Lêi nãi ®Çu
Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN) được thành lập ngày 8-8-1967. Trải qua 50 năm tồn tại và phát triển, đến nay Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á đã trở thành nhân tố quan trọng thúc đẩy các tiến trình đối thoại và hợp tác trên nhiều lĩnh vực của Châu Á - Thái Bình Dương. Việc Việt Nam trở thành thành viên đầy đủ của ASEAN đã đánh dấu một bước phát triển mới giữa nước ta với các nước Đông Nam Á; tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển của Việt Nam trong sự phát triển chung của toàn khu vực. Qua 22 năm (28/7/1995 - 28/7/2017) gia nhập ASEAN, Việt Nam đã chủ động, tích cực cùng các nước thành viên thúc đẩy hợp tác, tăng cường đoàn kết và liên kết nội bộ ASEAN, mở rộng quan hệ đối ngoại và nâng cao vai trò, vị thế quốc tế của ASEAN.
Kỷ niệm 50 ngày thành lập ASEAN (8/8/1967 - 8/8/2017) và 22 năm Việt Nam gia nhập Hiệp hội (28/7/1995 - 28/7/2017), Thư viện tỉnh Gia Lai biên soạn Thư mục toàn văn chuyên đề: “Kỷ niệm 50 năm ngày thành lập ASEAN (8/8/1995 - 8/8/2017)”.
Nội dung gồm 2 phần chính:
I. Khái quát chung về ASEAN
II. Vai trò của Việt Nam trong ASEAN
Các bài viết đưa vào tập Thư mục toàn văn chuyên đề: “Kỷ niệm 50 năm ngày thành lập ASEAN (8/8/1967 - 8/8/2017)”, được chọn lọc từ các sách, báo, tạp chí lưu trữ trong Thư viện tỉnh Gia Lai. Trên mỗi bài trích, đều có mô tả thư mục về hình thức của tài liệu.
Bạn đọc cũng có thể truy cập vào trang Website: “thuvientinhgialai.vn” để đọc toàn văn thư mục “Kỷ niệm 50 năm ngày thành lập ASEAN (8/8/1967 - 8/8/2017)”, trong mục “Thư mục chuyên đề” .
Trong quá trình biên soạn, chắc chắn không tránh khỏi sai sót. Thư viện tỉnh Gia Lai mong nhận được ý kiến của bạn đọc để “Thư mục toàn văn chuyên đề” ngày càng có chất lượng, phục vụ tốt nhu cầu đọc của bạn đọc. THƯ VIỆN TỈNH GIA LAI
KHÁI QUÁT CHUNG VỀ ASEAN
Quá trình hình thành và phát triển của ASEAN // Sách Vai trò và vị thế của Việt Nam trong cộng đồng kinh tế ASEAN. - H: Công thương, 2013. - Tr. 29-33
Đông Nam Á là một khu vực có lịch sử phát triển lâu dài và có nhiều đóng góp đáng kể cho sự phát triển của nền văn minh nhân loại. Các quốc gia trong khu vực là những đất nước có sự tương đồng cao trên nhiều lĩnh vực văn hóa - xã hội cũng như trình độ phát triển kinh tế. Chính vì vậy, nhu cầu hợp tác, liên kết các quốc gia trong khu vực luôn được đặt ra ở các thời điểm lịch sử. Đặc biệt trong bối cảnh hiện nay, trước xu thế toàn cầu hóa và đa cực hóa thế giới đang diễn ra nhanh chóng, nhu cầu về sự liên kết giữa các quốc gia trong khu vực Đông Nam Á càng trở nên bức thiết hơn bao giờ hết.
ASEAN - Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á được thành lập ngày 08 tháng 8 năm 1967, tại thủ đô Băng-cốc (Thái Lan), các Bộ trưởng Ngoại giao, đại diện cho Chính phủ của 5 quốc gia Đông Nam Á là Inđônêxia, Malaixia, Philippin, Xingapo và Thái Lan đã họp mặt và ký kết một văn kiện quan trọng, Bản Tuyên bố Băng-cốc tạo dựng nền tảng cho sự ra đời của Hiệp hội các Quốc gia Đông Nam Á (ASEAN).
Trong nội dung của Tuyên bố Băng-cốc (ngày 08 tháng 8 năm 1967), các mục tiêu và mục đích của Hiệp hội được xác định là hợp tác để phát triển toàn diện trên mọi lĩnh vực có mối quan tâm và quyền lợi chung của tất cả các nước trong khu vực:
“Để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, tiến bộ xã hội và phát triển văn hóa trong khu vực thông qua các nỗ lực chung trên tinh thần công bằng và phối hợp nhằm tăng cường nền tảng cho một cộng đồng hòa bình và thịnh vượng của các quốc gia Đông Nam Á”.
Mục tiêu hoạt động ban đầu của ASEAN nhằm giữ gìn sự ổn định và an ninh trong khu vực, tức là tổ chức ASEAN lúc đầu được xem là khối mang màu sắc chính trị là chủ yếu mặc dù Tuyên bố Băng-cốc nêu rõ mục tiêu hoạt động của ASEAN bao gồm 7 điểm:
1) Thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, tiến bộ xã hội và phát triển văn hóa trong khu vực thông qua các nỗ lực chung trên tinh thần bình đẳng và hợp tác, nhằm tăng cường cơ sở cho một cộng đồng các nước Đông Nam Á hòa bình, thịnh vượng.
2) Thúc đẩy hòa bình và ổn định khu vực bằng việc tôn trọng công lý và nguyên tắc luật pháp trong quan hệ giữa các nước trong vùng và tuân thủ các nguyên tắc của Hiến chương Liên Hợp Quốc.
3) Thúc đẩy sự hợp tác tích cực và giúp đỡ lẫn nhau trong các vấn đề cùng quan tâm trên những lĩnh vực kinh tế, xã hội, văn hóa, khoa học kỹ thuật và hành chính.
4) Giúp đỡ lẫn nhau dưới hình thức đào tạo và cung cấp các phương tiện nghiên cứu trong các lĩnh vực giáo dục, chuyên môn, kỹ thuật và hành chính.
5) Hợp tác hiệu quả hơn, để sử dụng tốt hơn nền nông nghiệp và các ngành công nghiệp của nhau, mở rộng thương mại kể cả việc nghiên cứu các vấn đề bán hàng hóa giữa các nước, cải thiện các phương tiện giao thông liên lạc và nâng cao mức sống của nhân dân.
6) Thúc đẩy việc nghiên cứu Đông Nam Á.
7) Duy trì sự hợp tác chặt chẽ cùng có lợi với các tổ chức quốc tế và khu vực có tôn chỉ mục đích tương tự; tìm kiếm cách thức nhằm đạt được sự hợp tác chặt chẽ hơn giữa các tổ chức này.
Có thể nói, ngay từ khi ra đời, ASEAN đã hoạch định phạm vi liên kết của mình không chỉ ở các nước sáng lập viên, mà còn ở tất cả các nước khác trong khu vực, xác định mục tiêu một mái nhà chung của tất cả các nước Đông Nam Á, một khu vực đoàn kết gắn bó để cùng chung sống hòa bình, thịnh vượng. Trong quá trình hình thành và phát triển của mình, cho đến nay kỳ vọng này đã trở thành hiện thực với sự hội tụ của đầy đủ 10 quốc gia trong ASEAN. Thời điểm gia nhập chính thức của các thành viên mới của Hiệp hội như sau:
- Ngày 07-01-1984, Brunây gia nhập, là thành viên thứ 6.
- Ngày 28-7-1995, Việt Nam gia nhập và là thành viên thứ 7.
- Ngày 23-7-1997, Lào và Mianma gia nhập và là thành viên thứ 8 và 9.
- Ngày 30-4-1999, Campuchia gia nhập và là thành viên thứ 10.
Với sự tham gia của các thành viên mới, ASEAN thực sự đã trở thành một khu vực thị trường lớn với số dân đông đảo và là một khu vực có mức tăng trưởng kinh tế cao. Các nước ASEAN (trừ Thái Lan) đều trải qua giai đoạn lịch sử là thuộc địa của các nước phương Tây và giành được độc lập vào các thời điểm khác nhau sau chiến tranh thế giới thứ hai. Mặc dù ở trong cùng một khu vực địa lý, song các nước ASEAN rất khác nhau về chủng tộc, ngôn ngữ, tôn giáo và văn hóa, tạo thành một sự đa dạng cho Hiệp hội.
ASEAN có diện tích hơn 4,5 triệu km2 với dân số khoảng hơn 600 triệu người; đóng góp của ASEAN vào GDP thế giới là 4,1% vào năm 2010, tổng GDP của ASEAN+3 đạt 25,2% năm 2010. Tính theo đơn vị đô la quốc tế, GDP của ASEAN đạt 3,2 nghìn tỷ vào năm 2010, có mức tăng trưởng kinh tế thực là 7,4%, chỉ đứng thứ 3 sau Trung Quốc (10,5%) và Ấn Độ (9,7%). Tiền tệ: Peso (PHP) của Philippin, Ringgit (MYR) của Malaixia, Kyat (MMK) của Mianma, Kip (LAK) của Lào, Baht (THB) của Thái Lan, Riel (KHR) của Campuchia, Đô la Xingapo (SGD), Đô la Brunây (BND), Rupiah (IDR) của Inđônêxia, Đồng (VNĐ) của Việt Nam. Các nước ASEAN có nguồn tài nguyên thiên nhiên phong phú và hiện nay đang đứng hàng đầu thế giới về cung cấp một số nguyên liệu cơ bản như: cao su (90% sản lượng cao su thế giới); thiếc và dầu thực vật (90%), gỗ xẻ (60%), gỗ súc (50%), cũng như gạo, đường, dầu thô, dứa... Công nghiệp của các nước thành viên ASEAN cũng đang trên đà phát triển, đặc biệt trong các lĩnh vực: dệt, hàng điện tử, dầu, các loại hàng tiêu dùng. Những sản phẩm này được xuất khẩu với khối lượng lớn và đang thâm nhập một cách nhanh chóng vào các thị trường thế giới.
Mức độ phát triển kinh tế giữa các nước ASEAN không đồng đều. Năm 2010, GDP bình quân theo đầu người của các nước Campuchia, Lào, Mianma, Việt Nam (CLMV) chỉ trong khoảng hoặc ít hơn 1.000 USD. Các nước Inđônêxia, Malaixia, Philippin và Thái Lan có mức GDP bình quân đầu người từ 2.000 đến 8.300 USD. Trong khi đó, Xingapo và Brunây Đa-ru-xa-lam là hai quốc gia nhỏ nhất về diện tích (Xingapo) và về dân số (Brunây Đa-ru-xa-lam) lại có thu nhập theo đầu người cao nhất trong ASEAN, vào khoảng trên 28.000 USD/năm. Ở các nước ASEAN đang diễn ra quá trình chuyển dịch cơ cấu mạnh mẽ theo hướng công nghiệp hóa. Nhờ chính sách kinh tế “hướng ngoại”, ASEAN cũng là khu vực ngày càng thu hút nhiều vốn đầu tư của thế giới. Xét theo tỷ lệ phần trăm GDP, năm 2010 FDI vào ASEAN chỉ khoảng 4%, năm 2006 đạt mức cao nhất là 6%. Xét theo từng quốc gia, Xingapo là nước nhận được tương đối nhiều vốn FDI theo tỷ lệ phần trăm GDP, ở mức khoảng 13,4% năm 2010, theo sau là Việt Nam 7,6% và Campuchia 7,1%. Các nước còn lại thu hút FDI ở mức ít hơn, dưới 5%.
Cùng với sự phát triển cả về quy mô thành viên và chiều sâu hợp tác, cho tới nay, ASEAN thực sự là một liên kết khu vực tạo ra sức mạnh tăng lên của các nước Đông Nam Á. Về mặt chính trị, ngoại giao, vị thế của ASEAN đang trở nên ngày càng quan trọng trên trường quốc tế và khu vực, trở thành một đối trọng với các quốc gia lớn ở châu Á - Nhật Bản, Trung Quốc và Ấn Độ. Với các chương trình lớn về hợp tác kinh tế, tự do hóa thương mại hàng hóa, dịch vụ và đầu tư, khả năng bổ sung và thay thế các nguồn lực sản xuất giữa các nước trong khu vực được tăng lên sẽ dẫn tới hiệu quả cao trong sản xuất và tiêu dùng của thị trường từng nước thành viên, thúc đẩy thương mại và đầu tư nội bộ khu vực cũng như giữa khu vực với phần còn lại của nền kinh tế thế giới, thông qua đó để phát triển kinh tế các thành viên.
Các hoạt động hợp tác trong ASEAN mang tính toàn diện, sâu sắc trên mọi lĩnh vực chính trị, ngoại giao, an ninh, văn hóa - xã hội, khoa học - kỹ thuật và phát triển kinh tế của 10 quốc gia thành viên, điều đó tạo ra đặc thù của liên kết khu vực này so với nhiều liên kết quốc tế khác trên thế giới hiện nay.
Một vài nét về kinh tế ASEAN hiện nay // Sách Vai trò và vị thế của Việt Nam trong cộng đồng kinh tế ASEAN. - H: Công thương, 2013. - Tr. 33 - 35
Sau 50 năm phát triển, từ 5 quốc gia thành viên ban đầu, ngày nay ASEAN gồm 10 nước, có diện tích 4,5 triệu km2, dân số khoảng hơn 600 triệu người, với nền văn hóa hết sức đa dạng, phong phú và đặc sắc. ASEAN đang chứng tỏ là một khu vực kinh tế năng động và phát triển cao. Tình hình phát triển kinh tế trong khối ASEAN đạt mức tăng trưởng GDP bình quân 5,7% năm 2012, cao hơn 1% so với năm 2011 măc dù bối cảnh kinh tế toàn cầu còn nhiều bất ổn và phục hồi chậm. ASEAN dự kiến sẽ đạt được mức tăng trưởng bình quân từ 5,3 - 6% trong năm 2013. Kim ngạch thương mại hàng hóa ASEAN gia tăng 3,6% trong năm 2012, từ 2,39 ngàn tỷ USD năm 2011 lên 2,47 ngàn tỷ USD năm 2012, trong đó thương mại nội khối đạt 601 tỷ USD. Các thị trường xuất khẩu hàng đầu của ASEAN là Trung Quốc, Nhật Bản, EU và Hoa Kỳ. Về đầu tư, ASEAN duy trì vị thế là khu vực đầu tư hấp dẫn, thu hút 108,2 tỷ USD vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) năm 2012 với các đối tác hàng đầu là EU, Nhật Bản và Hoa Kỳ. Đầu tư nội khối ASEAN cũng tiếp tục đà tăng trưởng, đạt mức 20 tỷ USD năm 2012, chiếm 18,5% tổng vốn FDI vào ASEAN.
Trong thời gian tới, ASEAN tiếp tục nỗ lực hướng tới mục tiêu thành lập Cộng đồng Kinh tế ASEAN (AEC) vào năm 2015. Tính đến tháng 7/2013, ASEAN đã thực hiện được 79,4% tổng số biện pháp và sáng kiến đề ra trong Kế hoạch tổng thể xây dựng AEC (AEC Blueprint). ASEAN cũng đề cao tầm quan trọng của việc thu hẹp khoảng cách phát triển, đặc biệt là khoảng cách phát triển giữa các nước CLMV với các nước ASEAN-6 thông qua việc triển khai các kế hoạch trong Khuôn khổ ASEAN về phát triển kinh tế đồng đều (AFEED), tăng cường hỗ trợ kỹ thuật và xây dựng năng lực cho các nước thành viên và Ban Thư ký ASEAN.
Trong lĩnh vực thương mại hàng hóa, ASEAN ghi nhận các sáng kiến nhằm giải quyết các rào cản phi thuế, tiến triển thực hiện các dự án thí điểm tự chứng nhận xuất xứ, tình hình cập nhật biểu thuế thực hiện Hiệp định Thương mại Hàng hóa ASEAN (ATIGA), tình hình phê chuẩn Nghị định thư sửa đổi các Hiệp định Kinh tế ASEAN liên quan đến thương mại hàng hóa, việc triển khai Cơ chế một cửa ASEAN, hài hòa hóa các tiêu chuẩn, xúc tiến các thỏa thuận công nhận lẫn nhau... Trong lĩnh vực thương mại dịch vụ, ASEAN đề nghị các nước thành viên cần sớm hoàn tất các thủ tục cần thiết để Hiệp định ASEAN về di chuyển thể nhân (MNP) sớm có hiệu lực nhằm tạo thuận lợi cho việc di chuyển của các cá nhân tham gia vào các hoạt động thương mại hàng hóa, thương mại dịch vụ và đầu tư trong khu vực. Trong năm 2013, các nước nỗ lực hoàn thành Gói cam kết dịch vụ thứ 9 trong khuôn khổ Hiệp định khung ASEAN về dịch vụ (AFAS). ASEAN cũng đang chuẩn bị đàm phán một Hiệp định AFAS mới từ Quý IV năm 2013 nhằm nâng cao tính toàn diện và cập nhật của Hiệp định cho phù hợp với bối cảnh hiện nay (Hiệp định AFAS được ký kết từ năm 1995). Trong lĩnh vực đầu tư, Hiệp định đầu tư toàn diện ASEAN (ACIA) đã có hiệu lực từ tháng 3/2012 và các nước thành viên ASEAN cũng đã hoàn tất việc thảo luận Nghị định thư sửa đổi Hiệp định ACIA nhằm đề ra quy trình sửa đổi Hiệp định và Danh mục bảo lưu của Hiệp định, hướng tới tự do hóa hơn nữa môi trường đầu tư. Ngoài ra, ASEAN thông qua Kế hoạch hành động chiến lược phát triển các doanh nghiệp vừa và nhỏ giai đoạn 2010 -2015, ghi nhận tình hình hợp tác trong lĩnh vực sở hữu trí tuệ, cạnh tranh, bảo vệ người tiêu dùng, thống kê và tăng cường đối thoại, tham vấn công-tư. ASEAN tiếp tục khẳng định mong muốn thúc đẩy quan hệ hợp tác và đối tác với các nước và khu vực đối thoại thông qua các phiên tham vấn với Bộ trưởng Kinh tế của các nước đối tác. Các phiên tham vấn đã tập trung xem xét tình hình đàm phán và thực thi các FTA cũng như các vấn đề hợp tác giữa ASEAN và các đối tác, nhằm thúc đẩy thương mại, đầu tư và hợp tác trong khu vực. Cụ thể, ASEAN và các đối tác liên quan đã thông qua Chương trình làm việc thực hiện Lộ trình hợp tác Thương mại và Đầu tư ASEAN - Nga. ASEAN và Ấn Độ đã cơ bản hoàn thành việc rà soát pháp lý Hiệp định Thương mại Dịch vụ và Hiệp định Đầu tư ASEAN-Ấn Độ để chuẩn bị ký kết trong năm 2013. ASEAN và Nhật Bản cũng đang đẩy nhanh đàm phán, hướng tới hoàn tất cơ bản Chương Dịch vụ và Đầu tư trong khuôn khổ Hiệp định đối tác kinh tế toàn diện ASEAN - Nhật Bản (AJCEP) trong năm 2014.
Trong bối cảnh nền kinh tế toàn cầu đang hình thành nhiều cấu trúc, sự đan xen, phụ thuộc chặt chẽ lẫn nhau về kinh tế thông qua thương mại và đầu tư, đặc biệt trong khu vực châu Á - Thái Bình Dương, ASEAN đã tích cực thúc đẩy, phát huy vai trò trung tâm của mình trong nền kinh tế khu vực và toàn cầu, thể hiện qua việc dẫn dắt đàm phán Hiệp định Đối tác kinh tế toàn diện khu vực (RCEP) với 6 nước đối tác là Ấn Độ, Hàn Quốc, Nhật Bản, Niu Di-lân, Ốt-xtrây-li-a và Trung Quốc. Bên cạnh đó, ASEAN cũng đang chuẩn bị cho khả năng thiết lập một Khu vực thương mại tự do với Hồng Kông trong tương lai không xa.
Cơ cấu tổ chức và các nguyên tắc hoạt động của ASEAN // Sách Vai trò và vị thế của Việt Nam trong cộng đồng kinh tế ASEAN. - H: Công thương, 2013. - Tr. 66-74
1. Cơ cấu tổ chức
Cơ cấu tổ chức của ASEAN hiện nay như sau:
a) Hội nghị Thượng đỉnh ASEAN (ASEAN Summit)
Đây là cơ quan quyền lực cao nhất của ASEAN, họp chính thức 2 năm một lần. Cho đến nay đã có 23 Hội nghị Thượng đỉnh ASEAN được tổ chức. Hội nghị Thượng đỉnh ASEAN lần thứ 23 được tổ chức tại Brunây vào tháng 10/2013.
b)Hội nghị Bộ trưởng Ngoại giao ASEAN (ASEAN Ministerial Meeting - AMM)
Theo Tuyên bố Băng-cốc năm 1967, AMM là hội nghị hàng năm của các Bộ trưởng Ngoại giao ASEAN có trách nhiệm đề ra và phối hợp các hoạt động của ASEAN, có thể họp không chính thức khi cần thiết.
c)Hội nghị Bộ trưởng Kinh tế ASEAN (ASEAN Economic Ministers - AEM)
AEM họp chính thức hàng năm và có thể họp không chính thức khi cần thiết. Trong AEM có Hội đồng AFTA (Khu vực thương mại tự do ASEAN) được thành lập theo quyết định của Hội nghị Thượng đỉnh ASEAN lần thứ 4 năm 1992 tại Xingapo để theo dõi, phối hợp và báo cáo việc thực hiện chương trình ưu đãi quan thuế có hiệu lực chung (CEPT) của AFTA.
d)Hội nghị Bộ trưởng các ngành
Hội nghị Bộ trưởng của một ngành trong hợp tác kinh tế ASEAN sẽ được tổ chức khi cần thiết để thảo luận sự hợp tác trong ngành cụ thể đó. Hiện có Hội nghị Bộ trưởng Năng lượng, Hội nghị Bộ trưởng Nông nghiệp, Lâm nghiệp... Các Hội nghị Bộ trưởng ngành có trách nhiệm báo cáo lên AEM.
e) Các hội nghị Bộ trưởng khác
Hội nghị Bộ trưởng của các lĩnh vực hợp tác ASEAN khác như y tế, môi trường, lao động, phúc lợi xã hội, giáo dục, khoa học và công nghệ, thông tin, luật pháp có thể được tiến hành khi cần thiết để điều hành các chương trình hợp tác trong các lĩnh vực này.
g)Hội nghị liên Bộ trưởng (Join Ministerial Meeting - JMM)
JMM được tổ chức khi cần thiết để thúc đẩy sự hợp tác giữa các ngành và trao đổi ý kiến về hoạt động của ASEAN. JMM bao gồm các Bộ trưởng Ngoại giao và Bộ trưởng Kinh tế ASEAN.
h)Tổng Thư ký ASEAN
Được những Người đứng đầu Chính phủ ASEAN bổ nhiệm theo khuyến nghị của Hội nghị AMM với nhiệm kỳ là 3 năm và có thể gia hạn thêm, nhưng không quá một nhiệm kỳ nữa; có hàm Bộ trưởng với quyền hạn khởi xướng, khuyến nghị và phối hợp các hoạt động của ASEAN, nhằm giúp nâng cao hiệu quả các hoạt động và hợp tác của ASEAN. Tổng Thư ký ASEAN được tham dự các cuộc họp các cấp của ASEAN, chủ tọa các cuộc họp của ASC thay cho Chủ tịch ASC trừ phiên họp đầu tiên và cuối cùng.
i) Ủy ban thường trực ASEAN (ASEAN Standing Committee - ASC)
ASC bao gồm chủ tịch là Bộ trưởng Ngoại giao của nước đăng cai Hội nghị AMM sắp tới, Tổng Thư ký ASEAN và Tổng Giám đốc của các Ban Thư ký ASEAN quốc gia. ASC thực hiện công việc của AMM trong thời gian giữa 2 kỳ họp và báo cáo trực tiếp cho AMM.
k) Cuộc họp các Quan chức cao cấp (Senior Officials Meeting - SOM)
SOM được chính thức coi là một bộ phận của cơ cấu trong ASEAN tại Hội nghị Thượng đỉnh ASEAN lần thứ 3 tại Manila năm 1987. SOM chịu trách nhiệm về hợp tác chính trị ASEAN và họp khi cần thiết; báo cáo trực tiếp cho AMM.
l)Cuộc họp các Quan chức kinh tế cao cấp (Senior Economic Officials Meeting - SEOM)
SEOM cũng đã được thể chế hóa chính thức thành một bộ phận của cơ cấu ASEAN tại Hội nghị Thượng đỉnh Manila năm 1987. Tại Hội nghị Thượng đỉnh ASEAN 4 năm 1992, 5 Ủy ban Kinh tế ASEAN đã bị giải tán và SEOM được giao nhiệm vụ theo dõi tất cả các hoạt động trong hợp tác kinh tế ASEAN. SEOM họp thường kỳ và báo cáo trực tiếp cho AEM.
m)Cuộc họp các Quan chức cao cấp khác
Ngoài ra có các cuộc họp các quan chức cao cấp về môi trường, ma túy cũng như của các ủy ban chuyên ngành ASEAN như phát triển xã hội, khoa học và công nghệ, các vấn đề công chức, văn hóa và thông tin. Các cuộc họp này báo cáo cho ASC và Hội nghị các Bộ trưởng liên quan.
n)Cuộc họp tư vấn chung (Joint Consultative Meeting - JCM)
Cơ chế họp JCM bao gồm Tổng Thư ký ASEAN, SOM, SEOM, các Vụ trưởng ASEAN. JCM được triệu tập khi cần thiết dưới sự chủ tọa của Tổng Thư ký ASEAN để thúc đẩy sự phối hợp giữa các quan chức liên ngành. Tổng Thư ký ASEAN sau đó thông báo kết quả trực tiếp cho AMM và AEM.
o) Các cuộc họp của ASEAN với các Bên đối thoại
ASEAN có các Bên đối thoại: Ô-xtrây-li-a, Ca-na-đa, EU, Nhật Bản, Hàn Quốc, Niu Di-lân, Mỹ, Nga, Trung Quốc, Ấn Độ. ASEAN cũng có quan hệ đối thoại theo từng lĩnh vực với Pa-ki-xtan.
