lòng”. Nó nguy hiểm không kém gì "giặc ngoại xâm". Nhiệm vụ chống "giặc nội xâm” có thể so sánh với nhiệm vụ chống "giặc ngoại xâm”.
Chủ tịch Hồ Chí Minh nói: "Nếu chiến sỹ và nhân dân ra sức chống giặc ngoại xâm mà quên chống giặc nội xâm, như thế là chưa làm tròn nhiệm vụ của mình”. Người chỉ rõ, giặc nội xâm là nạn tham ô, lãng phí và bệnh quan liêu. Khái quát hơn, trầm trọng hơn, nó là chủ nghĩa cá nhân.
Tư duy và hành động của chủ nghĩa cá nhân bao giờ cũng là mình đúng, mình hơn, cho mình và vì mình. Nó là cấp số cộng của các "vi rút" tham lam, kiêu ngạo, hiếu danh, óc hẹp hòi, óc địa phương, kéo bè kéo cánh... Nó là hệ quả, là cấp số nhân của sự mất dân chủ, coi thường quần chúng.
Các chứng bệnh tham ô, lãng phí và quan liêu, như Chủ tịch Hồ Chí Minh nói là chưa học được, chưa làm được bốn chữ "chí, công, vô, tư”. Những con người đó bao giờ cũng đặt lợi ích của mình lên trên lợi ích của Đảng, của dân tộc. "Tự tư tự lợi", dùng của công làm việc tư, dựa vào thế lực của Đảng để theo đuổi mục đích riêng của mình. Hành động đó đã làm ung thư và băng hoại đạo đức cách mạng cần, kiệm, liêm, chính.
Trải qua hai cuộc kháng chiến chống Pháp và Mỹ, toàn Đảng, toàn quân và toàn dân ta tập trung hết thảy tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để giành cho kỳ được độc lập dân tộc. Trong gian khổ và khó khăn, khi mục tiêu "Tổ quốc là trên hết”, thì không còn chỗ cho tư tưởng cơ hội, cá nhân chủ nghĩa len lỏi trong đời sống của con người. Tư tưởng cá nhân chủ nghĩa bị nhấn chìm trong chân lý "không có gì quý hơn độc lập tự do" và bị xua tan trong tinh thần "Thà hy sinh tất cả chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ".
Ngày nay, khi cuộc chiến tranh đã lùi xa hàng mấy chục năm, "giặc ngoại xâm" bị đánh bại hoàn toàn thì "giặc nội xâm” lại có cơ hội trỗi dậy. Bên cạnh những cán bộ vẫn cố gắng giữ gìn phẩm chất của mình thì cũng không ít người: chủ nghĩa cá nhân đã lại sinh sôi, phát triển. Những căn bệnh tham ô, lãng phí và quan liêu đã đến mức trầm trọng. Nó dẫn đến không có gì nguy hại hơn của căn bệnh này là dân mất lòng tin. Khi dân mất lòng tin là mất tất cả - là mất gốc của một quốc gia.
Ngày xưa, tham nhũng ta chỉ khái niệm với nhau ở tiền, ở bạc. Bây giờ, tham nhũng biểu hiện muôn hình vạn trạng. Bằng tiền bằng bạc vẫn là chủ đạo. Nhưng, tệ hại nhất là tham nhũng về quyền lực. Bởi những người theo chủ nghĩa cá nhân hiểu rằng: có quyền là có tất cả.
Hậu quả tệ hại hơn, thẩm thấu lâu dài hơn cho tổ chức và con người là tham nhũng quyền lực trong việc đề bạt, sắp xếp bố trí cán bộ cùng phe cánh với mình để có hẩu với mình để vụ lợi cá nhân: "Ai hẩu với mình thì dù nói không đúng cũng nghe, tài không có cũng dùng. Ai không hẩu với mình thì dù có tài cũng dìm họ xuống, họ phải mấy cũng không nghe”.
Hẩu ở đây không phải chỉ là hẩu tiền hẩu bạc, mà nó còn ẩn chứa cả thói xấu nịnh nọt, bự đỡ, không cần đến nhân cách để chà đạp lên người khác. Nó làm cho người có quyền lực không nhận được đâu là "thuốc đắng giã tật" và đâu là "mật ngọt chết ruồi”.
Có hai khuynh hướng hình thành trong con người chỉ biết dựa vào quyền lực: Một là, sợ người khác hơn mình từ đó tìm cách khống chế, o ép rồi thao túng. Hai là, tự cho mình là hơn tất cả, dẫn đến lộng quyền, bất chấp tổ chức, phi lãnh đạo tập trung, phi dân chủ.
Những việc làm trên đây đều nói lên sự thiếu tu dưỡng đạo đức, lý tưởng của cán bộ. Hậu quả là sai phạm trong công việc và suy thoái về đạo đức, về phẩm chất trong cuộc sống.
V.I. Lênin nói đại ý: Cái chết về đạo đức nhất định dẫn đến cái chết về chính trị.
Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: "Đó là một khuyết điểm rất có hại. Nó làm cho đoàn thể mất cán bộ, kém nhất trí, thường hỏng việc. Đó là một chứng bệnh rất nguy hiểm". Người luôn nhắc nhở cán bộ, đảng viên phải là những người "tiên thiên hạ chi ưu, hậu thiên hạ chi lạc”. Thử hỏi cán bộ, đảng viên ta ngày nay đã làm theo lời Bác dạy được bao nhiêu?! Trong biến đổi của cơ chế thị trường, hàng vạn người mất việc, lâm vào cảnh thiếu ăn, khốn khó, nhưng không ít những ông, những bà Tổng Giám đốc, Giám đốc làm nhà to, mua sắm những phương tiện tiêu dùng sang trọng, đắt tiền. Không ít những ông, bà có trụ sở ở tỉnh xa nhưng đã có nhà, có đất ở các thành phố lớn. Họ đã chuẩn bị đầy đủ cho kế hoạch "Hậu Giám đốc”.
Trong cảnh thiên tai khắc nghiệt, mùa màng thất bát, nông dân còn tới xấp xỉ 20% đói nghèo, có người còn đứt bữa, nhưng hỏi có mấy cán bộ lãnh đạo địa phương bớt đi những chi dùng mang tính đặc quyền, đặc lợi, không đúng chế độ hoặc bớt đãi đằng, tiếp khách bằng công quỹ, hay không nhận biếu xén trong dịp lễ, tết... để góp phần cứu trợ cho dân.
Những việc như vậy kể cả ngày không hết, hóa ra vì hoán vị chỉ hai từ trong lời dạy của Bác Hồ "Hậu thiên hạ chi ưu. Tiên thiên hạ chi lạc" mà chúng ta đã đánh mất chữ tín với dân.
Ông cha ta đã dạy "Thượng bất chính, hạ tắc loạn”. Thử hỏi những điều nói trên đối với những cán bộ, đảng viên có chức có quyền có mấy ai đã dám nói là mình không hề mảy may vi phạm? Có mấy ai cho rằng mình hoàn toàn công tâm, liêm, chính? Tôi chắc là không nhiều.
Vậy để tẩy sạch nạn tham ô, lãng phí và bệnh quan liêu, để không trở thành là kẻ thù của nhân dân như Bác Hồ căn dặn thì mỗi cán bộ, đảng viên trước hết phải tự làm trong sạch mình. Người xưa đã dạy, quân tử phải "tu thân, tề gia" để rồi "trị quốc, bình thiên hạ". Ngày nay, cán bộ đảng viên dù ở cương vị công tác nào, nếu thiếu tự tu dưỡng là tự đánh mất mình, là tự thoái hóa. Nếu không tự tu dưỡng thì chức càng cao, quyền càng lớn bao nhiêu thì càng gây ra hậu quả nghiêm trọng bấy nhiêu.
Mỗi cán bộ, đảng viên, nhất là những người có chức quyền phải tự biết hy sinh lợi ích cá nhân, phải gương mẫu và thực hiện lời nói đi đôi với việc làm. Nếu chúng ta thực sự vì sự nghiệp của dân, do dân và vì dân mà tự giác từ bỏ những thói hư tật xấu, thì chắc chắn hiện tượng tiêu cực sẽ không còn đất trú ngụ và phát triển.
Mỗi chứng bệnh là một kẻ địch. Chủ tịch Hồ Chí Minh nói: "Mỗi kẻ địch bên trong là bạn đồng minh của kẻ địch bên ngoài. Địch bên ngoài không đáng sợ. Địch bên trong đáng sợ hơn, vì nó phá hoại từ trong phá ra. Vì vậy ta phải ra sức đề phòng những kẻ địch đó, phải chữa hết những chứng bệnh đó”.
Muốn đề phòng và chữa trị nó, mỗi người chúng ta phải tự phê bình và phê bình ráo riết, triệt để. Nếu không tự phê bình, không kiên quyết sửa chữa khuyết điểm thì chẳng khác nào ta giấu bệnh tật, không dám uống thuốc, để bệnh ngày càng nặng, nguy đến tính mạng.
Đó là hành động thiết thực để thực hiện Nghị quyết Hội nghị Ban chấp hành Trung ương 6 (lần 2) về công tác xây dựng và chỉnh đốn Đảng.
Làm được như vậy cũng chính là thấm nhuần lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh: "Mỗi cán bộ, đảng viên, mỗi ngày phải tự kiểm điểm, tự phê bình, tự sửa chữa như mỗi ngày phải rửa mặt. Được như thế thì trong Đảng sẽ không có bệnh mà Đảng sẽ mạnh khỏe vô cùng”.
Bác Hồ với chống tham ô, tham nhũng, lãng phí, quan liêu / Quang Lân tuyển chọn // Sách 9 năm thực hiện chỉ thị 03-CT/TW - 3 năm thực hiện chỉ thị 05-CT/TW của Bộ Chính trị - Học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh và một số bài dự thi đoạt giải. - H.: Dân trí, 2019. - Tr. 195-197
Đấu tranh phòng chống tham ô, tham nhũng, lãng phí và quan liêu, là một nhiệm vụ quan trọng, to lớn và cấp bách hiện nay, bởi đây là nguy cơ, ảnh hưởng trực tiếp tới sự lãnh đạo của Đảng và sự ổn định, phát triển của đất nước.
Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn quan tâm tới nhiệm vụ này. Người cho đây là “kẻ thù nguy hiểm”, “là bạn đồng minh của thực dân và phong kiến”, nó làm hỏng tinh thần và phá hoại đạo đức cách mạng của người cán bộ, đảng viên.
Bởi vậy, Bác Hồ đã có nhiều bài nói, bài viết đề cập trực tiếp tới nhiệm vụ đấu tranh phòng chống tham ô, tham nhũng, lãng phí và quan liêu. Người thường xuyên nhắc nhở, giáo dục cán bộ, đảng viên và nhân dân ta rèn luyện đạo đức cách mạng, thực hành cần, kiệm, liêm, chính, chí công, vô tư. Người là hình ảnh tiêu biểu của đạo đức cách mạng, là tấm gương trong sáng về đấu tranh phòng chống tham nhũng, lãng phí và quan liêu mà mỗi người, từng tổ chức của cả hệ thống chính trị phải thường xuyên rèn luyện, học tập và noi theo.
Nhớ lại, sau khi Cách mạng tháng Tám 1945 thành công, Hồ Chí Minh đã sớm cảnh báo nguy cơ tham nhũng, lãng phí, quan liêu trong bộ máy và đội ngũ cán bộ. Người chỉ rõ nạn tham ô, tham nhũng, lãng phí và quan liêu, là một thứ “giặc nội xâm” rất nguy hiểm. Bởi vậy, ngay sau khi tuyên bố độc lập một ngày (ngày 3/9/1945) Người đã đề ra 6 nhiệm vụ cấp bách cần làm ngay, trong đó có nhiệm vụ “giáo dục lại tinh thần nhân dân bằng cách thực hiện cần, kiệm, liêm, chính”.
Tiếp đó, tại phiên họp Hội đồng Chính phủ tháng 7/1952, trong bài phát biểu Người nhấn mạnh: Bệnh quan liêu, nạn tham ô, lãng phí nguồn gốc trong xã hội cũ mà ra. Chúng ta không lấy làm lạ, nhưng mấy năm sau cách mạng mà tham ô, lãng phí còn khá phổ biến trong cán bộ ta là vì giáo dục thiếu sót. Chúng ta phải sửa chữa một cách có kế hoạch, có chuẩn bị.
Người từng chỉ rõ: Để kháng chiến thắng lợi, để xây dựng nhà nước, chiến sĩ thì hy sinh xương máu, đồng bào thì hy sinh mồ hôi, nước mắt để đóng góp. Những kẻ tham ô, lãng phí và quan liêu thì phá hoại tinh thần, phí phạm sức lực, tiêu hao của cải của Chính phủ và của nhân dân. Tội lỗi ấy cũng nặng như tội lỗi Việt gian, mật thám.
Vì vậy, theo Người chống tham ô, lãng phí và bệnh quan liêu cũng quan trọng và cần kíp như đánh giặc trên mặt trận. Đây là mặt trận tư tưởng và chính trị.
Nhớ lại trong thời kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp, giám đốc nhà quân nhu - đại tá Trần Dụ Châu phạm tội tham ô, lợi dụng chức quyền biển thủ 57.950 đồng bạc Việt Nam, 449 USD, 28 tấn lụa vải xanh, nhận 20 vạn đồng tiền hối lộ của người dưới quyền, sống xa hoa, trụy lạc, kéo bè phái, gây chia rẽ nội bộ, vụ lợi riêng, nên ngày 5/9/1950 đã bị tòa án binh tối cao tuyên phạt mức án tử hình. Điều đó cho thấy sự nghiêm minh và quyết tâm của Đảng, Chính phủ, Bác Hồ trong việc đấu tranh chống tham ô, tham nhũng, lãng phí. Sau vụ Trần Dụ Châu, tại phiên họp Hội đồng Chính phủ từ ngày 15 đến 17 tháng 11 năm 1950, Bác Hồ trong bài phát biểu kết luận đã căn dặn: Lúc tìm người phải tìm cả tài, cả đức, chú trọng tư tưởng. Nếu cán bộ biết thương dân, tiếc của dân thì không xảy ra việc đáng tiếc. Đồng thời phải giáo dục, cải tạo, kiểm tra cán bộ.
Cũng trong thời gian này, Bác Hồ còn có nhiều bài viết căn dặn, giáo dục cán bộ, đảng viên, nhân dân ta thực hành tiết kiệm, chống tham ô, lãng phí, quan liêu. Đồng thời Người nghiêm khắc phê phán những cán bộ phạm phải căn bệnh nguy hiểm nói trên. Đó là bài: Chống quan liêu, tham ô, lãng phí (tháng 9/1952). Người viết:
“Tất cả cán bộ đều là đầy tớ của dân.
Quan liêu là những người phụ trách mà chỉ biết yên thân.
Xa cách cán bộ, nhân dân và việc làm
Việc gì cũng nhắm mắt ký thàm
Không biết cán bộ tốt hay xấu, việc làm đúng hay không
Quan liêu “ngài” không biết đề phòng
Do đó mà tham ô, lãng phí mọc từ trong đến ngoài
Tham ô là những cán bộ chỉ lo phát “hoạnh tài”.
Đục khoét của nhân dân, bộ đội chính phủ, đoàn thể
Của ai họ cũng trộm làm của mình.
Để họ tiêu xài xa xỉ, linh đình
Tội ác ấy thật là to lớn, tâm tình ấy thật là nhuốc nhơ
Lãng phí là những cán bộ ngẩn ngơ
Không biết thương tiếc của cải và thời giờ của Chính phủ và nhân dân.
Đáng tiêu một phần thì tiêu đến 10 phần, 100 phần
Việc một người làm được, cũng kéo gấp đến 10 người, 100 người
Tham ô có tội đã đành rồi.
Tai hại đến của dân, của nước thì lãng phí cũng là tội to.
Hỡi những người quan liêu, lãng phí và tham ô!
Cần, kiệm, liêm, chính các người để ở mô cả rồi.
Đoàn thể và Chính phủ, nhân dân và bộ đội, ủy thác cho các người.
Mà các người làm hỏng việc thì tội này ai mang
Cho nên toàn dân ta phải đứng dậy hiên ngang
Quyết tâm chống quan liêu, tham ô, lãng phí trong hàng ngũ ta.
Mấy câu mộc mạc, nôm na
Xin mọi người ghi nhớ đem ra thực hành”.
Sau này, nội dung đấu tranh chống tham ô, tham nhũng, lãng phí và quan liêu còn được Người nêu lên trong nhiều bài nói, bài viết tại các Hội nghị Trung ương, ở những buổi làm việc với lãnh đạo các cấp, các ngành, đoàn thể ở Trung ương, địa phương, cũng như ở nhiều bài viết quan trọng khác! Điều đó cho thấy đây là một nội dung xuyên suốt trong cuộc đời đấu tranh hoạt động của Bác Hồ, là vấn đề được Người thường xuyên quan tâm để giáo dục, rèn luyện cán bộ, đảng viên và nhân dân ta.
Ngày nay, Đảng ta xác định tham nhũng là trong một quốc nạn. Đấu tranh phòng chống tham ô, tham nhũng, lãng phí là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị, trước hết là của từng tổ chức, của mỗi cán bộ, đảng viên. Nghị quyết Đại hội X của Đảng vừa qua đã khẳng định quyết tâm: Xử lý kiên quyết, kịp thời, công khai những người tham nhũng, bất kể chức vụ nào, đương chức hay đã nghỉ hưu, tịch thu sung công tài sản có nguồn gốc từ tham nhũng; những người bao che cho tham nhũng, cố tình ngăn cản việc chống tham nhũng hoặc lợi dụng việc tố cáo tham nhũng để vu khống làm hại người khác, gây mất đoàn kết nội bộ. Có cơ chế khuyến khích và bảo vệ những người tích cực đấu tranh chống tham nhũng, tiêu cực. Biểu dương và nhân rộng những gương “cần, kiệm, liêm, chính, chí công, vô tư”. Điều đó thể hiện Đảng ta đã nhận thức và đang quyết tâm thực hiện đúng những gì mà Bác Hồ kính yêu căn dặn, để tiếp tục phát huy vai trò lãnh đạo của mình, xứng đáng với niềm tin của nhân dân.
TRẦN VIỆT HOÀN. Đạo lý làm người của Bác Hồ - chuẩn mực để xây dựng con người Việt Nam / Trần Việt Hoàn // Sách Tuyên truyền, giáo dục tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh góp phần xây dựng con người mới ở Việt Nam. - H.: Dân trí, 2018. - Tr. 9-21
Nhìn lại thế kỷ XX đã đi qua, nhân dân Việt Nam, dân tộc Việt Nam rất đỗi tự hào, bởi thế kỷ đã sinh ra một Con Người, mà cả cuộc đời Con Người đó đã viết nên cho dân tộc, cho nhân dân những trang sử hào hùng: Sáng lập ra Đảng Cộng sản để lãnh đạo nhân dân làm cách mạng thắng lợi, tiếp tục dẫn lối, đưa đường cho dân tộc và nhân dân đi vào thế kỷ XXI; Khai sinh ra nước Việt Nam mới; Tiến hành hai cuộc kháng chiến thần kỳ đánh thắng hai tên đế quốc lớn là Pháp và Mỹ để thực hiện nghĩa vụ thiêng liêng "Các Vua Hùng đã có công dựng nước, Bác cháu ta phải cùng nhau giữ lấy nước”; Đóng góp và gợi mở xây dựng và phát triển đất nước, nhằm đưa dân tộc thoát ra khỏi tình cảnh nghèo nàn, phong bế, lạc hậu để tiến kịp và hòa nhập với nhân loại tiến bộ. Đó là thế kỷ bắt đầu từ một Con Người và cuối cùng thể hiện trong sự nghiệp Hồ Chí Minh thiên tài, kiệt xuất, mà cái gốc, cái cốt từ trong thiên tài của Người là đạo lý làm người, một thứ tài sản vô giá, là hành trang cho mọi người trong thế kỷ mới mà Người để lại cho chúng ta giữ gìn và phát huy, để trau dồi và gây dựng cho chính mình. Đạo lý đó thể hiện tập trung, nổi bật và sâu sắc ở những nội dung:
Thứ nhất, Bác Hồ dạy về tình người. Đó là lòng nhân ái bao la, thương yêu, tôn trọng, tin cậy, con người Bác Hồ trước hết là con người của lòng nhân ái. Lòng nhân ái của Bác Hồ sâu thẳm như biển cả, nhưng đồng thời lại thiết thực như hạt gạo, hạt muối. Mục đích cao nhất của cuộc đời Bác Hồ là làm sao cho mọi người đều có cơm ăn, áo mặc và được học hành. Bác bôn ba khắp chân trời góc bể suốt 30 năm ròng tìm chân lý. Tấm lòng của Người luôn luôn hướng về nhân dân các dân tộc, các tầng lớp cần lao bị đọa đầy đau khổ. Người thiết tha mong mỏi thế giới hòa bình, các dân tộc được tự do và bình đẳng, con người được sống hạnh phúc và tốt đẹp. Giữa mùa đông rét mướt, Bác đã từng cởi chiếc áo của mình cho một tù binh. Bác không thích gọi một trận đánh tiêu diệt nhiều địch là một trận đánh đẹp. Bác thích cái đẹp, cái nghĩa ở đời là tình người "thương yêu lẫn nhau”.
Bản chất tộc loại của con người là con người cần đến cộng đồng, nương nhờ vào nhau để phát triển đời sống xã hội của mình. Tình yêu thương giữa con người với con người bắt nguồn từ chiều sâu lịch sử nhân loại và trở thành giá trị của lòng nhân ái mang tính người. Hêghen, nhà triết học cổ điển Đức nói: Tình thương là một sự đánh mất cái tôi của mình vì một cái tôi khác, nhưng trong sự đánh mất đó, lần đầu tiên ta tìm thấy bản thân mình. Người Việt Nam ta thường tâm niệm,
"Thương người như thể thương thân" đó là đạo lý, là lẽ sống của dân tộc được lưu truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác. Bác Hồ đã đúc kết lại truyền thống đó của dân tộc là: "Nhân dân ta từ lâu sống với nhau có tình, có nghĩa. Từ khi có Đảng lãnh đạo, giáo dục tình nghĩa ấy càng cao đẹp hơn, trở thành đồng bào, đồng chí, tình nghĩa năm châu bốn biển một nhà".
Trước khi đi vào cõi vĩnh hằng, Bác không quên dặn lại: "Phải có tình đồng chí thương yêu lẫn nhau". Phải chăng Bác muốn nhắn nhủ mỗi người chúng ta rằng, "tình yêu thương lẫn nhau" là điều quan trọng hàng đầu để bảo đảm đoàn kết và bao trùm lên tất cả trong các quan hệ giữa người với người. Nếu không xuất phát từ tình yêu thương lẫn nhau sẽ chẳng có điều gì có ý nghĩa cả. Trong cuộc sống hàng ngày, đó là tình thương của mình để che chở, nâng đỡ mọi người, đó là lòng yêu trẻ, kính già, tôn trọng phụ nữ, thương yêu mọi người, nhất là nhân dân lao động. Mong sao, đạo lý Bác Hồ dạy về tình người là một tấm gương để soi sáng cho ta giữ gìn "bản sắc dân tộc, đó là lòng yêu nước nồng nàn, ý chí tự cường dân tộc, tinh thần đoàn kết, ý thức cộng đồng, gắn kết cá nhân - gia đình - làng xã - Tổ quốc; lòng nhân ái khoan dung, trọng nghĩa tình đạo lý, đức tính cần cù, sáng tạo trong lao động; sự tinh tế trong ứng xử, tính giản dị trong lối sống...”. Đó vừa là những nét đặc sắc, vừa là tiêu chí để xây dựng cộng đồng các dân tộc Việt Nam, con người Việt Nam.
