Thư mục toàn văn chuyên đề: “Kỷ niệm 72 năm ngày thành lập Quân đội nhân dân Việt Nam (22/12/1944 - 22/12/2016)”. (13/12/2016)
QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN QUÂN ĐỘI NHÂN DÂN VIỆT NAM
Quá trình hình thành và phát triển của Quân đội nhân dân Việt Nam // Sách Lịch sử truyền thống Quân đội nhân dân Việt Nam. - H: Văn hóa thông tin, 2014. - Tr. 7-13
Quân đội nhân dân Việt Nam là lực lượng nòng cốt của lực lượng vũ trang nhân dân Việt Nam, là đội quân từ nhân dân mà ra, vì nhân dân mà phục vụ, sẵn sàng chiến đấu hy sinh “vì độc lập tự do của Tổ quốc, vì chủ nghĩa xã hội, vì hạnh phúc của nhân dân”. Tiền thân của Quân đội nhân dân Việt Nam là Đội Việt Nam Tuyên truyền Giải phóng quân, đội quân chủ lực đầu tiên được thành lập ngày 22 tháng 12 năm 1944 theo chỉ thị của lãnh tụ Hồ Chí Minh.
Khi mới thành lập, Đội Việt Nam Tuyên truyền Giải phóng quân chỉ có 34 cán bộ, chiến sĩ nhưng đã sớm phát huy được truyền thống chống ngoại xâm và nghệ thuật quân sự lấy ít địch nhiều, lấy nhỏ thắng lớn của dân tộc. Ngay từ lần đầu ra quân, đội quân chính quy đầu tiên của Việt Nam đã lập nên những chiến công vang dội, giải phóng những khu vực rộng lớn làm căn cứ cho các hoạt động đấu tranh giành độc lập, mở đầu truyền thống quyết chiến quyết thắng của Quân đội nhân dân Việt Nam sau này. Ngày 15 tháng 5 năm 1945, Đội Việt Nam Tuyên truyền Giải phóng quân sáp nhập với lực lượng Cứu quốc quân và đổi tên thành Giải phóng quân, trở thành lực lượng quân sự chủ yếu của Mặt trận Việt Minh khi tiến hành cuộc Tổng khởi nghĩa giành chính quyền trong Cách mạng tháng Tám năm 1945.
Thời gian từ năm 1945 đến năm 1954 là thời kỳ phát triển vượt bậc cả về số lượng và khả năng chiến đấu của Quân đội nhân dân Việt Nam. Chỉ một thời gian ngắn, từ khi đất nước giành được độc lập đến tháng 11 năm 1945, Giải phóng quân đã phát triển từ một đội quân nhỏ trở thành Quân đội quốc gia Việt Nam với quân số khoảng 50.000 người, tổ chức thành 40 chi đội. Năm 1950, Quân đội Quốc gia Việt Nam đổi tên thành Quân đội nhân dân Việt Nam. Cũng thời gian này, các đại đoàn (đơn vị tương đương sư đoàn) chủ lực quan trọng như các đại đoàn 308, 304, 312, 320, 316, 325, 351 lần lượt được thành lập, đến nay vẫn là những đơn vị chủ lực của Quân đội nhân dân Việt Nam. Từ một đội quân chỉ vài trăm người khi tham gia Tổng khởi nghĩa, Quân đội nhân dân Việt Nam đã phát triển thành quân đội với các sư đoàn chủ lực mạnh, lập nên những chiến công lẫy lừng mà đỉnh cao là chiến thắng Điện Biên Phủ lịch sử ngày 07 tháng 5 năm 1954, đập tan mưu toan thiết lập lại chế độ thuộc địa của thực dân Pháp.