Trước khi có cuộc họp với các Bên đối thoại, các nước ASEAN tổ chức cuộc họp trù bị để phối hợp có lập trường chung. Cuộc họp này do quan chức cao cấp của nước điều phối (Coordinating Country) chủ trì và báo cáo cho ASC.
p)Ban Thư ký ASEAN quốc gia
Mỗi nước thành viên ASEAN đều có Ban Thư ký quốc gia đặt trong bộ máy của Bộ Ngoại giao để tổ chức, thực hiện và theo dõi các hoạt động liên quan đến ASEAN của nước mình. Ban Thư ký quốc gia do một Vụ trưởng phụ trách.
q) Ủy ban ASEAN ở các nước thứ ba
Nhằm mục đích tăng cường trao đổi và thúc đẩy mối quan hệ giữa ASEAN với Bên đối thoại đó và các tổ chức quốc tế ASEAN thành lập các ủy ban tại các nước đối thoại, ủy ban này gồm những người đứng đầu các cơ quan ngoại giao của các nước ASEAN tại nước sở tại. Hiện có 11 ủy ban ASEAN tại: Bon (CHLB Đức), Bru-xen (Bỉ), Can-be-ra (Ốt-xtrây-li-a), Giơ-ne-vơ (Thụy Sĩ), Luân-đôn (Anh), Ốt-ta-oa (Canada), Pa-ri (Pháp), Xơ-un (Hàn Quốc), Oa-sinh-tơn (Mỹ) và Oen- ling-tơn (Niu Di-lân). Chủ tịch các ủy ban này báo cáo cho ASC và nhận chỉ thị từ ASC.
r)Ban Thư ký ASEAN
Ban Thư ký ASEAN được thành lập theo Hiệp định ký tại Hội nghị Thượng đỉnh lần thứ hai Ba-li năm 1976 để tăng cường phối hợp thực hiện các chính sách, chương trình và các hoạt động giữa các bộ phận khác nhau trong ASEAN, phục vụ các hội nghị của ASEAN.
2. Các nguyên tắc hoạt động chính của ASEAN
a) Các nguyên tắc làm nền tảng cho quan hệ giữa các quốc gia thành viên và với bên ngoài
Trong quan hệ với nhau, các nước ASEAN luôn tuân theo 5 nguyên tắc chính đã được nêu trong Hiệp ước Thân thiện và Hợp tác ở Đông Nam Á (Hiệp ước Ba-li), ký tại Hội nghị Thượng đỉnh ASEAN lần thứ I tại Ba-li năm 1976 là:
- Cùng tôn trọng độc lập, chủ quyền, bình đẳng, toàn vẹn lãnh thổ và bản sắc dân tộc của tất cả các dân tộc;
- Quyền của mọi quốc gia được lãnh đạo hoạt động của dân tộc mình, không có sự can thiệp, lật đổ hoặc cưỡng ép của bên ngoài;
- Không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau;
- Giải quyết bất đồng hoặc tranh chấp bằng biện pháp hòa bình, thân thiện;
- Không đe dọa hoặc sử dụng vũ lực;
- Hợp tác với nhau một cách có hiệu quả;
b) Các nguyên tắc điều phối hoạt động của Hiệp hội
- Việc quyết định các chính sách hợp tác quan trọng cũng như trong các lĩnh vực quan trọng của ASEAN dựa trên nguyên tắc nhất trí (consensus), tức là một quyết định chỉ được coi là của ASEAN khi được tất cả các nước thành viên nhất trí thông qua. Nguyên tắc này đòi hỏi phải có quá trình đàm phán lâu dài, nhưng bảo đảm được việc tính đến lợi ích quốc gia của tất cả các nước thành viên. Đây là một nguyên tắc bao trùm trong các cuộc họp và hoạt động của ASEAN.
- Một nguyên tắc quan trọng khác chi phối hoạt động của ASEAN là nguyên tắc bình đẳng. Nguyên tắc này thể hiện trên 2 mặt: thứ nhất, các nước ASEAN, không kể lớn hay nhỏ, giàu hay nghèo đều bình đẳng với nhau trong nghĩa vụ đóng góp cũng như chia sẻ quyền lợi; thứ hai, hoạt động của tổ chức ASEAN được duy trì trên cơ sở luân phiên, tức là các chức chủ tọa các cuộc họp của ASEAN từ cấp chuyên viên đến cấp cao, cũng như địa điểm cho các cuộc họp đó được phân đều cho các nước thành viên trên cơ sở luân phiên theo vần A, B, C của tiếng Anh.
- Để tạo thuận lợi và đẩy nhanh các chương trình hợp tác kinh tế ASEAN, trong Hiệp định khung về tăng cường hợp tác kinh tế ký tại Hội nghị Thượng đỉnh ASEAN lần thứ 4 ở Xingapo tháng 2 năm 1992, các nước ASEAN đã thỏa thuận nguyên tắc 6-X, theo đó hai hay một số nước thành viên ASEAN có thể xúc tiến thực hiện trước các dự án ASEAN nếu các nước còn lại chưa sẵn sàng tham gia, không cần phải đợi tất cả mới cùng thực hiện.
c) Triển khai Cơ chế Tham vấn Giải quyết các vấn đề Thương mại và Đầu tư trong ASEAN
Những lợi ích có được từ thương mại quốc tế phụ thuộc rất nhiều vào việc thực thi các cam kết theo các hiệp định. Nhận thức được điều này, trong khuôn khổ hợp tác kinh tế của Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN), các nước ASEAN đã thiết lập Cơ chế Tham vấn giải quyết các vấn đề Thương mại và Đầu tư (ASEAN Consultation to Solve Trade and Investment Issues - ACT).
Chính thức được đưa vào hoạt động từ ngày 15 tháng 7 năm 2005, Cơ chế này tạo điều kiện cho các doanh nghiệp chủ động khiếu nại trực tiếp tới các cơ quan quản lý Nhà nước qua mạng Internet khi gặp phải trở ngại trong quá trình thực thi các hiệp định trong ASEAN. Theo cơ chế này, doanh nghiệp có thể nhận được phản hồi nhanh hơn so với một quy trình khiếu nại thông thường thông qua lưu chuyển công văn, giúp bảo vệ lợi ích của doanh nghiệp từ các chương trình hội nhập kinh tế trong ASEAN như chương trình ưu đãi thuế quan có hiệu lực chung (CEPT), chương trình ưu đãi hội nhập (AISP)...
Để giúp các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực xuất nhập khẩu với ASEAN hiểu rõ về Cơ chế ACT, Bộ Thương mại (nay là Bộ Công Thương) đã giới thiệu một số điểm chính về cơ chế này và cách áp dụng:
ACT là gì?
ACT là một mạng kết nối trên Internet để các doanh nghiệp sử dụng như một cơ chế không bắt buộc, không mang tính pháp lý để giải quyết các vướng mắc mà doanh nghiệp gặp phải liên quan đến quá trình thực hiện các hiệp định trong ASEAN.
ACT trực tiếp liên kết các cơ quan quản lý quốc gia của các nước Thành viên ASEAN thông qua Cơ quan đầu mối AFTA quốc gia bằng một cơ sở dữ liệu trực tuyến chung đặt tại Ban Thư ký ASEAN.
Khi gặp vướng mắc, các doanh nghiệp có thể khiếu nại đến cơ quan ACT của nước Thành viên ASEAN nơi doanh nghiệp đang hoạt động. Nước nhận khiếu nại (Host Country) sẽ xem xét đơn khiếu nại và nếu thấy hợp lý, sẽ chuyển đơn này cho cơ quan ACT của nước bị cho là có xảy ra vi phạm (còn gọi là nước bị khiếu nại - Lead Country). Khi nước bị khiếu nại đồng ý tiếp tục điều tra, đơn khiếu nại sẽ trở thành “vụ việc” (case) với thời hạn đưa ra ý kiến trả lời chính thức là 04 tuần. Cơ quan ACT của nước tiếp nhận khiếu nại sẽ trả lời việc đồng ý tiếp nhận hoặc từ chối, có lý do, trong vòng 07 ngày.
Doanh nghiệp có thể giám sát diễn biến của vụ việc thông qua cơ sở dữ liệu trực tuyến ACT. Thời hạn giải quyết vụ việc cũng được chỉ rõ trong cơ sở dữ liệu cho tới khi vụ việc được giải quyết.
Tại sao nên sử dụng ACT?
- ASEAN cam kết xây dựng cơ chế ACT nhằm tăng cường hiệu quả của Cơ chế giải quyết tranh chấp ASEAN như đã khẳng định trong Tuyên bố Bali II.
- ACT là một cơ chế tham vấn, không bắt buộc, không mang tính pháp lý để giải quyết các tranh chấp, cùng với:
- Ban pháp chế Ban Thư ký ASEAN (cơ chế tư vấn).
- Cơ quan theo dõi thực hiện ASEAN (cơ chế tham vấn).
- Cơ chế Giải quyết Tranh chấp được Tăng cường (cơ chế chế tài).
ACT nhằm mục đích gì?
- ACT tạo ra một môi trường thuận lợi cho doanh nghiệp trong ASEAN, vì đó là một mạng lưới các cơ quan chính phủ cho phép các doanh nghiệp giải quyết các vấn đề liên quan đến các nước khác trong khu vực ASEAN mà không cần thông qua các thủ tục hành chính nhà nước thông thường.
- ACT tăng cường việc thực hiện và tuân thủ pháp luật, góp phần đảm bảo việc tuân thủ các hiệp định, các nghĩa vụ đã cam kết.
- ACT đẩy mạnh hợp tác khu vực - Các nước thành viên cùng giải quyết các vấn đề liên quan đến quá trình thực hiện.
Có thể khiếu nại vấn đề gì khi sử dụng ACT ?
- Giải quyết những vấn đề phát sinh trong quá trình thực hiện các hiệp định kinh tế ASEAN, trước mắt là trong lĩnh vực thương mại như áp mã HS, phân loại hàng hóa, sử dụng mẫu D,...
- Giải quyết những vấn đề nảy sinh do thiếu thông tin về các hiệp định kinh tế ASEAN;
- Giải quyết nhanh các vấn đề phát sinh do áp dụng sai các hiệp định kinh tế ASEAN;
- Với vai trò là một công cụ giám sát, ACT sẽ khuyến khích các nước thành viên thực hiện đúng cam kết của mình.
Quy trình hoạt động của ACT ?
- Bạn có thể tiếp cận văn phòng ACT quốc gia (của nước nhận khiếu nại - Host ACT) qua điện thoại, fax hoặc thư điện tử trong giờ hành chính và sẽ nhận được các câu trả lời nhanh chóng đối với các vấn đề của bạn.
- Nếu vấn đề của bạn có thể được giải quyết qua cơ chế ACT, Host ACT sẽ phân tích và cho bạn biết trong thời gian sớm nhất liệu vấn đề đó có thể được đưa vào mạng của ACT hay không trong thời hạn 07 ngày.
- Khi một vụ việc được đưa vào cơ sở dữ liệu của ACT, bạn sẽ nhận được thông báo ngắn từ văn phòng ACT quốc gia.
- Nếu văn phòng ACT quốc gia của nước nơi vấn đề phát sinh (Lead ACT) nhất trí giải quyết vấn đề đó, thời hạn đưa ra giải pháp là 04 tuần.
- Nếu bạn cung cấp địa chỉ email, bạn sẽ nhận được một thư tự động thông báo xác nhận việc tiếp nhận đề nghị của bạn.
- Nếu mạng lưới ACT không thể giải quyết vấn đề của bạn, cơ quan ACT của nước nhận khiếu nại (Host ACT) sẽ giúp bạn tìm cách khác để giải quyết vấn đề.
Sử dụng ACT như thế nào?
Truy cập trang chủ của Cơ chế ACT (http://act.aseansec.org).
d) Các nguyên tắc khác
Trong quan hệ giữa các nước ASEAN đang dần dần hình thành một số các nguyên tắc, tuy không thành văn, không chính thức song mọi người đều hiểu và tôn trọng áp dụng như: nguyên tắc có đi có lại, không đối đầu, thân thiện, không tuyên truyền tố cáo nhau qua báo chí, giữ gìn đoàn kết ASEAN và giữ bản sắc chung của Hiệp hội.
Khái quát một số cam kết và lộ trình xây dựng Cộng đồng ASEAN // Sách Vai trò và vị thế của Việt Nam trong cộng đồng kinh tế ASEAN. - H: Công thương, 2013. - Tr. 81-97
1. Quá trình hình thành
Tháng 10/2003, Lãnh đạo các nước ASEAN ký Tuyên bố Hòa hợp ASEAN II (hay còn gọi là Tuyên bố Bali II), nhất trí đề ra mục tiêu thành lập Cộng đồng ASEAN vào năm 2020 với ba trụ cột chính: Cộng đồng An ninh (ASC), Cộng đồng Kinh tế (AEC) và Cộng đồng Văn hóa - Xã hội (ASCC). Để triển khai mục tiêu trên, ASEAN tiếp tục đề ra Chương trình Hành động Viêng Chăn (VAP) cho giai đoạn 2004 - 2010 và các kế hoạch hành động để xây dựng ba trụ cột của Cộng đồng ASEAN vào năm 2020. Trong đó có hợp phần quan trọng là thực hiện Sáng kiến Liên kết ASEAN (IAI) nhằm giúp thuhẹp khoảng cách phát triển trong ASEAN với kế hoạch hành động và các dự án cụ thể.
Trước những biến đổi to lớn của tình hình thế giới và khu vực, để phù hợp với mục tiêu đề ra trong Chương trình Hành động Viêng Chăn (VAP), vào tháng 01/2007, lãnh đạo các nước ASEAN đã quyết tâm đẩy nhanh tiến trình liên kết nội khối dựa trên cơ sở pháp lý là Hiến chương ASEAN, nhất trí với mục tiêu hiện thực hóa thành công Cộng đồng ASEAN vào năm 2015 nhằm tăng cường hơn nữa sức mạnh tập thể của tổ chức và nâng cao vai trò của nó cũng như tạo thế cân bằng quyền lực với các cấu trúc hợp tác khu vực khác ở châu Á - Thái Bình Dương. Tại Hội nghị cấp cao ASEAN 13, tháng 11/2007, các nước thành viên ASEAN đã ký Hiến chương ASEAN. Sự ra đời của Hiến chương đã đánh dấu một mốc mới trong tiến trình hợp tác nội khối của ASEAN và quá trình xây dựng Cộng đồng ASEAN. Theo đánh giá của Cựu Phó thủ tướng Malaixia Tun Musa Hita thì bản "Hiến chương là văn kiện mới tốt nhất mà ASEAN có thể soạn thảo được trong bối cảnh hiện nay”. Hiến chương chính là công cụ pháp lý và là thể chế quan trọng, hỗ trợ ASEAN trong việc thực hiện mục tiêu xây dựng cộng đồng bởi sau 4 thập kỷ tồn tại, ASEAN vẫn chưa có một địa vị pháp lý với tư cách là một tổ chức hợp tác khu vực. Trên thực tế, ASEAN mới chỉ hoạt động dựa trên các văn kiện chính trị và đang thiếu hẳn một nền tảng pháp lý làm cơ sở cho tăng cường liên kết sâu rộng hơn. Chính thức có hiệu lực vào ngày 15/12/2008, bản Hiến chương thực sự trở thành một hành lang pháp lý để 10 nước thành viên ASEAN cùng tiến bước. Đây là sự kiện không chỉ đánh dấu về tính nghiêm túc của ASEAN trong hiện thực hóa các kế hoạch đã cam kết hướng tới xây dựng thành công AEC, mà còn khẳng định ASEAN thực sự là một tổ chức có Hiến chương, đại diện cho 10 quốc gia thành viên trong quan hệ đối tác với các nước ngoài khu vực như lời khẳng định "Tương lai và sức mạnh của ASEAN nằm ở chính sức mạnh đoàn kết - ý nghĩa thực tiễn của bản Hiến chương ASEAN".
Để hỗ trợ đắc lực cho việc hiện thực hóa Cộng đồng ASEAN vào năm 2015 bằng các kế hoạch và biện pháp cụ thể, tại Hội nghị cấp cao ASEAN 14 diễn ra tại Thái Lan từ 28/02 - 01/3/2009, với sự nhất trí của tất cả các nước, ASEAN đã thông qua kế hoạch về thu hẹp khoảng cách phát triển giai đoạn II (2008 - 2015). Kế hoạch này đề ra bước đi và lộ trình cụ thể, tạo khuôn khổ cho quá trình xây dựng cộng đồng của ASEAN từ nay đến năm 2015. Nội dung kế hoạch cụ thể để thực hiện cam kết xây dựng từng trụ cột của cộng đồng như sau:
Về trụ cột Cộng đồng Chính trị - An ninh: Hội đồng Cộng đồng Chính trị - An ninh đã họp hai phiên (tháng 4 và 7/2009) thống nhất về các phương hướng, lĩnh vực ưu tiên trong triển khai Kế hoạch tổng thể APSC; trong đó tập trung vào việc đưa Cơ quan nhân quyền ASEAN đi vào hoạt động trong năm 2009, tiếp tục thúc đẩy các nước ngoài ASEAN tham gia Hiệp định Thân thiện và Hợp tác (TAC), tăng cường hợp tác cứu trợ thiên tai...
Về trụ cột Cộng đồng Kinh tế: Kế hoạch tổng thể AEC được thông qua bao gồm: Kế hoạch Tổng thể xây dựng AEC (AEC Blueprint) và Lộ trình Chiến lược xây dựng AEC (Strategic Schedule for AEC) nhằm xác định quy mô, cơ chế và lộ trình thực hiện AEC, hướng đến việc kí kết Hiệp định Thương mại Nội khối và Ngoại khối như: Hiệp định Thương mại Hàng hóa ASEAN (ATIGA); Hiệp định Đầu tư toàn diện ASEAN (ACIA); Nghị định thư thực hiện gói cam kết thứ 7 về dịch vụ trong khuôn khổ Hiệp định khung về dịch vụ (AFAS). Với các đối tác bên ngoài, ASEAN đã ký Hiệp định Khu vực Mậu dịch Tự do ASEAN - Ôt-xtrây-li-a - Niu Di-lân (AANZFTA) (tháng 2/2009); Hiệp định Đầu tư ASEAN - Hàn Quốc (Cấp cao kỷ niệm ASEAN - Hàn Quốc, 6/2009); kết thúc đàm phán và ký Hiệp định Thương mại Hàng hóa ASEAN - Ấn Độ (AITIG) vào tháng 8/2009.
Về trụ cột Cộng đồng Văn hóa - Xã hội: ASEAN nhấn mạnh xây dựng ASCC, một mặt đảm bảo sự phát triển cân bằng và hài hòa của ASEAN, mặt khác có tác dụng bổ trợ và gắn kết hữu cơ 2 trụ cột khác của Cộng đồng ASEAN là Chính trị - An ninh và Kinh tế. Kế hoạch tổng thể ASCC gồm 6 điểm chính như: (i) Phát triển con người; (ii) Đảm bảo phúc lợi và bảo hiểm xã hội; (iii) Các quyền và bình đẳng xã hội; (iv) Đảm bảo môi trường bền vững; (v) Tạo dựng bản sắc ASEAN; (vi) Thu hẹp khoảng cách phát triển và 40 thành tố cùng với 340 biện pháp cần được thực hiện trong giai đoạn 2009 - 2015. Kể từ khi Kế hoạch tổng thể ASCC được thông qua (3/2009), đã có 32 dự án mới đã được thông qua và đang trong quá trình triển khai với sự tài trợ từ các nước đối thoại; 28 dự án mới khác đang tìm nguồn tài trợ.
Về Kế hoạch công tác IAI giai đoạn 2 (2009 - 2015) chuẩn bị những tiền đề cho việc thành lập Cộng đồng ASEAN sẽ bao gồm 181 biện pháp cụ thể, gắn với các giải pháp lồng ghép các kế hoạch tổng thể thực hiện xây dựng Cộng đồng Kinh tế, Văn hóa - Xã hội và Chính trị - An ninh cùng các lĩnh vực chung. Để triển khai các biện pháp có hiệu quả, tại cuộc họp Nhóm Đặc trách về IAI đã bàn về việc triển khai điều chỉnh tổ chức, xây dựng dự án và huy động nguồn lực cho xây dựng Cộng đồng ASEAN.
Ngoài những cam kết trên, để đẩy nhanh hơn nữa những ý tưởng, mục tiêu xây dựng Cộng đồng ASEAN thành hiện thực, trong những hội nghị tiếp theo, ASEAN luôn nhấn mạnh rằng việc thành lập Cộng đồng ASEAN là rất quan trọng. Do đó ASEAN đã đưa ra những chủ đề cụ thể với từng trụ cột của cộng đồng. Điển hình như trong Hội nghị Cấp cao ASEAN lần thứ 15 tổ chức ở Cha Am, Hủa Hỉn, Thái Lan (tháng 10/2009), ASEAN đã đưa ra Tuyên bố Cha Am - Hủa Hỉn khẳng định mục tiêu xây dựng Cộng đồng ASEAN trong đó nhấn mạnh việc hiện thực hóa Cộng đồng AEC vào năm 2015 là giai đoạn đầu tiên của quá trình phát triển AC. Cộng đồng Kinh tế mà ASEAN xây dựng thành công vào năm 2015 sẽ là bước quá độ để hướng tới một sự nhất thể hóa kinh tế khu vực ở mức độ cao hơn, biến ASEAN thành một cơ sở sản xuất duy nhất, một thị trường chung, hướng tới sự phát triển khu vực ở tầm vóc mới.
Đặc biệt vào năm 2010, từ ngày 19 - 23/7/2010 đã có khoảng 20 hội nghị được tổ chức tại Việt Nam, bao gồm: Hội nghị Bộ trưởng Ngoại giao ASEAN lần thứ 43 (AMM 43), các Hội nghị sau Hội nghị Bộ trưởng (PMC), Diễn đàn Khu vực ASEAN lần thứ 17 (ARF 17)... Hầu hết các Hội nghị này đều tập trung bàn về các định hướng và biện pháp cụ thể, triển khai các phương thức hợp tác lớn nhằm tiến tới xây dựng thành công Cộng đồng ASEAN vào năm 2015. Tại Hội nghị cấp cao ASEAN 16 tại Hà Nội tháng 4/2010, ASEAN tiếp tục thúc đẩy thực hiện chủ đề chung của ASEAN 2010 - đó là "Hướng tới Cộng đồng ASEAN - Từ tầm nhìn tới hành động", tăng cường hợp tác nội khối cũng như tăng cường hợp tác giữa ASEAN với các đối tác khác. Tiếp đến, ngày 19/7/2011, Hội nghị Bộ trưởng Ngoại giao ASEAN lần thứ 44 (AMM 44) chính thức khai mạc tại Bali, Inđônêxia với chủ đề "Cộng đồng ASEAN trong Cộng đồng các quốc gia toàn cầu". Tại hội nghị AMM 44, ASEAN tiếp tục thảo luận những nội dung của các Hội nghị lần trước, tiếp tục thúc đẩy lộ trình, biện pháp đẩy mạnh xây dựng Cộng đồng ASEAN trên ba trụ cột vào năm 2015. Phát huy vai trò của ASEAN trong việc củng cố hòa bình, an ninh và ổn định của khu vực cũng như trên thế giới. Tăng cường khả năng phục hồi kinh tế khu vực trong bối cảnh kinh tế toàn cầu đang trên đà phục hồi từ cuộc khủng hoảng tài chính và sự nổi lên của các nền kinh tế châu Á với tư cách là một động lực tăng trưởng chủ yếu của kinh tế toàn cầu. Tiếp theo, tại Hội nghị Thượng đỉnh ASEAN 21 tại Phnom Penh (tháng 11/2012), Campuchia đã ra Tuyên bố Phnom Penh, nỗ lực vì "một cộng đồng, một vận mệnh". Tại Hội nghị Thượng đỉnh 21, các nước ASEAN đề ra quyết tâm xây dựng Cộng đồng ASEAN vào năm 2015 và coi đây là mục tiêu được ưu tiên hàng đầu. Tuy nhiên, trong bối cảnh cuộc xung đột sắc tộc ở Mianma đang đến đỉnh điểm và những tranh chấp chưa có hồi kết ở Biển Đông, ASEAN cũng giành phần lớn thời gian để thảo luận hai vấn đề quan trọng này nhằm đạt tới sự thống nhất, góp phần vào nỗ lực xây dựng thành công APSC nói riêng và Cộng đồng ASEAN nói chung vào năm 2015.
Như vậy, từ các bản cam kết Tuyên bố Bali II, Chương trình Hành động Viêng Chăn, Hiến chương ASEAN, Kế hoạch tổng thể chi tiết xây dựng 3 Cộng đồng: Chính trị - An ninh ASEAN (APSC), Kinh tế (AEC), Văn hóa - Xã hội (ASCC), Kế hoạch công tác IAI và Kế hoạch Kết nối ASEAN, bản Tuyên bố Cha Am - Hủa Hỉn về lộ trình xây dựng Cộng đồng ASEAN (giai đoạn 2009 - 2015)... Tất cả những bản cam kết này đều thể hiện một quyết tâm hướng tới thực hiện lộ trình xây dựng Cộng đồng ASEAN từ ý tưởng về một cộng đồng đến việc đưa ra phương hướng, kế hoạch, biện pháp để nhằm đẩy nhanh hơn nữa công cuộc xây dựng một cộng đồng riêng của khu vực. Các văn bản trước là định hướng cho văn bản sau, các văn bản sau hiện thực hóa của văn bản trước đó và đều thể hiện quyết tâm tăng cường liên kết nội khối trên tất cả các lĩnh vực, hướng mạnh tới xây dựng và hình thành Cộng đồng ASEAN vào năm 2015 dựa trên 3 trụ cột là Cộng đồng Chính trị - An ninh, Kinh tế và Văn hóa - Xã hội ASEAN.
2. Khái quát nội dung các cam kết xây dựng Cộng đồng ASEAN
Đi sâu vào từng cam kết xây dựng cộng đồng ta thấy rằng, lộ trình thực hiện các cam kết xây dựng Cộng đồng ASEAN đều tập trung vào nỗ lực xây dựng một cộng đồng riêng của khu vực Đông Nam Á giống như là tổ chức hợp tác liên chính phủ liên kết sâu rộng hơn trên cơ sở pháp lý là Hiến chương ASEAN chứ không phải là mô hình của một tổ chức siêu quốc gia. Cộng đồng là một hình thức liên kết khu vực ở trình độ tương đối cao, chỉ đứng sau liên minh khu vực. Cộng đồng được xây dựng sẽ bao hàm hầu hết các lĩnh vực hoạt động, từ chính trị đến kinh tế, văn hóa và xã hội. Do đó, nội dung của những cam kết đều đề cập đến việc cùng một lúc xây dựng Cộng đồng ASEAN trên cả 3 trụ cột: Cộng đồng Kinh tế, Cộng đồng An ninh - Chính trị, Cộng đồng Văn hóa - Xã hội một cách hài hòa, thống nhất và có vai trò bổ trợ cho nhau.