Thứ hai, Bác Hồ dạy về lòng trung thành. Đó là lòng trung thành với Tổ quốc, với giai cấp, với lý tưởng cộng sản chủ nghĩa, với chủ nghĩa Mác - Lênin. Lòng trung thành là thước đo thái độ, bản chất của từng con người đối với sự nghiệp chung của Đảng, của dân tộc, của đất nước. Có trung thành mới dám xả thân vì Tổ quốc, vì nhân dân. Có trung thành mới biết đặt lợi ích của Tổ quốc lên trên hết, trước hết. Trung thành có thể hiểu là "hiếu”. Hiếu thời xưa là hiếu với cha mẹ mình, hiếu của thời nay là hiếu với Tổ quốc, với nhân dân, đó là chữ "đại hiếu” mà Nguyễn Phi Khanh dặn lại Nguyễn Trãi.
Bác Hồ đã dành cả cuộc đời của mình để phấn đấu cho chữ "hiếu trung”. Sinh ra trong hoàn cảnh đất nước bị thực dân đô hộ, nhân dân của Người sống trong sự bần cùng của kiếp người mất độc lập, tự do, Người đã nghẹn ngào nuốt nước mắt, đau nỗi đau dân tình, và thế là Người đã hy sinh cả tuổi thanh xuân của mình để tìm cho dân, cho nước con đường đi. Người tuyệt đối trung thành với nhân dân, với đất nước. "Độc lập cho Tổ quốc tôi, tự do cho đồng bào tôi, đó là tất cả những gì tôi muốn”. Lòng trung thành này suốt đời chi phối Người, vì vậy mà với Người: "Bất kỳ bao giờ, bất kỳ ở đâu tôi cũng chỉ đeo đuổi một mục đích là làm cho ích quốc, lợi dân". Cả cuộc đời của Người là "trung với nước, hiếu với dân", đó là châm ngôn Người nêu cho mình và cho các cán bộ của Đảng và Nhà nước.
Với lý tưởng Người đã tìm được, Người tuyệt đối trung thành và phụng sự Tổ quốc. Điều đó như Người đã khẳng định: "Bây giờ học thuyết nhiều, chủ nghĩa nhiều, nhưng chủ nghĩa chân chính nhất, chắc chắn nhất, cách mạng nhất là chủ nghĩa Lênin". Thực tế lịch sử đã chứng minh rằng, Liên Xô hơn 70 năm trung thành với lý tưởng đã trở thành siêu cường trên thế giới, nhưng rồi đến khi xa rời sự trung thành, đất nước trở nên tuyệt vọng. May mắn thay cho dân tộc ta, nhờ lòng trung thành của lãnh tụ Hồ Chí Minh với lý tưởng Người đã tìm thấy, đất nước, nhân dân lại trung thành với Người, nên đã vượt qua được sự biến động khắc nghiệt của thời cuộc. Nguyên Tổng Bí thư Lê Khả Phiêu đã nói: "Với lòng trung thành vô hạn với Tổ quốc, đặt lợi ích Tổ quốc lên trên hết, kiên cường bất khuất, gắn bó máu thịt và sẵn sàng hy sinh vì hạnh phúc của nhân dân, đoàn kết và kỷ luật, tình nghĩa và thủy chung với bạn bè, Đảng ta đã được nhân dân yêu quý, đùm bọc, che chở và hết lòng xây dựng, khi thuận lợi, khó khăn, cũng như khi vấp váp, sai lầm”. Bởi vậy, nhân loại đã ca ngợi lòng trung thành của chúng ta: "Sự vững vàng của nhân dân Việt Nam trong bối cảnh quốc tế hiện nay là may mắn có Bác Hồ và có Đảng".
Khi phải đi xa, Người biểu thị lòng trung thành của mình với non sông đất nước, với đồng bào: "Suốt đời tôi hết lòng, hết sức phục vụ Tổ quốc, phục vụ cách mạng, phục vụ nhân dân. Nay dù phải từ biệt thế giới này, tôi không có điều gì phải hối hận, chỉ tiếc rằng không được phục vụ lâu hơn nữa, nhiều hơn nữa".
Thứ ba, Bác Hồ dạy sống khiêm tốn, giản dị. Khiêm tốn, giản dị là đức tính cao quý của con người. Đức tính đó của Người không phải là sự hình thành bột phát, nhất thời, mà nó hình thành trong suốt quá trình lịch sử đấu tranh của Người và dân tộc của Người chống bọn xâm lược. Trong suốt thời gian đi tìm chân lý cho dân tộc, mặc dù phải trải qua những ngày gian nan, vất vả và tiếp xúc với mọi hoàn cảnh, Bác Hồ luôn luôn thể hiện một cuộc sống khiêm tốn, giản dị. Đức tính khiêm tốn giản dị của Người đã trở thành tác phong của toàn Đảng ta. Tác phong ấy đã góp phần xứng đáng vào việc xây dựng Đảng Cộng sản Việt Nam như Người nói “Đảng là đạo đức, là văn minh". Tác phong ấy là đường hướng trong việc "xây dựng con người Việt Nam có những đức tính: Có tinh thần yêu nước; Có ý thức tập thể; Có lối sống lành mạnh, cần kiệm, trung thực, nhân nghĩa; Lao động chăm chỉ; Thường xuyên học tập", như Nghị quyết Trung ương 5 đã nêu.
Bác Hồ coi đức tính khiêm tốn giản dị là chân lý của cuộc sống. Người khuyên đảng viên, cán bộ, nhân dân đừng bao giờ xa rời chân lý đó. Người luôn nhắc nhở mọi người: "Phải học lấy bốn đức tính; Cần, kiệm, liêm, chính”. Đây chính là sức mạnh của chân lý, đạo lý làm người mà Bác Hồ đã dày công vun đắp.
Cuộc đời của Chủ tịch Hồ Chí Minh vô cùng giản dị và khiêm tốn, đã hòa làm một với cuộc sống của dân tộc, luôn luôn tỏa sáng trên đất nước Việt Nam và làm rung động trái tim bạn bè quốc tế.
Mặc dù đã là lãnh tụ của phong trào giải phóng dân tộc, lãnh tụ của Đảng, của đất nước, nhưng lúc nào Người cũng khiêm tốn, giản dị và đôn hậu. Đức tính ấy cảm hóa được mọi người, dìu dắt mọi người đoàn kết chiến đấu, chính từ đức tính cao đẹp sống vì dân, chết cũng vì dân, công danh phú quý là nhờ dân, mà Bác Hồ là một con người thật sự mang tình người trong thời đại chúng ta.
Đời nào cũng vậy, xã hội nào cũng thế, sống khiêm tốn giản dị là đạo lý đẹp đẽ nhất, cao cả nhất và người đời kính trọng nhất. Bác Hồ là người tiêu biểu của mẫu hình khiêm tốn giản dị và chính vì thế mà người đời mãi mãi nhắc tới Người như một bậc thánh nhân. Khiêm tốn giản dị thật sự là hình mẫu của tư tưởng, đạo đức, lối sống và đời sống văn hóa mà con người Việt Nam cần phải vươn tới.
Thứ tư, Bác Hồ dạy: Lời nói phải đi đôi với việc làm. Lời nói là thể hiện lương tâm, bản lĩnh, lý trí và tình cảm ở trong mỗi con người. Việc làm là thể hiện hành vi đạo đức cụ thể của con người. Kinh thánh đã dạy: "Khởi thủy là lời nói". Đại thi hào Gớt đã viết "Khởi thủy là hành động". Ở Bác Hồ, lời nói đi đôi với hành động, lý luận đi đôi với thực tiễn, nói là để làm, làm phải đúng như điều đã nghĩ, đã nói. Thống nhất giữa lời nói và việc làm là nguyên tắc đạo đức của Bác Hồ, bởi đó là sự thể hiện ở tấm gương đạo đức của bản thân Người và những lời Người răn về đạo đức.
Sức thuyết phục mạnh mẽ trong tấm gương đạo đức của Bác Hồ là ở chỗ, dù việc lớn hay nhỏ, đối với Người bao giờ cũng là lời nói đi đôi với việc làm.
Người kêu gọi toàn dân tiết kiệm gạo để giúp đồng bào bị đói thì Người thực hiện nhịn ăn trước. Khi kinh tế khó khăn, đời sống dân còn khổ, mọi người ăn độn, Bác cũng bảo cán bộ, nhân dân ăn độn bao nhiêu phần trăm, độn cho Bác từng ấy giống như cán bộ, với dân. Đạo lý này, lẽ sống này hẳn sẽ là một tấm gương soi sáng cho ta trong việc thực hiên mục tiêu xóa đói, giảm nghèo do Đảng đề ra.
Người khuyên cán bộ phải cần kiệm, liêm chính thì Người đã sống giản dị, thanh bạch. Người khước từ ở ngôi nhà sang trọng để sống trong ngôi nhà bình thường, đến khi nhận một chút quà tặng của Đảng, của nhân dân dành cho thì Người đã nhận một ngôi nhà Sàn đúng như điều Người muốn: "Riêng về phần tôi thì làm một cái nhà nho nhỏ nơi có non xanh, nước biếc để câu cá, trồng rau... không dính líu gì đến vòng danh lợi”.
Người đã nêu gương chống sùng bái cá nhân, sống khiêm tốn. Trong suốt thời kỳ đi tìm đường cứu nước, đến cả thời kỳ đứng đầu Nhà nước, và cho đến lúc ra đi "gặp cụ Các Mác, cụ Lênin", cũng như những con người thật sự vĩ đại khác, Bác Hồ không bao giờ nghĩ mình là bậc vĩ nhân, không bao giờ đặt cái tôi cao hơn dân tộc và sự nghiệp của dân tộc cho dù đó là một con người tiêu biểu nhất của dân tộc. Người chỉ ôm ấp một ước nguyện, đó là làm sao cho nước nhà được hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ta ai cũng có cơm ăn, áo mặc, ai cũng được học hành. Đạo lý này là định hướng giúp chúng ta thực hiện Nghị quyết Hội nghị Trung ương 5 đã chỉ rõ: "Phát động phong trào "Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa", gồm: "Người tốt, việc tốt. Uống nước nhớ nguồn. Đền ơn đáp nghĩa. Xóa đói giảm nghèo” để hướng vào cuộc thi đua yêu nước "Tất cả vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”. Đạo lý này là kim chỉ nam cho Hội nghị 6 (lần 2) Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa VIII biểu thị quyết tâm và trách nhiệm cao trước toàn Đảng, toàn dân, lãnh đạo và tổ chức thực hiện có hiệu quả công tác xây dựng Đảng trên tinh thần "nói đi đôi với làm”, nêu gương tốt, ngăn chặn và đẩy lùi các tiêu cực, trước hết là tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí của công để Đảng ta thật sự trong sạch vững mạnh, gắn bó với nhân dân, hết lòng phục vụ nhân dân, xứng đáng với lòng mong muốn và tin cậy của nhân dân".
Những tấm gương về đạo lý làm người của "Vị anh hùng dân tộc vĩ đại, nhà văn hóa lớn của thời đại, người cộng sản mẫu mực và chiến sỹ quốc tế trong sáng, thủy chung, tấm gương sáng ngời về lòng yêu nước thương dân, về tư tưởng, trí tuệ, về nhân cách, đạo đức lối sống". "Là những giá trị vĩnh hằng của con người, con người ở Việt Nam cũng như ở mọi nơi trên thế giới, con người của thời đại cũng như của thời xưa... và những giá trị đó sẽ được các thế hệ mai sau trân trọng, kế thừa và phát triển".
Liên hệ với thời điểm hiện nay, thời điểm của những biến động và thách thức nghiêm trọng đối với sự nghiệp cách mạng: "Trong khi cách mạng đòi hỏi sự phấn đấu kiên định và bền bỉ để thực hiện mục tiêu lý tưởng thì một bộ phận cán bộ đảng viên lại giảm sút ý chí, phai nhạt lý tưởng, dao động; Công cuộc xây dựng đất nước đòi hỏi phải toàn tâm toàn ý chăm lo sự nghiệp chung thì lại làm việc cầm chừng, thiếu tinh thần đồng cam cộng khổ, chỉ lo vun vén cá nhân, tham nhũng, hối lộ, đặc quyền đặc lợi, cục bộ địa phương, cơ hội luồn lách, chỉ coi trọng lợi ích vật chất mà xem nhẹ giá trị tinh thần, nặng về lợi ích thực dụng trước mắt, xem nhẹ lợi ích cơ bản và lâu dài; Cách mạng đòi hỏi đảng viên và người lãnh đạo phải gần gũi nhân dân... thì lại xa dân, quan liêu, đại khái, hống hách, sách nhiễu; Đất nước ta còn nghèo, nhân dân ta còn thiếu thốn thì một bộ phận người xa hoa, phung phí tiền của, bỏ mặc tài sản của công mất mát, hư hỏng và bị phá hoại; Các thế lực thù địch đang dùng mọi thủ đoạn độc ác, nham hiểm chống lại hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội... thì một số cán bộ Đảng, Nhà nước lại mơ hồ, mất cảnh giác”; Giá trị xã hội đang bị suy thoái: vì đồng tiền và danh lợi mà chà đạp lên tình nghĩa gia đình, quan hệ thầy trò, đồng chí, đồng nghiệp; Buôn lậu ma túy, mại dâm và các tệ nạn xã hội khác gia tăng, nhiều hủ tục trái với luân thường đạo lý; Lối sống thiếu lý tưởng, hoài bão, ăn chơi, coi nhẹ giáo dục đạo đức, thẩm mỹ và các bộ môn chính trị, khoa học xã hội và nhân văn ở một bộ phận lớp trẻ... Chúng ta càng thấy ý nghĩa sâu xa và quan trọng của những đạo lý làm người mà Bác Hồ đã nêu gương sáng.
Hướng tới thế kỷ XXI, toàn Đảng, toàn dân đang phấn đấu để xây dựng một nền văn hóa tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc, tiếp tục thực hiện chiến lược con người, chiến lược xây dựng và phát huy nguồn lực con người Việt Nam, mà trọng tâm là nhiệm vụ "Xây dựng tư tưởng, đạo đức, lối sống và đời sống văn hóa lành mạnh trong xã hội, trước hết trong các tổ chức Đảng và Nhà nước, trong các đoàn thể quần chúng và trong từng gia đình" thì chỉ có thể học đạo lý làm người mà Bác Hồ đã trang bị cho ta thì mới có thể xây dựng một lối sống mới để làm cho "Tổ quốc ta mãi mãi là quốc gia văn hiến, dân tộc ta là một dân tộc văn hóa"; Con người Việt Nam là con người có lòng nồng nàn, có tình thương yêu sâu sắc đối với đồng bào, đồng chí, có chí khí quật cường, bất khuất, có tinh thần độc lập, tự do "Thà hy sinh tất cả chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ”, là con người thấm nhuần chủ nghĩa anh hùng cách mạng, chẳng những trong sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc, mà cả trong công cuộc lao động sáng tạo, xây dựng xã hội mới". "Nền văn hóa nước ta không ngừng phát triển, xứng đáng với tầm vóc dân tộc ta trong lịch sử và trong thế giới hiện đại”. Đó là chuẩn mực của con người Việt Nam thời nay và con người Việt Nam mới.
Học tập phong cách giao tiếp, ứng xử Hồ Chí Minh / Nguyễn Huy Hoan // Sách Tuyên truyền, giáo dục tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh góp phần xây dựng con người mới ở Việt Nam. - H.: Dân trí, 2018. - Tr. 30-39
Giao tiếp, ứng xử là một khía cạnh của hành vi văn hóa của con người. Đó là việc xảy ra hàng ngày trong quan hệ giữa con người với con người, từ trẻ đến già, diễn ra muôn màu muôn vẻ, qua đó thể hiện tính cách, trình độ văn hóa và phẩm chất của mỗi người. Do đó, trong việc xây dựng nền văn hóa mới, xây dựng con người mới cần chú trọng đúng mức bồi dưỡng cho con người nếp giao tiếp ứng xử ở trình độ văn hóa cao. Chủ tịch Hồ Chí Minh là điển hình mẫu mực cho phong cách giao tiếp ứng xử ấy.
Giao tiếp là hành động liên hệ, tiếp xúc và trao đổi giữa con người với con người bằng nhiều phương thức: gặp gỡ, thư từ, điện thoại... Giao tiếp biểu hiện bằng nhiều dạng: bằng ngôn ngữ, bằng thái độ, bằng cử chỉ, cao hơn nữa là phong thái, phong độ... trong đó nhiều nhất là ngôn ngữ, bởi ngôn ngữ là công cụ giao tiếp.
Còn ứng xử là nói đến cách xử trí trong quan hệ giữa người với người hoặc giữa cá nhân với cộng đồng trước những sự kiện hoặc sự việc cụ thể. Ứng xử cũng là một phương diện cấu thành của văn hóa, ứng xử là biểu hiện tổng hợp của văn hóa. Qua cách ứng xử, chúng ta có thể đánh giá được đức độ và nhân cách của một con người. Như vậy, giao tiếp và ứng xử có mối quan hệ chặt chẽ với nhau, không tách rời nhau.
Trong truyền thống văn hóa Việt Nam, ông cha ta rất chú ý vấn đề giao tiếp ứng xử. Từ tuổi thiếu niên, các cụ đã dạy: "Phải học ăn, học nói, học gói, học mở”, "Kỷ sở bất dục vật thi ư nhân” (Điều mình không muốn thì đừng gán cho người khác), "Tiếng chào cao hơn mâm cỗ”, "Lạt mềm buộc chặt”, "Lời nói không mất tiền mua; Lựa lời mà nói cho vừa lòng nhau”. Những lời đó chính là nói đến cách giao tiếp ứng xử và Bác Hồ cũng thường nhắc đến. Hơn thế nữa, nét đẹp truyền thống đó in đậm trong phong cách giao tiếp ứng xử của Người.
Phong cách giao tiếp Hồ Chí Minh trước hết thể hiện ở thái độ niềm nở, ân cần của Người. Hầu như bất cứ người nào được gặp Bác đều có ấn tượng và cảm giác gần gũi, thân tình. Bởi vì, như đồng chí Phạm Văn Đồng, một người sống và làm việc rất gần Bác mấy chục năm đã từng nói: “Chủ tịch Hồ Chí Minh cao mà không xa, mới là không lạ, to lớn mà không làm ra vĩ đại, sáng chói mà không gây choáng ngợp, gặp lần đầu mà như thân thuộc từ lâu". Những người gặp Bác lần đầu đều có cảm xúc đó. Chỉ trong một vài phút, Người đã khéo léo xóa đi cái khoảng cách về tuổi tác, về tầm vóc trí tuệ, về cương vị giữa mình với con người đang giao tiếp với mình.
Ông Giăng La-cu-tuya, người Pháp đã ghi lại ấn tượng của mình về lần gặp Bác đầu tiên tại Bắc Bộ Phủ (Hà Nội) năm 1946: "Chủ tịch Hồ Chí Minh là người có tài chinh phục người đối thoại với mình ngay từ câu nói thứ hai của Người”.
Ông Sác-lơ Phuốc-ni-ô kể lại: "Cũng vẫn là con người tôi đã được biết cách đây mấy năm, con người mà sự có mặt phi thường như choán hết cả gian phòng, có thể nói làm xóa nhòa sự có mặt của những người khác, nhưng sự săn sóc, thái độ ân cần, hết sức lịch thiệp của Người đối với khách hàng làm cho người ta trong những phút đầu thấy đôi chút lúng túng nhưng sau đó lại tạo ra một không khí thân mật thoải mái ngay".
Ông Lê-Ô Phi-ghen viết: "Thái độ ân cần niềm nở của đồng chí với bất kỳ ai: gái, trai, trẻ, già đã gây được thiện cảm của họ ngay từ lúc ban đầu mới gặp gỡ”.
Thái độ ân cần, niềm nở, lịch thiệp là đặc trưng đầu tiên trong phong cách giao tiếp của Người. Sự ân cần, niềm nở, lịch thiệp đó xuất phát từ tấm lòng (cái "tâm”) của Bác, một tấm lòng chân thành và trong sáng đối với tất cả mọi người, muốn hòa mình vào cuộc sống của mọi người.
Sự ân cần, niềm nở, lịch thiệp đó còn xuất phát từ những suy nghĩ (cái "trí") đúng đắn của Người về con người. Người luôn tôn trọng mọi người, không những chỉ biểu hiện trong cách xưng hô mà còn chú ý lắng nghe tâm tư nguyện vọng và ý kiến của mọi người. Ngay những lúc cán bộ cấp dưới hay những người phục vụ có sai sót, Người cũng không cáu gắt mà luôn luôn nhẹ nhàng bảo ban có lý có tình. Người đã từng phê bình tật nóng nảy cáu gắt với cấp dưới, hách dịch với nhân dân và cho rằng nguồn gốc của những tật xấu ấy chính là không tôn trọng con người. Ngay với các cháu con các đồng chí phục vụ đến gặp gỡ Bác, Người cũng dặn: "Các cháu con các chú, nhưng vào đây là khách của Bác".
Phong cách giao tiếp của Hồ Chí Minh còn thể hiện ở ngôn ngữ giao tiếp của Người. Đó là cách nói chân thật, giản dị, rất gần gũi chứ không phải là ngôn ngữ "xã giao", "màu mè" nhưng "giả tạo”. Ngôn ngữ giao tiếp Hồ Chí Minh còn thể hiện ở sự khiêm tốn, tôn trọng con người. Nói với người khác, bao giờ câu cũng có chủ ngữ chứ không phải là lối nói cộc lốc kèm theo cái hất hàm trịnh thượng. Viết về các nhân vật lịch sự hiện đại, Người thường thêm chữ Cụ, cụ Phan Bội Châu, cụ Phan Chu Trinh... Người nói: "Ông cha ta kỵ lối nói xếch mé!". Được gặp Người, có lúc là một nụ cười, một cử chỉ là đã đem lại niềm vui cho mọi người. Từ ngày cách mạng mới thành công, Người đã nhắc nhở chúng ta: "Đối với tất cả mọi người trong tầng lớp dân chúng, ta phải có một thái độ mềm dẻo khôn khéo, biết nhân nhượng, biết trọng nhân cách người ta". Ngôn ngữ giao tiếp của Người có cái chất lạc quan, hóm hỉnh, hài hước đã góp phần xóa đi sự cách bức, sự trịnh trọng không cần thiết để tạo nên cái không khí chan hòa với mọi người.