Sau khi Hiệp định Giơnevơ năm 1954 được ký kết, đất nước Việt Nam tạm thời bị chia cắt thành hai miền. Nhân dân Việt Nam đứng trước hai nhiệm vụ chiến lược là xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và đấu tranh thống nhất đất nước. Nhiệm vụ của quân đội thời kỳ này là vừa xây dựng chính quy, bảo vệ miền Bắc xã hội chủ nghĩa vừa tham gia đấu tranh giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước. Ngày 15 tháng 02 năm 1961, Quân Giải phóng miền Nam, lực lượng quân sự của Mặt trận giải phóng miền Nam Việt Nam được thành lập trên cơ sở thống nhất lực lượng vũ trang tại chỗ và lực lượng tăng viện từ miền Bắc. Trước sự can thiệp trực tiếp của quân đội Mỹ, Quân đội nhân dân Việt Nam đã sát cánh cùng với nhân dân và các lực lượng vũ trang khác, tiến hành chiến tranh toàn dân, toàn diện, lâu dài và gian khổ, lập nên những kỳ tích mà tiêu biểu là cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa xuân năm 1968; chống chiến tranh phá hoại bằng không quân, hải quân của Mỹ ở miền Bắc mà đỉnh cao là chiến dịch “Điện Biên Phủ trên không” tháng 12 năm 1972; kết thúc thắng lợi bằng chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử vào ngày 30 tháng 4 năm 1975, thống nhất đất nước, mở ra thời kỳ phát triển mới cho đất nước.
Sau chiến thắng lịch sử năm 1975, Quân đội nhân dân Việt Nam lại cùng với nhân dân cả nước tiến hành thắng lợi các cuộc chiến tranh bảo vệ biên giới, giữ vững độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc.
Cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của nhân dân Việt Nam vừa mới kết thúc thì chế độ diệt chủ do Pôn Pốt cầm đầu ở Cămpuchia đã kích động hận thù dân tộc, tiến hành chiến tranh xâm lấn ở biên giới Tây Nam của Tổ quốc. Chúng gây ra nhiều cuộc thảm sát man rợ với nhân dân Việt Nam sống dọc biên giới, đồng thời thực hiện chính sách diệt chủng đối với nhân dân Cămpuchia. Đứng trước yêu cầu bảo vệ Tổ quốc, ngày 23 tháng 12 năm 1978 Quân đội nhân dân Việt Nam đã mở cuộc phản công chiến lược, đập tan cuộc tiến công của quân đội Pôn Pốt. Sau đó, đáp ứng lời kêu gọi khẩn thiết của nhân dân và Mặt trận dân tộc cứu nước Cămpuchia, Quân tình nguyện Việt Nam đã phối hợp với các lực lượng vũ trang Cămpuchia, đánh tan 21 sư đoàn quân Pôn Pốt, xóa bỏ chế độ diệt chủng tàn bạo.
Bước vào thời kỳ hòa bình xây dựng đất nước, Quân đội nhân dân Việt Nam đã thực hiện điều chỉnh biên chế, tổ chức, cắt giảm gần hai phần ba quân số. Các thế hệ sĩ quan, chiến sĩ quân đội vẫn kế tiếp nhau phát huy truyền thống và bản chất tốt đẹp của “Bộ đội Cụ Hồ”, luôn làm đúng chức năng của một đội quân chiến đấu, một đội quân công tác, một đội quân sản xuất, xứng đáng với lời khen ngợi của Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Quân đội ta trung với Đảng, hiếu với dân, sẵn sàng chiến đấu hy sinh vì độc lập, tự do của Tổ quốc, vì chủ nghĩa xã hội, nhiệm vụ nào cũng hoàn thành, khó khăn nào cũng vượt qua, kẻ thù nào cũng đánh thắng”.