Về Cộng đồng An ninh - Chính trị: Nội dung chính trong việc xây dựng Cộng đồng An ninh - Chính trị (APSC) là nhằm tạo dựng một môi trường hòa bình và an ninh cho phát triển ở khu vực Đông Nam Á thông qua việc nâng hợp tác chính trị - an ninh ASEAN lên tầm cao mới, với sự tham gia và đóng góp xây dựng của các đối tác bên ngoài, không nhằm tạo ra một khối phòng thủ chung. Cụ thể như Tuyên bố Bali II đã đề ra khuôn khổ cho việc hình thành Cộng đồng ASEAN, trong đó có Cộng đồng APSC, hướng tới mục tiêu nâng hợp tác chính trị - an ninh ASEAN lên một tầm cao mới và khẳng định xây dựng APSC dựa trên các nền tảng cơ bản như: Cộng đồng APSC sẽ bao trùm tất cả các khía cạnh về chính trị, kinh tế, văn hóa - xã hội. ASEAN nhấn mạnh rằng APSC không nhằm hình thành một khối quân sự hoặc liên minh quân sự hay hướng tới một chính sách đối ngoại chung mà tôn trọng các nguyên tắc chủ đạo của ASEAN như: không can thiệp, ra quyết định bằng đồng thuận, tôn trọng độc lập, chủ quyền, không đe dọa sử dụng vũ lực, giải quyết hòa bình các tranh chấp; tiếp tục đề cao và phát huy các cơ chế và công cụ sẵn có của ASEAN về hợp tác chính trị - an ninh như Tuyên bố ZOPFAN, Hiệp ước TAC, Hiệp ước SEANWFZ, Diễn đàn ARF... APSC sẽ phát triển theo một quá trình tiên tiến, với tốc độ phù hợp với tất cả các bên. APSC sẽ là một cộng đồng rộng mở, ASEAN sẵn sàng mở rộng quan hệ hợp tác với các nước và các bên đối tác nhằm thúc đẩy hòa bình và ổn định trong khu vực. Tuyên bố Bali II xác định các thành tố cơ bản cấu thành APSC gồm: xây dựng các chuẩn mực, ngăn ngừa xung đột, đưa ra các giải pháp tiếp cận để giải quyết xung đột, và kiến tạo hòa bình sau xung đột. Tiếp đến, Chương trình hành động Viêng Chăn (VAP) đã cụ thể hóa Kế hoạch hành động xây dựng APSC cho giai đoạn 2004 - 2010 với các tiểu mục cụ thể, đồng thời bổ sung thêm các biện pháp tăng cường vai trò trung tâm của ASEAN và mở rộng hợp tác với bên ngoài, hướng đến tạo dựng APSC với 3 đặc trưng chính: một cộng đồng hoạt động theo luật lệ với các giá trị, chuẩn mực chung; một cộng đồng gắn kết, hòa bình và tự cường, có trách nhiệm chung bảo đảm an ninh toàn diện; một cộng đồng năng động, rộng mở với bên ngoài trong một thế giới ngày càng gắn kết và phụ thuộc lẫn nhau.
Về Cộng đồng kinh tế: Trong Tuyên bố Bali II, nội dung cơ bản của Cộng đồng Kinh tế là việc hiện thực hóa mục tiêu cuối cùng hội nhập kinh tế trong "Tầm nhìn ASEAN 2020", nhằm hình thành một khu vực kinh tế ASEAN ổn định, thịnh vượng và có khả năng cạnh tranh cao. Trong đó hàng hóa, dịch vụ, đầu tư sẽ được chu chuyển một cách tự do và vốn thì được di chuyển tự do hơn, kinh tế phát triển đồng đều, đói nghèo và chênh lệch kinh tế xã hội được giảm bớt vào năm 2020... Cộng đồng Kinh tế ASEAN sẽ biến khu vực Đông Nam Á trở thành một thị trường chung duy nhất và cơ sở sản xuất thống nhất, trong đó có sự lưu chuyển tự do của hàng hóa, dịch vụ, đầu tư, vốn và lao động có tay nghề. Từ đó thúc đẩy cạnh tranh và thúc đẩy sự thịnh vượng chung cho cả khu vực; tạo sự hấp dẫn với đầu tư - kinh doanh từ bên ngoài, biến ASEAN thành một bộ phận năng động và vững chắc hơn trong hệ thống cung ứng toàn cầu. Cũng theo Tuyên bố của hợp tác Bali II, AEC là sự đẩy mạnh những cơ chế liên kết hiện có của ASEAN như Hiệp định Khu vực Mậu dịch Tự do ASEAN, Hiệp định khung ASEAN về dịch vụ (AFAS), Khu vực Đầu tư ASEAN (AIA), và cả Kế hoạch tổng thể Kết nối ASEAN (MPAC)...
Đồng thời, AEC sẽ góp phần giải quyết khoảng cách phát triển và thúc đẩy hội nhập của của các nước Campuchia, Lào, Mianma và Việt Nam (CLMV) vào khu vực thông qua Sáng kiến Hội nhập ASEAN và các sáng kiến khu vực khác. Các lĩnh vực hợp tác khác cũng được kết hợp như nguồn nhân lực phát triển và xây dựng năng lực; công nhân có trình độ chuyên môn, tay nghề; tiến tới tư vấn lẫn nhau về kinh tế vĩ mô và chính sách tài chính, thương mại, các biện pháp tài chính; tăng cường cơ sở hạ tầng và thông tin liên lạc kết nối; phát triển giao dịch thông qua dịch vụ thương mại điện tử ASEAN; tích hợp các ngành công nghiệp trên toàn khu vực để thúc đẩy khu vực tìm nguồn cung ứng phục vụ sản xuất và phát triển kinh tế; tăng cường sự tham gia của khu vực và tăng cường niềm tin cho việc xây dựng AEC.
Về Cộng đồng Văn hóa - Xã hội: Nội dung các cam kết xây dựng Cộng đồng Văn hóa - Xã hội nhấn mạnh vào việc xây dựng Cộng đồng Văn hóa - Xã hội (ASCC) có một vị trí đặc biệt quan trọng trong tiến trình xây dựng Cộng đồng ASEAN. Theo đó, kế hoạch tổng thể về lĩnh vực này hướng tới xây dựng một Cộng đồng ASEAN lấy nhân dân làm trung tâm, xây dựng một ASEAN đùm bọc, tương thân tương ái, vượt qua những khó khăn và thách thức của quá trình toàn cầu hóa. ASCC sẽ tăng cường hơn nữa sự hợp tác trong việc giải quyết các vấn đề đời sống văn hóa - xã hội. ASCC nhấn mạnh việc phục vụ và nâng caochất lượng cuộc sống của người dân ASEAN, tập trung xử lý các vấn đề liên quan đến bình đẳng và công bằng xã hội, bản sắc văn hóa, môi trường, tác động của toàn cầu hóa và cách mạng khoa học công nghệ. Trong đó, mục tiêu quan trọng nhất của ASCC là thúc đẩy tiến bộ xã hội và xây dựng bản sắc ASEAN.
3. Lộ trình thực hiện các cam kết xây dựng cộng đồng ASEAN
a. Lộ trình xây dựng Cộng đồng theo kế hoạch
Lộ trình xây dựng Cộng đồng ASEAN từ cam kết đến hiện thực là một quá trình dài, bên cạnh những thuận lợi cũng gặp không ít khó khăn. Để đạt được những mục tiêu đề ra, ASEAN phải tuân thủ theo nhiều nguyên tắc. Tuy nhiên, cũng chính việc tuân thủ những nguyên tắc đó khiến lộ trình thực hiện các cam kết xây dựng Cộng đồng ASEAN mang những đặc điểm riêng mà chỉ riêng mình ASEAN mới có.
Điểm thứ nhất cần phải nói tới là trong quá trình hiện thực hóa cộng đồng, ASEAN đã không nhấn mạnh đến việc nhất thể hóa trụ cột nào, tức là ASEAN cùng một lúc xây dựng cả ba trụ cột của cộng đồng. Cả ba trụ cột vừa là tiền đề nhưng cũng là cơ sở, là chỗ dựa vững chắc cho nhau, hỗ trợ nhau tiến tới xây dựng thành công AC. Mặc dù, ASEAN luôn nhận thức được tầm quan trọng của nhất thể hóa kinh tế, vì nhất thể hóa kinh tế sẽ giúp ASEAN có được một thị trường chung thống nhất với nguồn vốn dồi dào. Thế nhưng nếu nhất thể hóa kinh tế cũng có thể gây ra những tác động tiêu cực, dẫn đến việc các nhân tố xấu có thể lan tràn sang toàn bộ các nước ASEAN. Do đó, ASEAN đã quy định rõ trong Hiến chương việc xây dựng Cộng đồng ASEAN là quá trình xây dựng đồng thời cả ba trụ cột, đó là APSC, AEC và ASCC chứ không đề cập tới xây dựng cộng đồng nào trước, cộng đồng nào sau.
Trong việc thực hiện các cam kết xây dựng Cộng đồng, ASEAN chú trọng tới vấn đề xây dựng cộng đồng cùng nhau hợp tác giải quyết các vấn đề chứ không phải là một tổ chức quyền lực siêu quốc gia, nhất thể hóa toàn diện các vấn đề liên quan. Điều này thể hiện ở phương hướng hợp tác hành động và xây dựng cơ chế mang tính ràng buộc phi nhất thể hóa của các nước thành viên trong xây dựng cộng đồng. Cụ thể, trong Hiến chương và các chương trình hành động của ASEAN không thấy những điều khoản mang tính cưỡng chế như Liên minh châu Âu (EU), đặc biệt trong Hiến chương nhấn mạnh nguyên tắc cơ bản nhất của ASEAN là bàn bạc, nhất trí. Nếu việc bàn bạc, nhất trí vẫn không giải quyết được sẽ trình lên hội nghị cấp cao quyết định.
Hơn nữa, trong tiến trình xây dựng cộng đồng, ASEAN luôn dựa trên nguyên tắc cơ bản là sự kết hợp giữa sự thống nhất trong đa dạng, coi trọng và đề cao chủ nghĩa khu vực, tuân thủ các nguyên tắc truyền thống, chủ đạo của tổ chức như không can thiệp, ra quyết định bằng đồng thuận, tôn trọng độc lập, chủ quyền, không đe dọa sử dụng vũ lực, giải quyết hòa bình các tranh chấp. Theo quan điểm của tất cả các thành viên ASEAN, xây dựng cộng đồng không bắt buộc phải có sự giống nhau về văn hóa mà có thể hợp tác bằng cách xây dựng một nền văn hóa hòa bình trên cơ sở tôn trọng sự đa dạng về văn hóa trong khu vực bởi Đông Nam Á là khu vực khá đa dạng về tộc người, văn hóa, về trình độ phát triển, cũng như chế độ chính trị. Trong kế hoạch xây dựng Cộng đồng Văn hóa - xã hội, ASEAN nhấn mạnh: phải thúc đẩy sự đồng thuận, thông qua bồi dưỡng ý thức về nền văn hóa đa dạng của Đông Nam Á. Đồng thời, trong các chương trình hành động xây dựng Cộng đồng ASEAN, ASEAN kiên trì với nguyên tắc tôn trọng chủ quyền, không can thiệp vào công cuộc nội bộ của nhau, nhấn mạnh tầm quan trọng của chủ nghĩa khu vực. Khi hiện thực hóa Hiến chương ASEAN, các nước thành viên chú trọng đến “tôn trọng độc lập, chủ quyền bình đẳng, toàn vẹn lãnh thổ của các quốc gia thành viên; không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau”. Cùng với việc đề cao chủ nghĩa khu vực thì một nguyên tắc rất căn bản và có tính mục tiêu của ASEAN trong xây dựng cộng đồng là nhằm xây dựng một “ASEAN trở thành một cộng đồng khu vực có tính hướng ngoại, đầy tiềm năng trong một thế giới nhất thể hóa và phụ thuộc lẫn nhau”. Là một tổ chức khu vực, ASEAN đã rất rất khéo léo khi tăng cường hợp tác, hội nhập, đề cao tính chủ nghĩa khu vực để phục vụ mục tiêu xây dựng cộngđồng riêng của mình. Chính đặc điểm này là một trong những nhân tố làm nên nét riêng cho ASEAN khi Cộng đồng ASEAN được thành lập.
Trong lộ trình thực hiện cam kết xây dựng AC, ASEAN cũng chú trọng tới các bên tham gia. Đây cũng là một trong những đặc điểm nổi bật trong tiến trình hiện thực hóa thành công Cộng đồng chung của khu vực. Trong Hiến chương và các văn bản liên quan được kí kết đều cho thấy rằng có rất nhiều bên tham gia xây dựng cộng đồng ASEAN như chính phủ các nước tham gia kí kết, các tổ chức xã hội dân sự, các tổ chức quốc tế... hay để có nguồn tài chính trong việc xây dựng Cộng đồng An ninh - Chính trị, ASEAN cũng tận dụng nhiều kênh khác nhau như từ các tổ chức quốc tế, Quỹ phát triển ASEAN, từ các đối tác đối thoại, các nước quyên tặng, các đơn vị kinh doanh cá thể và các tổ chức phi chính phủ. Chính đặc điểm này đã giúp các nước thành viên ASEAN có thể tận dụng được nhiều cơ hội khác nhau để thực hiện được mục tiêu xây dựng Cộng đồng ASEAN đạt hiệu quả cao.
Như vậy, lộ trình thực hiện các cam kết xây dựng Cộng đồng ASEAN là chặng đường kết hợp rất nhiều các biện pháp nhằm mục tiêu phục vụ quá trình xây dựng cộng đồng. Trong quá trình xây dựng AC, ASEAN cần phải tuân thủ những nguyên tắc nhất định, nhưng phải phù hợp với hoàn cảnh và cơ chế của tổ chức. Chính những đặc điểm trên đã quy định con đường xây dựng Cộng đồng ASEAN, đó là con đường mang tính tổng hợp, tức là cùng lúc thúc đẩy xây dựng cả ba trụ cột (APSC, AEC và ASCC) và chặng đường xây dựng cả 3 trụ cột này là không tách rời nhau.
b. Tiến trình thực hiện các cam kết
Ý tưởng thiết lập một cộng đồng chung cho khu vực đã manh nha từ trước đó nhưng phải chính thức đến năm 2003, ASEAN mới tiến một bước lớn trong tăng cường liên kết khu vực khi cho ra đời Tuyên bố về sự hòa hợp ASEAN II (Tuyên bố Bali II). Tiến trình thực hiện các cam kết diễn ra theo thời gian và theo từng trụ cột của cộng đồng. Tất cả các thành viên của ASEAN đã quyết tâm hướng tới mục tiêu hình thành Cộng đồng ASEAN từ năm 2020 đã rút ngắn xuống năm 2015.Đây chính là giai đoạn bản lề trong việc xây dựng AC khi thời gian không phải là dài và cũng còn nhiều những thách thức đặt ra cho ASEAN. Theo đó, một khối lượng công việc đồ sộ đề ra trong lộ trình xây dựng cộng đồng được trải rộng trên tất cả các lĩnh vực, với hơn 800 đầu việc được ưu tiên thực hiện trên cả 3 trụ cột Chính trị - An ninh, Kinh tế và Văn hóa - Xã hội. Do đó, để tìm hiểu lộ trình thực hiện các cam kết xây dựng AC, phải đi từ tiến trình thực hiện các cam kết của từng trụ cột của Cộng đồng.
Về tiến trình thực hiện các cam kết xây dựng APSC: Từ năm 2003 đến nay, để các cam kết trên giấy tờ trở thành hiện thực, ASEAN đã thực hiện Cơ chế triển khai kế hoạch hành động của APSC thông qua Hội nghị Ngoại trưởng ASEAN (AFMM) và Hội nghị Bộ trưởng Quốc phòng ASEAN (ADMM). Hội nghị này diễn ra và bàn bạc các vấn đề liên quan tới xây dựng APSC như: thúc đẩy hòa bình và ổn định khu vực thông qua đối thoại và hợp tác về an ninh - quốc phòng; hướng dẫn và chỉ đạo các cuộc đối thoại, hợp tác hiện có giữa các quan chức quốc phòng ASEAN; tăng cường lòng tin và sự tin cậy lẫn nhau thông qua hiểu biết sâu sắc hơn về các thách thức an ninh quốc phòng. Cùng với những hoạt động trên, việc triển khai xây dựng APSC cũng được thực hiện ở các lĩnh vực khác nhau trong ASEAN và giữa ASEAN với các đối tác bên ngoài như Nghị viện ASEAN, các Viện Nghiên cứu chiến lược trong ASEAN, các ủy ban văn hóa - thông tin... tăng cường gặp gỡ đối thoại về ASEAN.
Bên cạnh đó, ASEAN cũng thực hiện cam kết xây dựng APSC thông qua việc xác định 5 kênh chính chịu trách nhiệm triển khai các hoạt động cụ thể: Kênh Bộ trưởng Ngoại giao, Bộ trưởng Quốc phòng, Bộ trưởng Tư pháp, Bộ trưởng Phòng chống tội phạm xuyên quốc gia và ARF. Theo sáng kiến của Tổng thư ký ASEAN, Hội nghị điều phối triển khai kế hoạch hành động xây dựng Cộng đồng An ninh ASEAN (ASC - CO) đã được tổ chức hàng năm, gồm đại diện các cơ quan chuyên ngành của ASEAN liên quan tới việc thực hiện Kế hoạch hành động APSC để kiểm điểm và bàn phương hướng thúc đẩy thực hiện APSC. Theo thống kê của Ban thư ký ASEAN, tình hình triển khai thực hiện các chương trình, biện pháp trong Chương trình hành động Viêng Chăn liên quan tới APSC nhằm thực hiện kế hoạch hành động cho tới nay đã đạt được những tiến triển khả quan. Hầu hết các hoạt động hoặc những dự án đã được ASEAN hoàn tất và đang được triển khai nằm trong 3 lĩnh vực là: hợp tác chính trị; hình thành và chia sẻ các chuẩn mực; ngăn ngừa xung đột. Trong đó có các hoạt động đáng chú ý như triển khai xây dựng Hiến chương ASEAN, tổ chức Hội nghị Bộ trưởng Quốc phòng ASEAN, ký kết Công ước ASEAN về chống khủng bố; mở rộng việc gia nhập Hiệp ước TAC cho nhiều đối tác bên ngoài...
ASEAN cũng tăng cường sử dụng các công cụ hiện có của ASEAN nhằm tạo ra môi trường an ninh chính trị thuận lợi cho việc xây dựng Cộng đồng ASEAN như Hiệp ước Thân thiện và Hợp tác ở Đông Nam Á (TAC), xây dựng một khu vực Đông Nam Á không có vũ khí hạt nhân (SEANWFZ), Tuyên bố về cách ứng xử của các bên ở Biển Đông (DOC), Diễn đàn Khu vực ASEAN (ARF), Hội nghị Bộ trưởng Quốc phòng ASEAN (ADMM), Hội nghị Bộ trưởng ASEAN về tội phạm xuyên quốc gia ( AMMTC) và Công ước ASEAN về chống khủng bố... ASEAN cũng nhấn mạnh tầm quan trọng của việc phối hợp và hợp tác hiệu quả giữa các cơ quan khác nhau thuộc phạm vi hoạt động của APSC và sự cần thiết để có một cách tiếp cận chiến lược và toàn diện trong việc thực hiện Kế hoạch xây dựng APSC.
Về việc thực hiện các cam kết xây dựng AEC: Cùng với Cộng đồng An ninh - Chính trị, lộ trình xây dựng Cộng đồng Kinh tế ASEAN cũng được ASEAN đẩy mạnh triển khai. Để bước đầu triển khai việc hiện thực hóa AEC, Hội nghị cấp cao ASEAN quyết định đẩy mạnh việc thực hiện những sáng kiến hợp tác kinh tế hiện có, bao gồm Khu vực Mậu dịch Tự do ASEAN, Hiệp định khung ASEAN về dịch vụ và khu vực đầu tư ASEAN; Thúc đẩy hội nhập khu vực sâu hơn trong các ngành ưu tiên; Tạo điều kiện thuận lợi cho việc đi lại của các doanh nhân, lao động lành nghề và tăng cường các thể chế của ASEAN. Tiếp đến, trong năm 2010, các nước ASEAN đã hoàn tất Nghị định thư về Gói cam kết dịch vụ thứ 8 về lịch trình tự do hóa đối với 15 ngành mới có tỷ lệ vốn góp nước ngoài tối đa là 70% với 4 ngành dịch vụ ưu tiên trong ASEAN (gồm dịch vụ y tế, du lịch, vận tải hàng không, dịch vụ tiếp vận) và thấp nhất là 51% đối với các lĩnh vực dịch vụ khác. Việc ký kết Nghị định thư khẳng định quyết tâm của ASEAN với mục tiêu tự do hóa dịch vụ nội khối thông qua xóa bỏ hầu hết các rào cản dịch vụ và hợp tác để thúc đẩy liên kết giữa các doanh nghiệp trong ASEAN. Những lĩnh vực ưu tiên sau đây đã được ASEAN xác định trong lộ trình liên kết giai đoạn 2010 - 2011: Hàng nông sản, Ô tô, Điện tử, Nghề cá, Các sản phẩm từ cao su, Dệt may, Các sản phẩm từ gỗ, Vận tải hàng không, Thương mại điện tử ASEAN, Chăm sóc sức khỏe cho nhân dân và Du lịch.
Về cơ chế thực hiện các kế hoạch tổng thể: Trong phạm vi chức năng của mình, các Bộ của những nước thành viên sẽ chịu trách nhiệm thực hiện kế hoạch tổng thể và theo dõi việc thực hiện các cam kết. Điều đó cũng đồng nghĩa với việc các Bộ trưởng Kinh tế ASEAN (AEM) sẽ phụ trách vấn đề liên kết kinh tế ASEAN trong Hội đồng Cộng đồng Kinh tế và có trách nhiệm thực hiện các cam kết. Đồng thời, các Bộ trưởng Tài chính ASEAN giao cho Văn phòng Nghiên cứu Kinh tế vĩ mô ASEAN+3 đảm nhận chức năng giám sát kinh tế vĩ mô khu vực cho sự vận hành của Thỏa thuận Đa phương hóa Sáng kiến Chiang Mai (CMIM), sáng kiến này đã đi vào hoạt động vào quý I năm 2011. ASEAN đã thảo luận nhằm thành lập Quỹ Cơ sở hạ tầng ASEAN (AIF) nhằm hỗ trợ tài chính cho các nhu cầu về xây dựng và phát triển cơ sở hạ tầng lớn trong khu vực. Bên cạnh đó, ASEAN cũng đã thiết lập Khuôn khổ hợp tác chung đối với vấn đề An ninh lương thực ASEAN và Chương trình Hành động chiến lược trung hạn về an ninh lương thực. ASEAN cũng xây dựng một hệ thống kho gạo khẩn cấp của ASEAN+3 từ tháng 3/2010 và coi đây như là một cơ chế hoạt động thường xuyên. Như vậy, căn cứ vào nội dung của các kế hoạch tổng thể, một lộ trình chiến lược xây dựng Cộng đồng Kinh tế ASEAN đã được vạch ra nhằm thực hiện các hoạt động cụ thể cho giai đoạn 2009 - 2015 theo từng giai đoạn cụ thể như: giai đoạn 2008 - 2009,giai đoạn 2010 - 2011, giai đoạn 2012 - 2013 và giai đoạn 2014 - 2015. Với từng giai đoạn cụ thể này, tổ chức ASEAN và các nước thành viên đang cố gắng đẩy nhanh hơn nữa tiến trình xây dựng cộng đồng bằng việc thực hiện tốt các cam kết xây dựng AEC trong phức hợp các cam kết xây dựng AC của tổ chức ASEAN.
Về việc thực hiện các cam kết xây dựng ASCC: Cùng với việc đẩy mạnh Cộng đồng An ninh - Chính trị và Cộng đồng Kinh tế thì ASEAN cũng tích cực đẩy mạnh thực hiện Kế hoạch tổng thể Xây dựng Cộng đồng Văn hóa - Xã hội thông qua hàng loạt các biện pháp tập trung chủ yếu trên các lĩnh vực như: phát triển nguồn nhân lực, phúc lợi và bảo trợ xã hội, quyền và công bằng xã hội, đảm bảo bền vững môi trường và xây dựng bản sắc ASEAN.
Thứ nhất, về phát triển nguồn nhân lực: Trong các cam kết về phát triển nguồn nhân lực, ASEAN luôn chú trọng đến sự nghiệp giáo dục con người. Do đó, trong tiến trình thực hiện cam kết xây dựng Cộng đồng, ASEAN cũng khuyến khích phát triển giáo dục suốt đời. Nhiều dự án khác nhau dành cho các trường tiểu học và trung học cơ sở đã được thực hiện như xây dựng một chương trình giảng dạy về ASEAN để các giáo viên tiểu học và trung học tham khảo, tổ chức thành công cuộc thi Olympic thể thao cho học sinh tiểu học ASEAN lần thứ hai tại Gia-các-ta. Vào tháng 8/2008, lần đầu tiên ASEAN đã tổ chức Diễn đàn Hiệu trưởng các trường học ở Đông Nam Á để chia sẻ kinh nghiệm quản lý giáo dục giữa các nước trong khu vực.
Thứ hai, bảo đảm phúc lợi và bảo trợ xã hội là việc làm cần thiết để xây dựng Cộng đồng Văn hóa - Xã hội một cách toàn diện trong ASEAN. Đặc biệt, ASEAN tập trung vào những vấn đề liên quan đến nhiều lĩnh vực khác như ngăn ngừa và kiểm soát HIV/AIDS bằng việc thực hiện một số hoạt động chính của Chương trình công tác ASEAN giai đoạn II về HIV và AIDS (2006 - 2010) do UNAIDS, UNDP, USAID và các đối tác khác hỗ trợ.
Thứ ba, đối với bình quyền và công bằng xã hội: ASEAN rất chú trọng đến bảo vệ và thúc đẩy quyền phụ nữ, trẻ em. Trong đó, ASEAN đã thảo luận về dự thảo các điều khoản tham chiếu TOR của Ủy ban bảo vệ và thúc đẩy quyền của phụ nữ và trẻ em ASEAN. Ủy ban ASEAN còn thực hiện Tuyên bố về bảo vệ và thúc đẩy quyền của người lao động nhập cư được thành lập vào tháng 9/2008.