Còn phong cách ứng xử Hồ Chí Minh có gì đặc biệt?
Trong cuộc sống của mỗi người, khi cần ứng xử với người, với việc thuận chiều quả là không có gì khó khăn. Thuận ở đây là cùng gặp nhau trong hướng suy nghĩ, cùng đồng cảm với nhau trong tâm hồn, gần nhau trong văn hóa ứng xử. Nhưng khi ứng xử ở chiều nghịch, có nghĩa là trước việc khó, trước ý kiến, quan điểm bất đồng, thậm chí là thù địch ở những đối tượng đối lập với mình thì quả là một việc làm khó khăn.
Ở Chủ tịch Hồ Chí Minh, vô luận trong tình huống nào, chúng ta đều thấy nổi lên những điểm sau đây trong phong cách ứng xử của Người.
Thứ nhất là sự điềm tĩnh. Từ sự ứng xử trước những việc lớn đến những việc nhỏ nhặt trong đời thường, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn luôn bình thản.
Chúng ta hãy đọc lại câu chuyện về cuộc gặp gỡ với An-be Xa-rô:
"...Hai giai cấp, hai chế độ ngồi đối mặt nhau. Thế nhưng Bác cảm thấy ông ta sợ Bác vì sợ cách mạng; và đoán biết rằng ông ta cũng cảm thấy Bác không sợ ông ta, vì cách mạng không sợ cái chế độ do ông ta đại biểu.
Bộ trưởng Bộ Thuộc địa, mắt thì nhìn Bác chằm chằm, tay thì vẽ trên bàn, miệng thì nói như phun ra lửa. Y nói đại ý như sau: "Hiện nay có những kẻ ngông cuồng hoạt động ở Pháp. Họ liên lạc với bọn bôn sê vích ở Nga. Từ Nga họ liên lạc với Quảng Đông. Và từ Quảng Đông họ liên lạc với Việt Nam. Chính phủ Pháp biết rõ hết những dây liên lạc đó. Họ âm mưu phá rối trật tự trị an ở Đông Dương và chống đối lại nhà nước bảo hộ. Nước mẹ Đại Pháp rất khoan hồng, nhưng sẽ không tha thứ những kẻ gây rối loạn... Nước mẹ Đại Pháp đủ sức để bẻ gãy họ như thế này...".
Nói đến đó, y vẻ mặt hầm hầm, hai tay nắm lại và làm như đang bẻ những vật gì rất cứng rắn - những người cách mạng Việt Nam.
Bác cứ giữ thái độ ung dung, cứ mỉm cười để mặc y nói...
Thứ hai, trong ứng xử luôn kiên trì mục tiêu, lý tưởng của mình. Người đã từng nói: "Dĩ bất biến, ứng vạn biến". Cái bất biến của Người là độc lập, tự do, ấm no hạnh phúc cho đồng bào, sự giàu mạnh của đất nước, đấu tranh cho chính nghĩa, phò chính trừ tà. Cái bất biến còn là lẽ phải, là chân lý. Cái bất biến còn là những điều thiện, việc gì có lợi cho dân thì hết sức làm, việc gì có hại cho dân thì hết sức tránh. Những điều đó đã trở thành nguyên tắc trong ứng xử của Bác.
Tháng 10 - 1946, lúc Người sắp rời nước Pháp, chỉ một giờ trước khi rời Paris, Met-xme, Tổng thư ký ủy ban Đông Dương thuộc Chính phủ Pháp đưa cho Bác một văn bản. Y nói văn bản đó là của Tổng tham mưu trưởng quân đội Pháp đề nghị Người ký đồng ý cho quân Pháp thay quân ta ở Nam Bộ. Về việc này, Người đã kể lại:
"Ký gì? Ký đồng ý để quân Pháp thay thế quân Việt Nam ở miền Nam. Nói xin đưa kèn trống đi tiễn (quân đội ta - TG). Bác không đồng ý ký. Sau nó nói là mệnh lệnh ông Tổng Tham mưu trưởng của nó. Bác trả lời là ông Tổng Tham mưu trưởng của ông chứ không phải ông Tổng Tham mưu trưởng của tôi. Rồi Bác đi".
Lúc về tới Cam Ranh, Đác-giăng-li-ơ còn nói với Người là có điện từ Paris báo là Chủ tịch đã đồng ý việc rút quân Việt Nam khỏi Nam Bộ. "Bác trả lời là không có chuyện đó. Hắn nói nếu Bác không tin thì xin đưa bức điện vừa nhận được cho Bác xem. Bác gạt đi. Trường hợp đó phải cương quyết lắm mới được. Mà kẻ địch thì hay làm những đòn bất thình lình”.
Thứ ba, ứng xử bằng vốn trí tuệ sắc sảo, nhạy bén và phong phú của mình.
Chúng ta còn nhớ trên đường từ Pháp về Việt Nam năm 1946, đến vịnh Cam Ranh, Đác-giăng-li-ơ mời Bác lên thăm chiến hạm của ông. Để khoe sức mạnh của quân đội mình và có phần muốn dọa nạt, ông ta đã nói: "Thưa ngài Chủ tịch, ngài đang bị đóng khung giữa lục quân và hải quân (của Pháp - TG) đó!" Bác trả lời rất nhanh: "Thưa ngài đô đốc: Chính bức tranh mới làm cho cái khung của ông có giá trị". Quả là một câu trí tuệ và thâm thúy.
Năm 1967, Chủ tịch Hồ Chí Minh tiếp hai vị trí thức Mỹ đến Việt Nam để thăm dò một giải pháp cho cuộc chiến tranh mà Mỹ đã gây ra ở Việt Nam, Bác đã mời hai vị trí thức uống trà và hỏi: "Chúng ta gặp nhau, uống nước chè với nhau như thế này có phải tốt hơn đánh nhau không?" Câu nói đó rất tự nhiên, song người trả lời thật khó mà trả lời khác ngoài hai chữ "tốt hơn”. Rồi Người nói tiếp: "Nếu ông Giônsơn đồng ý thì tôi mời ông ấy sang Hà Nội, trải thảm đỏ đón ông và cũng mời ông uống nước chè như chúng ta hôm nay, chỉ có một điều kiện là các ông phải rút quân khỏi đất nước tôi!"
Năm 1948, biết Nguyễn Sơn còn suy nghĩ về việc thụ phong Thiếu tướng, Bác gửi cho ông vẻn vẹn 4 câu thơ chữ Hán, tổng cộng có 12 chữ:
Đảm dục đại
Tâm dục tế
Trí dục viên
Hạnh dục phương.
Dịch nghĩa là:
Gan phải lớn
Tâm phải thật nhỏ
Trí phải tròn (không méo mó)
Hạnh (phẩm chất) phải vuông
(không xiên xẹo).
Bốn câu đó vốn là của cụ Tôn Tư Mạo, một danh sĩ đời nhà Đường, trong đó câu thứ hai trong nguyên bản là chữ "tiểu" nghĩa là "nhỏ", được Bác thay bằng chữ "tế" nghĩa là "rất nhỏ", ông Nguyễn Sơn rất cảm kích trước những lời lẽ chân thành và khiêm nhường đó.
Thứ tư, ứng xử của Bác thấm đượm tình nghĩa và nhân đạo.
Xuất phát từ lòng yêu nước, thương dân, thương người và đức khoan dung, cách ứng xử của Bác nhẹ nhàng và tình cảm, kết hợp được cả lý và cả tình.
Ngay đối với tù binh Pháp, Bác cũng căn dặn: "Phải chăm sóc hết sức chu đáo, đối xử thật nhã nhặn để tỏ sự ân cần của ta đối với người Pháp... Khẩu phần của họ phải hơn người Việt Nam. Tổ chức việc nấu và chăm sóc họ cho kỹ lưỡng”.
Theo chỉ thị của Người, Bộ Tài chính đã cấp cho mỗi người Pháp 200đồng/tháng, trong khi mức ăn của bộ đội, ta chỉ có 150đồng/tháng. Đến thăm một trại tù binh trong chiến dịch Biên giới, thấy một sỹ quan Pháp đang run lên vì lạnh, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã cởi chiếc áo Người đang mặc trao cho anh ta.
Với những người Việt Nam lầm đường lạc lối, Người nói: "Tôi khuyên đồng bào đoàn kết chặt chẽ và rộng rãi. Năm ngón tay cũng có ngón vắn ngón dài, nhưng vắn dài đều họp nhau lại nơi bàn tay. Trong mấy triệu người cũng có người thế này thế khác, nhưng thế này hay thế khác đều dòng dõi của tổ tiên ta. Vậy nên ta phải khoan hồng đại độ. Ta phải nhận rằng đã là con Lạc, cháu Hồng thì ai cũng có ít hay có nhiều lòng ái quốc. Đối với những đồng bào lạc lối lầm đường, ta phải lấy tình thân ái mà cảm hóa họ”.
Phong cách giao tiếp ứng xử Hồ Chí Minh là biểu hiện của đạo đức Hồ Chí Minh, là phong cách văn minh, tiêu biểu cho "nền văn hóa tương lai" như Ôxíp Manđenstam đã thán phục từ những năm 20 của thế kỷ XX.
Vì vậy, học tập phong cách giao tiếp ứng xử Hồ Chí Minh, giáo dục cho thế hệ trẻ phong cách đó là cần thiết nhằm làm đẹp thêm quan hệ giữa con người với con người, góp phần thúc đẩy tiến bộ xã hội.
Phong cách ứng xử Hồ Chí Minh / Quang Lân tuyển chọn // Sách Cẩm nang học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh. - H.: Dân trí, 2019. - Tr. 377-382
Phong cách ứng xử Hồ Chí Minh đã lưu lại cho các thế hệ người Việt Nam yêu nước và nhân dân thế giới những dấu ấn rất đặc biệt. Đó là giá trị trường tồn của văn hóa Việt, trong các bước phát triển của dân tộc Việt Nam cũng như nhân dân yêu chuộng hòa bình trên thế giới. Phong cách ứng xử Hồ Chí Minh là phong cách ứng xử của một nhà văn hóa kiệt xuất.
Trong cuộc sống con người, mọi ứng xử đều được thông qua giao tiếp. Phẩm chất, năng lực, nhân cách chế định phong cách ứng xử của con người cụ thể. Phong cách ứng xử Hồ Chí Minh biểu hiện ở những điểm chủ yếu là: thành tâm, thật lòng; tôn trọng, quý mến con người, khoan dung; tự mình đối với bản thân, v.v.
Thành tâm, thật lòng là điểm nổi bật trong phong cách ứng xử Hồ Chí Minh. Với mọi người, bất kể đó là người Việt Nam hay người nước ngoài, thuộc giai tầng nào, giới nào, có chính kiến, quá khứ hay hiện tại ra sao,... Hồ Chí Minh luôn lấy sự thành tâm, thật lòng để ứng xử. Và như thế, cái tâm lành thiện, trong sáng đã làm tan biến những e dè, ngần ngại, mặc cảm của những người khi gặp gỡ, tiếp xúc với Hồ Chí Minh. Người thật lòng trong giao cảm, nên dễ dàng tạo được niềm tin, sức thuyết phục của mọi người đối với bản thân cũng như Đảng Cộng sản Việt Nam và chính quyền cách mạng. Có những người lúc đầu đi theo cách mạng là do cảm phục nhân cách, nhận thấy được tấm lòng chân thật của Hồ Chí Minh chứ chưa từ sự cảm nhận, giác ngộ về lý tưởng, sự nghiệp. Những người vốn đã tích cực đi theo sự nghiệp cách mạng, khi gặp Hồ Chí Minh thì lại càng hăng hái hơn. Những người suýt sa chân sang hàng ngũ bên kia, khi được Hồ Chí Minh cảm hóa đã kịp rút lại để nhập cuộc với đoàn quân cách mạng. Những người nước ngoài cùng chí hướng, thì cảm kích trước tấm lòng son, trung kiên, chung thủy với lý tưởng của Hồ Chí Minh để ủng hộ cách mạng Việt Nam. Và, lạ thay, ngay cả những người không cùng chí hướng, không cùng tuyến với cách mạng Việt Nam, khi được tiếp xúc với Người cũng được chinh phục bởi tấm lòng chân thành, tình cảm trong sáng. Sự thật tâm và tấm lòng thành là một điểm nhấn trong phong cách ứng xử Hồ Chí Minh, là điều mà Người học được từ những bậc tiền nhân của dân tộc và cũng là nét tinh túy của văn hóa phương Đông: “kỷ sở bất dục, vật thi ư nhân”, nghĩa là điều gì mà bản thân không muốn thì đừng có làm đối với người khác.
Tôn trọng, quý mến con người, khoan dung là một điểm tạo nên phong cách ứng xử Hồ Chí Minh. Các giáo lý của nhiều tôn giáo đều rất coi trọng tình thương yêu con người. Tuyên ngôn Tôn giáo năm 1517 do Lude (người Đức) đã viết: “Khởi nguồn chân lý là sự yêu thương và tha thứ”. Còn Phật giáo cho rằng cuộc sống là từ bi hỷ xả, v.v. Trong lịch sử của loài người, có “nhân chi sơ, tính bản thiện”, tức là con người ta sinh ra đã sẵn tính thiện. Nhưng trong thực tế, còn nhiều tà ác ở xã hội con người. Lịch sử phát triển xã hội loài người đã chứng minh biết bao cuộc chiến tranh điêu tàn, cướp đi bao nhiêu sinh mạng, làm chậm sự phát triển của thế giới. Thời nay cũng vậy. Cho nên, hòa bình, ổn định và phát triển luôn là khát vọng mà loài người vươn tới.
Việt Nam là một quốc gia - dân tộc trên thế giới nổi bật văn hóa trọng nghĩa tình. Cái trục ứng xử của dân tộc Việt Nam là trên tình người, là “lấy đại nghĩa để thắng hung tàn, lấy chí nhân để thay cường bạo”. Đầu những năm 20 của thế kỷ XX, ngay trong số đầu của báo Le Paria (Người cùng khổ), Hồ Chí Minh đã đề cập giải phóng con người. Nhất quán quan điểm đó, trong Di chúc, Người nhấn mạnh: “Phải có tình đồng chí thương yêu lẫn nhau”. Người không những “để lại muôn vàn tình thân yêu cho toàn dân, toàn Đảng, cho toàn thể bộ đội, cho các cháu thanh niên và nhi đồng” và “gửi lời chào thân ái đến các đồng chí, các bầu bạn, và các cháu thanh niên nhi đồng quốc tế”, mà còn căn dặn Đảng về những công việc cần làm sau khi đã đánh thắng giặc Mỹ xâm lược, trong đó “đầu tiên là công việc đối với con người”. Hồ Chí Minh luôn ứng xử dựa trên cơ sở của tình người, yêu thương con người; đó là lòng nhân đạo, tính nhân văn, là sự khoan dung, độ lượng trong hành xử ở cuộc sống. Với Người, giải phóng dân tộc, giải phóng xã hội - giai cấp đều phải đi đến giải phóng con người thì mới có ý nghĩa thiết thực, ứng xử Hồ Chí Minh dựa trên tình thương yêu, quý trọng con người trước hết dành cho những người bị áp bức, bóc lột, những người cùng khổ, những người dễ bị tổn thương trong xã hội, các cụ già, em nhỏ và có phong cách ứng xử văn hóa đặc biệt đối với phụ nữ. Người đã để lại vô vàn những câu chuyện cảm động về tình cảm, ứng xử văn hóa đối với nhân dân, với lớp người bị thiệt thòi do hậu quả quan niệm không đúng của xã hội thực dân, phong kiến, đặc biệt là tư tưởng trọng nam khinh nữ.
Khoan dung trong phong cách ứng xử Hồ Chí Minh không có chung bản chất với khoan dung trong tôn giáo. Khoan dung, ứng xử nhân ái của Hồ Chí Minh không có giới hạn biên giới quốc gia. Trong các bài báo, cuốn sách do Người viết, hiện lên số phận người lao động bị đế quốc đày đọa, từ người phụ nữ châu Phi, những thủy thủ, phu khuân vác Đắc-ca, Bra-xin, Xi-ry, Li-băng,... cho đến những công nhân, nông dân ở Ghi-nê, Đa-hô-mây, v.v. Đến thăm bất cứ nước nào, khi ở địa vị Chủ tịch nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, Người dành thời gian tiếp xúc với nhân dân lao động, đặc biệt là đối với các cháu thiếu niên, nhi đồng. Điều đó cắt nghĩa tại sao Hồ Chí Minh được thiếu niên, nhi đồng Việt Nam và nhiều nước trên thế giới gọi là Bác Hồ; được nhân dân Việt Nam và rất nhiều tầng lớp nhân dân trên thế giới gọi là Bác Hồ. Không phải ngẫu nhiên mà Hồ Chí Minh trở thành một biểu tượng về tình hữu ái của con người trên trái đất. Tình nhân ái trong ứng xử Hồ Chí Minh không dừng ở lời nói mà còn được thể hiện rõ trong hành động. Người tố cáo tội ác của chủ nghĩa thực dân, đế quốc, đấu tranh bảo vệ người bị áp bức, phấn đấu vì sự nghiệp tiến bộ, đưa lại cho con người tự do, ấm no, hạnh phúc, phấn đấu vì lý tưởng giải phóng triệt để cho con người vươn tới cái tất yếu của vương quốc tự do.
Với tư tưởng giải phóng con người, yêu thương con người, khoan dung, độ lượng, Hồ Chí Minh đã giao tiếp, ứng xử với nhiều người trong cuộc sống, và lúc nào cũng vậy đều để lại ấn tượng sâu đậm. Quan niệm của Hồ Chí Minh cũng giống như quan niệm đúng đắn của các tổ chức xã hội tiến bộ hiện nay trên thế giới, khi cho rằng: phát triển con người là sự phát triển bao gồm tất cả các khía cạnh trong cuộc sống của mọi cá nhân, từ tình trạng sức khỏe, tới đời sống chính trị, kinh tế, văn hóa của con người; phát triển con người theo những mục tiêu đó, là cái đích cuối cùng, phát triển kinh tế - xã hội chỉ là một phương tiện. Mục tiêu cơ bản của phát triển là tạo ra một môi trường khuyến khích con người được hưởng cuộc sống lâu dài, khỏe mạnh, hạnh phúc, tự do và sáng tạo. Đó chính là tính toàn diện của sự phát triển. Điều này phù hợp với cách tính về chỉ số phát triển con người (HDI) của Chương trình phát triển Liên hợp quốc (UNDP) - kết hợp các chỉ số cơ bản về y tế, giáo dục, tuổi thọ, mức sống, chứ không chỉ duy nhất là sự tăng trưởng của tổng sản phẩm quốc nội (GDP). Vì thế, khi tiếp xúc với nhiều người, Hồ Chí Minh thường hay hỏi thăm về sức khỏe, hoàn cảnh gia đình,... nghĩa là những điều liên quan tới đời tư. Riêng việc hỏi han về đời tư, đối với người Việt Nam thì đó là lối ứng xử bình thường, nhưng đối với những người nước ngoài thì chưa chắc đã phù hợp với văn hóa của họ, thậm chí có người rất kiêng kỵ và cho đó là tò mò khi giao tiếp. Hồ Chí Minh rất hiểu điều đó, nên trong giao tiếp, ứng xử nó được người ta tiếp nhận, cắt nghĩa là tấm lòng chân thành, bác ái bao la của một con người - nhà văn hóa Hồ Chí Minh. Cái mà ở những người khác cho là điều không phù hợp thì đến Hồ Chí Minh trở thành điều tế nhị, nhã nhặn, lịch sự và quyến rũ. Một quả táo lấy từ bàn họp về cho cháu bé, một bông hoa tặng phụ nữ, một cử chỉ phá lệ ngoại giao để rẽ đoàn người ôm hôn thắm thiết người bạn sau bao năm xa cách, một sự đồng ý nhận lời làm cha nuôi trẻ sơ sinh, một cử chỉ đạp nước gầu guồng, tát nước gầu dai, tụt dép cao su lội ruộng thăm bà con đang gặt lúa và muôn vàn cử chỉ ứng xử khác nữa đã làm nên phong cách ứng xử lịch lãm, tự chủ, linh hoạt, ân cần, tế nhị, cởi mở, tự nhiên, bình dị, chan hòa, ấm cúng, khoan dung, khiêm nhường, bình tĩnh và đĩnh đạc, tỉnh táo của con người mang tên Hồ Chí Minh.
Tự mình đối với bản thân mình là một phong cách ứng xử rất đặc biệt của Hồ Chí Minh. Con người có các mối quan hệ rất phong phú, phức tạp trong cuộc sống hằng ngày và Người chia các mối quan hệ đó thành ba loại: (1) đối với người; (2) đối với việc; (3) đối với mình. Trong đó, mối quan hệ “đối với mình” (tức là tự mình đối với bản thân mình) là khó nhất. Tự thấy, tự phê bình,... là đòi hỏi tự nhìn lại chính mình, đánh giá đúng, để vươn lên làm chủ bản thân mình trong sinh hoạt hằng ngày là không đơn giản. Trong quân sự, người ta nói rằng: biết mình, biết người, trăm trận không nguy. Biết người không khó bằng biết mình. Cái bệnh chủ quan thường thấy ở nhiều người là từ cái khó này mà ra. Người ta khen mình thì dễ, tự mình thấy mình tốt, giỏi giang thì không khó (như Hồ Chí Minh dùng tục ngữ trong tác phẩm Sửa đổi lối làm việc là “mèo khen mèo dài đuôi”). Nhưng người khác chê mình thì nhiều lúc khó được chấp nhận. Tự mình thấy cái dở, cái xấu của mình lại càng khó hơn. Và, đề cập vấn đề phong cách tự mình đối với bản thân mình là nói đến sinh hoạt cá nhân, gắn với chủ thể của con người hành động, nó bộc lộ hằng ngày, hằng giờ, không tự nhiên mà có và cũng không là phổ biến ở mọi người, mà nó chỉ có thể có được ở người qua trải nghiệm rèn luyện thực tiễn với hiểu biết, kiến thức sâu rộng cũng như tinh thần cầu thị đích thực.
Hồ Chí Minh là một người như thế, luôn làm chủ được bản thân, trong mọi điều kiện, hoàn cảnh Người “không ham muốn công danh phú quý một chút nào”, “không dính líu gì tới vòng danh lợi”. Người đã giữ được nếp sinh hoạt giản dị, lành mạnh, đến cuối đời vẫn là một con người sống trong sạch, vì nước, vì dân, không vụ lợi. Đã có không ít thời kỳ Hồ Chí Minh có cuộc sống vật chất thật cực khổ, chịu mọi khổ ải của chúng sinh, nhất là lúc hoạt động bí mật và đặc biệt thời gian ở trong tù. Nhưng Hồ Chí Minh nhiều lúc thi vị hóa cuộc sống gian khổ của mình. Trong tù của chính quyền Tưởng Giới Thạch, Người thi vị hóa tất cả nỗi khổ ải của một người tù phải trải qua: ăn đói, mặc rét, bị trói và bị dẫn giải đi hết nhà lao này đến nhà lao khác, bị rụng răng, bị ghẻ lở, bị rệp cắn,... thành những bài thơ bất hủ. Khi miền Bắc được giải phóng, Hồ Chí Minh cùng cơ quan Đảng và Chính phủ về Hà Nội. Cơ quan đã định sắp xếp cho Người ở ngôi nhà của Toàn quyền Đông Dương (một ngôi nhà theo lối kiến trúc Pháp, rất đẹp, trang trọng với tổng diện tích sử dụng gần 1.300m2), nhưng Người không ở mà đề nghị dùng ngôi nhà này làm nơi tiếp khách của Nhà nước (nay là Phủ Chủ tịch), còn Người tự nguyện sống và làm việc trong một ngôi nhà cấp 4 và sau này (năm 1958) là ngôi nhà sàn được xây mới.