Thực hiện chức năng là một đội quân công tác, Quân đội nhân dân Việt Nam luôn giữ vững mối quan hệ máu thịt với nhân dân. Là một trong các lực lượng nòng cốt tham gia công tác vận động quần chúng, các đơn vị quân đội đã tích cực thực hiện công tác dân vận. Nhiều đơn vị quân đội đã đi đầu trong phát triển kinh tế - xã hội ở các vùng sâu, vùng xa; tham gia công tác cứu hộ và giảm nhẹ thiên tai, phòng chống lụt, bão. Quân đội cũng tích cực tham gia xóa đói, giảm nghèo, góp phần nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho các tầng lớp nhân dân…
Là một đội quân sản xuất, các đơn vị trong toàn quân đã tận dụng mọi tiềm năng lao động, đất đai, kỹ thuật… để đẩy mạnh tăng gia sản xuất, tạo nguồn sản phẩm bổ sung tại chỗ, góp phần giữ vững ổn định và cải thiện đáng kể đời sống bộ đội. Các nhà máy, xí nghiệp của quân đội đã sản xuất được các loại vũ khí, khí tài phù hợp với yêu cầu tác chiến hiện đại, đáp ứng các yêu cầu sẵn sàng chiến đấu và chiến đấu của quân đội. Nhiều đơn vị làm kinh của quân đội đã sản xuất và kinh doanh có hiệu quả, trở thành các tổ chức kinh tế lớn của đất nước, đi đầu trong kết hợp kinh tế với quốc phòng, góp phần xứng đáng vào công cuộc phát triển kinh tế - xã hội và củng cố quốc phòng - an ninh của đất nước. Các doanh nghiệp quân đội đã tham gia nhiều dự án công trình trọng điểm của quốc gia như đường Hồ Chí Minh, đường dây 500 KV Bắc - Nam, dịch vụ dầu khí và nhiều công trình thủy điện lớn như Sông Đà, Drây H’ling. Hiện có 98 doanh nghiệp quân đội đang tham gia hoạt động trên nhiều lĩnh vực kinh tế như dịch vụ bay, dịch vụ cảng biển, viễn thông, công nghiệp đóng tàu… Kim ngạch xuất khẩu hàng hóa và dịch vụ của các doanh nghiệp này ngày một tăng.
Thực hiện chức năng cơ bản là sẵn sàng chiến đấu và chiến đấu bảo vệ độc lập, chủ quyền, thống nhất toàn vẹn lãnh thổ và các quyền lợi quốc gia của đất nước, Quân đội nhân dân Việt Nam được tổ chức theo hướng tinh gọn, được trang bị các loại vũ khí, khí tài hiện đại cần thiết, thực hiện huấn luyện thường xuyên, sẵn sàng hoàn thành mọi nhiệm vụ được giao.
Hiện nay, Quân đội nhân dân Việt Nam có lực lượng thường trực gồm bộ đội chủ lực và bộ đội địa phương với tổng quân số khoảng 450.000 người và lực lượng quân dự bị khoảng 5 triệu người. Bộ đội chủ lực là thành phần nòng cốt của Quân đội nhân dân Việt Nam gồm lực lượng cơ động của các quân đoàn, quân chủng, binh chủng, bộ đội chủ lực của quân khu và bộ đội chuyên môn kỹ thuật. Bên cạnh các đơn vị huấn luyện sẵn sàng chiến đấu và chiến đấu còn có hệ thống hoàn chỉnh các đơn vị bảo đảm hậu cần, kỹ thuật; các học viện, viện nghiên cứu, các trường đào tạo sĩ quan và trường nghiệp vụ các cấp.
ĐẢNG, HỒ CHÍ MINH VỚI QUÂN ĐỘI NHÂN DÂN VIỆT NAM
TRỊNH VƯƠNG HỒNG. Những quan điểm đầu tiên của Đảng chỉ đạo xây dựng lực lượng vũ trang cách mạng Việt Nam / Trịnh Vương Hồng // Sách 70 năm Quân đội nhân dân Việt Nam anh hùng. - H.: Văn hóa thông tin, 2014. - Tr. 68-75
Từ năm 1930, Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời đánh dấu bước ngoặt quan trọng chấm dứt thời kỳ khủng hoảng về đường lối và tổ chức lãnh đạo cách mạng Việt Nam kéo dài hai phần ba thế kỷ, kể từ khi thực dân Pháp xâm lược nước ta. Từ đây, cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc của nhân dân ta chuyển sang thời kỳ mới - thời kỳ giai cấp công nhân và toàn thể dân tộc có một chính đảng cộng sản lãnh đạo, giương cao ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.