Thứ tư, để đảm bảo môi trường cho các nước thành viên, hàng năm, ASEAN hợp tác với nhau và cùng các đối tác bên ngoài tiến hành những cuộc diễn tập khu vực về ứng phó với các thảm họa khẩn cấp. Để khuyến khích việc bảo vệ môi trường và cùng chia sẻ các kinh nghiệm, ASEAN đã trao giải thưởng Thành phố bền vững môi trường ASEAN, thành lập Nhóm công tác về biến đổi khí hậu tại Hội nghị Bộ trưởng Môi trường ASEAN không chính thức lần thứ 11.
Thứ năm, xây dựng bản sắc ASEAN là một nhiệm vụ trọng tâm trong tiến trình xây dựng Cộng đồng Văn hóa - Xã hội. Để thực hiện một trong những mục tiêu chính của lĩnh vực thông tin là nâng cao nhận thức về ASEAN, cuộc thi Tìm hiểu về ASEAN lần thứ 4 đã được tổ chức trên khắp các nước ASEAN ở cấp độ quốc gia và sau đó một cuộc thi cấp khu vực đã diễn ra.
Trong tiến trình xây dựng Cộng đồng Văn hóa - Xã hội, ASEAN chú trọng đến vai trò của Hội đồng Cộng đồng Văn hóa - Xã hội (ASCC). Theo đó, cuộc họp của Hội đồng Cộng đồng Văn hóa - Xã hội ASEAN đã diễn ra lần đầu trong tháng 8/2009. Tại những cuộc họp này, ASEAN đã tiếp tục tập trung vào xem xét việc triển khai thực hiện Kế hoạch tổng thể ASCC; thông qua Quy chế hoạt động của Cộng đồng Văn hóa - Xã hội; Kế hoạch Truyền thông của Cộng đồng Văn hóa - Xã hội; xác định những lĩnh vực ưu tiên triển khai thực hiện trong Cộng đồng Văn hóa - Xã hội ASEAN.
Như vậy, tầm nhìn và lộ trình hướng tới mục tiêu hình thành Cộng đồng ASEAN từ năm 2003 đã được xác định rõ với cơ sở pháp lý là Hiến chương ASEAN. Tuy nhiên, điều cần lưu ý ở đây là tiến trình xây dựng Cộng đồng ASEAN từ ý tưởng đến hiện thực diễn ra trong một môi trường thuận lợi nhưng cũng không ít những thách thức và khó khăn. Tình hình trên yêu cầu ASEAN cần phải đưa ra được nhữngbiện pháp và bước đi cụ thể để biến những mục tiêu đề ra trở thành hiện thực. Nhằm đưa ASEAN trở thành một cộng đồng như một thực thể chính trị - kinh tế gắn kết, có vai trò quan trọng ở khu vực và là đối tác không thể thiếu của các nước, các tổ chức lớn trên thế giới thì việc xây dựng Cộng đồng ASEAN là hết sức cần thiết, đảm bảo duy trì được vai trò của tổ chức này trong cộng đồng các quốc gia toàn cầu. Việc xây dựng thành công cộng đồng đỏi hỏi ASEAM phải thực hiện tốt và đủ các cam kết xây dựng cộng đồng mà tổ chức này đã vạch ra cho cả ba trụ cột của cộng đồng.
Quá trình Việt Nam tham gia hợp tác, liên kết ASEAN // Sách Vai trò và vị thế của Việt Nam trong cộng đồng kinh tế ASEAN. - H: Công thương, 2013. - Tr. 97-106
1. Giai đoạn thập niên 90 của thế kỷ XX
Ngay cả khi chưa gia nhập ASEAN, Việt Nam đã từng bước chủ động tham gia các hoạt động của ASEAN như: ký Hiệp ước Thân thiện và Hợp tác (TAC, năm 1992), tham gia ngay từ đầu vào Diễn đàn An ninh khu vực (ARF, năm 1994). Ngay sau khi trở thành thành viên chính thức (tháng 7-1995), Việt Nam thực hiện tương đối tốt các chương trình, cơ chế hợp tác ASEAN: Khu vực mậu dịch Tự do ASEAN (AFTA), Hiệp định khung về Khu vực mậu dịch tự do ASEAN (AFSA), Hiệp định khung về Khu vực Đầu tư ASEAN (AIA), Hiệp định khung về Hợp tác Công nghiệp ASEAN (AICO), Sáng kiến Hội nhập (IAI)... Điều quan trọng hơn là Việt Nam cùng với các nước đề ra nhiều sáng kiến mới, nhằm khắc phục tình trạng trì trệ, yếu kém trong ASEAN. Cụ thể, Việt Nam đã tổ chức thành công Hội nghị cấp cao lần thứ 6 (tháng 12-1998) trong khi cả khu vực đang phải đối phó với khủng hoảng tài chính - kinh tế, Việt Nam chưa có nhiều kinh nghiệm tổ chức, nhân lực còn yếu. “Tuyên bố Hà Nội” - 1998 và “Tuyên bố Hà Nội về thu hẹp khoảng cách phát triển, nhằm tăng cường liên kết ASEAN” - 2001 thể hiện nhiều biện pháp thúc đẩy phát triển nội khối.
Chương trình Hành động Hà Nội (HPA) được Hội nghị cấp cao ASEAN lần thứ 6 thông qua tháng 12-1998 đã xác định rõ phương hướng và các biện pháp cụ thể cho hợp tác và phát triển của ASEAN trong những năm đầu của thiên niên kỷ mới. Việt Nam bắt đầu nhận trọng trách và đã hoàn thành tốt vai trò điều phối quan hệ ASEAN với các nước lớn như: Mỹ, Nga, Trung Quốc, Nhật Bản, Canađa được các nước đối thoại đánh giá cao.
2. Giai đoạn thập niên đầu của thế kỷ XXI
Bước vào thiên niên kỷ mới, Việt Nam là thành viên chính thức của ASEAN được 5 năm, đó chưa phải là một khoảng thời gian dài, nhưng quá trình hợp tác Việt Nam - ASEAN ngày càng khăng khít, không chỉ phủ đều trên tất cả các lĩnh vực, mà một số đã đi vào chiều sâu, tìm kiếm sự đồng thuận và các biện pháp hữu hiệu để nâng cao chất lượng các chưong trình, chính sách phát triển nội khối. Ngay trong năm đầu tiên của thiên niên kỷ XXI, khi Việt Nam giữ vai trò Chủ tịch ủy ban Thường trực ASEAN khóa 34, Bộ trưởng Ngoại giao Việt Nam đã nhận định rằng: ASEAN đang đứng trước những thách thức như: tình trạng nghèo đói, sự chênh lệch khá lớn về trình độ phát triển giữa các nước, giữa các vùng trong một nước và trong khu vực, trong đó các vùng dọc Hành lang Đông - Tây của Tiểu vùng sông Mê Kông là một ví dụ điển hình. Do đó, trong chính sách phát triển, ASEAN không chỉ chạy theo tốc độ nhanh mà chính là phải coi trọng phát triển đồng đều và công bằng, đặc biệt là hỗ trợ các nước, các vùng tụt hậu. Dưới tác động của toàn cầu hóa, nếu không có những biện pháp hợp tác hữu hiệu, sự chênh lệch phát triển sẽ ngày càng lớn và nguy cơ hình thành hai nhóm nước giàu, nghèo trong ASEAN là thực tế khó tránh khỏi, và điều đó cản trở sự hợp tác hiệu quả của các nước thành viên ASEAN. Chính vì vậy, Việt Nam đã đề xuất chủ đề của Hội nghị này là “Ổn định, đoàn kết, tăng cường liên kết kinh tế và mở rộng hợp tác” được các Bộ trưởng Ngoại giao ASEAN nhất trí tán thành.
Việt Nam cũng chủ động đề xuất và đưa ra nhiều sáng kiến, ý tưởng thúc đẩy việc thực hiện các thỏa thuận của ASEAN tập trung trong lĩnh vực phát triển, giải quyết các vấn đề xã hội cấp bách của ASEAN như: vấn đề ma túy trong thanh niên ASEAN, sáng kiến Hợp tác du lịch Đông Á, Tuần văn hóa ASEAN. Đặc biệt, nhận thức rõ thách thức về khoảng cách phát triển, Hội nghị AMM-34 theo đề nghị của Việt Nam, đã ra “Tuyên bố Hà Nội về nỗ lực chung của ASEAN thu hẹp khoảng cách phát triển vì sự tăng trưởng năng động và bền vững”. Có thể nói, đây là một đề xuất “đúng thời điểm”, “đúng nhu cầu, mong muốn” của tất cả các nước, tạo sự nhất trí cao.
Bên cạnh đó, Việt Nam đã có những đóng góp thiết thực, xác đáng nhằm đẩy mạnh các Kế hoạch tổng thể và Kế hoạch công tác IAI giai đoạn hai về Thu hẹp khoảng cách phát triển trong Lộ trình xây dựng Cộng đồng ASEAN. Việt Nam nhấn mạnh sự cần thiết tăng cường phối hợp giữa các cơ quan trong bộ máy ASEAN, xác định rõ những ưu tiên và trọng tâm thực hiện cho từng giai đoạn cụ thể. Việt Nam cũng tích cực thúc đẩy việc thực hiện Sáng kiến Liên kết ASEAN. Đặc biệt, trong giai đoạn này, triển khai Hiến chương vào thực tiễn có những vấn đề phức tạp, nhưng với tiếng nói cân bằng, xây dựng, Việt Nam đã tích cực cùng các nước ASEAN xử lý những khác biệt trong soạn thảo Quy chế hoạt động của các cơ quan Nhân quyền ASEAN. Việt Nam cũng thúc đẩy thực hiện Tuyên bố về ứng xử của các bên liên quan ở Biển Đông (DOC), được ký từ năm 2002.
Tại Hội nghị cấp cao ASEAN 9 tại Ba-li (Inđônêxia, tháng 11- 2003), ASEAN quyết định xây dựng Cộng đồng ASEAN vào năm 2020 trên ba trụ cột chính là: Cộng đồng Kinh tế ASEAN (AEC) do Thái Lan đề xuất, Cộng đồng Chính trị - An ninh (APSC) do Inđônêxia đề xuất và Cộng đồng Văn hóa - Xã hội (ASCC) do Việt Nam đề xuất. Đây là những quyết định đúng hướng, kịp thời của ASEAN trước nhu cầu đòi hỏi của thực tiễn. Việc hình thành và tăng cường các cơ chế hình thức hợp tác và liên kết mới này đã và đang tạo ra nhiều cơ hội cho sự phát triển của ASEAN, trong đó có Việt Nam:
Thứ nhất, thiết lập Cộng đồng Kinh tế ASEAN (AEC) sẽ đưa ASEAN trở thành một khối có sự liên kết vững chắc, một thị trường duy nhất có cơ sở sản xuất thống nhất, trong đó lưu thông tự do hàng hóa, dịch vụ, đầu tư vốn và nhân công có tay nghề sẽ thúc đẩy cải cách hệ thống pháp luật và nền hành chính quốc gia trong nước, tiếp cận được nhiều hơn các yếu tố bên ngoài, nhất là vốn, thị trường và công nghệ hiện đại, làm tăng cơ hội việc làm và nâng nhanh mức sống của người dân.
Thứ hai, thiết lập Cộng đồng Chính trị - An ninh ASEAN (APSC) sẽ làm tăng nhanh mức độ tin cậy và ý thức cộng đồng trong ASEAN, thúc đẩy hợp tác chính trị - an ninh nội khối lên tầm cao mới cả trong lĩnh vực an ninh truyền thông và an ninh phi truyền thông. Góp phần tạo ra sự cân bằng trong hợp tác khu vực và quốc tế, gia tăng sức "mặc cả" của ASEAN trong các vấn đề quốc tế, khu vực, giúp ASEAN vừa tăng tính mở, vừa duy trì bản sắc, phong cách ứng xử truyền thông của mình, làm tăng khả năng phòng ngừa và tiến tới giải quyết các xung đột có thể xảy ra trong tương lai. Điều này phù hợp với chính sách và lợi ích trước mắt cũng như lâu dài của Việt Nam.
Thứ ba, thiết lập Cộng đồng Văn hóa - Xã hội ASEAN (ASCC) nhằm tạo dựng cộng đồng các quốc gia Đông Nam Á gắn bó, các xã hội quan tâm và tương trợ lẫn nhau dựa trên những bản sắc chung của khu vực, giải quyết tác động xã hội của hội nhập kinh tế, thúc đẩy môi trường bền vững, thúc đẩy bản sắc ASEAN trên cơ sở phát triển nhận thức và bản sắc khu vực ASEAN, bảo tồn và thúc đẩy di sản văn hóa ASEAN, thúc đẩy đối thoại nhằm nâng cao hiểu biết về văn minh, văn hóa và tôn giáo trong ASEAN.
Tiếp tục triển khai các tuyên bố trên, Hội nghị cấp cao 10 tại Viêng Chăn tháng 11-2004, các nhà lãnh đạo ASEAN đã thông qua các Kế hoạch Hành động An ninh và Văn hóa, Xã hội. Cũng tại Hội nghị cấp cao 10, các nhà lãnh đạo ASEAN đồng ý chuyển Hội nghị cấp cao ASEAN+3 thành Hội nghị cấp cao Đông Á và nhất trí tổ chức Hội nghị cấp cao Đông Á lần thứ nhất tại Malaixia vào năm 2005. Đây là một động thái ngoại giao hết sức khôn khéo của các nước ASEAN nhằm duy trì vai trò chủ đạo của mình trong các diễn đàn khu vực khi xuất hiện những ý tưởng làm dịch chuyển vai trò trung tâm các diễn đàn khu vực Đông Bắc Á.
Trên cơ sở quy chế hoạt động của hai cơ quan chủ chốt trong bộ máy tổ chức mới của ASEAN là Hội đồng Cộng đồng Chính trị - An ninh và ủy ban các đại diện Thường trực ASEAN được thông qua tại Hội nghị các Bộ trưởng Ngoại giao lần thứ 42, tháng 7/2009 tại Phuket (Thái Lan), Việt Nam đã chính thức thành lập Phái đoàn thường trực tại ASEAN, đây là một bước phát triển mới trong quan hệ đối ngoại nói chung, Việt Nam - ASEAN nói riêng.
Nằm trong Kế hoạch tổng thể xây dựng Cộng đồng Văn hóa - Xã hội ASEAN (ASCC) và Kế hoạch tổng thể xây dựng Cộng đồng Chính trị - An ninh ASEAN (APSC) từ năm 2004, tại Hội nghị cấp cao 10, trong Kế hoạch Hành động Viêng Chăn ghi nhận xúc tiến việc thành lập Ủy ban Thúc đẩy và Bảo vệ quyền phụ nữ và trẻ em, đến tháng 10/2009, Quy chế hoạt động của Ủy ban này được các nước thông qua và nhân dịp Hội nghị cấp cao 16, trong khuôn khổ Hội nghị Cộng đồng Văn hóa - Xã hội lần thứ ba tại Hà Nội đã chính thức tuyên bố thành lập Ủy ban Thúc đẩy và Bảo vệ quyền phụ nữ và trẻ em. Đây là sự kiện quan trọng đánh dấu một bước tiến mới trong việc bảo đảm sự phát triển công bằng cho phụ nữ và trẻ em, là đối tượng dễ bị tổn thương trong quá trình phát triển, tăng cường phúc lợi và sự tham gia của phụ nữ và trẻ em vào quá trình xây dựng cộng đồng ASEAN.
Trong lĩnh vực kinh tế - thương mại: Ngày 3/5/2007, Ban Thư ký ASEAN đã ra Tuyên bố nhất trí công nhận Việt Nam là một nền kinh tế thị trường đầy đủ sau cuộc họp Bộ trưởng Kinh tế ASEAN lần thứ 13 diễn ra tại Brunây. Hội nghị này cũng kêu gọi các nước và tổ chức khác trên thế giới sớm công nhận địa vị kinh tế thị trường đầy đủ của Việt Nam. Đây là một biểu hiện sống động cho sự hợp tác chặt chẽ Việt Nam - ASEAN trong lĩnh vực kinh tế, tiến tới xây dựng một môi trường kinh tế ASEAN thống nhất.
Hội nghị lần thứ ba Hội đồng Cộng đồng Kinh tế ASEAN (AEC) đã khẳng định năm 2010 là năm bản lề để tiếp tục thực hiện tự do hóa thương mại. Các nước đã thảo luận sâu sắc về việc làm thế nào để thực thi có hiệu quả các cam kết như cơ quan hải quan một cửa, số lượng các phương tiện giao thông được phép quá cảnh, tiến trình thông qua hàng hóa. Bắt đầu từ năm 2010, các nước ASEAN-6 đã hoàn thành mục tiêu xóa bỏ thuế quan đối với 99,65% số dòng thuế, ASEAN - 4 (gồm Lào, Mianma, Campuchia, Việt Nam) đã đưa 98,86% số dòng thuế tham gia Chương trình Ưu đãi Thuế quan có hiệu lực chung để xây dựng Khu vực Thương mại Tự do ASEAN (CEPT- AFTA) về mức 0 - 5% (tính đến tháng 3 - 2005, Việt Nam đã cắt giảm 10.277 dòng thuế, tương đương 96,15% tổng số dòng thuế phải cắt giảm). Ngày 01-01-2010 cũng là thời điểm hoàn thành thực hiện Hiệp định Khu vực Thương mại tự do ASEAN - Trung Quốc, ASEAN - Hàn Quốc, và là ngày các Hiệp định Khu vực Thương mại tự do ASEAN - Ốt-xtrây-li-a - Niu Di-lân và Hiệp định Thương mại Hàng hóa ASEAN - Ẩn Độ có hiệu lực. Trong lĩnh vực dịch vụ - thương mại, 9/10 nước thành viên (trừ Philippin) đã hoàn thành gói 7 về cam kết dịch vụ theo Hiệp định khung về Thương mại dịch vụ ASEAN (AFAS) bao trùm hơn 65 phân ngành dịch vụ. Trong quan hệ hợp tác đầu tư, ASEAN tiếp tục duy trì mức tăng trưởng FDI nội khối ổn định. Năm 2008, FDI nội khối đạt 10,8 tỷ USD, chiếm 18,2% tổng mức FDI (59,7% tỷ USD). Trong lĩnh vực tài chính, các nước đã thống nhất thiết lập Quỹ bảo lãnh tín dụng và đầu tư (CGIF) và sẽ sớm đưa vào thực hiện nhằm tăng cường tính thanh khoản của đồng nội tệ và phát triển thị trường trái phiếu khu vực.
Chủ động, tích cực tham gia trong tất cả các lĩnh vực hợp tác, đề xuất sáng kiến nhằm tăng cường hiệu quả hợp tác liên kết giữa các nước.
Xây dựng không gian e-ASEAN liên kết, sống động và an toàn là sáng kiến do đại diện Việt Nam khởi xướng và được sự đồng thuận của các thành viên Hội đồng Kinh doanh e-ASEAN (e-ABC). Mục tiêu của sáng kiến là nhằm phát huy cao nhất tiềm năng của công nghệ thông tin trong việc trao đổi thông tin, tăng cường hiểu biết lẫn nhau giữa các dân tộc, thúc đẩy sự hợp tác toàn diện trong khối và tiếng nói chung của ASEAN trên thế giới.
Hội nghị cấp cao ASEAN 16 tại Hà Nội nhất trí về các trọng tâm ưu tiên do Việt Nam đề xuất như: đẩy mạnh xây dựng Cộng đồng và triển khai Hiến chương ASEAN. Thảo luận về vai trò của ASEAN trong các cấu trúc khu vực. Thông qua hai tuyên bố: Tuyên bố về Phục hồi và phát triển bền vững và Tuyên bố về Hợp tác ứng phó với biến đổi khí hậu.
Tham gia cải cách cơ cấu và cơ chế hoạt động của ASEAN, xây dựng chương trình hành động đáp ứng yêu cầu tình hình mới tham gia xây dựng và hoàn thiện chương trình hành động thành lập các Cộng đồng ASEAN, Hiến chương ASEAN.
Hội nghị các Bộ trưởng Ngoại giao ASEAN năm 2007 quyết định thiết lập đường dây nóng ở các cấp lãnh đạo của ASEAN, cải cách hình thức, lề lối làm việc để ASEAN hoạt động thực chất và có hiệu quả hơn như: rút ngắn thời gian họp AMM, tiến hành cơ chế họp thường xuyên giữa Chủ tịch ASEAN hàng năm với Tổng thư ký Liên hợp quốc, UNDP, Chủ tịch Phong trào Không liên kết và với lãnh đạo một số tổ chức quốc tế và khu vực khác.
Việt Nam cùng các nỗ lực xây dựng bản Hiến chương ASEAN - một văn kiện quan trọng nhằm tạo mục tiêu xây dựng Cộng đồng ASEAN. Sau hơn 3 năm chuẩn bị dự thảo, tại Hội nghị cấp cao ASEAN lần thứ 13 tại Xingapo (tháng 11/2007), các nhà lãnh đạo ASEAN đã chính thức thông qua Hiến chương ASEAN. Đây là bước ngoặt trong quá trình phát triển Hiến chương ASEAN hơn 40 năm qua, từ một tổ chức “lỏng lẻo” thành tổ chức hợp tác liên chính phủ chặt chẽ, ràng buộc về mặt pháp lý và có hiệu quả hơn, có tư cách pháp nhân, nhưng không trở thành tổ chức siêu quốc gia, mà là một cộng đồng “thống nhất trong đa dạng”.
Ngày 6/3/2008, Chủ tịch nước Nguyễn Minh Triết đã ký phê chuẩn Hiến chương ASEAN, đánh dấu một bước tiến quan trọng trong quá trình Việt Nam tham gia ASEAN cũng như quá trình hội nhập khu vực và quốc tế nói chung. Kể từ đây, Việt Nam đã chính thức cam kết thực hiện một văn kiện pháp lý quan trọng nhất và toàn diện nhất của ASEAN, làm cơ sở cho hoạt động và ứng xử trong ASEAN. Sự kiện Việt Nam là một trong 5 nước (4 nước đầu tiên là Xingapo, Brunây, Lào, Malaixia) sớm phê chuẩn Hiến chương ASEAN thể hiện cam kết mạnh mẽ và tích cực của Việt Nam đối với ASEAN và một minh chứng quan trọng về chính sách tích cực, chủ động hội nhập khu vực và quốc tế của Việt Nam.
Hiến chương đánh dấu một bước tiến về khuôn khổ thể chế và bộ máy hoạt động của ASEAN theo hướng rõ ràng và khoa học hơn, trong đó nhấn mạnh đến vai trò của Tổng Thư ký và Ban Thư ký ASEAN. Khuôn khổ thể chế đầy đủ và chặt chẽ hơn với quy chế phân công, phân nhiệm rõ ràng sẽ góp phần tăng hiệu lực, hiệu quả các chương trình hợp tác trong thời gian tới của ASEAN.
Năm 2009 được coi là năm quá độ để ASEAN chuyển sang hoạt động theo bộ máy tổ chức và phương thức hoạt động mới được quy định tại Hiến chương. Năm 2010 là năm ASEAN chính thức vận hành theo các quy chuẩn mới của Hiến chương, tạo tiền đề và góp phần hình thành thông lệ mới cho hoạt động của ASEAN những năm tiếp theo. Hội nghị cấp cao ASEAN đầu tiên trong năm 2010 cũng được tổ chức theo tinh thần mà Hiến chương quy định. Đây là Hội nghị giữa các nhà lãnh đạo ASEAN, không có sự tham gia của các bên đối tác, là dịp để ASEAN tập trung bàn về các vấn đề hợp tác nội khối. Hội nghị cấp cao 17 được tiến hành vào tháng 11 năm 2010 là Hội nghị cấp cao mở rộng với sự tham dự của các đối tác của ASEAN. Đây là một điểm mới so với trước khi có Hiến chương và thực hiện Hiến chương.
Với cương vị là Chủ tịch ASEAN, Việt Nam chủ động đề ra chủ đề cho năm ASEAN 2010 là “Hướng tới Cộng đồng ASEAN: Từ tầm nhìn tới hành động”. Mục tiêu là triển khai hiệu quả Hiến chương và các lộ trình xây dựng Cộng đồng ASEAN, đồng thời mở rộng và làm sâu sắc thêm quan hệ hợp tác giữa ASEAN với các bên đối tác, cụ thể là Việt Nam sẽ đăng cai tổ chức và chủ trì nhiều hội nghị lớn, trong đó có hai hội nghị cấp cao là cấp cao ASEAN và cấp cao giữa ASEAN với các bên đối tác, Hội nghị Bộ trưởng Ngoại giao ASEAN lần thứ 43 (AMM-43), Hội nghị Bộ trưởng Ngoại giao ASEAN với nước đối thoại (PMC) và Hội nghị Bộ trưởng của Diễn đàn khu vực ASEAN lần thứ 17 (ARF-17), gần 10 hội nghị cấp Bộ trưởng khác. Đồng thời Việt Nam cũng đảm nhiệm chức vụ Chủ tịch Đại hội đồngLiên nghị viện các nước Đông Nam Á (AIPA) và đăng cai tổ chức Đại hội đồng AIPA-31. Việt Nam đã thay mặt Hiệp hội tham dự một số diễn đàn quốc tế và khu vực khác như: Hội nghị ASEAN - Mỹ, Hội nghị G-20, Diễn đàn Kinh tế Thế giới (WEF 2010 tại Đavốt, Thụy Sĩ), triển khai ngoại giao con thoi để xử lý những vấn đề phức tạp nảy sinh, qua đó giữ vững vai trò và vị thế của ASEAN ở khu vực cũng như trên thế giới.