Khi đã trở về Thủ đô Hà Nội, bữa ăn hằng ngày của Người ăn đủ chất, thanh đạm, sạch sẽ, tiết kiệm, không bày vẽ nhiều món, lãng phí. Điều này đúng như đức tính của Người khi phục vụ bàn trong một khách sạn ở Luân Đôn năm 1915. Hồi đó, những người khác vứt hết thức ăn thừa vào sọt rác, còn Người thì gói ghém một số thức ăn thừa vào một tờ giấy sạch sẽ rồi đưa ra ngoài đường phố Luân Đôn cho những người nghèo khó. Mặc dù, Hồ Chí Minh quan niệm: “Cách ăn mặc phải sạch sẽ, giản đơn, chất phác, chớ lượt thượt, xa xỉ, lòe loẹt”. Người đi dép lốp cao su, mòn vẹt đế, gá miếng cao su vào chỗ bị vẹt chứ không thay đôi dép khác. Người đã dành dụm tiền lương và tiền nhuận bút (gửi sổ tiết kiệm) để tặng quà cho các cháu thiếu niên, nhi đồng, tặng quà cho các cụ già. Có lúc, Người rút hết không còn một xu trong sổ tiết kiệm (năm 1967) ủng hộ các đội tự vệ sao vuông Hà Nội trực chiến pháo 12,7 mm trên các nóc nhà khu Ba Đình và các đơn vị trực chiến khác mua nước giải khát trong mùa hè ác liệt đạn bom của chiến tranh phá hoại, v.v. Hồ Chí Minh làm những việc đó một cách tự nhiên, có ý thức rõ ràng về cuộc sống của một vị Chủ tịch Đảng, Chủ tịch nước ở một đất nước còn nghèo và không ra vẻ cao đạo, ra vẻ ta đây, mà đã thành nếp sống: cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư.
Hồ Chí Minh tự hành xử những điều đó trong cuộc sống hằng ngày, tuy giống, nhưng về bản chất thì không theo kiểu của tôn giáo, nghĩa là không ép xác khổ hạnh. Người sống một cuộc sống ung dung, thư thái, tự tại. Lúc gặp muôn vàn khó khăn, kể cả đối mặt với cái chết, Người vẫn bình tĩnh; lúc ở vào cái cao trào sự mừng vui nào đó của dân tộc và của cá nhân mình, Người không lạc quan tếu, không chủ quan, không tự kiêu, tự mãn. Người đã dồn tâm, dồn trí, dồn lực chăm lo cho nước cho dân, thoát khỏi mọi sự cám dỗ quyền lực, tiền bạc, phú quý. Hồ Chí Minh là con người chế định được cái tôi trong muôn sự biến thiên của cuộc đời. Người biết cái đủ và biết điểm dừng. Hồ Chí Minh nói nhiều đến cá nhân nhưng không sa vào chủ nghĩa cá nhân; nói nhiều đến dân tộc mà không sa vào chủ nghĩa dân tộc hẹp hòi. Đặc biệt, Người nói nhiều đến quyết tâm làm một việc gì đó nhưng không sa vào chủ quan, duy ý chí, duy tâm; nói nhiều đến đạo đức và sự nghiêm minh của pháp luật nhưng không tuyệt đối hóa một cái nào mà luôn có sự gắn kết nhuần nhuyễn giữa “đức trị” và “pháp trị”, vừa có lý vừa có tình, v.v.
Nhà văn hóa Hồ Chí Minh là như thế! Ứng xử của Người thật tuyệt vời. Phong cách ứng xử Hồ Chí Minh rất cần và phải được mọi người dân, cán bộ, đảng viên, trước hết là cán bộ chủ trì, chủ chốt trong hệ thống chính trị học tập và vận dụng vào cuộc sống, nhất là trong thực hiện Chỉ thị 05-CT/TW của Bộ Chính trị (khóa XII) về đẩy mạnh việc học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh cũng như trong việc thực hiện Nghị quyết Đại hội của Đảng, gần đây là Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XII) về tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng; ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ.
Văn hóa, đạo đức Hồ Chí Minh - giá trị bất diệt / Quang Lân tuyển chọn // Sách Cẩm nang học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh. - H.: Dân trí, 2019. - Tr. 329-334
Sở dĩ hình ảnh Hồ Chí Minh sống mãi với non sông đất nước Việt Nam, thấm sâu vào đời sống tinh thần của nhân dân tiến bộ trên thế giới, là vì những giá trị văn hóa, đạo đức tốt đẹp đã hội tụ và biểu hiện trong suốt cuộc đời hiến dâng cho cách mạng của Người.
Thực tiễn cho thấy, sức sống mãnh liệt của giá trị văn hóa, đạo đức Hồ Chí Minh đã thấm vào tinh thần dân tộc, hun đúc nên giá trị văn hóa, đạo đức Việt Nam và lan tỏa, hòa vào đời sống tinh thần của các dân tộc tiến bộ trên thế giới. Đó cũng là một trong những lý do Hồ Chí Minh trở thành chiến sĩ tiên phong, năng động, tích cực nhất trên thế giới, trong sự nghiệp đấu tranh vì hòa bình, độc lập, dân chủ và tiến bộ xã hội. Ấy vậy mà một số người - những kẻ thâm thù chủ nghĩa cộng sản, cố tình chống lại sự phát triển, tiến bộ của dân tộc Việt Nam vẫn xuyên tạc, bôi xấu Hồ Chí Minh. Họ chống Đảng, chống lại sự nghiệp cách mạng Việt Nam và chống cả những giá trị tốt đẹp mà Hồ Chí Minh đã cống hiến trọn đời cho tiến bộ xã hội. Một trong những tiêu điểm chống đối rõ ràng nhất của chúng là “bôi đen” Hồ Chí Minh về văn hóa, đạo đức. Hành động ám muội, xấu xa, bỉ ổi của họ bấy lâu nay trên các diễn đàn, tán phát trên in-tơ-nét, chẳng khác những con bọ húc đầu vào núi, bởi giá trị văn hóa, đạo đức Hồ Chí Minh có sức sống bất diệt, là tài sản tinh thần vô giá không chỉ của dân tộc Việt Nam, mà còn của nhân loại tiến bộ.
1. Ở Hồ Chí Minh, “nhà văn hóa” trùm lên tất cả các danh vị khác. Thực tiễn cho thấy, có người được coi là anh hùng dân tộc nhưng không phải là nhà văn hóa và ngược lại. Hồ Chí Minh có cả “hai trong một”. Người đem văn hóa phổ vào mọi mặt của đời sống xã hội, đồng thời thúc đẩy sự phát triển của nó: “Lấy văn hóa soi đường cho quốc dân đi”. Sự nghiệp cách mạng Việt Nam đã minh chứng, văn hóa Hồ Chí Minh có trong chiến lược, đường lối, chủ trương, chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước ta; trong chính trị, kinh tế, xã hội của đất nước. Đồng thời, văn hóa đó có cả trong tiếng “gầm đại bác” tiêu diệt quân thù ở Điện Biên Phủ; điệu hò của các chị, các anh dân công lội suối, băng rừng tiếp tế cho chiến trường; trong trận tiến công chiến lược làm nên đại thắng mùa Xuân năm 1975; trong tiếng học i, tờ của trẻ em khi cắp sách đến trường và cả trong cuộc chiến đấu khổng lồ chống lại nghèo nàn và lạc hậu,v.v. Hồ Chí Minh đã mở ra một nền văn hóa mới cho dân tộc Việt Nam, huy động các tiềm năng vào việc xây dựng chế độ mới, làm rạng rỡ dân tộc Việt Nam. Nhân loại đã, đang và sẽ phấn đấu cho một tương lai tuơi sáng, trong đó có việc phát huy những giá trị tốt đẹp, đấu tranh chống lại những gì phản động, lạc hậu - sự nghiệp đó chính là sự nghiệp của văn hóa, mà lực lượng nòng cốt là những danh nhân văn hóa. Điều đó cắt nghĩa vì sao những danh nhân văn hóa thế giới đều là những vĩ nhân “đi trước thời đại", có tầm nhìn xa trông rộng, nhãn quan của họ có thể nhìn xuyên thế kỷ, với tư chất một nhà văn hóa kiệt xuất. Hồ Chí Minh là một người như vậy.
Từ vai trò định hướng sự phát triển của văn hóa, Hồ Chí Minh đã khởi đầu xây dựng một nền văn hóa mới, theo hướng: “dân tộc, khoa học và đại chúng”. Văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, vừa là mục tiêu, vừa là động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội và là sự thể hiện bản sắc, cốt cách dân tộc. Vận mệnh mỗi dân tộc luôn chịu sự chi phối, quy định bởi việc lựa chọn hướng đi. Hồ Chí Minh đã chọn cho dân tộc Việt Nam con đường: độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội - sự lựa chọn hợp quy luật của văn hóa. Nhờ sự định hướng đúng đắn ấy mà cách mạng Việt Nam đã huy động toàn bộ sức mạnh của dân tộc, cả quá khứ và hiện tại, kết hợp với sức mạnh thời đại, tạo động lực tinh thần to lớn thúc đẩy đất nước ngày càng phát triển. Các thế lực thù địch thường xuyên tạc rằng, Hồ Chí Minh đã đem văn hóa ngoại lai - chủ nghĩa Mác - Lê-nin - du nhập vào Việt Nam, làm cho dân tộc Việt Nam chọn sai con đường phát triển. Lập luận của họ thật cũ rích, khi hệ thống xã hội chủ nghĩa không còn, họ lấy những khó khăn hiện tại của phong trào cộng sản quốc tế để cho đó là sự thất bại của chủ nghĩa Mác - Lê-nin. Họ khoét sâu vào những hạn chế, khuyết điểm trong tiến trình phát triển của cách mạng Việt Nam để phủ nhận con đường mà Đảng, Hồ Chí Minh và nhân dân ta đã lựa chọn. Nhưng họ không biết hay cố tình không biết rằng: quy luật phát triển tất yếu của các dân tộc trên thế giới là tiến lên chủ nghĩa xã hội, mặc dù con đường đó đối với mỗi dân tộc không bằng phẳng, mà đầy khó khăn. Vì thế, con đường phát triển của nhân dân Việt Nam chỉ duy nhất là: độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội - con đường mà chủ nghĩa Mác - Lê-nin đã chỉ ra. Đó là giá trị bất diệt của văn hóa, đạo đức Hồ Chí Minh và cũng là thông điệp về sự phát triển, không thế lực thù địch nào có thể xuyên tạc được.
Trong sự phát triển của mỗi dân tộc, văn hóa (theo nghĩa rộng) điều chỉnh việc hoạch định cương lĩnh, đường lối, chính sách của hệ thống chính trị. Tính đúng đắn của cương lĩnh, đường lối, chính sách, chủ trương,... của hệ thống chính trị thường tỉ lệ thuận với trình độ văn hóa của dân tộc. Hành vi biểu hiện của tổ chức chính trị, của chính trị gia phản ánh trình độ văn hóa chính trị của tổ chức chính trị, chính trị gia đó. Vì thế, trong lĩnh vực chính trị, nếu không chú ý đến lĩnh vục văn hóa chính trị thì tư cách của người hoạt động chính trị sẽ thiếu mặt văn hóa. Với con người Hồ Chí Minh, văn hóa - đạo đức - chính trị luôn hòa quyện chặt chẽ với nhau, cùng hướng tới tiến bộ xã hội, biểu hiện hành vi của Người luôn thể hiện tư cách của nhà chính trị, nhà đạo đức và nhà văn hóa kiệt xuất. Tại khóa họp lần thứ 24 của Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa của Liên hợp quốc đã thông qua Nghị quyết khuyến nghị các quốc gia thành viên kết hợp tổ chức Kỷ niệm 100 năm Ngày sinh của Hồ Chí Minh - Anh hùng giải phóng dân tộc, Nhà văn hóa kiệt xuất của Việt Nam. Nghị quyết khẳng định: “Hồ Chí Minh một biểu tượng xuất sắc về sự tự khẳng định dân tộc, đã cống hiến trọn đời mình cho sự nghiệp giải phóng, dân tộc của nhân dân Việt Nam, góp phần vào cuộc đấu tranh chung của các dân tộc vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội”. Năm 1923, khi tiếp xúc với Hồ Chí Minh, nhà báo, nhà thơ Xô-viết O-sip Man-dels-tam đã nhận xét: “Từ Nguyễn Ái Quốc (Hồ Chí Minh) đã tỏa ra một thứ văn hóa, không phải văn hóa Âu châu, mà có lẽ là một nền văn hóa tương lai” .
Văn hóa là thước đo của sự phát triển xã hội. Vì vậy, nhà văn hóa kiệt xuất Hồ Chí Minh đã huy động toàn bộ sức mạnh văn hóa Việt Nam vào cuộc cách mạng, nhằm thực hiện: “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”. Người nhấn mạnh quan điểm văn hóa trong việc khẳng định cốt cách, hay đặc tính (bản sắc) của dân tộc, của cộng đồng dân cư. Văn hóa của dân tộc Việt Nam đã tạo dựng nên tâm hồn, khí phách, bản lĩnh của dân tộc và làm rạng rỡ, vẻ vang cho dân tộc. Nó là thành quả hàng ngàn năm dựng nước và giữ nước, đồng thời là kết quả của quá trình giao lưu văn hóa với các dân tộc khác để luôn tự hoàn thiện mình. Mỗi dân tộc, quốc gia, cộng đồng dân cư, trong quá trình hình thành, phát triển, đều tạo nên một cốt cách, bản sắc văn hóa riêng biệt; nó như cái hộ chiếu, thẻ căn cước của con người. Nếu đánh mất nó thì coi như đánh mất chính mình và cộng đồng dân cư, dân tộc, quốc gia của mình, với tư cách là đơn vị văn hóa và do đó, bản sắc - cốt cách văn hóa là yếu tố bảo đảm cho các quyền cơ bản: độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của mỗi quốc gia, dân tộc. Việc giữ gìn, phát huy bản sắc văn hóa, cốt cách của mình, không chấp nhận sức ép nô dịch của văn hóa ngoại lai là trách nhiệm của dân tộc.
2. Đạo đức Hồ Chí Minh là sự thống nhất giữa tư tưởng và hành động, giữa nói và làm, hướng tới tiến bộ xã hội. “Đạo đức” mà Hồ Chí Minh đề cập là đạo đức mới - đạo đức cách mạng, khác hẳn với đạo đức cũ: “Đạo đức cũ như người đầu ngược xuống đất chân chổng lên trời. Đạo đức mới như người hai chân đứng vững được dưới đất, đầu ngửng lên trời” . Theo Hồ Chí Minh, đạo đức cách mạng được biểu hiện ở các phẩm chất, như: lòng nhân ái, tính nhân văn cao cả, trung với nước, hiếu với dân, “cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư”, tinh thần quốc tế trong sáng, v.v. Đây là lĩnh vực nhạy cảm của văn hóa và là cái gốc của sự phát triển. Trong xã hội hiện đại, luật pháp ngày càng đầy đủ hơn, chặt chẽ hơn, nhưng ngoài luật pháp thì đạo đức giữ vai trò đặc biệt quan trọng trong việc điều tiết các quan hệ xã hội. Hồ Chí Minh bao giờ cũng chú ý cả “đức trị” và “pháp trị”, xử lý mọi công việc vừa có lý, vừa có tình. Với mỗi con người cụ thể, Hồ Chí Minh coi trọng cả đức và tài, nhưng xét về thứ tự ưu tiên thì Người vẫn cho đức là cơ bản hơn cả. Đạo đức đối với người cách mạng: “Cũng như sông thì có nguồn mới có nước, không có nguồn thì sông cạn. Cây phải có gốc, không có gốc thì cây héo. Người cách mạng phải có đạo đức, không có đạo đức thì dù tài giỏi mấy cũng không lãnh đạo được nhân dân. Vì muốn giải phóng cho dân tộc, giải phóng cho loài người là một công việc to tát, mà tự mình không có đạo đức, không có căn bản, tự mình đã hủ hóa, xấu xa thì còn làm nổi việc gì?”. Có thể nói, cuộc đời Hồ Chí Minh như “pho sách” lớn, biểu tượng sáng ngời về đạo đức, đã lan tỏa, thẩm thấu, trở thành giá trị văn hóa vĩnh hằng trong các thế hệ người Việt Nam và nhân dân tiến bộ toàn thế giới.
Tuy vậy, có không ít người cho rằng, trong kinh tế thị trường, chỉ cần có tài thì ở đâu cũng “sống” được, cũng đóng góp của cải cho xã hội được, cho nên làm ăn kinh tế không nhất thiết cần đạo đức. Đó cũng là một cách nghĩ, nhưng chắc chắn không phải là cách nghĩ của những người cộng sản, mà Hồ Chí Minh là tiêu biểu. Bởi nó đã tách văn hóa, đạo đức ra khỏi kinh tế và như vậy, con đường làm ăn kinh tế rất dễ đi vào ngõ cụt. Bởi lẽ, mọi sự phát triển đều dựa trên nền văn hóa, đạo đức; nếu không có đạo đức làm cái căn bản thì làm ăn kinh tế chỉ có chụp giật mà thôi. Thế giới càng phát triển nhanh thì người ta càng báo động mạnh hơn về tính bền vững của sự phát triển, về sự mất đi cái tính văn hóa, về sự phai nhạt dần cốt cách của từng dân tộc, về sự tha hóa của chính bản thân con người. Từ lâu, các thế lực thù địch đã ra sức đặt điều, xuyên tạc,... về đạo đức Hồ Chí Minh, nhất là về đời tư của Người. Chúng lấy đó làm phương pháp hành động chống lại cách mạng Việt Nam. Lúc thì chúng dùng biện pháp, thủ thuật tinh vi, nói xa nói gần, nói vòng vo; lúc thì nói trực diện, trắng trợn, bốp chát, cay nghiệt, chửi rủa,... cốt là để lung lạc tinh thần nhiều người, đặc biệt là đối với thế hệ trẻ. Nhưng thử hỏi và nhìn lại xem họ đã làm được những gì, lung lạc được những ai, ngoài nhóm người nhẹ dạ cả tin, lập trường hay bị dao động? Cả cuộc đời Hồ Chí Minh luôn phấn đấu vươn tới những giá trị thiện và đẹp, đó là những giá trị cao đẹp nhất mà bất kỳ ai có lương tâm trong sáng đều muốn đạt tới: hướng thiện, chân thành, nhân ái, đấu tranh vì sự tiến bộ, xả thân vì việc nghĩa, lo cho sự nghiệp giải phóng dân tộc, giải phóng xã hội - giai cấp và giải phóng con người. Hồ Chí Minh quan niệm rằng: “Làm cách mạng để cải tạo xã hội cũ thành xã hội mới là một sự nghiệp rất vẻ vang, nhưng nó cũng là một nhiệm vụ rất nặng nề, một cuộc đấu tranh rất phức tạp, lâu dài, gian khổ. Sức có mạnh mới gánh được nặng và đi được xa. Người cách mạng phải có đạo đức cách mạng làm nền tảng, mới hoàn thành được nhiệm vụ cách mạng vẻ vang”. Đúng dịp kỷ niệm 39 năm Ngày thành lập Đảng (năm 1969) - năm cuối cuộc đời, Người viết bài: “Nâng cao đạo đức cách mạng, quét sạch chủ nghĩa cá nhân" để giáo dục cán bộ, đảng viên. Trước khi đi vào cõi vĩnh hằng, Người không có điều gì phải hối hận, nhưng chỉ tiếc nuối! Tưởng là tiếc nuối về vật chất, chưa được hưởng cái này cái nọ, nhưng cái mà Người tiếc nuối là không được phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân lâu hơn nữa, nhiều hơn nữa. Đó là sự tiếc nuối của một nhà văn hóa, đạo đức lỗi lạc; tiếc nuối của một bậc đại nhân, đại trí, đại dũng. Trong Di chúc, Người viết: “Mỗi đảng viên và cán bộ phải thật sự thấm nhuần đạo đức cách mạng, thật sự cần kiệm liêm chính, chí công vô tư. Phải giữ gìn Đảng ta thật trong sạch, phải xứng đáng là người lãnh đạo, là người đày tớ thật trung thành của nhân dân. ĐOÀN VIÊN VÀ THANH NIÊN ta nói chung là tốt, mọi việc đều hăng hái xung phong, không ngại khó khăn, có chí tiến thủ. Đảng cần phải chăm lo giáo dục đạo đức cách mạng cho họ, đào tạo họ thành những người thừa kế xây dựng chủ nghĩa xã hội vừa “hồng” vừa “chuyên”. Có thể nói, ở đâu, lúc nào Hồ Chí Minh cũng nói, viết và làm luôn thống nhất với nhau và đều liên quan đến đạo đức. Đó là nếp sống văn hóa thường nhật của Hồ Chí Minh. Khi cho đạo đức là cái gốc của cây, cái ngọn nguồn của sông, cái căn bản của người cách mạng, Hồ Chí Minh trở thành một trong những người tiên phong trong cuộc cách mạng về đạo đức; đồng thời là một chiến sĩ văn hóa trong hiện thực cuộc sống. Sự thật này hoàn toàn bác bỏ những lời lẽ xuyên tạc ác độc của các thế lực thù địch đối với cách mạng Việt Nam, với Hồ Chí Minh. Hơn thế, họ càng xuyên tạc, phủ nhận thì văn hóa, đạo đức Hồ Chí Minh càng tỏa sáng.