Là lãnh đạo sáng lập Đảng ta, từ sớm, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhận thức sâu sắc rằng, trong điều kiện đất nước bị giặc ngoại xâm thống trị, nhân dân bị áp bức, bóc lột nặng nề, thì vấn đề xây dựng lực lượng vũ trang được đặt ra cấp thiết, có vai trò quyết định đối với tiến trình phát triển và thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Chính vì thế, trong những năm bôn ba khắp các châu lục, Người đã xúc tiến việc chuẩn bị về mặt lý luận xây dựng lực lượng vũ trang. Qua nghiên cứu về hình thức tổ chức quân đội của Công xã Pari, Hồng quân Xô-viết, quân đội cách mạng Trung Quốc, quân đội các nước đế quốc ở chính quốc cũng như ở các thuộc địa, các tổ chức tự vệ công nhân tại các trung tâm công nghiệp, có tổ chức du kích ở nhiều nước, Người từng bước xác lập nguyên tắc tổ chức lực lượng vũ trang cách mạng Việt Nam về mặt lý luận, chuẩn bị tiền đề cần thiết để tổ chức xây dựng nó sau này. Đặc biệt, những luận điểm của Người về tổ chức đội kích, đội tự vệ công nông trong bài giảng Công tác quân sự của Đảng trong nông dân được xuất bản lần đầu ở Đức (1928), đã góp phần trực tiếp vào sự hình thành một số quan điểm đầu tiên của Đảng về nguyên tắc tổ chức, xây dựng lực lượng vũ trang cách mạng ở Việt Nam.
Với Chính cương vắn tắt lúc thành lập, Đảng ta đã xác định đường lối và nhiệm vụ của cách mạng Việt Nam là: "Làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản". Nhiệm vụ cách mạng, về phương diện chính trị, là dùng bạo lực cách mạng của quần chúng để "đánh đổ đế quốc chủ nghĩa Pháp và bọn phong kiến", "làm cho nước Nam được hoàn toàn độc lập", "dựng ra Chính phủ công nông binh" và "tổ chức ra quân đội công nông", nghĩa là tổ chức đội quân công nông chiến đấu vì quyền lợi của tuyệt đại bộ phận nhân dân, công nhân và nông dân.
Theo chủ trương đó, từ những tháng đầu năm 1930, Đảng ta đã xây dựng các tổ chức cơ sở đảng, phát động phong trào đấu tranh chống thực dân Pháp và phong kiến tay sai, phong trào đấu tranh diễn ra mạnh mẽ trên khắp các miền của đất nước, sôi nổi nhất là ở hai tỉnh Nghệ An, Hà Tĩnh. Giữa lúc phong trào cách mạng phát triển mạnh mẽ, tháng 10 năm 1930, Hội nghị Trung ương Đảng lần thứ nhất thông qua Luận cương chánh trị, xác định những nội dung cơ bản của cách mạng Việt Nam. Về xây dựng lực lượng vũ trang, Luận cương nêu rõ: Đảng phải tổ chức đội tự vệ của công nông.
Quan điểm của Đảng về xây dựng lực lượng vũ trang được thể hiện tập trung trong Án nghị quyết về tình hình hiện tại ở Đông Dương và nhiệm vụ cần kíp của Đảng là: "Đảng phải tổ chức bộ quân sự của Đảng để: Làm cho đảng viên được quân sự huấn luyện. Giúp cho công nông hội tổ chức đội tự vệ. Vận động trong quân đội của bọn địch nhơn".
Hội nghị còn ra các nghị quyết riêng về nông dân vận động, cộng sản thanh niên và quân đội vận động, trong đó nêu rõ chủ trương xây dựng đội tự vệ công nông. Án nghị quyết về nông dân vận động nêu: "Việc tổ chức và khoách trương đội tự vệ của nông dân rất quan trọng và cần thiết cho cuộc đấu tranh ở nhà quê".