Năm 2010 cũng đánh dấu việc triển khai thành công đề xuất của Việt Nam về cấu trúc hợp tác ASEAN+8 trong lĩnh vực quốc phòng (AMMD+) bao gồm 10 nước thành viên cộng với Trung Quốc, Ấn Độ, Nga, Mỹ, Nhật Bản, Hàn Quốc, Ốt-xtrây-li-a và Niu Di-lân trong việc đối phó với nhiều thách thức và mối đe dọa truyền thống cũng như phi truyền thống như cướp biển, an ninh hàng hải, tình trạng buôn bán phụ nữ và trẻ em, khủng bố và tội phạm xuyên biên giới. Việt Nam cho rằng, đây là những vấn đề không một quốc gia nào có thể đơn phương giải quyết hiệu quả, vì thế đòi hỏi phải tăng cường hợp tác giữa các nước trong và ngoài khu vực Đông Nam Á. Sự hợp tác đó không vì mục đích tạo thành khối quân sự hay liên minh quân sự hoặc nhằm vào nước thứ ba. Quan điểm giải quyết những vấn đề nêu trên bằng song phương hay đơn phương của một vài quốc gia đã trở nên thiểu số và buộc phải nhượng bộ xu thế đa phương trong hợp tác giải quyết, giảm thiểu nguy cơ bùng nổ xung đột, giữ nguyên trạng thái hòa bình để không làm phức tạp thêm tình hình. Việt Nam cũng đề nghị các nước không dùng vũ lực, đánh đập hay đốt tàu cá ngư dân khi họ vì lý do khách quan vô tình đi vào hải phận của nước khác, đề xuất này được các nước ghi nhận và chỉ đạo hải quân các nước thực hiện việc xử lý vấn đề một cách nhân đạo với ngư dân.
Trong lĩnh vực biến đổi khí hậu, Việt Nam đề nghị ASEAN nói riêng và các nước Đông Nam Á nói chung cần đi đầu trong các nỗ lực khu vực và toàn cầu đối phó với biến đổi khí hậu, kiến nghị thành lập một Diễn đàn Đông Á về Biến đổi khí hậu để đưa ra các biện pháp phối hợp hành động chung tại khu vực và đóng góp vào việc hình thành một khuôn khổ hợp tác toàn cầu xử lý thách thức to lớn này của nhân loại.
Về kinh tế, cũng tại các diễn đàn của năm 2010, Việt Nam thống nhất với các nước về một mạng lưới các thỏa thuận mậu dịch tự do (FTA) song phương và đa phương ngày càng sâu sắc tiến tới thành lập một Hiệp định FTA giữa 16 nước tham gia cấp cao Đông Á trong thời gian tới.
Theo đánh giá của cựu Tổng Thư ký ASEAN Ông Keng Yong, vai trò và những đóng góp của Việt Nam kể từ khi gia nhập ASEAN là rất lớn và có ý nghĩa. Trước hết, nhìn vào bản đồ của Hiệp hội, Việt Nam đã thực sự gắn kết vùng phía bắc với phía nam của khu vực Đông Nam Á. Do đó, quốc gia này có một vai trò rất quan trọng. Xét về mặt địa lý và nhân khẩu học, đóng góp chính của Việt Nam là đã kết hợp mọi vùng của Đông Nam Á thành một khối thống nhất.
VAI TRÒ CỦA VIỆT NAM TRONG ASEAN
Sự hội nhập của Việt Nam vào ASEAN // Sách Vai trò của Việt Nam trong ASEAN. - H.: Thống tấn, 2007. - Tr. 144-167
1. Thời kỳ 1967 - 1978
Trong giai đoạn 1967-1972, ASEAN mới được thành lập, hoạt động phối hợp chung giữa các nước trong tổ chức này hầu như chưa có gì nổi bật. Lúc này thế giới đang diễn ra Chiến tranh lạnh và tình trạng đối đầu giữa hai hệ thống xã hội. Các nước ASEAN cũng bị tình hình trên tác động mạnh và một số nước, ở những mức độ khác nhau có dính líu vào cuộc chiến tranh Đông Dương. Những biến đổi của tình hình thế giới và khu vực cuối những năm 1960, đầu những năm 1970 đã buộc các nước ASEAN phải điều chỉnh chính sách đối ngoại của mình.
Tháng 11-1971, tại Cuala Lămpơ (Malaixia), Bộ trưởng Ngoại giao các nước ASEAN đã ký kết và đưa ra Tuyên bố về khu vực hòa bình, tự do và trung lập ở Đông Nam Á (Tuyên bố ZOPFAN). Sau Tuyên bố này, một số nước ASEAN đã bắt đầu thăm dò khả năng quan hệ với Việt Nam trên một số lĩnh vực. Tuy nhiên, quan hệ giữa hai bên trong giai đoạn này vẫn chưa có tiến triển đáng kể.
Vào cuối những năm 1960 - đầu năm 1970, ở khu vực đã diễn ra một số chuyển biến có ý nghĩa chiến lược, trong đó quan trọng nhất là thất bại đã trở nên rõ ràng của Mỹ trong cuộc Chiến tranh Việt Nam, được đánh dấu bằng cuộc Tổng tiến công Tết Mậu Thân (1968) của Việt Nam. Sau sự kiện này, Mỹ buộc phải ngồi vào bàn đàm phán với Việt Nam ở Pari (10-5-1968) và chuyển sang thực hiện Học thuyết Nixon (25-7-1969), chủ trương giảm bớt các cam kết của Mỹ ở châu Á, thực hiện Việt Nam hóa chiến tranh, chuẩn bị rút dần quân khỏi Việt Nam và Đông Nam Á. Ngày 28-9-1969, Mỹ và Thái Lan bắt đầu thương lượng về việc Mỹ rút 48.000 quân khỏi Thái Lan.
Trong khi ảnh hưởng của Anh và Mỹ bị suy giảm ở khu vực, thì ảnh hưởng của Liên Xô (trước đây) và Trung Quốc lại tăng lên. Trung Quốc thông qua lực lượng được họ hỗ trợ ở các nước Đông Nam Á để gây áp lực đối với các chính quyền ASEAN. Còn Liên Xô bắt đầu triển khai chiến lược châu Á của mình để đối phó với khả năng liên kết Trung - Mỹ cũng như mở rộng ảnh hưởng ở Đông Nam Á.
Thắng lợi của nhân dân các nước Đông Dương trong cuộc kháng chiến chống Mỹ là những nhân tố tác động sâu sắc tới cục diện Đông Nam Á vào cuối những năm 1960, đầu 1970 buộc các nước ASEAN phải tính toán lại chiến lược của mình.
Một trong những biểu hiện đầu tiên của quá trình điều chỉnh chiến lược này là tháng 2-1969, Thủ tướng Malaixia đưa ra khái niệm trung lập hóa Đông Nam Á. Các nước ASEAN, nhất là những nước có quan hệ chặt chẽ với Mỹ và có đưa quân vào Việt Nam, đã không tán thành ngay khái niệm này. Nhưng dưới sức ép của tình hình mới, tháng 11-1971, họ đã đưa ra Tuyên bố về thành lập khu vực hòa bình, tự do và trung lập ở Đông Nam Á (ZOPFAN). Tuyên bố này về hình thức, tạo ra một sự thay đổi trong chính sách đối ngoại của các nước ASEAN: từ chỗ là đồng minh phụ thuộc vào Mỹ, nay muốn tách ra, đứng ngoài cuộc tranh giành giữa các nước lớn. Về thực chất, nó là một phương cách để thực hiện chính sách không liên kết với các nước lớn, tiếp tục duy trì sự tồn tại của các nước ASEAN trong tình hình mới...
Trong quan hệ với Việt Nam, tuyên bố này cũng đánh dấu sự chấm dứt việc các nước ASEAN ủng hộ Mỹ trong cuộc Chiến tranh Việt Nam. Thực ra trước đó, do tình thế thất bại của Mỹ - ngụy quyền Sài Gòn, các nước ASEAN đã phải giảm thiểu sự dính líu của mình vào cuộc Chiến tranh Việt Nam. Tháng 10-1969, Philippin công bố kế hoạch rút một phần quân và tháng 12-1969 đã rút hơn một nghìn công dân vụ khỏi Việt Nam. Theo chiều hướng chung, tháng 9-1970, Thái Lan cũng bắt đầu rút 12.000 quân khỏi Việt Nam. Đến cuối năm 1970, Malaixia đã đình chỉ việc đào tạo cảnh sát và cố vấn cho ngụy quyền Sài Gòn và đầu năm 1972 đã từ chối yêu cầu của ngụy quyền Sài Gòn đề nghị Malaixia lên án cuộc tấn công của quân và dân Việt Nam ở miền Nam Việt Nam. Xingapo tỏ thái độ hữu nghị với Việt Nam Dân chủ Cộng hòa bằng cách để cho Việt Nam đặt cơ quan Tổng công ty xuất nhập khẩu (tháng 7-1971)...
Bên cạnh việc chấm dứt dính líu vào cuộc Chiến tranh Việt Nam, năm 1972, một số nước ASEAN như Philippin, Malaixia, Xingapo đã bắt đầu thăm dò khả năng phát triển quan hệ với Việt Nam, cả về kinh tế, thương mại và ngoại giao.
Việt Nam cũng đã khuyến khích thái độ của các nước ASEAN lảng tránh dần ra khỏi chính sách xâm lược của Mỹ; tiến hành thiết lập cơ quan đại diện Tổng công ty xuất nhập khẩu ở Xingapo, điều chỉnh thái độ với Philippin... Tuy nhiên, quan hệ giữa hai bên vẫn chưa có tiến triển gì đáng kể.
Giai đoạn 1973-1978, tình hình khu vực có nhiều chuyển biến lớn, dẫn đến sự đảo lộn mạnh mẽ trong cán cân lực lượng ở đây. Tháng 1-1973, Hiệp định Pari về chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Việt Nam được ký kết. Tháng 8-1973, Mỹ buộc phải chấm dứt mọi hoạt động quân sự ở Đông Dương. Xu thế hòa bình, trung lập ở khu vực phát triển mạnh, nổi bật là phong trào đấu tranh của sinh viên, thanh niên trí thức Thái Lan chống đế quốc đã đưa đến sự sụp đổ của chế độ độc tài quân sự thân Mỹ Thanon vào tháng 10-1973. Chính quyền mới ở Thái Lan đã yêu cầu Mỹ rút quân khỏi Thái Lan... Những sự kiện trên đây đã buộc các nước ASEAN phải điều chỉnh mạnh mẽ chính sách đối ngoại của mình.
Trên bình diện quốc tế, các nước ASEAN đã đẩy mạnh quan hệ với các nước xã hội chủ nghĩa, nhất là với Trung Quốc và Liên Xô, thực hiện chính sách cân bằng giữa các nước lớn. Ngày 22-6-1973, tại Liên hợp quốc, Malaixia là nước ASEAN đầu tiên đã gặp Trung Quốc ở cấp Đại sứ để bàn về vấn đề lập quan hệ ngoại giao. Đến tháng 5 - 1974, Malaixia và Trung Quốc chính thức lập quan hệ ngoại giao. Ngày 20-12-1974, Thái Lan quyết định bình thường hóa quan hệ thương mại với Trung Quốc và ngày 22-12-1974, Thứ trưởng Ngoại giao Thái Lan đi Trung Quốc bàn việc lập quan hệ ngoại giao giữa hai nước.
Trên bình diện khu vực, các nước ASEAN cũng có nhiều cử chỉ thân thiện hơn, tạo cơ sở cho việc đặt quan hệ với Việt Nam. Tháng 3-1973, Philippin và Thái Lan rút hết quân đội khỏi Nam Việt Nam; tháng 7-1974, Thái Lan thỏa thuận xong với Mỹ việc hạn chế Mỹ sử dụng các căn cứ quân sự ở Thái Lan chống lại các nước Đông Dương. Tại Hội nghị Bộ trưởng Ngoại giao các nước ASEAN họp ngày 15-2-1973, các nước ASEAN kêu gọi chương trình viện trợ kinh tế cho các nước Đông Dương và thành lập ủy ban phối hợp các nước ASEAN về việc tái thiết và khôi phục lại các nước Đông Dương.
Về phía Việt Nam, từ sau khi ký Hiệp định Pari năm 1973, Việt Nam bắt đầu tích cực triển khai chính sách khu vực, đẩy mạnh quan hệ song phương với các nước thuộc tổ chức ASEAN. Tháng 3-1973, Việt Nam lập quan hệ ngoại giao với Malaixia và tháng 8-1973 lập quan hệ ngoại giao với Xingapo. Trong năm 1974 và 1975 Việt Nam đã đón một số đoàn từ các nước ASEAN như đoàn Tổ chức Á - Phi của Malaixia (tháng 12-1974), đoàn 16 hạ nghị sĩ Thái Lan (tháng 11-1975). Cũng trong thời gian này, Việt Nam đã xúc tiến đàm phán lập quan hệ ngoại giao với Philippin và Xingapo.
Chính sách ngoại giao của Việt Nam đối với khu vực Đông Nam Á lần đầu tiên được thể hiện rõ ràng trong chính sách 4 điểm tháng 7-1976, trong đó nêu lên những nguyên tắc cơ bản cho việc phát triển quan hệ hữu nghị và hợp tác với các nước Đông Nam Á như: tôn trọng độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ của nhau, cùng tồn tại trong hòa bình không để lãnh thổ của mình cho nước ngoài sử dụng, giải quyết tranh chấp thông qua thương lượng phát triển hợp tác khu vực.
Để tranh thủ sự ủng hộ cho chính sách trên, tháng 7- 1976, Thứ trưởng Ngoại giao Việt Nam Phan Hiền đã lần lượt đi thăm Philippin, Xingapo, Inđônêxia, Malaixia và các nước ASEAN đều tuyên bố ủng hộ chính sách 4 điểm của Việt Nam. Trong thời gian này quan hệ ngoại giao Việt Nam - Malaixia đã được thiết lập và phía Malaixia đã hứa giúp Việt Nam khôi phục kinh tế theo khả năng của họ, đặc biệt là trong lĩnh vực cao su. Tháng 8-1976, Việt Nam và Thái Lan cũng thỏa thuận lập quan hệ ngoại giao giữa hai nước. Như vậy đến tháng 8-1976, Việt Nam đã thiết lập quan hệ ngoại giao đầy đủ với tất cả các nước thành viên ASEAN. Trong các năm 1977 và 1978, quan hệ song phương của Việt Nam với từng nước ASEAN đã phát triển mạnh mẽ với các chuyến thăm hữu nghị của Thủ tướng Phạm Văn Đồng thăm 5 nước ASEAN (tháng 9 và tháng 10-1978) và của Bộ trưởng Ngoại giao Nguyễn Duy Trinh thăm 5 nước ASEAN (tháng 12-1977 và tháng 1-1978). Trong các chuyến đi, giữa Việt Nam và các nước ASEAN đã ký nhiều hiệp định về hợp tác kinh tế thương mại, hợp tác khoa học kỹ thuật, hàng không, hàng hải. Đặc biệt trong chuyến thăm của Thủ tướng Phạm Văn Đồng, Việt Nam và các nước này đều ra thông cáo chung nêu lên các nguyên tắc chỉ đạo (quan hệ chung sống hòa bình). Ngoài ra, Việt Nam còn cử nhiều đoàn đại biểu của các ngành triển khai các hoạt động hợp tác cụ thể khác.
Việt Nam đã lần lượt lập Đại sứ quán tại Manila (11- 1976), Cuala Lămpơ (7-1977), Băng Cốc (2-1978) và các nước Philippin, Malaixia, Thái Lan cũng đã lập Đại sứ quán tại Việt Nam vào các thời điểm tương ứng. Các cuộc đàm phán với Inđônêxia về thềm lục địa chồng lấn ở cấp chuyên viên cũng bắt đầu được xúc tiến.
Có thể nói trong thời kỳ này quan hệ Việt Nam với các nước ASEAN phát triển tốt đẹp hơn so với trước đó. Việt Nam đã từng bước đặt nền móng cho quan hệ Việt Nam với các nước ASEAN.
Tuy nhiên ở giai đoạn này, Việt Nam vẫn chưa có quan hệ hợp tác với tổ chức ASEAN. Ngày 18-4-1973, tại Hội nghị bất thường các Bộ trưởng Ngoại giao ASEAN họp tại Páttaya (Thái Lan), Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã được mời tham dự với tư cách quan sát viên, và năm 1974, Inđônêxia lại mời Việt Nam tham gia Hội nghị AMM lần thứ bảy ở Giacácta. Nhưng cả hai lần, phía Việt Nam đều từ chối tham dự vì trong số các bên được mời có cả ngụy quyền Sài Gòn.
2. Thời kỳ 1979 - 1991
Giai đoạn 1979-1988, sau khi xuất hiện vấn đề Campuchia, quan hệ giữa Việt Nam với các nước ASEAN chuyển sang đối đầu, quan hệ song phương của Việt Nam với từng nước ASEAN giảm xuống mức rất thấp.
Trong giai đoạn này, Việt Nam vừa đấu tranh với ASEAN về vấn đề Campuchia và triển khai đấu tranh ngoại giao, gắn việc giải quyết vấn đề Campuchia với việc xây dựng khu vực hòa bình, ổn định ở Đông Nam Á, thúc đẩy đối thoại để đẩy lùi sự đối đầu, phân hóa liên minh chống Việt Nam.
Xuất phát từ chính sách trên, cùng với việc đưa ra các đề nghị giải quyết vấn đề Campuchia, Việt Nam đã đưa ra nhiều đề nghị về hòa bình và hợp tác ở Đông Nam Á. Tại 13 cuộc Hội nghị Bộ trưởng Ngoại giao ba nước Đông Dương (từ tháng 1-1980 đến tháng 8-1986), Việt Nam đã đưa ra một loạt các đề nghị sau:
- Tháng 1-1980, Việt Nam đề nghị ký hiệp định không
xâm lược giữa các nước Đông Nam Á và sẵn sàng thảo luận việc lập một “khu vực Đông Nam Á hòa bình, độc lập, tự do, trung lập, ổn định và phồn vinh” (thực chất là chấp nhận ZOPFAN) với các nước ASEAN.
- Tháng 1-1981, Việt Nam đề nghị họp hội nghị khu vực giữa hai nhóm nước Đông Dương và ASEAN.
- Tháng 9-1981, tại Liên hợp quốc, Lào thay mặt ba nước Đông Dương đưa ra 7 nguyên tắc chỉ đạo quan hệ giữa hai nhóm nước Đông Dương và ASEAN “Vì một Đông Nam Á hòa bình, ổn định, hữu nghị và hợp tác”.
- Tháng 7-1982, Việt Nam tuyên bố đơn phương rút một số quân khỏi Campuchia, đồng thời đề nghị họp “Hội nghị quốc tế về Đông Nam Á” với sự tham gia của hai nhóm nước Đông Dương và ASEAN.
- Tháng 3-1983, theo đề nghị của Việt Nam, Hội nghị cấp cao không liên kết lần thứ bảy ở Niu Đêli đã ra nghị quyết kêu gọi tất cả các nước Đông Nam Á tiến hành đối thoại để giải quyết mối bất đồng và sớm hình thành ZOPFAN.
- Tháng 7-1983, Việt Nam đề nghị đối thoại không có điều kiện tiên quyết giữa hai nhóm nước và lấy đề nghị của ASEAN về ZOPFAN làm cơ sở để thảo luận về việc biến Đông Nam Á thành khu vực hòa bình, ổn định.
- Tháng 4-1985, Việt Nam khẳng định lại đề nghị triệu tập hội nghị quốc tế bàn tất cả các vấn đề có liên quan đến hòa bình, ổn định ở Đông Nam Á bao gồm các nước trong và ngoài khu vực liên quan trực tiếp hoặc đã đóng góp vào hòa bình ổn định ở khu vực.
Tại Diễn đàn Liên hợp quốc, từ năm 1980 đến năm 1985, hàng năm Việt Nam, Lào cùng với một số nước bạn bè đều nêu vấn đề “hòa bình, ổn định và cùng hợp tác ở Đông Nam Á” nhằm thúc đẩy xu hướng đối thoại giữa Đông Dương và ASEAN đổi lại vấn đề tình hình Campuchia do ASEAN đưa ra tại diễn đàn này.
Tuy nhiên, tất cả các đề nghị nêu trên về đối thoại và hợp tác khu vực đều không được ASEAN chấp nhận với lý do vấn đề Campuchia là nguyên nhân chủ yếu gây mất ổn định khu vực; phải giải quyết vấn đề Campuchia trước rồi mới giải quyết vấn đề hòa bình, hợp tác khu vực.
Giai đoạn này có thể nhận thấy có hai nhóm nước tách biệt phản ánh lợi ích an ninh và quan niệm về mối đe dọa về an ninh khác nhau trong các nước ASEAN. Một nhóm tỏ ra lo ngại về nguy cơ cơ bản và lâu dài là Trung Quốc đối với khu vực, do vậy chủ trương đối thoại với Việt Nam nhằm tìm một giải pháp chính trị cho vấn đề Campuchia. Nhóm nước còn lại chủ trương dựa vào Trung Quốc gây sức ép toàn diện với Việt Nam.
Đầu năm 1984, tình hình bắt đầu có thay đổi. Mặc dù chịu nhiều sức ép song chính quyền cách mạng Campuchia vẫn đứng vững và đến mùa khô 1984-1985 còn đạt được thắng lợi lớn về quân sự. Trong khi đó Việt Nam vẫn đang thực hiện việc rút quân từng phần (bắt đầu từ năm 1982). Còn trên bình diện quốc tế, quan hệ Xô - Mỹ, Xô - Trung bắt đầu được cải thiện, gây nguy cơ các nước lớn sẽ vượt lên trước ASEAN để giải quyết vấn đề Campuchia.
Trong bối cảnh đó, sự phân hóa giữa các nước ASEAN ngày càng rõ nét hơn. Inđônêxia và Malaixia muốn thoát ra và vượt lên trên vấn đề Campuchia để giải quyết các vấn đề rộng lớn hơn của khu vực. Tháng 9-1984, Inđônêxia và Malaixia bắt đầu nêu ra sáng kiến thực hiện khu vực phi vũ khí hạt nhân ở Đông Nam Á, coi đó là một phần quan trọng để thực hiện ZOPFAN mà không chờ kết thúc vấn đề Campuchia.
Những chuyển biến quan trọng trong chính sách của ASEAN đối với Việt Nam được đánh dấu bằng việc tại Hội nghị AMM tháng 2-1985, các nước ASEAN đã nhất trí cử Inđônêxia làm đại diện đối thoại với các nước Đông Dương, khẳng định xu thế đối thoại giữa hai nhóm nước ở Đông Nam Á.
Giai đoạn 1988-1991, quan hệ Việt Nam - ASEAN có những chuyển biến tích cực. Trên cơ sở quyết định của Hội nghị AMM, tháng 7-1987 đã diễn ra cuộc gặp đối thoại đầu tiên giữa Việt Nam và Inđônêxia tại thành phố Hồ Chí Minh. Cuộc gặp trên đã dẫn đến việc ra đời các hội nghị không chính thức về Campuchia: JIM-1 (7-1988), JIM-2 (2-1989) và cuộc gặp không chính thức IMC (2- 1990) tại Giacácta nhằm thảo luận một cách cởi mở và tìm ra một giải pháp chính trị cho vấn đề Campuchia.
Tại Đại hội VI của Đảng Cộng sản Việt Nam (năm 1986), đề ra một đường lối đổi mới toàn diện, trong đó Việt Nam chủ trương thực thi chính sách đối ngoại đa dạng hóa, đa phương hóa quan hệ. Thực hiện đường lối này, Việt Nam đã rút hết quân khỏi Campuchia, trở ngại lớn nhất trong quan hệ hai bên đang dần được gỡ bỏ, vấn đề Campuchia đi dần vào giải pháp hòa bình. Trong tình hình đó, các nước ASEAN bắt đầu phát triển quan hệ song phương với Việt Nam và hoan nghênh việc Việt Nam tham gia vào hợp tác khu vực. Tháng 12-1987, tại Hội nghị cấp cao ASEAN lần thứ ba họp tại Manila, Tổng thống Philippin Aquino tuyên bố không coi Việt Nam là mối đe dọa đối với Philippin. Tiếp đó, tháng 2-1983, Bộ trưởng Ngoại giao Philippin tuyên bố “không chống việc Việt Nam gia nhập ASEAN”. Còn Thủ tướng Thái Lan Chatichai khi lên cầm quyền tháng 8-1988 đã đưa ra chủ trương biến Đông Dương từ chiến trường thành thị trường. Chính sách trên của Thái Lan đã được Thủ tướng Malaixia tuyên bố ủng hộ (6-1989). Về phần mình, Việt Nam cũng luôn bày tỏ lòng mong muốn phát triển quan hệ hữu nghị và hợp tác với các nước ASEAN.
Sự xích lại gần nhau giữa Việt Nam và ASEAN có thêm những nhân tố thúc đẩy mới bởi thái độ của Việt Nam kiên trì chính sách đàm phán để giải quyết mọi tranh chấp về lãnh thổ với các nước láng giềng, cùng với việc Việt Nam giữ đúng cam kết rút hết quân khỏi Campuchia trước thời hạn vào năm 1988, mặc dù lúc đó chưa đạt được giải pháp về vấn đề Campuchia. Điều đó đã tạo dựng được lòng tin vào thiện chí của Việt Nam trong chính sách tăng cường hợp tác ở khu vực. Quan hệ Việt Nam - ASEAN được đẩy mạnh trong năm 1989 và các năm tiếp theo. Sự kiện chính trị nổi bật và quan trọng nhất trong quan hệ hai bên là việc Tổng thống Inđônêxia Xuháctô, nguyên thủ một nước thành viên ASEAN đầu tiên thăm Việt Nam. Tiếp đó là các chuyến viếng thăm của Thủ tướng Xingapo và Thái Lan... Các quan chức và các học giả ASEAN cũng bắt đầu thể hiện thiện chí và mong muốn có sự hội nhập của Việt Nam và các nước Đông Dương khác vào khu vực Đông Nam Á. Tháng 1- 1989, tại Hội nghị bàn tròn các nhà báo châu Á-Thái Bình Dương ở thành phố Hồ Chí Minh, Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Việt Nam Nguyễn Văn Linh tuyên bố: “Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam sẵn sàng phát triển quan hệ hữu nghị với các nước ASEAN và các nước khác trong khu vực”. Cũng tại hội nghị này, Bộ trưởng Ngoại giao Nguyễn Cơ Thạch tuyên bố: “Việt Nam sẵn sàng gia nhập Hiệp hội các nước Đông Nam Á”. Tại JIM-2 (2-1989), Việt Nam và Lào tuyên bố sẵn sàng tham gia Hiệp ước Bali (1976) của ASEAN.