Hồ Chí Minh không phải là người chuyên viết sách lý luận về đạo đức, nhưng là người Việt Nam đầu tiên đề cập đạo đức công dân trong chế độ mới, đã gắn trách nhiệm với nghĩa vụ công dân. Khi đề cập đến cán bộ, đảng viên, Người đã tác động đúng vào khâu “trọng điểm”, “trung tâm” của xã hội. Vì khi Đảng cầm quyền, cán bộ, đảng viên là những người tiên phong trong các phong trào cách mạng, là cái gốc của mọi công việc, là dây chuyền của bộ máy. Điều đó cắt nghĩa tại sao trong “hàm lượng” Hồ Chí Minh nói, viết về đạo đức thì Người dành nhiều nhất cho cán bộ, đảng viên. Trong đời sống xã hội, mỗi người luôn có vô vàn các mối quan hệ, nó đan xen, chồng chéo, phong phú và vô cùng phức tạp. Song, tất cả được Hồ Chí Minh quy vào ba mối quan hệ chủ yếu là: đối với người, đối với việc và đối với mình; trong đó, tự mình đối với bản thân mình là khó khăn nhất và Người là gương sáng tự mình làm chủ bản thân mình về văn hóa, đạo đức, từ thuở hàn vi cả đến khi là Chủ tịch Đảng, Chủ tịch nước. Bản chất đạo đức Hồ Chí Minh chính là chủ nghĩa nhân đạo truyền thống kết hợp và tiếp nối chủ nghĩa nhân đạo hiện đại tiến bộ, thể hiện đậm nét truyền thống nhân ái, tính chiến đấu không khoan nhượng với cái xấu, cái ác, hướng con người tới cái thiện, cái tốt, cái đúng. Đặc trưng đạo đức Hồ Chí Minh là sự thống nhất giữa tư tưởng và hành động, giữa nói và làm, nhiều khi làm nhiều hơn nói, “học” đi đôi với “hành”, lý luận gắn liền với thực tiễn, v.v. Đó là những cặp chỉnh thể, nếu thiếu một vế sẽ là vô nghĩa.
Vẫn còn đó những cán bộ, đảng viên không làm tròn nhiệm vụ, thậm chí có một bộ phận không nhỏ đang suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống; một số phạm phải những tiêu cực, như: tham nhũng, lãng phí, quan liêu, xa rời quần chúng,... nhưng không phải như các thế lực thù địch dựa vào đó, hoặc căn cứ vào cá nhân cán bộ, đảng viên hư hỏng để rồi bôi xấu Đảng ta. Vì theo quan điểm của Hồ Chí Minh thì Đảng cũng từ trong xã hội mà ra, trong Đảng cũng bị lây ngấm những cái xấu từ bên ngoài vào, nhưng Người tin Đảng ta - Đảng của đạo đức và văn minh - sẽ giáo dục, rèn luyện đội ngũ đảng viên làm tròn nhiệm vụ của mình.
Yêu thương con người - nét đẹp vĩnh hằng trong chuẩn mực đạo đức Hồ Chí Minh / Quang Lân tuyển chọn // Sách Cẩm nang học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh. - H.: Dân trí, 2019. - Tr. 314-316
Ngày 5 tháng 6 năm 1911, khi xuống tàu Đô đốc La-tút-xơ Tơ-rê-vin làm phụ bếp để ra nước ngoài tìm đường cứu dân, cứu nước, ngoài chút kiến thức học được ở nhà trường và đôi bàn tay sẵn sàng làm đủ nghề “miễn là lương thiện” để sống và hoạt động. Hành trang của anh thanh niên Nguyễn Tất Thành chỉ là lòng yêu nước và yêu thương con người sâu sắc. Hành trang giản dị ấy, nhưng lại là kết tinh của truyền thống hàng ngàn năm dựng nước và giữ nước của dân tộc ta, được bổ sung bằng mồ hôi và máu của những phu Cửa Rào, phu đồn điền cao su Lộc Ninh, của hàng loạt những sĩ phu đã bỏ mình vì nước trong cuộc kháng chiến chống Pháp đầu thế kỷ; truyền thống ấy có lời hát ru của bà, có làn điệu ngọt ngào, da diết của dân ca xứ Nghệ... Tất cả sâu lắng trong lòng Anh, được chính Anh bổ sung, nâng cao và hoàn thiện suốt đời, trở thành lòng nhân ái bao la Hồ Chí Minh.
Nghiên cứu chủ nghĩa Mác-Lênin và đặc biệt là nhận thức từ thực tiễn đấu tranh của các dân tộc, có dịp so sánh những người Pháp ở Pháp với những tên thực dân Pháp ở Đông Dương, hòa mình vào cuộc sống của những người lao khổ ở khu Hắc Lem, thành phố Niu Oóc... Hồ Chí Minh đã rút ra kết luận quan trọng: Trên đời này có hai hạng người: người thiện và người ác; hai thứ việc: việc chính và việc tà. Trải qua quá trình 10 năm tìm tòi, khảo nghiệm, năm 1920 khi bắt gặp chủ nghĩa Mác - Lênin, Hồ Chí Minh đã tìm thấy ở đây con đường giải phóng dân tộc, tìm thấy cái cẩm nang để giải phóng triệt để con người. Đó là độc lập gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Bởi theo Người, tình yêu thương con người không thể chung chung, trừu tượng, mà thiết thực, cụ thể, trước hết giành cho người mất nước, người cùng khổ, chính vì vậy, Người giành cả cuộc đời Người để lo giải phóng cho dân tộc, đấu tranh cho con người thoát khỏi áp bức, bất công. Người tâm sự: “Cả đời tôi chỉ có một mục đích, là phấn đấu cho quyền lợi của Tổ quốc, và hạnh phúc của quốc dân; những khi tôi phải ẩn nấp nơi núi non, hoặc ra vào chốn tù tội, xông pha sự hiểm nghèo, là vì mục đích đó”.
Với Hồ Chí Minh, tình yêu thương con người là không biên giới. Trước hết, Người lo cho dân tộc của Người và sau đó, Người lo cho tất cả những kiếp người trên hành tinh còn bị đọa đầy, đau khổ, bởi vì: “Họ là thân thích ruột già, công nông thế giới đều là anh em”.
Tư tưởng yêu thương con người được Hồ Chí Minh nêu lên và vận động mọi người cùng thực hiện suốt cả cuộc đời. Cho tới trước lúc đi xa, trong lời Di chúc, khi để lại: “Muôn vàn tình thân yêu cho toàn dân, toàn Đảng, cho toàn thể bộ đội, cho các cháu thanh niên và nhi đồng”, và “gửi lời chào thân ái đến các đồng chí, các bầu bạn và các cháu thanh niên, nhi đồng quốc tế”. Người vẫn ân cần nhắc nhở toàn Đảng phải tiếp tục chăm lo cho con người. Trước hết là những người đã hy sinh một phần xương máu cho công cuộc kháng chiến, là cha mẹ vợ con thương binh, liệt sỹ, là bà con nông dân, là thanh niên, phụ nữ... lo cho hiện tại, lo đào tạo cho tương lai: Ngay cả “với những nạn nhân của chế độ cũ như: trộm cắp, gái điếm, cờ bạc, buôn lậu... thì nhà nước phải vừa giáo dục, vừa dùng pháp luật để cải tạo họ, giúp họ trở nên những người lao động lương thiện”.
Tình yêu thương con người của Bác Hồ là rất cụ thể, từ việc to như lo giải phóng cho con người, khuyến khích: “Phần tốt ở mỗi con người nẩy nở như hoa mùa xuân, và phần xấu bị mất dần đi”, đến việc chăm lo từng con người cụ thể, không chỉ: Lụa tặng cụ già, sữa tặng bà mẹ sinh ba, mà là từng bát cơm, manh áo, từ chỗ ở, việc làm để an cư, lạc nghiệp đến tương cà mắm muối hàng ngày cho nhân dân. Bác lo cho cả dân tộc và chăm lo cho từng chiến sỹ bảo vệ, phục vụ quanh Người. Theo Bác: Yêu thương con người là phải tôn trọng, quý trọng con người. Bác đánh giá cao vai trò của nhân dân: “Trong bầu trời không gì quý bằng nhân dân”. Bác tôn trọng từ các nhà khoa học, các bậc hiền tài cho tới những người lao công quét rác, bởi theo Bác, từ Chủ tịch nước tới người lao động bình thường, nếu hoàn thành tốt nhiệm vụ, đều được coi trọng, đều vẻ vang như nhau. Theo Bác, yêu thương con người là phải sống với nhau có tình, có nghĩa. Năm 1968, khi làm việc với cán bộ Ban Tuyên huấn Trung ương về việc xuất bản sách “Người tốt, việc tốt”, nhằm tuyên truyền sâu rộng những gương điển hình tiên tiến trong lao động sản xuất, trong ứng xử giữa những con người, Bác Hồ đã nhắc nhở: “Hiểu chủ nghĩa Mác-Lênin là phải sống với nhau có tình, có nghĩa. Nếu thuộc bao nhiêu sách mà sống không có tình, có nghĩa thì sao gọi là hiểu chủ nghĩa Mác-Lênin được”.
Yêu thương con người vận dụng vào trong Đảng, trong tổ chức là phải “có tình đồng chí thương yêu lẫn nhau”. Đồng chí Vũ Kỳ, Thư ký riêng của Bác kể lại: Vào dịp tháng 5 các năm 1966, 1968, 1969, Bác đều cho mang bản Di chúc đã viết năm 1965 ra để bổ sung, sửa chữa. Năm 1966, bên cạnh câu đã đánh máy từ năm 1965: “Trong Đảng thực hành dân chủ rộng rãi, thường xuyên nghiêm chỉnh tự phê bình và phê bình là cách tốt nhất để củng cố và phát triển sự đoàn kết và thống nhất của Đảng", Bác ghi thêm vào cùng dòng câu: “Phải có tình đồng chí thương yêu lẫn nhau”. Chỉ một dòng này thôi, cho thấy sự trăn trở của Người về việc không ngừng rèn luyện đạo đức cho mỗi cán bộ, đảng viên. Trong bản tự tay đánh máy năm 1965, Bác gạch chân 5 chữ: Tự phê bình và phê bình. Song dường như việc nhấn mạnh, kể cả đặt chữ tự phê bình lên trước phê bình chưa làm Người yên tâm, nên năm 1960 Người bổ sung thêm câu: Phải có tình đồng chí thương yêu lẫn nhau. Đây chính là đòi hỏi xác định động cơ, hay nói chính xác hơn là cái Tâm của người phê bình. Bởi khi phê bình nhau, cần đúng lúc đúng chỗ đã khó, song mục đích phê bình để giúp đỡ nhau tiến bộ mới quan trọng hơn, cái vũ khí phê bình ấy phải trở thành văn hóa phê bình, chứ không phải là cớ để sát phạt, bói móc nhau.
Yêu thương con người là một trong bốn chuẩn mực đạo đức Hồ Chí Minh. Các nhà đạo đức học, các nhà khoa học nghiên cứu về tư tưởng Hồ Chí Minh đồng thuận như vậy. Trong 4 chuẩn mực ấy (Trung với nước, hiếu với dân; yêu thương con người; cần kiệm liêm chính, chí công vô tư; tinh thần quốc tế trong sáng) không chuẩn mực nào có thể xem nhẹ, vì cả 4 chuẩn mực ấy là tiêu chí để đánh giá con người mới, con người mang dấu ấn đạo đức Hồ Chí Minh.
Nhớ về Người, ôn lại những lời Người dạy về đạo đức, đặc biệt soi vào tấm gương đạo đức của Người, vị lãnh tụ suốt đời tôn trọng nguyên tắc: “Nói thì phải làm”, mỗi người chúng ta càng thêm nhớ Bác, càng cố gắng thiết thực làm theo lời Bác dạy. Mọi người, mọi nhà, mọi cấp, mọi ngành ai ai cũng khuyến khích cho sự nẩy nở phần thiện vốn có ở mỗi con người và chung tay đẩy lùi phần ác cũng luôn rình rập quanh ta - đó chính là thực hiện chuẩn mực yêu thương con người - nét đẹp vĩnh hằng của đạo đức Hồ Chí Minh.
NGUYỄN THỊ HẰNG. Tầm quan trọng của công tác tuyên truyền tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh với học sinh, sinh viên trong giai đoạn hiện nay / Nguyễn Thị Hằng // Sách Tuyên truyền giáo dục tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh góp phần xây dựng con người mới ở Việt Nam. - H.: Thanh niên, 2017. - Tr. 205-213
Đối với học sinh, sinh viên - lực lượng thanh niên, đội ngũ trí thức tương lai của nước nhà, việc học tập tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh có tầm quan trọng đặc biệt, nhất là trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa đất nước, gắn liền với phát triển kinh tế tri thức, hội nhập vào đời sống toàn cầu.
Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn quan tâm đến công tác giáo dục thế hệ trẻ, bởi thanh niên là lực lượng xã hội to lớn, một trong những nhân tố quan trọng quyết định tương lai, vận mệnh dân tộc; là lực lượng chủ yếu trên nhiều lĩnh vực, đảm nhiệm những công việc khó khăn, gian khổ đòi hỏi sự hy sinh, cống hiến và sáng tạo.
Trong quá trình lãnh đạo đất nước, Đảng ta luôn đánh giá cao vai trò, vị trí và xác định thanh niên là lực lượng xung kích cách mạng, Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh là đội dự bị tin cậy của Đảng; công tác thanh niên là vấn đề sống còn của dân tộc. Trong sự nghiệp “trồng người”, Chủ tịch Hồ Chí Minh rất coi trọng việc giáo dục thế hệ trẻ thành những con người vừa “hồng” vừa “chuyên” để phục vụ cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Trong Di chúc, Người căn dặn: “Đoàn viên, thành niên ta nói chung là tốt, mọi việc đều xung phong, không ngại khó khăn, có chí tiến thủ. Đảng cần chăm lo, giáo dục họ thành những người thừa kế xây dựng chủ nghĩa xã hội vừa “hồng” vừa “chuyên”.
Trong từng giai đoạn, thời kỳ cụ thể, Bộ Chính trị, Ban Bí thư và Ban Chấp hành Trung ương Đảng đều có Nghị quyết chuyên đề về sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác thanh niên. Kế thừa và phát triển các quan điểm của Đảng, ngày 25-7-2008, Hội nghị lần thứ 7 Ban Chấp hành Trung ương khóa X đã ra Nghị quyết số 25 về “Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác thanh niên trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa”. Nghị quyết đánh giá cao vai trò của thanh niên Việt Nam và tầm quan trọng của công tác thanh niên: “Thanh niên là rường cột của nước nhà, chủ nhân tương lai của đất nước, là lực lượng xung kích trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, một trong những nhân tố quyết định sự thành bại của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, hội nhập quốc tế và xây dựng chủ nghĩa xã hội. Thanh niên được đặt ở vị trí trung tâm trong chiến lược bồi dưỡng, phát huy nhân tố và nguồn lực con người. Chăm lo, phát triển thanh niên vừa là mục tiêu, vừa là động lực bảo đảm cho ổn định và phát triển bền vững của đất nước”; và “Công tác thanh niên là vấn đề sống còn của dân tộc”. Đây là phương hướng, nhiệm vụ để Đảng, Nhà nước và toàn xã hội chăm lo, phát triển thanh niên trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và hội nhập quốc tế.
Học sinh, sinh viên chính là đại diện của thế hệ trẻ vừa hồng vừa chuyên như mong muốn của Chủ tịch Hồ Chí Minh, lớp trí thức trẻ bổ sung cho đội ngũ trí thức nước nhà. Trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa đất nước, gắn liền với phát triển kinh tế tri thức. Nghị quyết số 27-NQ/TW, ngày 6-8-2008 Hội nghị lần thứ 7 Ban Chấp hành Trung ương khóa X về xây dựng đội ngũ trí thức trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước khẳng định: “Trong mọi thời đại, tri thức luôn là nền tảng tiến bộ xã hội, đội ngũ trí thức là lực lượng nòng cốt sáng tạo và truyền bá tri thức. Ngày nay, cùng với sự phát triển nhanh chóng của cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại, đội ngũ trí thức trở thành nguồn lực đặc biệt quan trọng, tạo nên sức mạnh của mỗi quốc gia trong chiến lược phát triển.
Chính vì vậy, với mục tiêu sớm đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển, cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại vào năm 2020, thì vấn đề đặt ra cho chúng ta là phải lựa chọn con đường phát triển rút ngắn, phát huy đến mức cao nhất mọi nguồn lực, tiềm năng trí tuệ của dân tộc, đặc biệt là năng lực sáng tạo của đội ngũ trí thức.
Tuy nhiên, thời kỳ phát triển kinh tế thị trường và hội nhập tạo cho chúng ta thời cơ nhưng cũng đặt ra không ít thách thức cho sự phát triển của đất nước nói chung và sự nghiệp đào tạo thế hệ trẻ nói riêng. Thuận lợi và khó khăn, thời cơ và thách thức đan xen nhau, tác động nhiều chiều lên các đối tượng thanh niên. Thanh niên Việt Nam trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước sẽ có sự chuyển biến cả về số lượng và chất lượng. Thanh niên nông thôn sẽ giảm dần theo sự chuyển đổi nền kinh tế và tốc độ đô thị hóa cũng như tốc độ công nghiệp hóa ngày càng nhanh. Thanh niên học sinh và sinh viên sẽ tăng lên theo chủ trương xã hội hóa học tập và đại chúng hóa đại học. Thanh niên có trình độ văn hóa, tay nghề và chuyên môn cao hơn trước nhờ thực hiện thị trường lao động trong nước và quốc tế. Đồng thời, thanh niên sẽ chịu ảnh hưởng nhiều hơn và trực tiếp hơn bởi xu hướng toàn cầu hóa và công nghệ thông tin phát triển nhanh chóng; có tư tưởng đa chiều và đòi hỏi cao hơn về dân chủ, công khai và công bằng; có nhu cầu và sở thích đa dạng và gần tiếp cận với nhu cầu của thanh niên thế giới. Nhu cầu và nguyện vọng của thanh niên rất đa dạng và nhiều khi vượt lên trên khả năng của đất nước, gia đình và bản thân. Bên cạnh những thành tựu to lớn của lực lượng thanh niên đóng góp vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, có một bộ phận thanh niên bị tác động bởi lối sống thực dụng và các tệ nạn xã hội, thiếu chí tiến thủ, vi phạm chuẩn mực đạo đức xã hội và pháp luật nhà nước.
Bối cảnh thế giới và trong nước cũng tác động đến đội ngũ trí thức nước nhà như Nghị quyết số 27-NQ/TW, ngày 6-8-2008 Hội nghị lần thứ 7 Ban Chấp hành Trung ương khóa X về xây dựng đội ngũ trí thức trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước đã chỉ ra: “Một bộ phận trí thức, kể cả người có trình độ học vấn cao, còn thiếu tự tin, e ngại, sợ bị quy kết về quan điểm, né tránh những vấn đề có liên quan đến chính trị. Một số giảm sút đạo đức nghề nghiệp, thiếu ý thức trách nhiệm và lòng tự trọng, có biểu hiện chạy theo bằng cấp, thiếu trung thực và tinh thần hợp tác. Một số trí thức không thường xuyên học hỏi, tìm tòi, trau dồi chuyên môn nghiệp vụ, thiếu chí khí và hoài bão. Nhiều trí thức trẻ có tâm trạng thiếu phấn khởi, chạy theo lợi ích trước mắt, thiếu ý chí phấn đấu vươn lên về chuyên môn.
Trong bối cảnh đó, để tiếp tục đẩy mạnh sự nghiệp giáo dục thanh niên nói chung và học sinh, sinh viên nói riêng, việc tuyên truyền học tập tư tưởng, tấm gương đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh càng quan trọng hơn bao giờ hết nhằm làm cho thanh niên thực sự trở thành rường cột của nước nhà, vững bước tiến công vào khoa học công nghệ.
Việc học tập tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh trước hết nhằm nâng cao năng lực tư duy lý luận và phương pháp công tác. Tư tưởng Hồ Chí Minh soi đường cho Đảng và nhân dân Việt Nam trên con đường thực hiện mục tiêu: dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Thông qua việc làm rõ và truyền thụ nội dung hệ thống quan điểm của Hồ Chí Minh về những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam, làm cho sinh viên nâng cao nhận thức về vai trò, vị trí tư tưởng Hồ Chí Minh đối với đời sống cách mạng Việt Nam; làm cho tư tưởng của Người ngày càng giữ vai trò chủ đạo trong đời sống tinh thần của thế hệ trẻ nước ta.
Thông qua học tập nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh để bồi dưỡng, củng cố cho sinh viên, thanh niên lập trường, quan điểm cách mạng trên nền tảng chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; kiên định mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội; tích cực, chủ động đấu tranh phê phán những quan điểm sai trái, bảo vệ chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước ta; biết vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh vào giải quyết các vấn đề đặt ra trong cuộc sống.
Đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh là tấm gương vô cùng trong sáng và cao thượng, kết tinh của tinh hoa văn hóa Việt Nam. Người không chỉ là một nhà tư tưởng lỗi lạc về văn hóa, sáng tạo ra một nền văn hóa mới, văn hóa cách mạng Việt Nam, kiến tạo ra một thời đại mới trong lịch sử phát triển của văn hóa dân tộc, mà chính bản thân Người, cuộc sống của Người, những việc làm bình thường hàng ngày của Người là hiện thân của nền văn hóa Việt Nam, là mẫu mực của con người Việt Nam. Tư tưởng, tâm hồn, cốt cách của Người là sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa chủ nghĩa yêu nước chân chính và chủ nghĩa quốc tế trong sáng, kết tinh những giá trị văn hóa phương Đông và phương Tây, truyền thống và hiện đại, dân tộc và quốc tế.
Đạo đức là một trong những vấn đề quan tâm hàng đầu và xuyên suốt toàn bộ sự nghiệp cách mạng của Hồ Chí Minh. Người không chỉ để lại những tác phẩm lý luận về đạo đức, mà còn là hiện thân mẫu mực của những hành vi đạo đức. Tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh bắt nguồn từ truyền thống đạo đức của dân tộc Việt Nam, những giá trị của tư tưởng đạo đức phương Đông và phương Tây, đặc biệt quan trọng là những tư tưởng đạo đức của chủ nghĩa Mác-Lênin. Theo Người, đạo đức là gốc rễ, là nền tảng, biểu hiện tập trung thông qua ba mối quan hệ: đối với mình, đối với người và đối với công việc. Với Hồ Chí Minh, đức là gốc, nhưng đức và tài phải kết hợp, phải đi đôi với nhau; người cách mạng phải có đức và tài mới hoàn thành được trọng trách Đảng và nhân dân giao phó.
Cuộc đời Hồ Chí Minh là một biểu tượng trong sáng, cao đẹp về chí khí cách mạng kiên cường, tinh thần độc lập tự chủ, lòng yêu nước, yêu nhân dân tha thiết, đạo đức cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư, tác phong khiêm tốn, giản dị. Người để lại cho chúng ta một tấm gương sáng về lòng nhân hậu, một tình yêu thương vô bờ bến, vì nước, vì dân, vì Đảng; một trí tuệ anh minh, mẫn tiệp; một tầm nhìn xa, trông rộng, sâu sắc; một mẫu mực tuyệt vời về phong cách tư duy, phong cách diễn đạt, phong cách lãnh đạo; phong cách làm việc; phong cách ứng xử và phong cách sinh hoạt; về sự nhất quán giữa tư tưởng và hành động, giữa lời nói và việc làm.
Học tập tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh góp phần giáo dục đạo đức, tư cách, phẩm chất cách mạng, biết sống ở đời và làm người hợp đạo lý, yêu cái tốt, cái thiện, ghét cái ác, cái xấu; nâng cao lòng tự hào về Người, về Đảng Cộng sản Việt Nam, tự nguyện “sống, chiến đấu, lao động, học tập theo gương Bác Hồ vĩ đại”.