Những chủ trương của Đảng về xây dựng đội tự vệ công nông được hình thành tại Hội nghị Trung ương lần thứ nhất thể hiện sự sáng tạo của Đảng trong việc vận dụng tư tưởng của chủ nghĩa Mác - Lênin về xây dựng lực lượng vũ trang cách mạng vào điều kiện cụ thể của Việt Nam.
Trong quá trình lãnh đạo phong trào cách mạng những năm 1930-1931, Đảng ta đã phải đấu tranh với những quan điểm khác nhau về đội tự vệ công nông. Ngày 9 tháng 12 năm 1930, Trung ương Đảng gửi thư cho các cấp bộ đảng xác định: "Vấn đề tổ chức đội tự vệ của công và nông là một vấn đề rất quan trọng. Có đội tự vệ thì công và nông mới giúp cho quần chúng tổ chức tranh đấu hơn trước được...".
Ngày 26 tháng 1 năm 1931, Thường vụ Trung ương Đảng gửi thư cho Xứ ủy Bắc Kỳ nêu rõ: Cần phải tổ chức những đội tự vệ để tuyên truyền, cổ vũ, bảo vệ quần chúng đấu tranh. Tiếp đó, trong Thông cáo cho các Xứ ủy, Thường vụ Trung ương Đảng phân tích: "Đội tự vệ không phải tổ chức trong một lúc tranh đấu rồi giải tán đi, nhưng phải duy trì khoách trương ra làm một lực lượng vĩnh viễn của quần chúng. Khi có tranh đấu thì đội tự vệ phải ra đi đầu, đi kèm quần chúng mà hộ vệ, còn lúc thường thì phải tập luyện riêng, phải bàn định những cách hộ vệ và binh vực tranh đấu. Có đồng chí nói rằng: tổ chức ra đội tự vệ mà không có võ trang cho họ thì tay không làm gì được mà hộ vệ cho quần chúng. Nói như vậy rất sai lầm. Trong lúc tranh đấu bây giờ thì không thể nói đến việc võ trang được. Việc võ trang quần chúng không phải lúc nào cũng đề xướng ra được. Phải hiểu rằng, tự vệ chứ không phải là hồng quân, hộ vệ anh em tranh đấu hằng ngày chứ không phải ra xông pha cùng binh lực địch nhân mà cướp chính quyền. Vấn đề võ trang chưa phải là cần kíp phải có".
Tháng 3 tháng 1931, Hội nghị Trung ương Đảng lần thứ hai ra Án nghị quyết, trong đó xác định: "Chi bộ phải đặc biệt chú ý về việc tổ chức đội tự vệ. Đội tự vệ là một lợi ích tranh đấu rất cần thiết để hộ vệ sự tranh đấu. Chi bộ phải cùng với Công hội mà chuyên cần lo lắng, kéo đảng viên vào đội".
Cuộc đấu tranh tư tưởng chống những biểu hiện "hữu" khuynh cũng như "tả" khuynh trong nội bộ về xây dựng lực lượng vũ trang cách mạng chứng tỏ ngay từ đầu, Đảng đã coi đây là một trong những công tác quan trọng trong nhiệm vụ xây dựng lực lượng vũ trang cách mạng, mà hình thức ban đầu của lực lượng vũ trang đó chính là đội tự vệ công nông. Đội tự vệ công nông này là lực lượng làm nòng cốt cho toàn dân đấu tranh để đánh đổ chính quyền thực dân phong kiến tay sai, giành độc lập cho dân tộc.