Qua việc giải quyết vấn đề Campuchia và nêu cao vấn đề hợp tác khu vực, sự đoàn kết ASEAN và vai trò của tổ chức ASEAN ngày càng được củng cố và tăng cường ở khu vực và trên thế giới. Bên cạnh đó những cố gắng của Việt Nam, Lào, Inđônêxia, Malaixia và các quốc gia Đông Nam Á khác trong việc tìm kiếm một giải pháp hòa bình cho vấn đề Campuchia, xây dựng Đông Nam Á thành một khu vực hòa bình và ổn định cho thấy Việt Nam và các nước ASEAN ngày càng ý thức được vai trò của mình trong việc giải quyết các vấn đề của khu vực. Những diễn biến mới trong tình hình quốc tế và khu vực cũng đã tạo thêm điều kiện làm lợi để thúc đẩy xu hướng tích cực trên quan hệ Việt Nam - ASEAN bắt đầu có những biến chuyển tích cực và việc Hiệp định Pari về Campuchia được ký kết tháng 10-1991 đã đánh dấu sự chấm dứt của “thời kỳ Campuchia”, trong quan hệ Việt Nam - ASEAN mở ra một thời kỳ mới - thời kỳ của hợp tác hai bên.
3. Thời kỳ từ 1992 đến khi gia nhập ASEAN
Cùng với việc kết thúc Chiến tranh lạnh, ở Đông Nam Á, việc ký kết Hiệp định hòa bình Pari về Campuchia (tháng 10-1991) đã đặt ra cho cả Việt Nam lẫn các nước ASEAN nhiều cơ hội và thách thức mới.
Lần đầu tiên sau nhiều năm chiến tranh, xung đột, đối đầu, tất cả các quốc gia và nhân dân trong khu vực đã có những cơ hội thật sự để phát triển nhằm thiết lập một nền hòa bình bền vững và lâu dài cũng như vun đắp cho tình hữu nghị và thịnh vượng chung ở khu vực, cơ hội để khởi xướng tăng cường và phát triển sự hợp tác vì tiến bộ chung, chuẩn bị để bước vào thế kỷ XXI, thế kỷ châu Á - Thái Bình Dương.
Bên cạnh những cơ hội nói trên, không ít thách thức cũng xuất hiện ở khu vực mà cả Việt Nam và ASEAN đều phải đối phó. Sự tan rã của Liên Xô đã làm mất đi thế hai cực trong quan hệ quốc tế đưa đến sự thay đổi trong cán cân lực lượng trên thế giới và ở khu vực. Ở Đông Nam Á, cả Mỹ và Nga đều bắt đầu giảm thiểu sự hiện diện quân sự của mình ở khu vực. Việc này đã tạo ra một khoảng trống quyền lực ở khu vực. Những cố gắng nhằm đẩy mạnh vai trò cả về chính trị, kinh tế, quân sự của một vài cường quốc châu Á đã làm tăng mối lo ngại truyền thông trong các nước ASEAN và các nước Đông Nam Á khác về một nguy cơ thật sự đối với khu vực. Hơn nữa, sự rút lui của Mỹ đã làm mất đi chỗ dựa truyền thống về an ninh của các nước ASEAN, trong khi vấn đề Campuchia chưa phải đã thật sự chấm dứt và bên cạnh đó lại nảy sinh những nguy cơ tiềm tàng ở Biển Đông...
Đó là những thách thức rất lớn đối với ASEAN, buộc họ phải tính toán nhằm tìm ra một cơ chế bảo đảm an ninh, gìn giữ hòa bình mỏng manh mới giành được cho khu vực sau Hiệp định Pari về Campuchia, bảo đảm sự phát triển tiếp tục về kinh tế của các nước thành viên. Vì vậy, thách thức lớn thứ hai đối với các nước ASEAN trong thời kỳ hậu Chiến tranh lạnh chính là vấn đề phát triển kinh tế ở giai đoạn mới này, chạy đua kinh tế đã thay thế chạy đua vũ trang và tập trung vào phát triển kinh tế đã trở thành một xu thế lớn, lôi cuốn tất cả các nước phát triển và đang phát triển. Trong khi đó, xu thế khu vực hóa đang ngày càng phát triển mạnh trên thế giới mà biểu hiện rõ nhất là việc ra đời một thị trường thống nhất châu Âu gồm các nước Cộng đồng châu Âu và các nước Hiệp hội mậu dịch tự do châu Âu; khái niệm đồng Yên ở châu Á - Thái Bình Dương của Nhật; sự hình thành Khu vực mậu dịch tự do Bắc Mỹ (NAFTA). Trước tình hình đó, vấn đề đặt ra đối với các nước ASEAN là làm sao bảo đảm được môi trường quốc tế thuận lợi và giữ được các khu vực thị trường truyền thống, duy trì được tốc độ tăng trưởng kinh tế cao của mình. Giải pháp của ASEAN cho vấn đề trên gồm hai mặt: một mặt mở rộng quan hệ tích cực đấu tranh với các nước để chống xu hướng bảo hộ mậu dịch; mặt khác tăng cường xây dựng sức mạnh của bản thân khu vực, thông qua đẩy mạnh hợp tác trong khu vực, để vừa tạo thế với bên ngoài và duy trì được tốc độ phát triển kinh tế của mình. Trong khung cảnh đó, phát triển quan hệ hợp tác nhiều mặt với Việt Nam, cũng như với các nước Đông Dương khác trở thành một chính sách quan trọng của ASEAN.
Việt Nam đã trải qua nhiều cuộc chiến tranh nên lợi ích lớn nhất lúc này là duy trì hòa bình ổn định khu vực, tạo dựng một môi trường quốc tế và khu vực thuận lợi cho công cuộc đổi mới. Việt Nam tập trung sức lực vào phát triển nền kinh tế vốn bị chiến tranh tàn phá, cải thiện đời sống nhân dân, đưa đất nước đi lên theo kịp với nhịp độ phát triển chung của các nước trong khu vực và trên thế giới. Về kinh tế, thách thức lớn đối với Việt Nam để hội nhập được vào xu thế chung của thế giới là ưu tiên cho phát triển kinh tế và Việt Nam cần phải có nhiều cố gắng để tránh nguy cơ tụt hậu về kinh tế. Với mục tiêu đó, Việt Nam đã tăng cường và phát triển các mối quan hệ hợp tác với bên ngoài, trước hết là với các nước trong khu vực Đông Nam Á.
Đẩy mạnh quan hệ với ASEAN là mục tiêu quan trọng đối với Việt Nam vì ASEAN là một tập hợp của những nước nhỏ và vừa, có xuất phát điểm gần giống Việt Nam, đã vươn lên thành những nước có nền kinh tế phát triển nhất ở khu vực hiện nay. Hợp tác chặt chẽ với ASEAN sẽ giúp Việt Nam nhanh chóng đuổi kịp và hòa nhập với sự phát triển kinh tế của các nước trong khu vực. Bên cạnh đó, ASEAN có tiếng nói và vai trò ngày càng tăng trên thế giới, là tổ chức khu vực duy nhất trên thế giới có mối quan hệ chặt chẽ và cơ chế đối thoại thường xuyên với nhiều nước công nghiệp phát triển, trong đó bao gồm tất cả 5 ủy viên thường trực Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc. Việc phát triển hợp tác Việt Nam - ASEAN sẽ giúp làm tăng vị trí cũng như vai trò của Việt Nam trên trường quốc tế, cũng như tạo điều kiện thuận lợi cho Việt Nam đi vào hợp tác với các nước công nghiệp phát triển và các trung tâm chính trị, kinh tế lớn, tạo thuận lợi cho Việt Nam tham gia các cơ chế hợp tác lớn hơn ở khu vực châu Á - Thái Bình Dương.
Điều trở nên rõ ràng là trước những thách thức của thời kỳ hậu Chiến tranh lạnh, việc phát triển quan hệ Việt Nam-ASEAN đã trở thành một vấn đề có tính quan trọng chiến lược, cả về kinh tế, chính trị đối với ASEAN và Việt Nam.
Trong bối cảnh đó, Đại hội VII của Đảng Cộng sản Việt Nam (năm 1991) đã khẳng định chủ trương thực hiện đường lối đối ngoại rộng mở, đa dạng hóa đa phương hóa trong đó nhấn mạnh việc “phát triển quan hệ hữu nghị với các nước Đông Nam Á và châu Á - Thái Bình Dương, phấn đấu cho một Đông Nam Á hòa bình, hữu nghị và hợp tác”.
Thực hiện chủ trương trên, từ cuối năm 1991 đến giữa năm 1992, Thủ tướng Võ Văn Kiệt đã lần lượt đi thăm tất cả các nước ASEAN để thúc đẩy quan hệ song phương (Inđônêxia, Xingapo, Thái Lan: tháng 12-1991, Malaixia: 1992, Philippin và Brunây: tháng 2-1992).
Kể từ đó quan hệ Việt Nam với từng nước ASEAN đã phát triển nhanh chóng. Các chuyến viếng thăm diễn ra dồn dập ở các cấp. Chỉ trong hai năm, Việt Nam đã ký với các nước này gần 40 hiệp định các loại (Hiệp định khung về hợp tác kinh tế, khoa học kỹ thuật; Hiệp định về bảo hộ đầu tư; Hiệp định tránh đánh thuế hai lần, Hiệp định về bưu điện; Hiệp định về hàng không, hàng hải...) làm cơ sở pháp lý cho các mối quan hệ hợp tác đang ngày càng mở rộng. Các quan hệ kinh tế và thương mại cũng tăng nhanh chóng. Hiện nay, các nước ASEAN tiêu thụ hoặc tái xuất một khốilượng lớn hàng xuất khẩu của Việt Nam, và đầu tư trực tiếp của họ chiếm một tỷ trọng khá lớn trong tổng số vốn đầu tư của nước ngoài vào Việt Nam.
Trong các cuộc tiếp xúc cấp cao Việt Nam-ASEAN từ cuối năm 1990 trở đi, vấn đề Việt Nam tham gia Hiệp ước Bali được đề cập, và ngày 28-1-1992, Hội nghị cấp cao ASEAN lần thứ tư họp tại Xingapo (năm 1992) đã tuyên bố rõ điều đó. Nghị quyết Hội nghị Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ ba khóa VII (tháng 6-1992) đã đề cập việc “Việt Nam tham gia Hiệp ước Bali, tham gia các diễn đàn đối thoại với ASEAN, tích cực nghiên cứu mở rộng quan hệ với ASEAN trong tương lai”. Ngày 11-7-1992, tại Hội nghị lần thứ 25 Bộ trưởng Ngoại giao các nước ASEAN, Việt Nam và Lào đã chính thức tham gia Hiệp ước Bali và trở thành quan sát viên của tổ chức ASEAN.
Việc Việt Nam tham gia Hiệp ước Bali thể hiện cam kết của Việt Nam với những nguyên tắc được nêu ra trước đó trong chính sách 4 điểm của mình năm 1976. Điều đó cũng làm tăng sự tin cậy của các nước ASEAN và các nước ngoài khu vực đối với Việt Nam, góp phần phá thế bao vây cấm vận của Mỹ, và tạo thuận lợi thúc đẩy việc thực hiện chính sách mở cửa đã được Việt Nam đưa ra.
Với tư cách quan sát viên của ASEAN, từ năm 1992, Việt Nam đã được mời tham dự các cuộc họp Hội nghị Bộ trưởng Ngoại giao ASEAN hàng năm. Từ năm 1993, ASEAN đã lập cơ chế họp hiệp thương giữa ASEAN và Việt Nam nhân dịp Hội nghị Bộ trưởng Ngoại giao ASEAN lần thứ 26 ở Xingapo (năm 1993).
Việt Nam đã được mời tham gia Diễn đàn khu vực ASEAN (ARF) để bàn về các vấn đề chính trị và an ninh của khu vực châu Á-Thái Bình Dương. Việt Nam được coi như một trong những nước sáng lập diễn đàn này. Cũng trong năm 1993, ASEAN đã mời Việt Nam tham gia các chương trình và dự án hợp tác ASEAN trên 5 lĩnh vực: khoa học-công nghệ môi trường, y tế, văn hóa-thông tin, phát triển xã hội, cùng một số dự án hợp tác chuyên ngành: thủ công, phòng ngừa ma túy (dành cho thanh niên), đào tạo cán bộ du lịch.
Để tạo môi trường thuận lợi hơn nữa cho sự tham gia của Việt Nam vào quá trình hợp tác khu vực, và nhất là vào ASEAN, từ tháng 2-1993, Việt Nam đã tuyên bố “sẵn sàng tham gia ASEAN vào thời điểm thích hợp”. Điều này đã được các nước ASEAN, dư luận khu vực và quốc tế đánh giá cao. Đáp lại, các nước ASEAN tuyên bố muốn thấy Việt Nam sớm gia nhập ASEAN. Với những phát triển ngày càng tích cực và thuận lợi trong quan hệ Việt Nam và ASEAN cả về song phương và đa phương, tháng 4-1994, trong chuyến thăm chính thức Inđônêxia, Chủ tịch nước Lê Đức Anh đã tuyên bố cùng với sự hỗ trợ tích cực của ASEAN.
Việt Nam đang xúc tiến các công việc chuẩn bị thiết thực để sớm trở thành thành viên đầy đủ của ASEAN.
Tuyên bố này thể hiện thái độ tích cực và chân thành của Việt Nam trong việc gia nhập ASEAN. Cũng trong thời gian này, các nhà lãnh đạo cao nhất của ASEAN đã lần lượt tuyên bố hoàn toàn ủng hộ việc Việt Nam gia nhập ASEAN. Thủ tướng Malaixia và Thủ tướng Xingapo còn nhấn mạnh rằng sự khác biệt về chế độ chính trị - xã hội không phải là trở ngại cho vấn đề này.
Tại Hội nghị Bộ trưởng Ngoại giao ASEAN lần thứ 27 tại Băng Côc (từ ngày 22 đến ngày 23-7-1994), các nước ASEAN đã nhất trí tuyên bố sẵn sàng công nhận Việt Nam là thành viên chính thức của ASEAN và quyết định thành lập một nhóm làm việc gồm các quan chức cao cấp do Tổng thư ký ASEAN đứng đầu để trao đổi và tham khảo ý kiến với Việt Nam nhằm xúc tiến việc chuẩn bị giải quyết các vấn đề thủ tục để tiến tới công nhận Việt Nam là thành viên chính thức của ASEAN.
Như vậy, sau một quá trình tăng cường quan hệ song phương với từng nước cũng như với cả tổ chức ASEAN, đến tháng 7-1994 việc Việt Nam gia nhập ASEAN đã đạt được sự nhất trí từ cả hai phía.
Sau khi dự Hội nghị AMM lần thứ 27, Việt Nam đã tham dự cuộc họp đầu tiên của Diễn đàn ARF diễn ra ngay sau đó tại Băng Cốc. Tháng 9-1994, lần đầu tiên Việt Nam tham dự Hội nghị Bộ trưởng Kinh tế ASEAN lần thứ 26 ở Chiềng Mai (Thái Lan). Tại hội nghị này, những vấn đề chuẩn bị cho việc Việt Nam gia nhập ASEAN về mặt kinh tế tài chính... đã được đề cập một cách rộng rãi. Bên cạnh những diễn đàn chính thức ở cấp chính phủ là những diễn đàn của các giới học giả ASEAN và Việt Nam. Tại các diễn đàn này, các câu hỏi về việc Việt Nam tham gia ASEAN, những tác động của việc tham gia đó, tương lai của hợp tác Việt Nam ASEAN... được thảo luận một cách thẳng thắn khách quan và tự do. Rất nhiều ý kiến có giá trị của các học giả đã đóng góp vào việc hoạch định chính sách của chính phủ các nước ASEAN và Việt Nam đối với khu vực trong quan hệ giữa các nước này với nhau và với các nước ngoài khu vực.
Bước phát triển mới trong quan hệ Việt Nam - ASEAN thể hiện ở việc ngày 17-10-1994, Bộ trưởng Ngoại giao Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã gửi thư tới Bộ trưởng Ngoại giao Brunây, Chủ tịch đương nhiệm ủy ban thường trực ASEAN (ASC), chính thức đặt vấn đề Việt Nam trở thành thành viên đầy đủ của ASEAN. Quyết định trên của Việt Nam được ASEAN hoan nghênh và đáp ứng kịp thời. Những thủ tục cần thiết cũng được phía Việt Nam và ASEAN cùng chuẩn bị để vấn đề Việt Nam gia nhập ASEAN có thể hoàn tất trong năm 1995.
Chính sự phát triển quan hệ Việt Nam - ASEAN trên nhiều lĩnh vực, ở các diễn đàn các cấp và các giới khác nhau đã đưa các nước này lại gần nhau hơn, có sự tăng cường hiểu biết và thông cảm lẫn nhau để có thể cùng liên kết các hoạt động trong một tổ chức hợp tác khu vực như ASEAN.
Ngày 28-7-1995, tại thủ đô Banđa Xêri Bêgaoan (Brunây), nơi diễn ra Hội nghị Bộ trưởng Ngoại giao các nước ASEAN lần thứ 28 và ARF lần thứ hai, Việt Nam đã chính thức trở thành thành viên thứ bảy của ASEAN. Việt Nam cũng tuyên bố gia nhập Khu vực mậu dịch tự do ASEAN (AFTA), bắt đầu thực hiện chương trình giảm thuế quan chung theo AFTA từ ngày 1-1-1996 và sẽ hoàn thành vào năm 2006, chậm hơn 3 năm so với các nước ASEAN khác. Sau khi trở thành thành viên chính thức của ASEAN, sự hòa nhập của Việt Nam vào các hoạt động hợp tác trong khuôn khổ ASEAN cũng được thúc đẩy nhanh chóng. Phòng thương mại và công nghiệp Việt Nam cũng đã gia nhập Phòng thương mại và công nghiệp ASEAN, góp phần tăng cường hợp tác kinh tế trong ASEAN. Ngày 19-9-1995, tại Hội nghị của Tổ chức Liên Nghị viện ASEAN (AIPO) họp tại Xingapo, Việt Nam đã trở thành thành viên thứ sáu của tổ chức này.
Đồng thời, Việt Nam cũng thành lập ủy ban quốc gia ASEAN - Việt Nam để chỉ đạo và điều phối các hoạt động của các cơ quan trong nước nhằm góp phần thúc đẩy quan hệ với các nước ASEAN. Sau đó, Thủ tướng Chính phủ cũng ra Chỉ thị thành lập các bộ phận chuyên trách về hợp tác với các nước ASEAN tại các bộ và các cơ quan ngang bộ. Việt Nam cũng đã đệ trình lên Hội đồng AFTA đúng thời hạn các danh mục hàng hóa mà Việt Nam sẽ tiến hành giảm thuế theo quy định của AFTA. Song song với các hoạt động nhằm thúc đẩy sự liên kết của Việt Nam với ASEAN, Việt Nam còn tích cực tham gia các diễn đàn quan trọng của ASEAN và những diễn đàn địa phương do ASEAN nêu sáng kiến như Hội nghị cấp cao ASEAN lần thứ năm tháng 12-1995, Hội nghị cấp cao Á- Âu lần thứ nhất tháng 3-1996...
Sự tham gia tích cực của Việt Nam vào ASEAN đã được các nước trong tổ chức đánh giá cao. Tại Hội nghị cấp cao ASEAN lần thứ năm, các nước ASEAN đã quyết định để Việt Nam đứng ra tổ chức Hội nghị cấp cao ASEAN lần thứ sáu tại Hà Nội. Còn tại Hội nghị Bộ trưởng Ngoại giao ASEAN tháng 7-1996, Tổng thống nước chủ nhà Inđônêxia thay mặt các nước ASEAN khác tuyên bố Việt Nam đã có nhiều nỗ lực và đóng góp tích cực vào sự hợp tác và đoàn kết ASEAN.
Như vậy, với việc Việt Nam trở thành thành viên chính thức của ASEAN và tham gia tích cực vào các cơ cấu hợp tác của ASEAN, quan hệ Việt Nam-ASEAN đã hoàn toàn bước sang một chương mới.
Ý nghĩa, vai trò của Việt Nam khi gia nhập ASEAN // Sách Vai trò của Việt Nam trong ASEAN. - H.: Thông tấn, 2007. - Tr. 167-185
Ngày 28-7-1995, Việt Nam trở thành thành viên chính thức của Tổ chức Hiệp hội các nước Đông Nam Á (ASEAN). Sự kiện này có ý nghĩa quan trọng, đánh dấu một mốc mới trong lịch sử phát triển của tổ chức ASEAN.
1. Việt Nam gia nhập ASEAN - ước mơ về một khu vực Đông Nam Á đoàn kết, thống nhất, hợp tác để phát triển đã trở thành hiện thực.
Có thể nói, mong muốn về một Đông Nam Á đoàn kết, hữu nghị và hợp tác chặt chẽ luôn là khát vọng của các nước trong khu vực. Ngay cuối thập niên 40 của thế kỷ XX, lãnh tụ của phong trào giải phóng dân tộc Mianma là ông Aung San đã từng mơ ước về một tổ chức khu vực để liên kết các nước mới giải phóng trong cuộc đấu tranh bảo vệ độc lập và xây dựng tổ quốc. Đây cũng là mong muốn của vị Thủ tướng đầu tiên của Nhà nước Liên bang Malaixia độc lập Ápđun Rátman. Trong những năm 1958-1961, ông đã bày tỏ mong muốn các nước Đông Nam Á liên kết lại để cùng nhau giải quyết những vấn đề chung mà các nước trong khu vực đang gặp phải. Nhưng những ước mơ này, trong nhiều năm sau Chiến tranh thế giới thứ hai đã không được thực thi bởi sự khác biệt và chia rẽ giữa các quốc gia trong khu vực. Sau Chiến tranh thế giớithứ hai, khu vực Đông Nam Á xuất hiện nhiều quốc gia mới với những đường lối phát triển và thể chế chính trị khác nhau. Bên cạnh các nước theo con đường xã hội chủ nghĩa như Việt Nam là những nước đi theo con đường phát triển tư bản chủ nghĩa. Một số nước có quan hệ chặt chẽ với các nước đế quốc, trong khi đó lại có một số nước thực thichính sách trung lập không liên kết như Inđônêxia, Campuchia. Một thời, Mianma chọn cho mình một con đường trung dung, có phần biệt lập và xa lánh với thế giới xung quanh. Do sự khác biệt về tư tưởng, đường lối chính sách đã chia rẽ các nước trong khu vực Đông Nam Á, ngăn cản họ sát cánh bên nhau cùng tồn tại và phát triển, chính điều này đã bị các thế lực đế quốc, thực dân lợi dụng để phục vụ cho mục đích của họ. Vì vậy, khu vực này không chỉ bị chia rẽ hơn bởi mâu thuẫn giữa các nước trong vùng mà còn là nơi hội tụ của những mâu thuẫn và tranh chấp quốc tế. Chính điều đó càng làm tăng thêm tình trạng bất ổn và chia rẽ sâu sắc trong khu vực.
Có thể nói rằng Đông Nam Á có hai thực thể chính trị quan trọng, có ảnh hưởng trong khu vực. Đó là Inđônêxia ở vùng hải đảo và Việt Nam ở vùng bán đảo Đông Dương. Việt Nam và Inđônêxia là hai nước có những vị thế và ảnh hưởng nhất định đối với tình hình ở khu vực. Năm 1961, khi Hiệp hội Đông Nam Á (ASA) được hình thành nhưng không được sự ủng hộ của Inđônêxia nên nó chỉ tồn tại trên danh nghĩa, không được ai biết đến. ASEAN ra đời vào năm 1967 do có sự tham gia tích cực của quốc gia này. Không thể phủ nhận rằng trong nhiều năm qua, Inđônêxia luôn giữ vai trò chủ đạo trong ASEAN. Nhưng ASEAN, kể cả khi Brunây gia nhập tổ chức này (1984) chưa phải là Đông Nam Á bởi khu vực này còn chưa bao gồm ba nước trên bán đảo Đông Dương. Do vậy, ASEANkhi đó không đại diện cho lợi ích và tiếng nói của khu vực, không hội tụ được sức mạnh và ưu thế của toàn khu vực. Khi ASEAN ra đời, Việt Nam và các nước Đông Dương khác còn có thái độ nghi ngờ và chưa thiện cảm. ASEAN lúc đó không gây được ảnh hưởng gì trên trường quốc tế. Đề kiến của ASEAN về một khu vực hòa bình, tự do và trung lập (ZOPFAN) ở Đông Nam Á dường như không được ai để ý tới.
Các nước ASEAN cũng nhận rõ vai trò và ảnh hưởng của Việt Nam trong những vấn đề liên quan đến lợi ích của khu vực mà cụ thể trước mắt là trong việc liên kết và hợp tác khu vực. Vì lẽ đó mà các nước ASEAN luôn tìm cơ hội để bày tỏ thiện chí và thành tâm của mình đối với Việt Nam. Ngay sau khi miền Nam Việt Nam được giải phóng, ngoại trưởng các nước ASEAN đã họp khẩn cấp để thảo luận tác động của chiến thắng này đối với tình hình khu vực. Các nước ASEAN chào mừng việc kết thúc chiến tranh ở Đông Dương, coi đó là một nhân tố tích cực góp phần vào việc thực hiện ý tưởng về một khu vực hòa bình, tự do và trung lập (ZOPFAN) ở Đông Nam Á mà các nước ASEAN đã đưa ra hồi cuối năm 1971. Nhân dịp này, các nước ASEAN cũng bày tỏ thiện chí sẵn sàng góp phần vào việc tái thiết các nước Đông Dương sau chiến tranh. Sau hội nghị nói trên, một quan chức cao cấp ASEAN đã nói rằng giờ đây ASEAN sẵn sàng chìa bàn tay hữu nghị với Việt Nam bất chấp họ nói gì về chúng ta.
Tháng 2-1976, ASEAN tổ chức Hội nghị cấp cao đầu tiên tại Bali, trong đó thông qua Hiệp ước thân thiện và Hợp tác Đông Nam Á làm nền tảng cho mối quan hệ trong khu vực, đồng thời thông qua quyết định về việc tăng cường hợp tác nội bộ trong lĩnh vực kinh tế. Như vậy, trong tình hình mới của khu vực, các nước ASEAN một mặt tăng cường hoạt động của hiệp hội để khẳng định sức sống của nó, một mặt bày tỏ mong muốn phát triển quan hệ láng giềng thân thiện với các nước Đông Dương. Những xung đột ở Đông Dương diễn ra sau đó đã cản trở xu hướng hòa bình thân thiện trong khu vực. Các nước ASEAN khi đó đã nỗ lực cùng Việt Nam giải quyết toàn diện cuộc xung đột này, tránh không để tình hình leo thang dẫn đến sự đối đầu, xung khắc gay gắt giữa ASEAN và Đông Dương. Khi vấn đề Campuchia được giải quyết cũng là lúc cơ hội mới cho sự liên kết khu vực được mở ra. Chuyến thăm Việt Nam của Tổng thống Inđônêxia Suharto vào tháng 10-1990 và chuyến thăm một số nước ASEAN của Thủ tướng Việt Nam Võ Văn Kiệt cuối năm 1991 đã mở đầu cho quá trình hòa giải và đoàn kết trong khu vực. Hơn bao giờ hết, triển vọng về một Đông Nam Á đoàn kết và thống nhất đang trở thành hiện thực. Các nước ASEAN hy vọng quan hệ thân thiết, hợp tác giữa ASEAN với Việt Nam sẽ kéo theo mối quan hệ tốt đẹp giữa hiệp hội với các nước khác trên bán đảo Đông Dương. Điều này cũng có nghĩa là sẽ chấm dứt thời kỳ bất đồngchia rẽ trong khu vực, mở ra một trang sử mới trong sự phát triển của Đông Nam Á. Vì thế mà các nước ASEAN hoan nghênh, chào đón việc Việt Nam tham gia ASEAN và đã làm hết sức mình để đẩy nhanh quá trình này.