Học tập tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh chính là học đạo làm người, giúp hoàn thiện nhân cách cá nhân, trang bị cho thế hệ trẻ trí tuệ và phương pháp tư duy biện chứng, để rèn luyện học sinh, sinh viên thành những chiến sĩ đi tiên phong trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước.
Đây chính là cơ sở lý luận, nền tảng để trên cơ sở kiến thức đã được học, học sinh, sinh viên vận dụng vào cuộc sống, tu dưỡng rèn luyện bản thân, hoàn thành tốt nhiệm vụ của mình, tạo nên một đội ngũ trí thức trẻ vừa “hồng” vừa “chuyên”, đóng góp thiết thực vào sự nghiệp xây dựng đất nước theo con đường mà Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta đã chọn, đặc biệt trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa đất nước, gắn liền với phát triển kinh tế tri thức, nhằm xây dựng một nước Việt Nam đàng hoàng hơn, to đẹp hơn như mong muốn và khát vọng lúc sinh thời của Chủ tịch Hồ Chí Minh.
NHỮNG CÁ NHÂN ĐIỂN HÌNH TRONG HỌC TẬP VÀ LÀM THEO GƯƠNG BÁC Ở TỈNH GIA LAI
LƯƠNG THANH. Đinh Yek hết lòng với dân làng / Lương Thanh // Sách Người tốt việc tốt làm theo gương Bác T.8. - Gia Lai : Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy, 2019. - Tr.10-12
Đến làng Ktu (xã Kon Chiêng, huyện Mang Yang, Gia Lai), hỏi thăm người dân về già làng Đinh Yek, bà con đều tỏ ra yêu mến, nể phục. Cũng bởi, nhiều năm qua, ông luôn tích cực vận động dân làng chung tay xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân.
Nằm ở phía Nam của xã Kon Chiêng, làng Ktu có truyền thống cách mạng, thuộc vùng căn cứ trong 2 cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ. Làng hiện có hơn 100 hộ, với khoảng 480 khẩu, chủ yếu là người Bahnar. Ông Đinh Nguiy - Chủ tịch UBND xã Kon Chiêng - cho hay: “Năm 2019, tổng diện tích sản xuất của làng là 360 ha, tăng 145 ha so với năm 2011; riêng diện tích lúa cả năm là hơn 56,2 ha, đảm bảo nguồn lương thực tại chỗ. Đến nay, bà con từng bước đa dạng cây trồng như: cà phê, hồ tiêu, bời lời, cao su, chanh dây, dứa, mì, bắp lai, đậu... Tổng đàn bò của làng khoảng gần 280 con, đời sống của người dân trong làng từng bước ổn định, số hộ nghèo giảm còn 45 hộ, chiếm khoảng 42%”.
Cũng theo Chủ tịch UBND xã Kon Chiêng, làng Ktu đạt được kết quả này có phần đóng góp không nhỏ của già làng Đinh Yek. Nhiều năm qua, ông Yek luôn trăn trở tìm cách giúp cho làng mình thoát cái đói, cái nghèo. Vì vậy, ông quyết tâm vận động dân làng thực hiện cuộc vận động “Làm thay đổi nếp nghĩ, cách làm trong đồng bào dân tộc thiểu số để từng bước vươn lên thoát nghèo bền vững”. Ông Yek bộc bạch: “Nhớ lời dạy của Bác Hồ về đại đoàn kết, mình phải có trách nhiệm tuyên truyền để dân làng một lòng đi theo Đảng và Bác Hồ, phát huy truyền thống đoàn kết yêu nước, giúp nhau xây dựng cuộc sống ấm no, hạnh phúc. Từ đó, mình bàn bạc với Ban nhân dân thôn quan tâm giúp bà con tìm hiểu kiến thức, kinh nghiệm sản xuất, mạnh dạn từ bỏ tập quán canh tác lạc hậu, thực hiện định canh, định cư, tận dụng điều kiện về đất đai, nguồn nước để từng bước chuyển diện tích vườn tạp và đất sản xuất kém hiệu quả sang các loại cây trồng cho thu nhập ổn định hơn”.
Để góp phần thực hiện cuộc vận động “Toàn dân đoàn kết xây dựng nông thôn mới, đô thị văn minh”, ông Yek đã vận động bà con tham gia xây dựng các công trình phục vụ sản xuất theo phương châm: “Nhà nước và Nhân dân cùng làm”. Kết quả, bà con đã đóng góp kinh phí và công lao động làm đường giao thông nông thôn, hiến đất, đóng góp ngày công và vật liệu để làm phòng học mẫu giáo, sửa chữa và làm mới 19 căn nhà cho hộ nghèo, tổ chức hơn 3.000 ngày công vần đổi giúp nhau sản xuất.
Mặt khác, trong các buổi họp dân và phát động phong trào “Toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc”, ông đã chỉ ra âm mưu, bản chất thâm độc của kẻ thù là muốn chia rẽ khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Đồng thời, ông cùng Ban nhân dân thôn thường xuyên vận động bà con chấp hành tốt chủ trương của Đảng, pháp luật của Nhà nước, các quy định của địa phương; cùng với tổ hòa giải của làng giải quyết kịp thời các vụ việc tranh chấp, mâu thuẫn nội bộ nhân dân; qua đó góp phần giữ vững an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội trên địa bàn.
Ông Byar - Trưởng thôn Ktu phấn khởi cho hay: “Già làng Đinh Yek luôn động viên, nhắc nhở người dân quan tâm cho con em đi học, tích cực xây dựng đời sống văn hóa ở khu dân cư, động viên thanh - thiếu niên duy trì luyện tập cồng chiêng và phát huy bản sắc văn hóa truyền thống. Bộ mặt nông thôn và đời sống tinh thần của dân làng Ktu ngày càng đi lên, bà con tin tưởng hơn vào sự lãnh đạo của Đảng, tỷ lệ hộ đạt gia đình văn hóa hàng năm trên 82%, tập thể làng Ktu nhiều năm liền giữ vững danh hiệu Làng văn hóa”.
Bà Nguyễn Thị Thanh Nga - Ủy viên Ban Thường vụ Huyện ủy, Chủ tịch Ủy ban MTTQ Việt Nam huyện Mang Yang: “Với bề dày đóng góp trên các mặt công tác xây dựng địa phương, già làng Đinh Yek đã được Ban Thường trực Ủy ban MTTQ Việt Nam tỉnh tặng Bằng khen là người uy tín tiêu biểu có thành tích xuất sắc trong việc tập hợp, xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc ở khu dân cư. Mới đây, ông được Bộ trưởng, Chủ nhiệm Ủy ban Dân tộc tặng Bằng khen về thành tích xuất sắc trong thực hiện công tác dân tộc và chính sách dân tộc của Đảng, Nhà nước giai đoạn 2014 - 2019”.
MỸ TIẾN. Đinh Yinh - Bí thư Chi bộ gương mẫu của làng Hek / Mỹ Tiến // Sách Người tốt việc tốt làm theo gương Bác T.8. - Gia Lai: Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy, 2019. - Tr.27-29
Với suy nghĩ nếu không thay đổi tư duy, nhận thức của đồng bào dân tộc thiểu số (DTTS) thì cái đói, cái nghèo sẽ mãi đeo bám và cuộc sống của bà con ở làng cũng khó cải thiện, ông Đinh Yinh - Bí thư Chi bộ làng Hek (xã Chư A Thai, Phú Thiện) đã luôn cố gắng tìm mọi cách để giúp bà con nơi đây thoát nghèo, vươn lên xây dựng cuộc sống mới ngày càng đủ đầy, hạnh phúc. Với bà con làng Hek hôm nay, người Bí thư ấy luôn là tấm gương để học tập, làm theo.
Công việc quen thuộc của Bí thư Chi bộ làng Hek là đến từng nhà dân để trao đổi tình hình cuộc sống và động viên bà con làm ăn phát triển kinh tế. Nếu như trước đây, khi chưa triển khai xây dựng làng nông thôn mới theo tinh thần Chỉ thị số 12-CT/TU, ngày 13/2/2018, của Ban Thường vụ Tỉnh ủy Gia Lai về “Tăng cường sự lãnh đạo của cấp ủy các cấp về xây dựng làng nông thôn mới trong đồng bào dân tộc thiểu số trên địa bàn tỉnh”, làng Hek còn nặng ảnh hưởng của những hủ tục, tập quán lạc hậu, còn trông chờ ỷ lại vào sự hỗ trợ của Nhà nước, thì nay cùng với sự lãnh đạo của các cấp ủy đảng, chính quyền, cùng với sự vận động của Bí thư Chi bộ Đinh Yinh, bà con đã ý thức hơn về sự nỗ lực vươn lên trong cuộc sống. Anh Đinh Duên ở làng Hek cho biết: “Bây giờ, ý thức của từng hộ gia đình, từng người dân trong làng về làm ăn, phát triển kinh tế đã thay đổi theo hướng tiến bộ nhiều so với trước rồi. Bản thân tôi và bà con ở làng nói chung rất cảm ơn Bí thư Chi bộ Đinh Yinh”.
Làng Hek có 107 hộ, với 434 khẩu; trong đó, 07 hộ dân tộc Tày, 16 hộ dân tộc Jrai, còn lại là dân tộc Bahnar. Để vận động bà con thực hiện tốt chủ trương di dời, sắp xếp dân cư, phát triển kinh tế, Đinh Yinh đã phối hợp Ủy ban Mặt trận và các đoàn thể của xã kiên trì tuyên truyền cho bà con thay đổi nếp nghĩ, cách làm để từng bước vươn lên thoát nghèo bền vững. Anh cho biết: “Xây dựng làng nông thôn mới là chủ trương lớn của tỉnh, theo tôi nó rất thiết thực để giúp ổn định và nâng cao đời sống của bà con. Học tập và làm theo Bác, bản thân là người đảng viên tôi nghĩ mình phải gương mẫu đi đầu thực hiện, mình phải luôn suy nghĩ và tuyên truyền thật tốt để bà con không ỷ lại mà còn cố gắng hơn, để xóa đói giảm nghèo, làm ăn khá lên và không nghe, không tin lời kẻ xấu xúi giục”.
Nhận xét về Đinh Yinh, ông Nguyễn Nguyên Duẩn - Phó Bí thư Đảng ủy xã Chư A Thai cho biết: “Đồng chí Đinh Yinh cùng với Chỉ ủy Chi bộ làng Hek đã chỉ đạo và tuyên truyền, vận động nhân dân trong làng thực hiện tốt các chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước trong phát triển kinh tế, xóa đói, giảm nghèo và xây dựng nông thôn mới. Đặc biệt là đã vận động thành công các hộ dân di dời nhà cửa, bố trí sắp xếp lại dân cư để xây dựng làng nông thôn mới. Làm theo Đinh Yinh, có nhiều hộ đã biết trồng cây ăn trái, làm vườn rau tại nhà và đảm bảo môi trường trong làng xanh - sạch - đẹp”.
Là người Bahnar, nắm vững phong tục, tập quán và tâm tư, tình cảm, nguyện vọng của đồng bào mình, Bí thư Chi bộ Đinh Yinh đã làm gương và giúp bà con phát triển kinh tế, đến nay nhiều hộ ở làng Hek từng bước có nguồn thu khá, đảm bảo cho cuộc sống. Những con đường kiên cố, những góc sân với sắc màu rực rỡ của nhiều loại hoa; nhà rông văn hóa của làng với lá cờ đỏ sao vàng tung bay phấp phới - tất cả như hứa hẹn về một cuộc sống mới ngày càng phát triển đối với người dân làng Hek trong tiến trình xây dựng nông thôn mới.
MINH LÝ. Ông Rơ Châm Thung - Bí thư nói không với hủ tục lạc hậu / Minh Lý // Sách Người tốt việc tốt làm theo gương Bác T.8. - Gia Lai: Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy, 2019. - Tr.75-78
Là người con sinh ra, lớn lên và gắn bó với vùng đất Ia Mơ Nông, (huyện Chư Păh) hơn ai hết, ông Rơ Châm Thung là người hiểu thấu những hậu quả mà người dân quê ông phải gánh chịu khi lún sâu vào những hủ tục lạc hậu, trong đó có tục ma chay, cưới hỏi. Với cương vị người đứng đầu cấp ủy đảng địa phương, chính ông là người đã đứng ra vận động, bài trừ những hủ tục lâu đời, đang kìm hãm sự tiến bộ của người dân quê mình.
Phong tục ma chay của người Jrai ở Ia Mơ Nông nói riêng, vùng DTTS Gia Lai nói chung từ lâu được coi là sự kiện quan trọng, không chỉ đối với người trong cuộc mà còn với cả dòng họ, thôn, làng. Nhà nào càng có vai vế, dòng họ bề thế, lâu đời, đông anh em, con cháu thì khi có người qua đời làm đám ma càng to. Tất cả heo, bò, gà và rượu do mọi người đóng góp đều được dùng để cúng Giàng, thần linh, thổ địa, cúng người chết rồi đem nấu nướng, tổ chức ăn uống linh đình trong nhiều ngày.
Mỗi lần trong làng có đám ma, người làng hầu như không lên rẫy, làm nương, bỏ bê công việc để đắm chìm trong rượu chè. Đây cũng là căn nguyên khiến cho đói nghèo, lạc hậu cứ đeo bám mãi cuộc sống của người Jrai ở Ia Mơ Nông. Kéo theo đó là tai nạn, tệ nạn gây mất an ninh, trật tự nông thôn.
Nói về phong tục của đồng bào Jrai, ông Rơ Châm Thung (làng Kép 1, xã Ia Mơ Nông, huyện Chư Păh) cho biết: Những tục lệ này đã có từ lâu đời, bà con trong làng cứ thế làm theo. Sau khi trải qua nhiều cương vị từ thôn, làng, đến xã, ông càng nhận thấy sự lãng phí, không cần thiết trong tục lệ ma chay, cưới hỏi, báo hiếu, bỏ mả.... Đây chính là điều khiến cho ông càng đau đáu quyết tâm xóa bỏ hủ tục ma chay lạc hậu, nhằm xây dựng đời sống văn hóa mới, văn minh cho đồng bào mình. Tuy nhiên, việc vận động, thuyết phục để người Jrai thay đổi không hề dễ dàng, nếu chỉ cá nhân ông nói sẽ không đem lại hiệu quả. Năm 2017, với cương vị người đứng đầu Đảng ủy xã, ông huy động cấp ủy đảng, cả hệ thống chính trị vào cuộc, quyết tâm xây dựng đời sống văn hóa mới, gắn với chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới, cuộc vận động “Làm thay đổi nếp nghĩ, cách làm trong đồng bào DTTS để từng bước vươn lên thoát nghèo bền vững” đang được triển khai rộng khắp tại địa bàn. Đảng bộ xã có 9 chi bộ trực thuộc, trong đó, có 6 chi bộ thôn, làng, với 121 đảng viên. Tổ chức đảng rộng khắp, với đội ngũ cấp ủy chi bộ có bản lĩnh vững vàng, nắm vững chủ trương, chính sách của Đảng, chính là yếu tố cần thiết để chỉ đạo đội ngũ đảng viên, các ban ngành đoàn thể cùng vào cuộc.
Việc thay đổi được bắt đầu từ làng Kép 1, nơi ông cư trú. Bản thân các đảng viên, người đứng đầu chi hội, đoàn thể làm trước, sau đó đến các hộ dân. Các buổi tuyên truyền, vận động tập trung, sinh hoạt nhóm được tổ chức đều đặn ở 6 thôn, làng của xã, kết hợp phổ biến chủ trương, chính sách pháp luật của Đảng, Nhà nước đến nhân dân. Ông Rơ Châm Thung trực tiếp có mặt, tham gia nói cho dân hiểu. Cùng với các ban ngành vận động nhân dân chấp hành quy ước, hương ước thôn làng, nghiêm túc xóa bỏ các hủ tục trong việc cưới, việc tang. Vận động nhân dân không mê tín dị đoan, không nghe lời kẻ xấu, ngăn chặn sự xâm nhập của các tà đạo, đạo lạ vào địa bàn.
Không chỉ thuyết phục người dân không giết thịt trâu bò, heo tràn lan để cúng, uống rượu mừng nhiều ngày, ông vận động bà con giúp đỡ gia đình có hiếu, hỉ bằng tiền mặt, hay lúa gạo, tùy theo điều kiện, khả năng. Việc cúng bái, hiếu hỉ chỉ nên giết một con heo, hoặc bò, dăm ba con gà để cúng người chết, cảm ơn họ hàng, bà con...
Thấy được lợi ích rõ ràng, ban đầu từ một làng, một vài gia đình trong dòng họ, dần dần nhiều dòng họ ở các thôn làng đã làm theo. Bây giờ, làng Kép 1, nơi ông Thung sinh sống đã trở thành điểm sáng trong việc đẩy lùi tục ma chay cưới hỏi, giữ gìn truyền thống tốt đẹp của người Jrai, thực hiện nếp sống văn hóa mới, trở thành “làng Du lịch” của tỉnh Gia Lai.
Không chỉ ở một vài thôn, làng, tập quán lạc hậu từng bước được đẩy lùi trong đời sống người dân xã Ia Mơ Nông. Các tầng lớp nhân dân tích cực tham gia phát triển kinh tế, xóa đói giảm nghèo. Đây là kết quả từ sự nỗ lực của người dân, đặc biệt từ sự lãnh, chỉ đạo sát sao của cấp ủy đảng địa phương, trong đó đứng đầu là đồng chí Bí thư Đảng ủy.
NGỌC MINH. Nữ Bí thư Thị ủy giàu nhiệt huyết / Ngọc Minh // Sách Người tốt việc tốt làm theo gương Bác T.8. - Gia Lai: Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy, 2019. - Tr.42-46
Tác phong nhanh nhẹn, quyết đoán và giàu nhiệt huyết là cảm nhận của chúng tôi khi tiếp xúc với Bí thư Thị ủy An Khê Nguyễn Thị Thanh Lịch. Ở cương vị người đứng đầu thị xã An Khê, những năm qua, bà Lịch đã cùng với Ban Chấp hành, Ban Thường vụ Thị ủy tích cực lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện thắng lợi nhiệm vụ của địa phương trên tất cả các lĩnh vực kinh tế- xã hội, quốc phòng - an ninh, xây dựng hệ thống chính trị. “Trong đó, chúng tôi tập trung 3 nhiệm vụ trọng tâm: Xây dựng thị xã An Khê theo hướng trở thành đô thị loại III, phát triển nông nghiệp - nông dân - nông thôn gắn liền với xây dựng nông thôn mới và làng nông thôn mới (NTM) trong vùng đồng bào dân tộc thiểu số, xây dựng nguồn nhân lực chất lượng cao đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình mới” - Bí thư Thị ủy An Khê cho biết.
Nhờ những nỗ lực, cố gắng của toàn Đảng bộ, chính quyền và nhân dân thị xã, những năm qua, kinh tế thị xã An Khê tiếp tục ổn định, duy trì mức tăng trưởng khá. Tốc độ tăng giá trị sản xuất bình quân giai đoạn 2016-2018, đạt 13,34%/năm, vượt chỉ tiêu Nghị quyết Đại hội đại biểu Đảng bộ thị xã giai đoạn 2016 - 2020 đề ra. Lĩnh vực nông nghiệp, nông dân, nông thôn gắn với xây dựng NTM, xây dựng làng NTM đạt được những kết quả đáng ghi nhận; nhờ tập trung huy động các nguồn lực kết hợp phát huy nội lực địa phương và vai trò chủ thể của nhân dân. Đến nay, thị xã An Khê có 5/5 xã đạt chuẩn NTM và đang đề nghị công nhận đạt chuẩn NTM. Bà Lịch chia sẻ: “Cùng với đó, quá trình chỉ đạo triển khai thực hiện Chỉ thị số 12-CT/TU của Ban Thường vụ Tỉnh ủy “về tăng cường sự lãnh đạo của cấp ủy các cấp về xây dựng làng NTM trong đồng bào dân tộc thiểu số trên địa bàn thị xã An Khê, tôi cùng tập thể Thường trực, Ban Thường vụ Thị ủy tích cực quan tâm, chỉ đạo cấp ủy, chính quyền xã Tú An phối hợp với các cơ quan, ban ngành thực hiện kế hoạch xây dựng Pơ Nang thành làng NTM. Đến nay, công tác xây dựng làng NTM cơ bản hoàn thiện. Trong năm 2019, chúng tôi tiếp tục chỉ đạo triển khai tại làng Pốt (xã Song An) và làng Hòa Bình, làng Nhoi (xã Tú An). Nhờ đó, bộ mặt thôn làng và đời sống của người dân từng bước được nâng lên, tạo sự phấn khởi, đồng thuận cao trong cộng đồng”.
Những năm qua, Bí thư Thị ủy An Khê Nguyễn Thị Thanh Lịch và tập thể lãnh đạo thị xã mong muốn đưa mô hình kinh tế hợp tác, hợp tác xã (HTX) kiểu mới trên địa bàn đi vào hoạt động, phát huy vai trò chủ lực của các HTX trong xây dựng chuỗi liên kết sản xuất và tiêu thụ nông sản, đặc biệt chú trọng công tác đào tạo nhân lực trẻ, kêu gọi hỗ trợ đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng cho các HTX nông nghiệp. Từ mối quan hệ sẵn có, Bí thư Thị ủy An Khê đã mời Tiến sĩ Trần Minh Hải - Giám đốc Trung tâm Đào tạo và Kinh tế hợp tác (Trường Cán bộ Quản lý Nông nghiệp và PTNT II, Bộ Nông nghiệp và PTNT) và một số chuyên gia về giúp thị xã xây dựng HTX kiểu mới. Đến nay, thị xã An Khê có 9 HTX, trong đó, có 6 HTX hoạt động trong lĩnh vực nông nghiệp và 3 HTX hoạt động trong lĩnh vực phi nông nghiệp; dần hình thành các chuỗi liên kết sản xuất, tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp, rau, củ, quả theo tiêu chuẩn VietGAP, an toàn; tạo việc làm cho hàng trăm lao động địa phương.
Song song với đó, công tác xây dựng đô thị loại III cũng đạt nhiều kết quả tích cực. Hiện thị xã đạt 45/59 chỉ tiêu theo yêu cầu tiêu chuẩn đô thị loại III (miền núi), tăng 17 chỉ tiêu so với trước khi ban hành Nghị quyết phát triển thị xã An Khê theo hướng trở thành đô thị loại III. Các hoạt động văn hóa, thể thao, truyền thông, du lịch có nhiều khởi sắc, nhất là công tác bảo tồn, phát huy các giá trị lịch sử văn hóa di tích Tây Sơn Thượng đạo và di tích Sơ kỳ đá cũ; lĩnh vực y tế, giáo dục - đào tạo có nhiều chuyển biến tích cực.