Cuối năm 1930, phong trào cách mạng đi vào giai đoạn thoái trào. Những năm tiếp theo, chính quyền thực dân Pháp và phong kiến tay sai tiếp tục đẩy mạnh các cuộc khủng bố phong trào cách mạng của nhân dân ta rất khốc liệt. Hệ thống tổ chức đảng, đoàn thể quần chúng cách mạng, đội tự vệ công nông phải chịu những tổn thất lớn. Trước tình hình đó, Trung ương Đảng quyết định tập trung giữ gìn, củng cố lực lượng cách mạng, trong đó có đội tự vệ công nông, duy trì dưới những hình thức mới. Tháng 6 năm 1932, Trung ương Đảng khởi thảo Chương trình hành động, trong đó chỉ rõ: cần phải lập ra đội tự vệ công nông để hộ vệ anh em lao động lúc đình công, hội họp, thị uy tuần hành và "sắp đặt hàng ngũ cho chỉnh tề, lo dự bị võ trang bạo động kỳ đánh đổ được quân áp bức".
Dưới sự lãnh đạo của Đảng, phong trào cách mạng nói chung, đội tự vệ công nông nói riêng, vẫn được bảo toàn trong điều kiện bí mật những năm 1932-1934, để rồi lại bùng lên và phát triển mạnh mẽ những năm tiếp theo.
Tháng 3 năm 1935, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ nhất của Đảng thông qua các nghị quyết về đường lối cách mạng, về các mặt công tác chuẩn bị chuyển sang thời kỳ đấu tranh mới; trong đó có nghị quyết về Đội tự vệ. Nghị quyết tổng kết kinh nghiệm tổ chức và hoạt động của đội tự vệ công nông trong cao trào cách mạng 1930-1931 và đề ra những nguyên tắc xây dựng, hoạt động của Đội tự vệ. Nghị quyết chỉ rõ sự cần thiết phải tổ chức đội tự vệ công nông nhằm: "a) Ủng hộ quần chúng hằng ngày; b) Ủng hộ quần chúng trong các cuộc đấu tranh; c) Ủng hộ các cơ quan cách mạng và chiến sĩ cách mạng của công nông; d) Quân sự huấn luyện cho lao động cách mạng, chống quân thù giai cấp tấn công và làm cho vận động cách mạng phát triển thắng lợi". Nghị quyết chỉ rõ: "Công nông tự vệ đội phân biệt với du kích đội, nó cũng không phải là hồng quân; hồng quân, du kích đội không phải bao giờ muốn tổ chức thì tổ chức được ngay, còn đội tự vệ hễ có cách mạng vận động dù yếu mấy cũng có thể và cần phải tổ chức ngay. Tự vệ đội càng mạnh thì tức là có điều kiện thuận tiện để sau này tổ chức du kích chiến tranh, võ trang bạo động, hồng quân". Nghị quyết xác định nguyên tắc xây dựng đội tự vệ công nông: thứ nhất là, xây dựng đội tự vệ công nông về mặt chính trị; thứ hai là, tổ chức, biên chế, trang bị và huấn luyện cho đội tự vệ công nông.
Về nguyên tắc thứ nhất: Đội tự vệ công nông là một loại hình tổ chức có tính chất nửa quân sự của quần chúng nhân dân lao động, trước hết là chủ yếu của công nhân và nông dân, do Đảng của giai cấp công nhân lãnh đạo. Thành phần của đội tự vệ bao gồm những người lao động có nhiệt tình, cương quyết, không phân biệt gái trai, hoặc dân tộc, từ 18 tuổi trở lên. Đội tự vệ đặt dưới quyền chỉ huy thống nhất của Trung ương Chấp ủy của Đảng Cộng sản. Từ Trung ương Chấp ủy tới mỗi thành ủy, tỉnh ủy phải được tổ chức ngay quân ủy, trong quân ủy này, một bộ phận thì lo quân đội vận động, một bộ phận thì lo tổ chức và chỉ huy đội tự vệ. Ban chỉ huy đội tự vệ ở cấp trung đội và đại đội, bên cạnh đội trưởng và đội phó có một đại biểu của Đảng. Đội trưởng và đại biểu Đảng phải hợp tác mà chỉ huy.