Năm 1992, Việt Nam tham gia Hiệp ước Bali và đến tháng 7-1995 chính thức gia nhập ASEAN. Sau đó không lâu, đến lượt Lào, Mianma (1997) và Campuchia (1999) trở thành thành viên của Hiệp hội ASEAN. Mong muốn về một ASEAN-10 đã thành hiện thực. Đông Nam Á giờ đây đã là một khối thống nhất, theo đuổi chung một mục đích và ước mơ. Liên kết của Việt Nam cùng các nước Đông Dương khác, không chỉ tạo cho ASEAN một diện mạo mới mà còn tạo cho tổ chức này một sức mạnh cả về tinh thần lẫn vật chất để vươn lên chiếm lĩnh tầm cao mới trong sự nghiệp phát triển của mình.
2. Việc Việt Nam hội nhập ASEAN đã mở ra nhiều cơ hội thuận lợi cho sự phát triển của Hiệp hội.
Khi vấn đề liên kết của ASEAN đã được thực hiện, Hiệp hội có thêm khí thế và dồn tâm huyết, thời gian vào việc phát triển những vấn đề hợp tác nội bộ. Từ khi ASEAN được mở rộng, chương trình hợp tác nội khối được tăng cường, mở rộng và đa dạng hơn. Cơ chế hoạt động của Hiệp hội cũng được hoàn thiện và mở rộng hơn. Hội nghị cấp cao được tổ chức thường xuyên theo định kỳ để quyết định những vấn đề quan trọng mà trước đây thuộc nhiệm vụ của Hội nghị các Bộ trưởng ngoại giao.
Những vấn đề hợp tác nội bộ cũng được tăng cường mở rộng, đi sâu vào những vấn đề cụ thể, sâu sát hơn, hiệu quả hơn. Nếu trước đây, hợp tác nội bộ của ASEAN chú trọng trước hết đến các lĩnh vực chính trị, an ninh, kinh tế, thương mại... thì giờ đây những chuyên ngành hợp tác trong khối ngày càng đa dạng và phong phú hơn. Việc hợp tác thiết thực và có hiệu quả đã góp phần củng cố thêm sức mạnh và khối đoàn kết của ASEAN. Trên nền tảng chung của ASEAN, quan hệ song phương giữa các thành viên trong khối cũng được tiến triển tốt đẹp hơn. Nếu hợp tác kinh tế, thương mại thúc đẩy sự phát triển kinh tế, đem lại sự phồn vinh về kinh tế cho các nước thành viên thì sự hợp tác về văn hóa, giáo dục, du lịch... đã góp phần gắn kết các quốc gia, dân tộc, tạo nên nền tảng ASEAN, tinh thần ASEAN và sức mạnh của ASEAN.
“Thống nhất trong đa dạng” đó là đặc trưng của ASEAN hiện nay. Bỏ qua những khác biệt về tư tưởng, chế độ chính trị, xã hội cũng như trình độ phát triển, ASEAN là một khối đoàn kết, thống nhất được xây dựng trên nền tảng của tinh thần hòa hợp để hợp tác và phát triển. Phương châm hoạt động của ASEAN là đồng thuận, không can thiệp vào công việc nội bộ của nước khác, nguyên tắc này đã giúp ASEAN duy trì được sự đoàn kết nội bộ, tránh được những áp lực từ bên ngoài và dồn tâm lực vào những vấn đề chung của Hiệp hội.
Để thúc đẩy việc buôn bán nội khối, ASEAN đã thông qua kế hoạch xây dựng khu mậu dịch tự do ASEAN (AFTA) trong những năm đầu của thế kỷ XXI. “Kế hoạch hành động Hà Nội” được thông qua tại Hội nghị cấp cao ASEAN tháng 12-1998 tại Hà Nội đã đề ra mục tiêu phát triển của Hiệp hội ở một tầm cao mới nhằm nâng cao sức mạnh của ASEAN, giúp nâng cao trình độ phát triển của các nước hội viên, rút ngắn sự khác biệt về trình độ phát triển giữa các nước trong khối. Tại Hội nghị cấp cao Bali năm 2003, các nước ASEAN đã thông qua chương trình xây dựng cộng đồng ASEAN với 3 trụ cột chính là an ninh, kinh tế và văn hóa - xã hội. Thực hiện chiến lược này sẽ giúp nâng cao và củng cố sức mạnh của ASEAN, đồng thời sẽ làm thay đổi hình ảnh của hiệp hội trên trường quốc tế.
Tóm lại, từ khi ASEAN-10 được hình thành, Hiệp hội đã có điều kiện chú trọng vào việc tăng cường hợp tác nội bộ. Các lĩnh vực hợp tác của ASEAN cũng được mở rộng hơn, đa dạng hơn và đi sâu vào chuyên ngành hơn. Chương trình hợp tác trong ASEAN không còn tập trung vào những vấn đề quan trọng như an ninh, chính trị, kinh tế... mà đã mở rộng đến các vấn đề thuộc chuyên ngành như giáo dục, khoa học kỹ thuật, môi trường, hàng không, du lịch, v.v... Điều này đã làm cho việc hợp tác trong ASEAN chặt chẽ hơn và cũng có hiệu quả hơn. Chính điều đó đã tăng thêm sức mạnh và nâng cao uy tín của ASEAN trên trường quốc tế.
3. Vai trò tích cực của ASEAN trong các vấn đề khu vực và quốc tế từ khi có Việt Nam là thành viên.
Điểm nổi bật trong hoạt động của ASEAN từ sau khi hoàn tất việc liên kết khu vực là vai trò tích cực của tổ chức này trong các vấn đề khu vực và quốc tế. Hơn nữa, những hoạt động đó luôn đem lại hiệu quả tích cực và nhận được sự ủng hộ mạnh mẽ của nhiều quốc gia. Hình ảnh của ASEAN đã được cải thiện khi Đông Nam Á là một khối thống nhất tạo nên sức mạnh cả về vật chất lẫn tinh thần, thêm bạn, bớt thù.
ASEAN giành được thiện cảm của nhiều nước, nhiều tổ chức khu vực và quốc tế, nhờ vậy mà ảnh hưởng và uy tín của Hiệp hội trên trường quốc tế ngày một lớn. Hình ảnh này khác hẳn với tình thế của ASEAN trước đây khi Hiệp hội mới chỉ có 5 thành viên ban đầu. Ngay sự ra đời của ASEAN cũng không được chào đón của các nước trong khu vực và trên thế giới. Nhiều nước, kể cả các nước lớn ghi nhận sự ra đời của ASEAN với một thái độ thờ ơ “chờ xem đã”. Bản thân ASEAN cũng hoạt động yếu ớt vì nội bộ còn bất đồng chia rẽ và luôn trong tâm trạng thấp thỏm chờ đợi sự thay đổi của thời cuộc. Sau cuộc họp cấp cao đầu tiên năm 1976, khi mà ASEAN khẳng định lại sự tồn tại của mình và đưa ra chương trình hợp tác kinh tế nội bộ thì quan hệ của ASEAN với thế giới bên ngoài bắt đầu có những chuyển biến mới. Cũng cần lưu ý rằng, lúc này chiến tranh Đông Dương đã kết thúc. Năm 1977, Nhật Bản thiết lập quan hệ với ASEAN và cam kết viện trợ cho kế hoạch hợp tác phát triển kinh tế của ASEAN. Động thái này ít nhiều giúp ASEAN mở rộng được quan hệ các nước tư bản phát triển vào thập niên 80 của thế kỷ XX như Mỹ, Thị trường chung châu Âu (EEC), Ôxtrâylia Đại diện của các nước đối tác đã tham dự Hội nghị Bộ trưởng Ngoại giao hằng năm của ASEAN để tìm hiểu hoạt động, kế hoạch hợp tác của tổ chức này. ASEAN lúc đó rất cần đến sự ủng hộ cả về chính trị lẫn kinh tế khoa học kỹ thuật của thế giới bên ngoài, nhất là các nước tư bản lớn. Thời kỳ này, ASEAN ít nhiều được thế giới biết đến vì được coi là có vai trò tích cực trong vấn đề Campuchia. Tuy nhiên, trong một thời gian dài kể cả thời điểm mà ASEAN được ca ngợi về thành tựu phát triển kinh tế thì ảnh hưởng về chính trị của tổ chức này ở khu vực cũng như trên trường quốc tế là không lớn. Ngoài việc một số thế lực bên ngoài không muốn ASEAN là một tổ chức vững mạnh để dễ bề thao túng và chi phối thì nguyên nhân chính của tình trạng trên là ASEAN chưa có sức mạnh đoàn kết của toàn khu vực vì thiếu sự hậu thuẫn của các nước Đông Dương, những nước đã từng giành được sự ngưỡng mộ và quý trọng của nhiều quốc gia trên thế giới trong cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc. Sự tham gia của các nước khác trong khu vực, trước hết là Việt Nam vào ASEAN là cần thiết và hết sức quý báu cho sự đi lên của tổ chức này. Các nhà lãnh đạo ASEAN cũng nhận thức được điều đó. Vì thế mà họ đã nỗ lực xoa dịu những bất đồng, mâu thuẫn giữa hai nhóm nước (ASEAN và Đông Dương) và luôn bày tỏ thiện chí với Việt Nam.
Sau khi Hiệp định Pari về Việt Nam được ký kết (1973) Malaixia và Xingapo đã thiết lập quan hệ ngoại giao với Việt Nam. Thái Lan và Philippin cũng có bước đi tương tự sau chiến thắng năm 1975 của Việt Nam.
Từ khi Việt Nam thực hiện chính sách hội nhập thì ASEAN có vị thế khác hẳn trên trường quốc tế. Lúc này Hiệp hội ASEAN không chỉ năng động hơn mà tiếng nói cũng có trọng lượng hơn. ASEAN đã có nhiều đóng góp vào việc giải quyết những vấn đề chung của khu vực cũng như quốc tế. Những sáng kiến mang tính xây dựng của ASEAN luôn nhận được sự tán đồng và ủng hộ của các nước trong khu vực. Những đề xuất về việc thành lập Diễn đàn Khu vực ASEAN (ARF), diễn đàn ASEM... là những minh chứng cho điều đó. Bạn hàng, đối tác cua ASEAN cũng ngày một tăng và quy chế đối thoại cũng được nâng lên. Nhiều nước ngoài khu vực Đông Nam Á cũng muốn trở thành đối tác của ASEAN. Các bên đối tác không chỉ tham dự các Hội nghị Bộ trưởng Ngoại giao ASEAN như trước đây mà còn tham dự Hội nghị cấp cao của ASEAN. Họ đều mong muốn có quan hệ hợp tác chặt chẽ nhiều mặt, lâu dài với ASEAN. Việc hợp tác chặt chẽ và có hiệu quả theo công thức đối thoại ASEAN+3 (ASEAN với Trung Quốc, Nhật Bản và Hàn Quốc) đã thu hút sự quan tâm của Nga, Ấn Độ, Ôxtrâylia, Niu Dilân...
Hợp tác giữa ASEAN với các bên đối tác ngày càng đi vào chiều sâu và đưa lại những kết quả tích cực. Tại Hội nghị cấp cao ASEAN lần thứ 10 họp ở Viêng Chăn cuối năm 2004, ASEAN và Trung Quốc đã ký hiệp định xây dựng khu mậu dịch tự do vào năm 2010. Cũng tại Hội nghị này, ASEAN và Nhật Bản đã nhất trí bắt đầu thương lượng về việc xây dựng khu mậu dịch tự do song phương từ tháng 4-2005 và sẽ hoàn tất trong vòng 2 năm. Phía Ấn Độ cũng ký với ASEAN “văn kiện đối tác quan trọng” nhằm thúc đẩy hơn nữa hợp tác kinh tế, thương mại song phương, đưa kim ngạch buôn bán hai chiều từ 13 tỷ USD lên 30 tỷ USD vào năm 2007. Ôxtrâylia và Niu Dilân cũng đang xúc tiến việc thiết lập buôn bán tự do với ASEAN.
Việc mở rộng quan hệ đối tác và tham gia vào nhiều tổ chức, diễn đàn khu vực và quốc tế đã tạo cơ hội cho ASEAN tiếp xúc với các nền kinh tế lớn, phát triển quan hệ hữu nghị và hợp tác với nhiều quốc gia, nhiều dân tộc trên thế giới. Điều này không chỉ giúp ASEAN có được lợi ích về mặt kinh tế khi mà các nước trong Hiệp hội nhận được sự viện trợ để phát triển, thu hút được nguồn đầu tư dồi dào và thúc đẩy mạnh mẽ hoạt động thương mại song phương. Điều quan trọng hơn là uy tín của Hiệp hội được tăng lên và niềm tin của bè bạn xa gần dành cho ASEAN. Chính điều đó đã giúp các nước ASEAN tự tin hơn và nỗ lực để đóng góp nhiều hơn cho cộng đồng quốc tế. Việc các nước ASEAN tổ chức thành công các hội nghị của các tổ chức khu vực và quốc tế lớn như APEC (Thái Lan), Hội nghị tổ chức các nước Hồi giáo, Hội nghị cấp cao phong trào không liên kết (Malaixia), ASEM 5 (Việt Nam), Hội nghị cấp cao các nước Á - Phi (Inđônêxia) đã làm hài lòng bè bạn và tô thắm thêm hình ảnh của ASEAN trên trường quốc tế. Những kết quả đạt được càng thúc đẩy ASEAN năng động hơn, tích cực hơn trong những vấn đề khu vực và quốc tế. ASEAN đã đưa ra sáng kiến tổ chức Hội nghị cấp cao Đông Á (AEC) tổ chức vào tháng 12- 2005 tại Cuala Lămpơ (Malaixia) nhằm thúc đẩy hơn nữa sự hợp tác về nhiều mặt của các quốc gia trong khu vực này. Sáng kiến đã được sự ủng hộ tích cực của các quốc gia trong khu vực. Thậm chí một số nước ngoài khu vực (Ôxtrâylia, Niu Dilân) cũng rất muốn tham gia vào diễn đàn khu vực đầy hấp dẫn này.
Nhìn chung, từ khi Việt Nam và cả ba nước Đông Dương gia nhập ASEAN, tình thế ở Đông Nam Á đã có nhiều thay đổi quan trọng. Một Đông Nam Á đoàn kết và thống nhất, một ước mơ lâu dài của các quốc gia trong khu vực, đã trở thành hiện thực, đem lại niềm tin và sức mạnh cho ASEAN. Giờ đây trên “tinh thần ASEAN”, “nền tảng ASEAN”, các nước trong khu vực cùng nhau hợp tác chặt chẽ hơn để xây dựng một ASEAN hùng mạnh về nhiều mặt, góp phần to lớn vào công việc chung của thế giới, nâng cao ảnh hưởng và uy tín của ASEAN trên trường quốc tế.
4. Vai trò của Việt Nam trong việc rút ngắn khoảng cách phát triển giữa các nước trong tổ chức ASEAN.
Từ trước đến nay, khi đề cập đến ASEAN, người ta thường gắn tổ chức này với các vấn đề chính trị hoặc kinh tế. Trong thời kỳ Chiến tranh lạnh, khu vực Đông Nam Á thường bị phân cách giữa một bên là các nước ASEAN và một bên là các nước Đông Dương. Sau khi kết thúc Chiến tranh lạnh và đặc biệt là sau khi hầu hết các nước còn lại trong khu vực tham gia vào tổ chức ASEAN thì người ta lại phân định Đông Nam Á hay ASEAN thành ASEAN-6 và ASEAN-4. Sự phân định trên hoàn toàn thiên về những trở ngại và thách thức cho sự liên kết kinh tế khu vực. Còn khi nói đến vai trò của Việt Nam trong việc rút ngắn khoảng cách phát triển giữa các thành viên trong ASEAN chính là nói đến những đóng góp của Việt Nam trong việc khởi xướng cho sự hội nhập kinh tế khu vực, tạo ra một cơ chế hợp tác mới không những đa dạng về mặt chính trị mà còn đa dạng về kinh tế, tạo tiền đề cho khu vực Đông Nam Á và các nước khác trên thế giới. So với các nước thành viên cũ của ASEAN thì trình độ phát triển kinh tế của Việt Nam đang còn ở mức độ thấp. Nếu tính theo GDP bình quân đầu người thìXingapo đứng đầu với 20.659 USD và thấp nhất là Việt Nam 416 USD. Tuy nhiên, sự chênh lệch về kinh tế của Việt Nam so với các nước ASEAN cũ đã tạo nên một mô thức hợp tác mới tạo tiền đề cho các nước có trình độ phát triển kinh tế tương đồng có thể tham gia vào quá trình hội nhập khu vực là một đóng góp không thể phủ nhận.
Sau Việt Nam là các nước có trình độ kinh tế thấp gia nhập ASEAN như Lào, Mianma và Campuchia đã làm cho ASEAN từ chỗ là một tổ chức gồm các nước có nền kinh tế phát triển sang một tổ chức gồm những nước có nền kinh tế phát triển không đồng đều. Việt Nam là nước đầu tiên khai thông một mô thức hợp tác mới - chưa có tiền lệ trong lịch sử các nước Đông Nam Á, cho nên trong quá trình hội nhập kinh tế khu vực, Việt Nam phải đương đầu với những thách thức và khó khăn vừa mang tính đặc thù vừa mang tính phổ biến của ASEAN.
Sau khi trở thành thành viên chính thức của ASEAN, Việt Nam đã cam kết tham gia vào các hoạt động hợp tác kinh tế của khu vực mà cụ thể là CEPT và APTA. Năm 2006, Việt Nam loại bỏ hàng rào phi thuế quan và cắt giảm thuế quan xuống 0-5% cùng với các thành viên khác của ASEAN, ứng với thời gian trên, mức cắt giảm thuế quan đối với danh mục loại trừ ngay từ 7% xuống 2,3% và đối với danh mục loại trừ tạm thời giảm từ 19,9% xuống 3,9%.
Cùng với việc đẩy nhanh tiến trình AFTA, Việt Nam còn tạo điều kiện thuận lợi để thu hút vốn đầu tư từ các nước ASEAN. Đến nay, nhìn lại 12 năm hợp tác, quan hệ thương mại và đầu tư giữa ASEAN và Việt Nam tăng lên một cách rõ rệt đã chứng tỏ tính hiệu quả của xu hướng liên kết khu vực giữa các nước không có trình độ phát triển kinh tế tương đồng. Đầu tư trực tiếp của các nước ASEAN vào Việt Nam tăng rất nhanh với tỷ trọng vốn 3,7% những năm 1988- 1990 tăng lên 17,3% trong thời gian 1991-1995 và đạt 28,8% trong những năm 1996-2000.
Đặc biệt, ngay sau khi Việt Nam tham gia Hiệp định thương mại tự do ASEAN (AFTA), tháng 1-1996, tốc độ thu hút FDI từ khu vực đã tăng nhanh chóng, đạt trên 7,8 tỷ USD vào thời điểm giữa năm 1997.
Đầu tư của toàn ASEAN giai đoạn này đã chiếm khoảng 30% tổng mức đầu tư của tất cả các quốc gia và vùng lãnh thổ vào Việt Nam. Ba quốc gia Xingapo, Malaixia và Thái Lan lần lượt chiếm các vị trí thứ 1, thứ 7 và thứ 8 trong số các quốc gia đầu tư lớn nhất tại Việt Nam.
Tuy nhiên, tác động từ cuộc khủng hoảng kinh tế châu Á năm 1997 đã khiến dòng vốn này chững lại và sụt giảm mạnh. Số dự án cấp phép mới hầu như không tăng, các dự án đang thực hiện cũng bị giãn tiến độ, chỉ còn Xingapo vẫn giữ được “phong độ”, hầu hết các quốc gia còn lại đều giảm.
Giai đoạn từ cuối năm 2000 đến nay được coi là thời kỳ phục hồi dòng vốn FDI từ ASEAN vào Việt Nam, cùng với đà phục hồi của các nền kinh tế thành viên khu vực này.
Theo số liệu của Cục Đầu tư nước ngoài (Bộ Kế hoạch và Đầu tư), tính đến hết tháng 5-2007, khu vực ASEAN có 1.179 dự án đầu tư được cấp phép tại Việt Nam, với tổng vốn trên 16 tỷ USD.
Trong số này, Xingapo vẫn giữ vị trí dẫn đầu với 474 dự án và 9,07 tỷ USD còn hiệu lực, đứng thứ hai trong tổng số 78 quốc gia và vùng lãnh thổ đầu tư vào Việt Nam; tiếp theo là Malaixia với 219 dự án và 1,7 tỷ USD, đứng thứ 10.
Quy mô vốn cho các dự án đầu tư của khu vực ASEAN vào Việt Nam nhìn chung cao hơn mức trung bình của cả nước và cao hơn nhiều so với một số quốc gia và vùng lãnh thổ khác có dự án tại Việt Nam.
Hiện nay, phần lớn đầu tư FDI từ ASEAN vào Việt Nam mới chỉ tập trung trong các lĩnh vực dịch vụ giao thông vận tải, bưu điện, khách sạn du lịch, tài chính ngân hàng, văn hóa - giáo dục. Các dự án quy mô lớn, kỹ thuật hiện đại, hay thuộc lĩnh vực công nghiệp dầu khí, viễn thông, điện tử tin học hiện nay vẫn “nhường sân” chính cho các doanh nghiệp đến từ châu Âu, Nhật Bản.
Ngoài ra, sự thành công trong việc tham gia CEPF và AFTA giúp cho Việt Nam thực hiện thành công quá trình hội nhập ở mức độ cao hơn, rộng hơn, toàn diện hơn trong các tổ chức như APEC, ASEM và WTO.
Đối với ASEAN-6 thì các nước này không những được lợi khi thiết lập mối quan hệ về thương mại và đầu tư đối với Việt Nam mà còn rút ra được bài học kinh nghiệm trong quá trình hợp tác với Việt Nam để tiến hành hợp tác một cách có hiệu quả với các nước có trình độ kinh tế kém phát triển như Lào, Mianma, Campuchia. Sự ngăn cách về trình độ phát triển giữa các nước thành viên cũ và thành viên mới là những trở ngại có thể khắc phục được. Chương trình hành động Hà Nội được thông qua tại Hội nghị cấp cao lần thứ sáu tháng 12-1998 và “Tuyên bố Hà Nội về thu hẹp khoảng cách phát triển nhằm tăng cường liên kết ASEAN” được đưa ra tại Hội nghị Bộ trưởng ASEAN lần thứ 34 tháng 7-2001 đã được các nước ASEAN triển khai thực hiện. Trong đó, đáng chú ý là chương trình hợp tác phát triển khu vực Mê Công với mục đích lôi cuốn các vùng kém phát triển của các nước ASEAN vào luồng phát triển chung của khu vực, xóa dần khoảng cách giữa ASEAN-6 và ASEAN-4. Trong hợp tác tiểu vùng Mê Công, Việt Nam đã có những đóng góp rất đáng được ghi nhận. Sáng kiến của Việt Nam về hợp tác phát triển giữa các nước nằm dọc hành lang Đông - Tây thuộc lưu vực sông Mê Công nằm trên lãnh thổ Việt Nam, Lào, Campuchia, và đông bắc Thái Lan nhằm mục đích xóa đói giảm nghèo, thu hoạch khoảng cách phát triển giữa các nước và các vùng trong khu vực đã được đưa vào Chương trình hành động Hà Nội. Để thực thi, Việt Nam đã xây dựng Dự án phát triển hành lang Đông - Tây tại lưu vực Mê Công và các nước liên quan như Lào, Thái Lan. Đặc biệt, dự án này được các nhà tài trợ quốc tế như Ngân hàng Phát triển châu Á, Chương trình phát triển của Liên hợp quốc, ủy ban Kinh tế Xã hội châu Á - Thái Bình Dương và Chính phủ Nhật Bản quan tâm. Với việc phát triển dự án hành lang Đông - Tây, những lợi thế về kinh tế của miền Trung Việt Nam như các cảng biển nước sâu, các tuyến đường bộ nối các tỉnh miền Trung với nước Lào sẽ được khai thác một cách có hiệu quả nhằm tạo nên sự phát triển kinh tế đồng đều giữa các vùng với nhau. Với cách thức hợp tác trên, cùng với việc phát huy lợi thế so sánh trong quan hệ hợp tác giữa các nước trong khu vực, Việt Nam sẽ là nước đóng vai trò quan trọng trong tiến trình hội nhập giữa các nước ASEAN và giữa ASEAN với các tổ chức khác trên thế giới…
Đóng góp của Việt Nam trong tiến trình hợp tác ASEAN+3 // Sách Vai trò của Việt Nam trong ASEAN. - H.: Thông tấn, 2007. - Tr. 305-320
Mục đích của Việt Nam tham gia vào ASEAN+3
- Hội nhập khu vực và hội nhập kinh tế quốc tế vì phát triển là mục đích lớn nhất của Việt Nam khi tham gia ASEAN+3. Mục đích chiến lược này có tiền đề từ Đại hội VI của Đảng Cộng sản Việt Nam, được đề ra từ Đại hội VII, được khẳng định trong Đại hội VIII, được phát triển trong Đại hội IX và được nhấn mạnh như ưu tiên chiến lược đối ngoại tại Đại hội X. Chính nhờ có mục đích xác định rõ ràng như vậy nên chúng ta không bị ngập ngừng hay lúng túng khi tiến trình ASEAN+3 được khởi động và định hình. Cũng chính vì mục đích này mà chúng ta đả ủng hộ và tham gia tiến trình ASEAN+3.