Về xây thực hiện Chỉ thị số 05-CT/TW gắn với thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XI, XII) của Đảng về tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng, ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng, chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ, trên cơ sở nội dung chuyên đề hàng năm và hướng dẫn của Trung ương, Tỉnh ủy, Ban Thường vụ Thị ủy đã xây dựng kế hoạch học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh sát với nội dung từng chuyên đề, đồng thời, lãnh đạo các cấp ủy, tổ chức Đảng trực thuộc xây dựng kế hoạch thực hiện, gắn với kế hoạch cá nhân của các đồng chí Bí thư cấp ủy, tổ chức Đảng; xem đây là tiền đề quan trọng để xác định các giải pháp lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện nhiệm vụ, đồng thời là căn cứ để cấp ủy đánh giá, xếp loại chất lượng tổ chức cơ sở Đảng và đảng viên, cán bộ, công chức hàng năm. “Thực tế cho thấy, việc xác định các nhóm nhiệm vụ trọng tâm, đột phá gắn với đẩy mạnh học tập và làm theo gương Bác, đã góp phần tích cực làm chuyển biến tình hình ở từng lĩnh vực hoạt động của địa phương; qua đó tạo được sự tin tưởng, đồng thuận cao trong cán bộ, đảng viên và các tầng lớp nhân dân trên địa bàn”- bà Lịch nhấn mạnh.
Không chỉ làm tốt công tác chỉ đạo thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội, quốc phòng - an ninh và xây dựng hệ thống chính trị, bà Lịch rất quan tâm đến công tác an sinh xã hội, đền ơn đáp nghĩa. Đặc biệt, gần đây nhất, khi hay tin người dân cung cấp thông tin về mộ liệt sĩ hy sinh trong thời kỳ chống Mỹ cứu nước trên địa bàn, Bí thư Thị ủy cùng với Ban Thường vụ đã chỉ đạo các cơ quan chuyên môn kiểm tra, xác minh, phối hợp với Đội K52 (Bộ Chỉ huy Quân sự tỉnh) tiến hành tìm kiếm, cất bốc hài cốt liệt sĩ. Từ cuối năm 2018 đến tháng 10/2019, ngành chức năng và thị xã An Khê đã cất bốc, quy tập 129 hài cốt liệt sĩ; thị xã cùng với tỉnh tổ chức lễ truy điệu và an táng số hài cốt liệt sĩ này về an nghỉ tại Nghĩa trang Liệt sĩ thị xã An Khê; quy tập ngôi mộ chung chôn cất hài cốt các liệt sĩ được xác định là cán bộ, chiến sĩ Trung đoàn 95 (Quân khu 5) hy sinh trong trận đánh đồn Tú Thủy (xã Tú An, thị xã An Khê) diễn ra vào ngày 14/3/1947.
Trong quá trình công tác và sinh hoạt, bà Lịch luôn gương mẫu chấp hành, có ý thức bảo vệ, quán triệt, tuyên truyền, vận động cán bộ, đảng viên, gia đình và nhân dân thực hiện tốt các chủ trương, chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước. “Trong cuộc sống cũng như trong công việc, tôi luôn cố gắng học tập Bác từ những điều bình dị nhất. Từ đó, giúp bản thân mình tự hoàn thiện và cống hiến ngày một nhiều hơn cho địa phương, nhân dân” Bí thư Thị ủy chia sẻ thêm.
Với sự lãnh đạo của Ban Chấp hành, Ban Thường vụ Thị ủy, đặc biệt là cá nhân của Bí thư Thị ủy An Khê Nguyễn Thị Thanh Lịch, nhiều năm liền, Đảng bộ thị xã An Khê được công nhận hoàn thành tốt nhiệm vụ; riêng Bí thư Thị ủy có 4 năm liền (2014 - 2018) đạt danh hiệu chiến sĩ thi đua cơ sở và chiến sĩ thi đua cấp tỉnh.
GIA CƯ. Quyết không để tội phạm ma túy lộng hành / Gia Cư // Sách Người tốt việc tốt làm theo gương Bác T.8. - Gia Lai: Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy, 2019. - Tr.19-21
Từng bị phơi nhiễm HIV do đối mặt với đối tượng ma túy vô cùng nguy hiểm, manh động; thường xuyên cùng anh em đơn vị tiếp cận, đấu tranh, triệt phá các vụ án, tụ điểm mua bán, vận chuyển, tổ chức, sử dụng ma túy trên địa bàn với quyết tâm:“Không để tội phạm ma túy lộng hành”, liên tục nhiều năm qua, Thượng tá Trịnh Quang Thiệp - Phó Trưởng phòng đấu tranh tội phạm ma túy (ĐTTPMT) Công an tỉnh Gia Lai luôn hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được giao, 3 năm liền đạt danh hiệu CSTĐCS, được nhiều cấp ngành khen thưởng.
Qua công tác đấu tranh triệt phá các chuyên án, đường dây tụ điểm ma túy, Thượng tá Thiệp - Phó Trưởng phòng Cảnh sát điều tra về tội phạm ma túy Công an tỉnh Gia Lai luôn nêu cao tinh thần gương mẫu, nhiệt tình trách nhiệm với công việc, đoàn kết, động viên cán bộ, chiến sĩ đơn vị vận dụng nhiều biện pháp nghiệp vụ linh hoạt, sáng tạo, dũng cảm, khôn khéo để đấu tranh với các thủ đoạn ngày càng tinh vi của tội phạm ma túy, cương quyết xử lý các hành vi vi phạm pháp luật về phòng, chống ma túy. Mặc dù bản thân đã có lần bị phơi nhiễm HIV do đối mặt với đối tượng ma túy vô cùng nguy hiểm, manh động nhưng anh không hề nản chí mà vẫn luôn yêu nghề, luôn trực tiếp sát cánh cùng anh em đơn vị, phối hợp với công an các đơn vị, địa phương phát hiện, bắt giữ nhiều đối tượng, thu giữ nhiều vật chứng là ma túy, súng quân dụng, súng tự chế, đạn và nhiều tài sản, tài liệu có liên quan. Trong đó, có một số vụ điển hình như: Triệt phá chuyên án và bắt giữ đối tượng Trần Thị Hải cùng 2 đối tượng mua bán trái phép chất ma túy trên địa bàn Tp.Pleiku, thu giữ 615 viên ma túy tổng hợp, 191,893 gam ma túy đá, khay; triệt phá đường dây mua bán trái phép chất ma túy trên địa bàn TP.Pleiku bắt giữ đối tượng Trần Phi Hùng và 03 đối tượng, thu giữ gần nửa bánh hêrôin; triệt phá, bắt 2 đối tượng Bùi Thị Kim Phượng và Bùi Văn Trọng có hành vi tàng trữ, vận chuyển trái phép chất ma túy, tang vật thu giữ 36 gam hêrôin; triệt phá thành công chuyên án bắt 2 đối tượng Lê Văn Nên và Trần Văn Ninh có hành vi tàng trữ, mua bán trái phép chất ma túy và tàng trữ trái phép vũ khí quân dụng và thu giữ 51 gam ma túy tổng hợp, 01 súng K54, 71 viên đạn các loại... Ngoài ra, anh còn tích cực cùng tập thể đơn vị thực hiện tốt công tác phối hợp với các ban, ngành, trường học, nhân dân để tuyên truyền, phổ biến giáo dục pháp luật trong công tác phòng ngừa, đấu tranh phòng chống tội phạm ma túy, với hơn 3.000 lượt người là cán bộ, học sinh, sinh viên, công nhân tham gia.
Thấm nhuần lời dạy của Bác đối với Công an nhân dân, với những quyết tâm, cố gắng nỗ lực vượt qua mọi khó khăn, thực hiện việc Học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh, Thượng tá Trịnh Quang Thiệp cùng với tập thể chi bộ, đơn vị luôn hoàn thành xuất sắc các chỉ tiêu, nhiệm vụ đề ra. Với những thành tích đạt được, trong 3 năm qua (2016 - 2018) đơn vị đều đạt danh hiệu đơn vị Quyết thắng, được nhận Cờ của Tổng cục Chính trị Công an nhân dân, Cờ của Bộ trưởng Bộ Công an; cá nhân Thượng tá Trịnh Quang Thiệp cũng liên tục đạt danh hiệu Chiến sỹ thi đua cơ sở. Anh cũng từng được bầu chọn là thanh niên tiêu biểu toàn quốc tham dự hội nghị về đấu tranh tội phạm tệ nạn ma túy do Bộ Công an tổ chức và nhận được nhiều Bằng khen, Giấy khen của Bộ Công an, UBND tỉnh, Giám đốc Công an tỉnh trong công tác đấu tranh phòng chống tội phạm ma túy.
ANH HUY. Cán bộ tuyên huấn nhiệt tâm / Anh Huy // Sách Người tốt việc tốt làm theo gương Bác T.8. - Gia Lai: Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy, 2019. - Tr.90-93
“Đại Úy Đinh ƠRing - Trợ lý Tuyên huấn Phòng Chính trị luôn nhạy bén và tham mưu tốt cho lãnh đạo trong công việc chuyên môn, cũng như rất nhiệt tình tham gia các hoạt động của đơn vị và luôn phấn đấu hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ được giao” - Đó là những lời nhận xét của Thượng tá Nguyễn Văn Nghị - Phó Chủ nhiệm Chính trị, Bộ Chỉ huy Biên phòng tỉnh.
Tốt nghiệp trường Sĩ quan Chính trị với tấm bằng loại ưu, chàng trai Bahnar của mảnh đất Sơn Lang (huyện Kbang) được phân công về nhận công tác tại Đồn Biên phòng Ia Nan (huyện Đức Cơ), với nhiệm vụ Đội phó Đội Vận động quần chúng. Để nhanh chóng bắt nhịp với nhiệm vụ còn khá mới mẻ, Đinh ƠRing đã dành nhiều thời gian để nghiên cứu tài liệu, bám nắm địa bàn, gặp gỡ, trò chuyện cùng người dân... nhờ vậy chưa đầy một tháng, anh Đinh ƠRing đã nhanh chóng tiếp cận được với công việc, địa bàn.
Đinh ƠRing nói thêm, tình hình an ninh chính trị trên địa bàn xã Ia Nan khi đó khá phức tạp, một số đối tượng lưu vong vẫn lén lút hoạt động và tuyên truyền đạo trái phép, do đó cán bộ, chiến sỹ Biên phòng phải thường xuyên “3 bám, 4 cùng” để bám nắm tình hình. Đồng thời, tuyên truyền, vận động bà con ở các làng chấp hành tốt các chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; chăm lo lao động sản xuất, phát triển kinh tế gia đình; không tin, không nghe theo lời kẻ xấu xúi giục, kích động, không tụ tập để tuyên truyền đạo trái phép... Bằng tinh thần, trách nhiệm và cả sự nhiệt huyết của tuổi trẻ, ngay trong năm đầu tiên nhận công tác tại địa bàn, Đinh ƠRing đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ, được Bộ Chỉ huy khen thưởng.
Cuối năm 2014, anh được Đảng ủy - Bộ Chỉ huy Bộ đội Biên phòng tỉnh điều động về làm Trợ lý Tuyên huấn, Phòng Chính trị, với nhiệm vụ chính là tham mưu, giúp việc cho lãnh đạo Phòng hướng dẫn, chỉ đạo các đơn vị cơ sở thực hiện công tác tuyên huấn. Công việc liên quan đến giấy tờ, văn bản nên hàng ngày, anh phải dành khá nhiều thời gian để nghiên cứu tài liệu, thậm chí có nhiều nội dung, văn bản hướng dẫn rất chung chung nên để có thể hoàn chỉnh báo cáo, anh phải nghiên cứu tài liệu từ nhiều năm trước. Chưa kể, ngoài tài liệu liên quan đến lực lượng Biên phòng, anh còn phải thường xuyên nghiên cứu các tài liệu liên quan đến các sở, ban, ngành, những đơn vị phối hợp với lực lượng Biên phòng trong công tác tuyên truyền... Chịu khó học hỏi, đồng thời đây là công việc đúng với chuyên ngành, nên chẳng mất nhiều thời gian, anh đã chứng minh được năng lực bản thân và được đồng nghiệp, lãnh đạo Phòng, Ban, Bộ Chỉ huy ghi nhận, đánh giá cao.
Từ đó đến nay, anh thường xuyên tham mưu cho lãnh đạo Phòng Chính trị trong thực hiện công tác giáo dục chính trị, tuyên truyền, phổ biến giáo dục pháp luật đến cán bộ, đảng viên, chiến sĩ, công nhân viên quốc phòng. Nhất là tham mưu cho Phòng Chính trị quán triệt, triển khai thực hiện Chỉ thị 05-CT/TW của Bộ Chính trị, cuộc vận động “Phát huy truyền thống, công hiến tài năng, xứng danh Bộ đội Cụ Hồ” trong Đảng bộ Bộ đội Biên phòng... Bên cạnh đó, anh cũng tham mưu cho lãnh đạo hướng dẫn các đơn vị cơ sở duy trì và thực hiện nghiêm nề nếp, chế độ thông báo chính trị, thời sự, nâng cao nhận thức chính trị cho cán bộ, chiến sĩ, chủ động đấu tranh làm thất bại âm mưu “diễn biến hòa bình”, bạo loạn lật đổ của các thế lực thù địch, bảo vệ nền tảng tư tưởng, đường lối, quan điểm của Đảng, xây dựng ý thức trách nhiệm cho cán bộ, chiến sỹ sẵn sàng nhận và hoàn thành mọi nhiệm vụ được giao. Mặt khác, anh tham mưu đảm bảo đời sống văn hóa tinh thần cho cán bộ, chiến sỹ; trong thực hiện công tác tuyên truyền xây dựng và nhân rộng điển hình tiên tiến và công tác văn hóa, văn nghệ; trong triển khai thực hiện Đề án “Tăng cường phổ biến giáo dục pháp luật cho cán bộ, nhân dân vùng biên giới, hải đảo giai đoạn 2017 - 2021”... Đại úy Đinh ƠRing chia sẻ: “Mỗi khi nhận nhiệm vụ cấp trên giao phó, mình luôn nỗ lực tìm tòi, học hỏi và nghiên cứu thật kỹ tài liệu, văn bản rồi mới tham mưu, xây dựng kế hoạch trình lãnh đạo. Đồng thời, mình luôn đặt ra chỉ tiêu để hoàn thành công việc tốt nhất, sớm nhất có thể!”.
Hơn 6 năm công tác tại Bộ Chỉ huy, Đại úy Đinh ƠRing đã vinh dự 2 lần đạt danh hiệu chiến sĩ thi đua, 1 Bằng khen của Bộ Tư lệnh Bộ đội Biên phòng vì có thành tích trong đợt thi đua cao điểm “Đoàn kết - Lập công - Quyết thắng” chào mừng kỷ niệm 70 năm Ngày toàn quốc kháng chiến và 2 Bằng khen của UBND tỉnh.
PHƯƠNG LINH. Hết lòng vì học sinh vùng khó / Phương Linh // Sách Người tốt việc tốt làm theo gương Bác T.8. - Gia Lai: Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy, 2019. -Tr.119-122
Khi trời dần ngả về chiều cũng là lúc thầy Võ Trí Hoàn - Hiệu trưởng Trường Tiểu học và THCS Nay Der (xã Chư Mô, huyện Ia Pa) lại rời trường đi tìm học sinh. Nghe tin ở đâu có trẻ em đủ tuổi nhưng chưa được đến lớp, thầy liền đích thân tìm đến nhà.
Lặn lội tìm học trò
Chúng tôi đến thăm Trường Tiểu học và THCS Nay Der vào một buổi chiều ngập nắng. Tiếp chúng tôi là Hiệu trưởng Võ Trí Hoàn. Nhìn cách ăn mặc giản dị, có phần xuề xòa, ít ai nghĩ đó là Hiệu trưởng của một ngôi trường có hàng trăm học sinh. Sau một hồi trò chuyện, thầy Hoàn nói: “Đi, đi cùng tôi đến chỗ này”. “Chỗ này” mà thầy nhắc đến là buôn Ama Lin, xã Chư Mố. Chúng tôi dừng chân trước một căn chòi nhỏ chừng 9m2, là nơi ở của một bà mẹ bị động kinh cùng 4 đứa con, trong đó, đứa lớn nhất đã 10 tuổi nhưng chưa một ngày được đến trường. Khi chúng tôi đến thì cả 5 mẹ con đều đi mò cua ở ruộng xa chưa về. Bước chân của thầy Hoàn cứ ngập ngừng nửa muốn đi, nửa muốn ở lại chờ. Nhìn qua khe cửa, phút chốc thầy lặng người khi thấy không gian chật chội, nghèo khó bên trong. “Những trường hợp như thế này còn nhiều lắm. Nhà khổ quá. Tội cho các em không được đến trường. Hôm sau tôi sẽ quay lại” - thầy Hoàn khẽ nói.
Việc thầy Hoàn lặn lội vận động học trò ra lớp xuất phát từ lá thư của một em học sinh trong trường cách đây vài năm. “Em ấy tâm sự vì nghèo quá nên đành phải gác lại ước mơ đến trường để phụ giúp gia đình. Tôi đọc thư mà không cầm lòng được. Sao lại có thể như vậy được, bằng mọi cách phải giúp em tiếp tục con đường học hành” -thầy Hoàn nói. Rồi thầy kêu gọi giáo viên, Công đoàn nhà trường và bạn bè, người thân ủng hộ, đóng góp để em học sinh ấy tiếp tục được đến lớp. Từ đó, thầy Hoàn bị “cuốn” vào hành trình tìm kiếm, kêu gọi, vận động ủng hộ cho học sinh nghèo lúc nào không hay. Đến giờ, thầy không còn nhớ đã vận động đươc bao nhiêu học sinh tới lớp. Năm 2017, nhóm từ thiện “Ảnh đẹp Ayun Pa” do thầy Hoàn khởi xướng ra đời. Không chỉ cùng nhau chia sẻ niềm đam mê chụp ảnh, nhóm còn tổ chức hàng trăm chương trình “Tiếp sức cho em đến trường”, với hàng ngàn phần quà. Bước vào năm học mới, hoạt động xây dựng quỹ giúp đỡ học sinh khó khăn luôn được nhà trường triển khai thực hiện, riêng thầy Hoàn nhận hỗ trợ 1 em học sinh (200 ngàn đồng/tháng) đến hết năm học.
Cứ đến chiều, người thầy ấy lại cầm chiếc máy ảnh đi lang thang khắp các ngôi làng gần xa. Khi thì thầy ghé vào nhà học trò, lúc thì trò chuyện cùng người làng để tìm hiểu xem có em nhỏ nào chưa được đến trường hay bỏ học giữa chừng. Và, bao giờ thầy cũng cố gắng ghi lại thật nhiều trường hợp cần kêu gọi giúp đỡ. Thầy tâm sự: “Kêu gọi, vận động qua mạng xã hội cần nhiều hình ảnh lắm, vì điều này giúp các mạnh thường quân hình dung rõ hơn về hoàn cảnh của từng trường hợp để ủng hộ. Cũng nhờ mạng xã hội mà nhiều học sinh đã được tiếp sức đến trường”.
Tấm lòng người thầy
Sau khi rời buôn Ama Lin, chúng tôi lại theo chân thầy Hoàn đến buôn Ơi HBriu để thăm nhà cô học trò Rơ Ô H'Truyên. Căn nhà của gia đình H'Truyên chỉ rộng chừng 15m2, vách thưng bằng tôn. Để vào được nhà phải đi vòng sang nhà hàng xóm bởi phía trước nhà em là một ao rau muống.
Trong lúc đợi H'Truyên về, thầy Hoàn kể cho chúng tôi về hoàn cảnh của em: “Mẹ của H'Truyên vừa qua đời. Em sống cùng cha trong căn nhà này. Ngày trước, em thường xuyên phải theo cha mẹ đi làm thuê ở khắp nơi nên việc học dang dở. Dù vậy H'Truyên chưa bao giờ nguôi mong ước được học cái chữ. H'Truyên nói với tôi: “Em thích được đi học lắm”. Thế nên bằng mọi cách, tôi phải đưa em đến trường”. Với quyết tâm ấy, thầy Hoàn đã nhiều lần tìm đến nhà để thuyết phục bà nội chăm sóc H'Truyên và cho em đến trường trong thời gian cha đi làm xa. Nhờ vậy mà dịp khai giảng vừa rồi, H'Truyên lại được xúng xính trong bộ đồng phục mới tinh tươm, được đích thân thầy Hiệu trưởng chở đến lớp. Vào lớp 1 chậm hơn các bạn cùng trang lứa nên HTruyên có phần ngại ngùng. Nhưng được sự động viên của thầy Hoàn và cô chủ nhiệm, em đã dần hòa nhập với bạn cùng lớp sau một tuần học. Từ nguồn kinh phí vận động được, thầy Hoàn còn tặng cho H'Truyên 1 chiếc xe đạp, sách vở, cặp sách để em yên tâm đến lớp.
Khi H'Truyên về đến, căn nhà gần như trống hoắc, tồi tàn được lấp đầy bởi tiếng trò chuyện, hỏi han ân cần của 2 thầy trò. H'Truyên bày tỏ: “Được đi học em vui lắm. Một buổi đi học trên trường, buổi còn lại em giúp bà nội việc nhà để cha yên tâm đi làm. Em sẽ học thật chăm để thầy và mọi người vui lòng”. Riêng anh Ksor Drah - cha của H’Tuyên - cứ ngập ngừng mãi không nên lời. “Cảm ơn thầy nhiều lắm! Mình đi làm thuê, nhà lại chỉ có mình cháu H'Truyên nên đi đâu cũng đưa theo khiến con phải nghỉ học. Bây giờ có bà nội chăm, có thầy lo cho đến trường, mình yên tâm lắm!” - anh Drah nói với ánh mắt lấp lánh niềm vui.
Không chỉ tận tâm với học trò, thầy Hoàn cũng rất tâm huyết trong việc gìn giữ, phát huy bản sắc văn hóa truyền thống ở địa phương. Nhiều năm qua, thầy đã tổ chức ngày hội cồng chiêng, liên hoan hát dân ca rất thành công, được học sinh cũng như phụ huynh ủng hộ. Hiện tại, thầy đang ấp ủ ý định thành lập một đội chiêng “nhí” tại trường.
Mặt trời dần xuống núi, chúng tôi vội vã chia tay ra về, nhưng thầy Hoàn vẫn tiếp tục đi thăm thêm vài nhà học sinh khác nữa. Hình dáng người thầy nhỏ nhắn nhưng có tấm lòng rộng mở ấy dần khuất sau những con đường làng ngoằn ngoèo, khúc khuỷu...
HOÀNG HIỀN. Siu TLú: Gương sáng về y đức / Hoàng Hiền // Sách Người tốt việc tốt làm theo gương Bác T.8. - Gia Lai: Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy, 2019. -Tr.123-125
Không những vững vàng về chuyên môn, luôn nỗ lực học tập nâng cao trình độ, bác sĩ Siu Tlú - phụ trách Khoa Đông y (Trung tâm Y tế huyện Ia Pa) còn được quý mến, tin tưởng bởi sự thân thiện, chu đáo, hết lòng với người bệnh.