Cơ sở mục đích này dựa trên những nhận thức sau: Phát triển đất nước trở thành mục tiêu quan trọng nhất đối với nước ta hiện nay. Phát triển là lời giải cho hầu hết mọi vấn đề khó khăn của Việt Nam. Phát triển đất nước không thể đứng ngoài xu hướng hợp tác khu vực và hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay. Đứng ngoài xu hướng này đồng nghĩa với sự phi phát triển. Điều này lại càng đúng với một đất nước trình độ phát triển còn hạn chế như nước ta. Hội nhập khu vực là bước đi đầu tiên không thể thiếu và phù hợp với năng lực của Việt Nam trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng rộng mở hơn của chúng ta.
- Mục đích thứ hai không kém phần quan trọng chính là vấn đề an ninh. Trải qua hàng nghìn năm lịch sử bị chi phối bởi chiến tranh và nạn ngoại xâm, Việt Nam là một trong số không nhiều quốc gia bước vào thời kỳ hòa bình muộn nhất nên giữ gìn an ninh quốc gia luôn có vị trí hàng đầu trong tư duy đối ngoại của chúng ta. Hơn nữa, hiện nay chúng ta vẫn phải đối mặt với các nguy cơ đe dọa an ninh khác nhau. Vì thế, ý nghĩa của an ninh quốc gia vẫn còn nguyên trong chính sách đối ngoại nước ta. Củng cố an ninh là động cơ quan trọng thúc đẩy Việt Nam tham gia ASEAN+3.
Cơ sở nhận thức của mục đích an ninh trong tiến trình này là: Cho dù quan hệ quốc tế đang trở nên hòa dịu hơn, nhưng nguy cơ bất an ninh vẫn tồn tại đối với mọi quốc gia. Cho dù kẻ thù giảm đi và bạn bè tăng lên, an ninh vẫn là vấn đề lớn đối với nước ta, đặc biệt từ chủ nghĩa can thiệp quốc tế. An ninh ngày càng có sự gắn bó với phát triển. Kém phát triển dẫn đến nguy cơ tụt hậu trong khi tụt hậu là một trong những thách thức lớn đối với chủ quyền an ninh quốc gia. Hợp tác quốc tế là cách thức thích hợp có khả năng giải quyết đồng thời hai nhiệm vụ này.
Khái niệm an ninh đang được mở rộng sang cả các vấn đề mới được gọi là an ninh phi truyền thống như môi trường, năng lượng, tội phạm, đói nghèo... Do tính chất liên quốc gia của các vấn đề này, hợp tác quốc tế được coi là phương thức không thể thiếu để giải quyết.
Mục đích chứa đựng lợi ích và được cụ thể hóa bằng những mục tiêu đối ngoại cụ thể. Với mục đích và nhận thức như trên, các mục tiêu cụ thể của Việt Nam trong tiến trình ASEAN+3 là:
1. Tham gia ASEAN+3 có thể đem lại sự phát triển hơn thông qua hợp tác khu vực và hội nhập kinh tế quốc tế. Hợp tác và hội nhập dẫn đến sự phụ thuộc lẫn nhau. Theo đó, an ninh quốc gia của chúng ta cũng có điều kiện để đảm bảo hơn.
2. Trong ASEAN+3 có những nền kinh tế lớn như Nhật Bản, Trung Quốc, Hàn Quốc với giá trị bổ sung cao cho nền kinh tế Việt Nam, đem lại khả năng tăng trưởng kinh tế cao hơn cho chúng ta.
3. Khuôn khổ ASEAN+3 là môi trường an ninh trực tiếp của Việt Nam, nơi chứa đựng nhiều nguy cơ an ninh đối với chúng ta. Vì thế, tham gia ASEAN+3 không chỉ làm giảm nhẹ các nguy cơ này mà còn tạo điều kiện giải quyết chúng.
4. Tham gia tiến trình ASEAN+3 về cơ bản sẽ giúp nâng cao địa vị quốc tế của Việt Nam, đem lại sự ủng hộ quốc tế đối với phát triển, an ninh và ổn định của nước ta.
5. ASEAN rất quan trọng đối với Việt Nam nhưng ASEAN cũng có những hạn chế nhất định và là không đủ đối với mục đích phát triển và an ninh của chúng ta. Vì thế, Việt Nam cần mở rộng hơn nữa sự hợp tác và hội nhập kinh tế quốc tế. ASEAN+3 đem thêm sự lựa chọn có ý nghĩa đối với Việt Nam.
Tôn chỉ mục đích của ASEAN+3 được đề ra trong các tuyên bố hay thông cáo báo chí của các hội nghị thượng đỉnh, trong “Tuyên bố chung về Hợp tác Đông Á” năm 1999 cũng như các biện pháp của ASEAN+3 được khuyến nghị trong báo cáo “Hướng tới một cộng đồng Đông Á: Khu vực hòa bình, thịnh vượng và tiến bộ” của nhóm Tầm nhìn Đông Á (EAVG) hay Báo cáo cuối cùng của nhóm Nghiên cứu Đông Á (EASG) năm 2002, có thể thấy được sự phù hợp lớn giữa mục đích của Việt Nam với tiến trình ASEAN+3. Đây là yếu tố quyết định sự tiếp tục tham gia cũng như cơ sở cho sự đóng góp của Việt Nam vào tiến trình này.
Quan hệ của Việt Nam đối với các nước Đông Bắc Á
Việt Nam luôn luôn chú ý tăng cường hơn nữa các mối quan hệ hợp tác toàn diện về nhiều lĩnh vực, trong đó sôi động nhất vẫn là lĩnh vực kinh tế với các nước thành viên của ASEAN+3. Riêng với 3 nước Đông Bắc Á: Nhật Bản, Hàn Quốc, Trung Quốc thực tế cho thấy Việt Nam đã duy trì được mối quan hệ tốt đẹp với cả 3 nước này.
Cho đến nay, Nhật Bản vẫn là bạn hàng thương mại và cũng là nhà tài trợ ODA lớn nhất đối với Việt Nam. Trong quan hệ kinh tế Việt Nam - Nhật Bản đã có nhiều bước tiến triển rất quan trọng, đó là Hiệp định về tự do xúc tiến và bảo hộ đầu tư giữa hai nước Việt-Nhật đã được ký kết giữa hai Chính phủ và có hiệu lực thực thi kể từ ngày ký kết 14-11-2003. Hiện Nhật Bản đang đứng đầu trong số các nước và vùng lãnh thổ đầu tư vào Việt Nam với 766 dự án với tổng số vốn đăng ký lên đến 7,7 tỷ USD, trong đó vốn thực hiện đạt trên 5,2 tỷ USD.
Trong quan hệ với Trung Quốc, Việt Nam vẫn tiếp tục duy trì được truyền thống hợp tác hữu nghị giữa hai nước láng giềng gần gũi. Những năm qua, đặc biệt gần đây, mối quan hệ Việt-Trung theo phương châm 16 chữ vàng “láng giềng hữu nghị, hợp tác toàn diện, ổn định lâu dài, hướng tới tương lai” đã có nhiều bước phát triển vượt bậc, trong đó sôi động nhất vẫn là lĩnh vực kinh tế. Kim ngạch thương mại hai chiều đã tăng từ 266 triệu USD năm 1992 lên khoảng 4,6- 4,8 tỷ USD năm 2003 và 10,42 tỷ USD năm 2006. Tính đến cuối năm 2006, Trung Quốc đứng thứ 15 trong tổng số 74 nước và khu vực đầu tư vào Việt Nam với 399 dự án còn hiệu lực và tổng số vốn đăng ký đạt 843,7 triệu USD.
So với hai nước Nhật Bản, Trung Quốc, Việt Nam có quan hệ ngoại giao chính thức với Hàn Quốc kể từ năm 1992, nhưng do có nhiều nét tương đồng về văn hóa và đặc biệt về nhu cầu hợp tác phát triển kinh tế giữa hai nước nên quan hệ hợp tác hữu nghị Việt - Hàn đã phát triển rất nhanh và rất có hiệu quả, đặc biệt sau khi khuôn khổ “đối tác toàn diện trong thế kỷ XXI” đã được thiết lập giữa hai nước vào năm 2001 trong chuyến thăm Hàn Quốc của Chủ tịch nước Trần Đức Lương. Cũng như Nhật Bản và Trung Quốc, trong quan hệ Việt - Hàn những năm gần đây hai bên đã thường xuyên trao đổi các đoàn cấp cao, góp phần to lớn vào việc đẩy mạnh sự phát triển toàn diện về mọi lĩnh vực hợp tác và ủng hộ lẫn nhau trên trường quốc tế. Hàng loạt hiệp định song phương về hợp tác kinh tế đã được ký kết giữa hai bên, trong đó có Hiệp định hợp tác kinh tế và kỹ thuật và Hiệp định khuyến khích và bảo hộ đầu tư là hai văn kiện rất quan trọng. Năm 2006, Hàn Quốc đứng đầu trong số các nước và vùng lãnh thổ đầu tư vào Việt Nam với 207 dự án, trị giá 2,78 tỷ USD, chiếm 18,5% tổng số đầu tư nước ngoài tại Việt Nam; trở thành nhà đầu tư lớn thứ ba tại Việt Nam. Việt Nam chiếm 8% tổng số vốn đầu tư nước ngoài của Hàn Quốc, về thương mại, Hàn Quốc là bạn hàng lớn thứ sáu của Việt Nam và cũng là một trong những nhà tài trợ lớn cho Việt Nam. Tính đến nay, Hàn Quốc đã dành nhiều khoản tín dụng ưu đãi từ Quỹ Viện trợ phát triển (EDCF), đạt 148 triệu USD và cung cấp 1 triệu USD viện trợ không hoàn lại giúp Việt Nam thực hiện các dự án hạ tầng kinh tế - xã hội, xóa đói giảm nghèo, phát triển y tế-giáo dục, đào tạo và văn hóa...
Đóng góp của Việt Namtrong tiến trình hợp tác ASEAN+3
Có thể nói, mặc dù có mối quan hệ tốt đẹp với từng nước trong ASEAN+3, nhưng sự đóng góp của Việt Nam vào tiến trình ASEAN+3 là chưa lớn. Điều này xuất phát từ những lý do sau:
Thứ nhất, tình hình ban đầu của ASEAN+3 hơi giống ASEAN và APEC mặc dù có đi vào thực tế nhanh hơn. Mặc dù được coi là bắt đầu từ năm 1997, đạt được thỏa thuận duy trì cuộc gặp thượng đỉnh hằng năm năm 1998, ra được Tuyên bố chung năm 1999 nhưng hoạt động thực tế của ASEAN+3 gần như chỉ bắt đầu từ năm 2000, qua việc triển khai các hội nghị bộ trưởng. Trong một thời gian hoạt động còn ngắn, đường hướng vận động chưa định hình, các mục tiêu đề ra chưa có gì chắc chắn, tương lai của ASEAN+3 chưa rõ ràng, việc chúng ta chưa có đóng góp gì nhiều là chuyện bình thường và dễ hiểu.
Thứ hai, chúng ta không ở vào thế thuận lợi để nêu ra các sáng kiến đóng góp cho tiến trình này, nhất là trong giai đoạn khởi động ban đầu.
Thứ ba, do vị thế kinh tế còn hạn chế của Việt Nam. ASEAN+3 được tuyên ngôn là một thể chế hợp tác kinh tế - xã hội. Các nước thành viên nhanh chóng chấp nhận nó cũng chủ yếu bởi động lực kinh tế. Tuy nhiên, trong sự phân tầng kinh tế của ASEAN+3, Việt Nam đang tạm thời đứng ở tầng cuối cùng. Ba tầng trên là Nhật Bản và Trung Quốc trong tầng thứ nhất, các NIE trong tầng thứ 2, ASEAN - 5 trong tầng thứ ba. Tình hình này chắc chắn vẫn còn tiếp tục trong nhiều năm tới. Ở một vị thế kinh tế như vậy, khó mà đưa ra những sáng kiến kinh tế quan trọng cho toàn bộ hệ thống.
Thứ tư, đó là khía cạnh liên quan đến vai trò của ASEAN trong tiến trình này. ASEAN tham gia vào ASEAN+3 với tư cách là một thực thể. Bên cạnh các cường quốc khu vực rất lớn, việc duy trì sự thống nhất và đoàn kết trong ASEAN là rất quan trọng đối với các thành viên nhỏ bé hơn của ASEAN. Điều đó giúp đảm bảo sự an toàn đáng kể cho các nước thành viên ASEAN, nâng cao sự đề kháng trước khả năng tranh giành ảnh hưởng của các nước lớn. Mọi
thành viên ASEAN đều có thể tự đưa ra sáng kiến nhưng vẫn phải tính đến sự đồng thuận trong ASEAN. Và sự đồng thuận dù tốt đến đâu nhưng cũng có mặt trái là làm hẹp khả năng cho các sáng kiến.
Thứ năm, kể cả trong hoạt động của ASEAN+3, vì nhiều lý do khác nhau, không một nước nào thực sự “hết mình” cho tiến trình này. Đa phần vừa tham gia vừa nghe ngóng. Nhật và Trung Quốc nghe ngóng nhau. ASEAN và Hàn Quốc nghe ngóng cả hai. Tất cả cùng nghe ngóng Mỹ.
Tuy nhiên, điều đó không có nghĩa là Việt Nam thụ động, có thái độ chờ xem và không đóng góp gì cho tiến trình này. Những đóng góp trực tiếp hoặc gián tiếp của Việt Nam là có và thể hiện ở mấy điểm sau:
Thứ nhất, sự tham gia đầy đủ và liên tục ngay từ đầu của chúng ta vào tiến trình này. Kể từ cuộc gặp đầu tiên năm 1997, cho đến nay, Việt Nam tham gia hầu hết các hoạt động của ASEAN dưới mọi hình thức từ hội nghị, hội thảo, nghiên cứu, phối hợp chính sách đến triển khai các hoạt động hợp tác cụ thể. Việt Nam tham gia ASEAN+3 trong mọi cấp độ trên cả hai kênh nhà nước và nhân dân. Trên kênh nhà nước, có các cấp độ từ cấp chuyên viên đến cấp bộ trưởng và cấp thượng đỉnh. Trong kênh nhân dân, có sự tham gia của các nhóm kinh tế - xã hội khác nhau từ doanh nhân, nhà khoa học, sinh viên, thanh niên cho tới người dân. Việt Nam cũng tham gia vào hầu hết cáclĩnh vực hoạt động của ASEAN+3 như an ninh - chính trị, thương mại, tài chính, văn hóa, y tế, giáo dục... Một trong những ví dụ nổi bật là việc Việt Nam đăng cai tổ chức Hội nghị Thượng đỉnh ASEAN+3 lần thứ hai tại Hà Nội năm 1998. Đây là hội nghị chính thức đầu tiên của ASEAN+3 và là dấu mốc quan trọng của tiến trình này. Một sự tham gia như vậy của Việt Nam không chỉ góp phần thúc đẩy tiến trình hợp tác ASEAN+3 mà còn củng cố thêm niềm tin vào khả năng chia sẻ giá trị và lợi ích của các nước thành viên trong khuôn khổ hợp tác này.
Thứ hai, đó là các cam kết của Việt Nam đối với các chủ chương và sáng kiến trong ASEAN+3 từ việc tổ chức Hội nghị Thượng đỉnh Đông Á đến việc hình thành các FTA trong khu vực, từ các sáng kiến thể chế hóa đến những chương trình hợp tác cụ thể. Sự cam kết của Việt Nam được thể hiện bằng các chính sách hay biện pháp cụ thể hoặc bằng thái độ ủng hộ. Hơn nữa, đối với hợp tác kinh tế theo hướng tự do hóa của ASEAN+3, các nền kinh tế phát triển hơn thường có lợi nhiều hơn có hại, còn đối với các nền kinh tế kém phát triển hơn thì điều trên là chưa chắc. Bởi thế, các cam kết của Việt Nam - một nền kinh tế vốn còn nhỏ bé với quá trình hội nhập chưa lâu - đã có ý nghĩa như sự đóng góp cho việc duy trì và củng cố tiến trình hợp tác ASEAN+3. Cam kết của Việt Nam góp phần tạo bầu không khí hợp tác và tinh thần dấn thân vào hợp tác khu vực. Đồng thời, sự sẵn sàng của Việt Nam tham gia vào các hoạt động đa phương ASEAN+3 còn tạo điều kiện phát triển hợp tác song phương của các nước thành viên với Việt Nam. Quan hệ song phương được phát triển lại quay trở lại đóng góp tích cực cho tiến trình hợp tác đa phương của ASEAN+3.
Thứ ba, là những đóng góp của Việt Nam cho ASEAN+3 qua ASEAN. ASEAN không phải là người lãnh đạo nhưng lại có khả năng dẫn dắt ASEAN+3. Trong gần 10 năm vừa qua, ASEAN đã đóng vai trò rất quan trọng trong việc tập hợp các quốc gia Đông Bắc Á cùng tham gia vào ASEAN+3 cũng như trong việc duy trì hoạt động của khuôn khổ này. Trong thời gian bắt đầu hoạt động của ASEAN+3 kể từ năm 2000, Việt Nam làm Chủ tịch Ủy ban Thường trực ASEAN khóa 34 (7/2000 -7/2001). Với vai trò này, Việt Nam đã đóng góp đáng kể vào việc duy trì vị thế của ASEAN và việc củng cố ASEAN+3. Bên cạnh đó, một sự kiện nữa cũng rất đáng kể là sự tham gia của Việt Nam trong việc đề ra cộng đồng ASEAN.
Thứ tư, kể từ sau khi Chiến tranh lạnh kết thúc, nhất là trong những năm qua, Việt Nam đã xây dựng được những mối quan hệ hợp tác song phương tương đối toàn diện và phát triển với cả ba nước Đông Bắc Á. Cùng với các quan hệ khác, sự phát triển quan hệ song phương giữa Việt Nam với ba nước Đông Bắc Á đang góp phần làm tăng sự liên kết giữa Đông Bắc Á và Đông Nam Á. Sự liên kết này càng tăng, hợp tác ASEAN+3 càng được khẳng định và củng cố.
Vì thế, những tiến bộ đạt được trong quan hệ giữa Việt Nam với các nước Đông Bắc Á là sự đóng góp có ý nghĩa cho sự phát triển hợp tác đa phương ASEAN+3.
Thứ năm, là đóng góp của Việt Nam trong các hợp tác liên khu vực. Cụ thể là ASEM và APEC là những thể chế liên khu vực mà trong đó các thành viên ASEAN+3 cùng tham gia. Nhiều ý kiến cho rằng hợp tác liên khu vực sẽ nhấn chìm hợp tác khu vực. Tuy nhiên, trong trường hợp ở Đông Á lại có một quá trình khác diễn ra ngược lại. Các thành viên ASEAN+3 cũng đồng thời là các thành viên Đông Á trong APEC và ASEM. Sự hình thành và phát triển quan hệ liên khu vực trong ASEM và APEC đã khiến cho tình cảm khu vực mạnh lên, ý thức về khu vực cũng trở nên rõ ràng hơn. Thông qua quan hệ liên khu vực, sự chia sẻ và nhu cầu liên kết với nhau giữa các nước Đông Á cũng tăng lên. Ngoài ra, quan hệ liên khu vực phát triển còn tạo thêm môi trường thuận lợi cho hợp tác khu vực Đông Á. Bởi thế, việc Việt Nam tham gia vào các hoạt động liên khu vực hoàn toàn có thể là sự đóng góp cho chủ nghĩa khu vực Đông Á trong ASEAN+3. Chủ nghĩa khu vực Đông Á nổi lên sẽ góp phần củng cố hợp tác ASEAN+3. Những ví dụ nổi bật nhất của sự đóng góp này chính là việc Việt Nam đăng cai tổ chức Hội nghị Thượng đỉnh ASEM năm 2004 và Hội nghị Thượng đỉnh APEC năm 2006.
Như vậy, bằng sự tham gia của mình trên nhiều cấp độ khác nhau, Việt Nam vẫn đang tiếp tục hòa mình vào trong tiến trình hợp tác ASEAN+3. Tuy nhiên, trong quá trình này, chúng ta sẽ luôn phải đối mặt với câu hỏi làm thế nào để nâng cao vai trò của Việt Nam?
Đóng góp của Việt Namtrong tiến trình hợp tác Á - Âu
Việt Nam là một trong những nước thành viên sáng lập ASEM, tham gia hầu hết các hoạt động hợp tác và đã có nhiều đóng góp tích cực vào quá trình phát triển quan hệ hợp tác Á - Âu. Một số sáng kiến của Việt Nam đã được các thành viên ASEM ghi nhận và triển khai, như Việt Nam cùng Pháp đưa ra Sáng kiến về “Bảo tồn và phát huy di sản văn hóa trong các nước ASEM” (Hội nghị ASEM II); Sáng kiến “Kết hợp y dược học cổ truyền với y dược học hiện đại trong chăm sóc sức khỏe cộng đồng” (Hội nghị Bộ trưởng Ngoại giao ASEM II, tháng 3-1999); Sáng kiến “Tăng cường hợp tác du lịch ASEM nhằm xóa đói, giảm nghèo và tăng cường thịnh vượng”, “Hợp tác về đào tạo và trợ giúp kỹ thuật ngành ngân hàng”, “Tăng cường trao đổi kinh nghiệm về hoạch định chính sách tài khóa giữa các Bộ Tài chính các nước ASEM” và “Trao đổi về xây dựng thể chế thị trường trong quá trình hội nhập quốc tế” (Hội nghị ASEM IV); Sáng kiến “Hợp tác ASEM trong việc áp dụng công nghệ thông tin trong phát triển nguồn nhân lực và xây dựng thể chế”, “Hội thảo ASEM về hợp tác EU - châu Á về công nghệ sạch”, “Hợp tác ASEM về kiểm soát HIV/AIDS” (Hội nghị ASEM V). Tại Hội nghị ASEM VI, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đã đưa ra đề xuất về việc Việt Nam đăng cai tổ chức một diễn đàn ASEM về chính sách an ninh năng lượng. Đây là một đề xuất mang tính thiết thực, đặc biệt trong bối cảnh thế giới đang ngày càng cạn kiệt nguồn tài nguyên thiên nhiên, nhu cầu tìm và phát triển các nguồn năng lượng thay thế đang trở nên cấp thiết.
Bên cạnh đó, Việt Nam có nhiều hoạt động thiết thực góp phần vào sự phát triển vững mạnh của tiến trình hợp tác Á - Âu, như đóng góp ý kiến cho các dự án, chương trình hợp tác Á - Âu (Khuôn khổ hợp tác Á - Âu, Nhóm viễn cảnh Á - Âu, Kế hoạch hành động xúc tiến đầu tư Á - Âu, Chương trình quản lý Á - Âu); tổ chức các hội nghị, hội thảo nhằm thúc đẩy quan hệ hợp tác Á - Âu (Hội nghị Bộ trưởng Kinh tế lần thứ tư, năm 2001; Hội thảo về “Di sản văn hóa và du lịch”)... Đặc biệt, Bộ Ngoại giao và Bộ Thương mại Việt Nam đã phối hợp thành lập Nhóm đặc trách kinh tế ASEM và tổ chức thành công “Vòng đàm phán tham vấn thứ nhất về Chương trình nghị sự phát triển Đôha” tại Hà Nội và “Diễn đàn lãnh đạo trẻ Á - Âu” lần thứ bảy tại thành phố Hồ Chí Minh (9-2003)...
Trong thời gian đảm nhận vai trò là điều phối viên châu Á của ASEM, Việt Nam đã góp phần đáng kể vào sự thành công của Hội nghị Bộ trưởng Ngoại giao (FMM) lần thứ năm được tổ chức tại Bali (Inđônêxia, 7-2003) qua việc tích cực phối hợp với nước chủ nhà Inđônêxia và các nước điều phối viên khác là Nhật Bản, Italia và Ủy ban châu Âu trong quá trình chuẩn bị, góp phần phản ánh được yêu cầu cũng như sự quan tâm của tất cả các nước thành viên trong thời gian diễn ra hội nghị.
Đóng góp lớn nhất của Việt Nam vào tiến trình hợp tác Á - Âu là việc tổ chức thành công Hội nghị Thượng đỉnh ASEM V tại Hà Nội. Mục tiêu của ASEM V là đưa ASEM đi vào các hoạt động thiết thực và hiệu quả hơn, sống động hơn không chỉ dừng lại ở đối thoại chính trị mà còn tăng cường hợp tác kinh tế. Việt Nam đã tổ chức một loạt các hoạt động liên quan đến Hội nghị cấp cao này như Hội nghị về nghị viện Á - Âu; diễn đàn công đoàn, thanh niên, doanh nghiệp; diễn đàn nhân dân Á - Âu... Hội nghị ASEM V đã góp phần nâng cao hình ảnh của Việt Nam trên trường quốc tế, thể hiện khả năng tổ chức thành công các sự kiện quốc tế lớn, và mức độ tín nhiệm của các nước đối với Việt Nam.
Việt Nam đang trong quá trình đổi mới, việc tham gia vào ASEM nói riêng, cũng như hội nhập quốc tế nói chung là cơ hội tốt để Việt Nam có thể nâng cao vị thế quốc tế của mình, tận dụng được nhiều cơ hội cho phát triển kinh tế và thực hiện thành công công cuộc đổi mới đất nước, nhất là khi, các thành viên trong ASEM đều là những đối tác quan trọng, hiện đang giữ tỷ trọng chính trong quan hệ kinh tế - thương mại của Việt Nam.
Tuy nhiên, Việt Nam đang trong quá trình chuyển đổi, do vậy, việc tham gia ASEM nói riêng và hội nhập quốc tế nói chung cũng đặt ra nhiều vấn đề thách thức phải giải quyết. Thể chế chính sách của chúng ta hiện còn nhiều bất cập so với các nước thành viên ASEM. Việc hoàn thiện hệ thống chính sách vừa phù hợp với mục tiêu, đường lối phát triển của đất nước, vừa phù hợp với thông lệ quốc tế là một nhiệm vụ nặng nề đối với Việt Nam trong giai đoạn này. Hơn nữa, Việt Nam còn đang trong giai đoạn đầu của quá trình công nghiệp hóa, còn có khoảng cách khá xa về trình độ phát triển kinh tế, công nghệ cũng như kinh nghiệm quản lý so với các nước thành viên khác của ASEM. Vì vậy, việc rút ngắn khoảng cách về trình độ phát triển giữa Việt Nam với các nước trong ASEM và việc khắc phục nguy cơ tụt hậu ngày càng xa về kinh tế là những thách thức lớn cả về trước mắt và lâu dài đối với Việt Nam.