Hiền lành, dễ mến, giọng nói nhẹ nhàng, cởi mở là ấn tượng đầu tiên khi tiếp xúc với bác sĩ Siu Tlú. Anh kể, ngay từ nhỏ, anh đã nuôi ước mơ trở thành bác sĩ giỏi. Đó là động lực để anh phấn đấu và thi vào ngành Y khoa (Trường Đại học Tây Nguyên). Bỏ qua những lời khuyên can từ gia đình vì nghề y quá vất vả, anh vẫn kiên định với lựa chọn của mình.
Năm 2004, sau khi tốt nghiệp, với mong muốn mang những kiến thức học được về phục vụ bà con dân làng, Siu Tlú quyết định trở về quê hương nhận công tác tại Trạm Y tế xã Ia Ma Rơn. Năm 2005, anh chuyển về Trung tâm Y tế huyện. Với đức tính cần cù, chịu khó, ham học hỏi, anh luôn được đồng nghiệp, lãnh đạo cấp trên đánh giá cao về chuyên môn và y đức, được bệnh nhân yêu mến, tin tưởng. Ngay từ khi bước chân vào nghề y, bác sĩ Siu Tlú đã khắc ghi lời Bác dạy: “Lương y như từ mẫu”. Chính vì thế, anh không cho phép mình lơ là trước nỗi đau của người bệnh, lúc nào cũng xem bệnh nhân là người thân trong gia đình mà ân cần thăm hỏi, khám - chữa bệnh. Theo anh, sức khỏe tinh thần rất quan trọng đối với người bệnh. Nếu bác sĩ tạo được cho bệnh nhân sự tin tưởng và lạc quan thì bệnh trạng sẽ biến chuyển tích cực. Được bác sĩ Tlú trực tiếp điều trị, bệnh nhân Trịnh Văn Trọng (thôn 2, xã Pờ Tó) cảm kích chia sẻ: “Bác sĩ Tlú luôn nhiệt tình, chu đáo, hàng ngày đều thăm hỏi tôi và các bệnh nhân khác rất tình cảm. Nhờ vậy mà bệnh của tôi đã thuyên giảm được 70% sau 2 tuần điều trị tại đây”.
Yêu nghề cũng là lý do thôi thúc bác sĩ Tlú không ngừng học tập để nâng cao trình độ chuyên môn. Sau giờ làm việc, anh thường xuyên đọc thêm nhiều tài liệu y khoa, tích lũy kinh nghiệm thực tế trong quá trình khám - chữa bệnh. Bên cạnh đó, anh còn dành thời gian học chuyên khoa I; tham gia khóa học Hồi sức cấp cứu Nhi tại Bệnh viện Nhi Đồng 1 hay sản khoa tại Bệnh viện Từ Dũ (TP. Hồ Chí Minh). Ngoài ra, anh còn là một đoàn viên Công đoàn tích cực trong phong trào hiến máu nhân đạo; tham gia các chuyến khám - chữa bệnh, phát thuốc miễn phí cho bệnh nhân nghèo trên địa bàn huyện. Ông Trần Quốc Thanh - Chủ tịch Công đoàn Trung tâm Y tế huyện Ia Pa - nhận xét: “Bác sĩ Tlú là một người rất năng nổ, nhiệt tình, có ý thức trách nhiệm cao trong công tác khám - chữa bệnh cho người dân. Trong công tác phong trào, anh cũng là một trong những nhân tố tích cực, là thành viên của Hội Từ thiện xã Ia Ma Rơn”.
Đặc biệt, để góp phần giúp bệnh nhân nghèo có bữa cơm đủ dinh dưỡng và đảm bảo cho sức khỏe, bác sĩ Tlú đã vận động một số hộ có điều kiện tại xã Ia Ma Rơn tổ chức nấu cơm từ thiện cho bệnh nhân nghèo đang điều trị tại Trung tâm Y tế huyện vào thứ ba hàng tuần. Việc làm ý nghĩa này đã triển khai gần 1 năm nay và được đông đảo bệnh nhân đón nhận. Chị Phạm Thị Liên (thôn Đoàn Kết, xã Ia Ma Rơn), thành viên nhóm thiện nguyện phát cơm cho bệnh nhân - cho biết: “Có 2 lý do để chúng tôi đồng hành cùng bác sĩ Tlú: Đầu tiên là ủng hộ tấm lòng vì bệnh nhân nghèo của bác sĩ, tiếp nữa là phát tâm từ thiện do thấy nhiều bệnh nhân nằm viện còn khó khăn, thiếu thôn quá. Do vậy, khi phát động phong trào thì mọi người đều hưởng ứng”.
Chia sẻ về việc này, bác sĩ Tlú bày tỏ: “Trong quá trình điều trị, tôi thấy có những hộ rất nghèo, sức khỏe yếu mà cái bụng lại đói thì làm sao mau khỏi bệnh. Vì vậy, tôi đã vận động nấu cơm từ thiện phát cho bệnh nhân nghèo. Nhận thấy phong trào hữu ích nên đến nay đã có 15 người tham gia, góp phần giúp đỡ bà con nằm điều trị tại Trung tâm”.
BẢO HÂN. Puih H’Lát - Cô gái Jrai làm theo lời Bác dạy / Bảo Hân // Sách Người tốt việc tốt làm theo gương Bác T.8. - Gia Lai: Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy, 2019. - Tr.153-155
Hẹn gặp Puih H’Lát vào một buổi sáng của ngày đầu tháng 5, vẫn y như ngày nào tôi gặp Lát khi còn công tác tại huyện Ia Grai, thời điểm đó Lát tham gia vào một khóa bồi dưỡng nghiệp vụ công tác hội phụ nữ do Hội LHPN huyện tổ chức, nụ cười tươi, làn da bánh mật đặc trưng của người con gái Jrai, cách nói chuyện của Lát làm tôi ấn tượng. Cô Chi hội trưởng nhỏ ngày nào, giờ đã là Chủ tịch Hội Liên hiệp phụ nữ xã Ia Pếch, huyện Ia Grai đúng như mong ước “em muốn mang nhiệt huyết của mình vào công tác hội phụ nữ của xã”.
Lát kể, năm 21 tuổi Lát đã tự nguyện trở thành hội viên Hội Liên hiệp phụ nữ xã Ia Pếch. Năm 2011, được sự tín nhiệm của 30 hội viên trong chi hội phụ nữ làng Opếch bầu Lát làm Chi hội trưởng phụ nữ làng. Đến tháng 7/2015, Lát tiếp tục được giới thiệu bầu bổ sung và giữ chức danh chủ tịch Hội liên hiệp phụ nữ xã khóa X (nhiệm kỳ 2011 - 2016) và giữ chức vụ Chủ tịch Hội đến bây giờ. Khi tôi tò mò hỏi bí quyết thì Lát cười, nói: “Cũng chẳng có bí quyết gì đâu ạ, muốn thành công thì chỉ cần không ngừng học hỏi nâng cao kiến thức, miệng nói tay làm và phải mang lại hiệu quả trong thực tiễn để mọi người tin tưởng làm theo thì sẽ có kết quả tốt thôi ạ”.
Trăn trở với những khó khăn của chị em hội viên, nhất là chị em phụ nữ gia đình đồng bào dân tộc thiểu số, với cương vị là Chủ tịch Hội phụ nữ xã, Lát luôn suy nghĩ để thay đổi cách làm nhằm giúp chị em hội viên thoát nghèo, vươn lên trong cuộc sống. Cụ thể, Lát đã vận động thực hiện phong trào “Phụ nữ giúp nhau phát triển kinh tế gia đình”. Trong 3 năm qua (2016 - 2019), chị em phụ nữ trong hội đã giúp nhau đổi ngày công, quy ra tiền trị giá hơn 4.000.000 đồng. Hội phụ nữ xã đã vận động hội viên thực hiện tiết kiệm 5.000 đồng/tháng/hội viên, để tạo điều kiện cho chị em có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn vay, có 05 tổ đã huy động gửi tiết kiệm và 212 thành viên tham gia với số tiền 56.280.000 đồng. Thông qua các chi/tổ hội đã tiếp tục thực hiện trên cơ sở phát huy nội lực, sức sáng tạo và truyền thống nhân ái, “Lá lành đùm lá rách”. Trong 3 năm qua (2016 - 2019), hội đã hỗ trợ giúp 06 hội viên là gia đình hộ nghèo, trong đó có gia đình 02 chị đã thoát nghèo và vươn lên trong cuộc sống. Công tác thăm hỏi hội viên ốm đau, giúp đỡ hội viên nghèo neo đơn, các công tác từ thiện nhân đạo cũng được duy trì thường xuyên.
Thành công nhất của đồng chí Chủ tịch phụ nữ trẻ là thành lập và ra mắt được 05 mô hình, trong đó có: Mô hình “Đoạn đường phụ nữ tự quản”; 04 mô hình câu lạc bộ: 01 câu lạc bộ “Gia đình hội viên không có tảo hôn”, 01 câu lạc bộ “Xây dựng gia đình 5 không, 3 sạch”, 01 câu lạc bộ “Phụ nữ với pháp luật” và 01 câu lạc bộ “Phụ nữ dân tộc thiểu số tiết kiệm 5-10 triệu đồng”. Hiện nay, các mô hình trên đều duy trì và hoạt động có hiệu quả, góp phần nâng cao hoạt động của Hội phụ nữ xã.
Từ sự nỗ lực, năng động, sáng tạo, dám nghĩ, dám làm, tâm huyết trong công tác Hội và phong trào phụ nữ trong thời gian qua, Puih H’Lát đã nhận được sự tin yêu, trân trọng và tín nhiệm của chị em trong hội, cũng như Đảng ủy xã Ia Pếch trong suốt thời gian qua và được các cấp ghi nhận, khen thưởng. Năm 2016, được UBND xã Ia Pếch tặng Giấy khen vì đã đạt được thành tích xuất sắc trong thực hiện nhiệm vụ; năm 2018, được Hội Liên hiệp Phụ nữ tỉnh Gia Lai tặng Bằng khen vì có thành tích xuất sắc trong phong trào thi đua yêu nước.
HỒNG THƯƠNG. Tổ trưởng dân phố quan tâm đến người nghèo / Hồng Thương // Sách Người tốt việc tốt làm theo gương Bác T.8. - Gia Lai: Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy, 2019. - Tr.101-104
Không chỉ hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ của một tổ trưởng tổ dân phố, ông Phạm Duy Quang (tổ 9, phường Yên Đỗ, TP.Pleiku) còn luôn gần gũi, giúp đỡ người nghèo và những mảnh đời kém may mắn.
Giữ bình yên cho khu dân cư
Quê ông Quang ở huyện Nghĩa Hành (tỉnh Quảng Ngãi). Năm 1960, do cuộc sống kinh tế khó khăn nên ông theo bố mẹ lên Pleiku lập nghiệp. Đến nay, ông đã có 28 năm tham gia công tác xã hội với các vị trí như: Chi hội trưởng chi hội Nông dân, Tổ phó rồi Tổ trưởng tổ dân phố. Trong quá trình làm nhiệm vụ, ông Quang luôn gần gũi, nắm bắt hoàn cảnh, tâm tư, nguyện vọng của người dân và vận động bà con thực hiện tốt các chủ trương, đường lối của Đảng, chăm lo phát triển kinh tế. Ông còn vận động người dân chấp hành tốt chính sách, pháp luật của Nhà nước, giữ gìn an ninh trật tự trên địa bàn. Nhờ đó, tình hình an ninh trật tự được kiểm soát tốt hơn, đặc biệt là hoạt động của tội phạm ma túy đoạn giáp ranh giữa tổ dân phố và xã Ia Dêr (huyện Ia Grai) giảm hẳn.
Ông Quang được người dân trong tổ ví von là “Người vác tù và hàng tổng”. Bởi lẽ, hễ trong tổ xảy ra mâu thuẫn, xích mích là ông đều có mặt để hòa giải. Trung bình mỗi năm, ông tham gia hòa giải thành công khoảng 7 vụ việc và không để xảy ra tình trạng khiếu kiện vượt cấp. Trong đó, ông nhớ nhất là giải quyết vụ mâu thuẫn giữa hộ ông Thịnh và bà Liễu. Chuyện là nhà của bà Liễu và ông Thịnh nằm cạnh nhau trên trục đường Nguyễn Thiếp. Do nhà nằm thấp hơn mặt đường nên mỗi lần mưa to, nước mưa chảy tràn vào, nên ông Thịnh đã làm một đường ngăn cho nước chảy ra ngoài. Sau khi có đường ngăn, nước mưa lại chảy tràn vào nhà bà Liễu. Vì vậy, bà Liễu đã gửi đơn khiếu kiện. Biết sự việc, ông Quang đã xuống kiểm tra thực tế và tổ chức hòa giải, phân tích đúng sai trên tinh thần tình làng nghĩa xóm nên bà Liễu chủ động rút đơn. Sau đó, bà Liễu cũng làm thêm một đường rãnh ngăn không cho nước mưa tràn vào nhà. Theo ông Quang, riêng từ năm 2018 đến nay, trong tổ chỉ xảy ra 2 vụ mâu thuẫn, nhưng đã được giải quyết ổn thỏa.
Tấm lòng với người nghèo
Hàng năm, ông Quang bỏ tiền cá nhân mua hàng chục suất quà tặng cho người nghèo và trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn. Lý giải về điều này, ông Quang cho biết: “Hồi trước, gia đình tôi khó khăn lắm. Đến những cuốn sách, vở cũng phải đi xin về sử dụng lại. Vì vậy, khi thấy cuộc sống đã bớt chật vật, tôi lại muốn làm việc gì đó để giúp đỡ các cháu có gia cảnh nghèo khó”. Chính từ suy nghĩ đó nên những năm gần đây, từ tiền bán buôn hàng tạp hóa của gia đình, mỗi năm ông dành ra 6 triệu đồng để mua quà tặng cho các cháu thiếu nhi trên địa bàn phường nhân dịp HĐND phường tổ chức chương trình gặp mặt, đối thoại với trẻ em.
Bên cạnh đó, năm nào cũng vậy, cứ đến rằm tháng tư và rằm tháng bảy, ông Quang cũng dành ra khoảng 60 suất quà (250 ngàn đồng/suất), bao gồm các nhu yếu phẩm để tặng người nghèo trong tổ, những hộ có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn từ nơi khác đến TP.Pleiku mưu sinh. Dần dà, việc làm của ông khiến nhiều hộ trong tổ cảm kích và góp thêm gói đường, bột ngọt, gạo, nước mắm, nên giá trị mỗi suất quà lên đến 300 - 350 ngàn đồng. Bà Lê Thị Hồng Liên - người dân tổ 9 - chia sẻ: “Nhà tôi có 5 đứa con, 4 đứa con gái đã lập gia đình, tôi sống cùng đứa con trai út. Năm nay, tôi đã 71 tuổi, lại hay đau yếu nên không làm gì được. Mọi chi tiêu chỉ biết trông vào 3 triệu đồng tiền làm thuê mỗi tháng của con trai nên rất khó khăn. Vì vậy, năm nào ông Quang cũng hỗ trợ gạo và nhu yếu phẩm cho mẹ con tôi. Mỗi khi được nhận quà của ông, tôi vui lắm”.
Ngoài ra, ông Quang cũng tham gia cùng tổ chức, đoàn thể vận động các nhà hảo tâm chung tay đóng góp mỗi năm hàng trăm suất quà tặng người nghèo. Đặc biệt, ông còn kết nối với các hội, đoàn thể của phường vận động giúp 5 hộ trong tổ được hỗ trợ sửa nhà với số tiền 6-10 triệu đồng/hộ. “Hiện nay, tổ 9 còn 5 hộ nghèo. Ngoài sự giúp đỡ của phường, tổ cũng đang kết nối hỗ trợ để cuối năm nay có 2 hộ thoát nghèo. Chúng tôi rất mong có thêm nhiều mạnh thường quân quan tâm, giúp đỡ để các hộ nghèo có thêm động lực vươn lên trong cuộc sống” - ông Quang bày tỏ.
Ông Đặng Ngọc Thắng - Chủ tịch UBND phường Yên Đỗ: “Với sự nhiệt tình, tận tâm trong công việc, năm nào ông Phạm Duy Quang cũng được UBND TP.Pleiku biểu dương, khen thưởng, riêng tổ 9 nhiều năm liền được công nhận tổ dân phố văn hóa. Bản thân ông Quang và các thành viên trong gia đình cũng rất tích cực tham gia các hoạt động an sinh xã hội ở địa phương và có nhiều hoạt động thiết thực hỗ trợ người nghèo vươn lên trong cuộc sống”.
TRẦN DUNG. Nguyễn Thị Hoài Thu: Nữ “thủ lĩnh” đoàn nhiệt huyết, sáng tạo / Trần Dung // Sách Người tốt việc tốt làm theo gương Bác T.8. - Gia Lai: Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy, 2019. - Tr.130-133
Nguyễn Thị Hoài Thu là nữ “thủ lĩnh” đoàn tiêu biểu ở Gia Lai khi chị có thành tích đưa Đoàn xã Ia Hlốp trở thành đơn vị xuất sắc và là “cánh chim đầu đàn” của phong trào đoàn trên địa bàn huyện Chư Sê.
Sau nhiều năm tích cực tham gia các hoạt động Đoàn tại địa phương, năm 2012, Hoài Thu được bầu giữ chức Bí thư Đoàn xã Ia Hlốp. Với năng lực cùng với nhiệt huyết của mình, chị đã được tín nhiệm giữ vai trò “thủ lĩnh” cho đến nay. Có thể nói, Hoài Thu rất có duyên làm cán bộ Đoàn. Với lối nói chuyện, lôi cuốn, thuyết phục, Hoài Thu tạo được sự tin tưởng và yêu mến của những người xung quanh. Ở chị luôn toát ra một nguồn năng lượng tích cực, dồi dào. “Muốn người khác tin tưởng mình, trước tiên phải làm cho họ yêu mến. Từ đó, họ mới nghe và làm theo” - Hoài Thu chia sẻ. Chị kể, những ngày bắt đầu nhiệm vụ, chị đã đối mặt với rất nhiều khó khăn, thử thách. Bởi hoạt động Đoàn ở cơ sở khá vất vả, nhất là ở nơi đông đồng bào dân tộc thiểu số, thanh niên chủ yếu làm rẫy nên càng khó tập hợp thanh niên và tổ chức phong trào. Khó khăn là vậy, song không làm nản chí nữ “thủ lĩnh” dám nghĩ, dám làm và không ngừng sáng tạo.
Chia sẻ kinh nghiệm trong công tác, Hoài Thu cho biết: “Khó nhất trong công tác Đoàn và phong trào thanh thiếu nhi trên địa bàn dân cư chính là việc tập hợp thanh niên, phần lớn thanh niên làm nông nghiệp theo mùa vụ hoặc lao động tự do, nên để thu hút được thanh niên cần phải nắm bắt được tâm lý, nhu cầu của họ. Cán bộ Đoàn phải chịu khó bám cơ sở, về sinh hoạt chung tại các thôn, làng. Nhu cầu bức thiết nhất của thanh niên là vốn để sản xuất theo các mô hình thâm canh, xen canh cây trồng, kết hợp chăn nuôi, cùng với đó là áp dụng kỹ thuật, công nghệ mới để không lãng phí quỹ đất, quỹ thời gian và tăng thu nhập cho gia đình. Thanh niên cũng cần có sân chơi lành mạnh tại địa phương như các hoạt động văn hóa, văn nghệ, thể thao. Bên cạnh đó, phong trào tình nguyện cũng là một trong những nội dung công tác luôn thu hút được đông đảo đoàn viên, thanh niên tham gia.
Đồng hành cùng thanh niên thông qua các phong trào, các chương trình hỗ trợ thanh niên lập nghiệp, Đoàn xã đã tổ chức tư vấn, giới thiệu việc làm, định hướng cho thanh niên lựa chọn mô hình phát triển kinh tế, hỗ trợ vốn, giúp thanh niên phát huy hiệu quả các sáng kiến, ý tưởng sản xuất, kinh doanh... Từ đó đã xuất hiện nhiều mô hình kinh tế của đoàn viên thanh niên đạt hiệu quả cao như: Mô hình sản xuất công cụ lao động, chăn nuôi dê, thỏ, trồng nấm, chăn nuôi trên nền đệm lót sinh học... cho thu nhập hàng trăm triệu đồng mỗi năm, tạo việc làm ổn định cho thanh niên trên địa bàn xã. “Với cương vị Bí thư Đoàn xã, chị Hoài Thu đã thành lập các câu lạc bộ theo sở thích, qua đó góp phần nâng cao chất lượng công tác Đoàn, kết tập hợp thanh niên trên địa bàn, cụ thể là các câu lạc bộ: “Thắp sáng niềm tin”, “Tư vấn sức khỏe tiền hôn nhân”, “Vì ngày mai tươi sáng” hay “Đội văn nghệ xung kích”. Hầu hết đoàn viên, thanh niên người dân tộc thiểu số đều rất hào hứng với các hoạt động đoàn” - anh Rơ Mah Hiếu (Bí thư chi đoàn làng Gran, xã Ia Hlốp) bày tỏ.
“Bản thân là Bí thư Đoàn xã, đồng thời là chủ nhiệm Câu lạc bộ “Thắp sáng niềm tin”, tôi đã giới thiệu giúp đỡ việc làm và để các bạn thể hiện tinh thần xung kích, thiện nguyện, đóng góp sức mình với những hoạt động thiết thực ý nghĩa như: Hỗ trợ giới thiệu việc làm cho 12 thanh niên; hỗ trợ vay vốn sản xuất, kinh doanh cho 18 thanh niên... Thường xuyên duy trì tổ chức định kỳ hàng tháng chương trình “Nồi cháo yêu thương” cho các em đồng bào dân tộc thiểu số” - chị Hoài Thu cho hay.
Không ngừng học tập để hoàn thiện chuyên môn, nghiệp vụ và tích cực tham mưu, đề xuất nhiều giải pháp đưa phong trào Đoàn của xã ngày càng phát triển, Hoài Thu liên tục gặt hái nhiều thành tích như: Là 382 đảng viên trẻ tiêu biểu toàn quốc được dự Hội nghị tổng kết hoạt động tuổi trẻ Việt Nam nhớ lời Di chúc theo chân Bác tại Hà Nội; được Hội đồng đội Trung ương xét biểu dương, khen thưởng vì đã có nhiều thành tích trong phong trào “Vì đàn em thân yêu” tại Liên hoan thiếu nhi nghèo vượt khó học giỏi toàn quốc lần thứ 3 được tổ chức tại TP. Hồ Chí Minh vào tháng 6/2019...
Nói về những đóng góp của nữ “thủ lĩnh” này, Phó Bí thư Huyện Đoàn Chư Sê, Nay Winh khẳng định: “Dưới sự dẫn dắt của Nguyễn Thị Hoài Thu, cùng kinh nghiệm và kỹ năng triển khai nhiều chương trình hoạt động hiệu quả, nhiều năm qua, Đoàn xã Ia Hlốp là đơn vị xuất sắc tiêu biểu trong công tác Đoàn và phong trào thanh thiếu nhi của huyện. Thành tích của đơn vị có sự góp phần không nhỏ của nữ Bí thư nhiệt huyết Hoài Thu”.