"Kỷ luật tự vệ công nông cách mạng không phải là kỷ luật nhà binh, nhưng cũng nghiêm khắc. Không thỏa hiệp được với tính lười biếng, sụt sè và bất tuân mệnh lệnh thượng cấp". Trong đội tự vệ, phải thực hiện dân chủ nội bộ: "Tự vệ đội viên có quyền và cần phải thảo luận rộng rãi những vấn đề thuộc về phương diện ủng hộ cách mạng vận động". Đối với nhân dân: "Đội tự vệ tổ chức và phát triển mật thiết liên lạc với quần chúng, hằng ngày tự vệ phải chăm lo tranh đấu, ngăn cản bọn thù giai cấp nhũng nhiễu công nhân, nông dân...".
Giữ vững bản chất cách mạng của đội tự vệ, bảo đảm sự lãnh đạo tuyệt đối của Đảng, thực hiện chế độ dân chủ đi đôi với kỷ luật nghiêm minh, đoàn kết nội bộ, quan hệ mật thiết với nhân dân là những nguyên tắc xây dựng đội tự vệ về chính trị. Đây là những quan điểm đầu tiên nhưng rất cơ bản của Đảng trong xây dựng lực lượng vũ trang cách mạng Việt Nam.
Về nguyên tắc thứ hai: Nghị quyết cũng xác định rõ nguyên tắc tổ chức, biên chế, trang bị, huấn luyện đội tự vệ công nông. Theo đó, đội tự vệ công nông từ năm người tới chín người tổ chức thành một tiểu đội. Ba tiểu đội tổ chức thành một trung đội. Ba trung đội tổ chức thành một đại đội, cứ theo phép "tam tam chế" mà tổ chức lên. Đó là các đội tự vệ thường trực.
Đi đôi với việc tổ chức đội tự vệ thường trực, Nghị quyết xác định cần huấn luyện quân sự cho quần chúng tham gia công tác tự vệ, mà không chú ý vận động quần chúng tham gia tự vệ là sai lầm. Như vậy, trong tổ chức đội tự vệ vừa có lực lượng thường làm nòng cốt vững chắc, vừa thu hút cả lực lượng quần chúng trung kiên tham gia. Đây là cách tổ chức đội tự vệ công nông thích hợp với phong trào cách mạng nước ta hồi đó, thể hiện quan điểm toàn dân tham gia xây dựng lực lượng vũ trang cách mạng của Đảng.
Về trang bị của đội tự vệ công nông, Nghị quyết đề ra phương châm bên cạnh vũ khí thô sơ tự trang bị (gậy gộc, giáo mác, kiếm...), phải tìm cách cướp lấy súng của địch mà trang bị cho mình, càng nhiều vũ khí càng tốt để huấn luyện và chiến đấu khi cần thiết, tránh khuynh hướng không cần vũ khí.
Đối với công tác huấn luyện quân sự cho đội tự vệ công nông, Nghị quyết nêu phương hướng huấn luyện về kỹ thuật và chiến thuật cho tự vệ biết sử dụng các vũ khí thông thường như súng lục, súng trận, liên thanh, tạc đạn; biết chiến thuật đánh trong thành phố, chiến thuật du kích chiến tranh.
Như vậy, từ bài giảng về Công tác quân sự của Đảng trong nông dân của Chủ tịch Hồ Chí Minh (1928), Chính cương vắn tắt của Đảng,đến Luận cương chánh trị của Hội nghị Trung ương lần thứ nhất (10-1930), Thông cáo cho các Xứ ủy (1-1931), đặc biệt là Nghị quyết về Đội tự vệ của Đại hội Đảng lần thứ nhất (3-1935), những quan điểm của Đảng về xây dựng lực lượng vũ trang, cụ thể là xây dựng đội tự vệ công nông đã hình thành. Lần đầu tiên, những nguyên tắc xây dựng lực lượng vũ trang về chính trị cũng như quân sự đã được đề ra một cách cơ bản và tương đối toàn diện.
Những quan điểm trên được Đảng ta từng bước bổ sung, hoàn thiện và trở thành bộ phận cấu thành quan điểm về vũ trang toàn dân, xây dựng lực lượng vũ trang cách mạng, xây dựng Quân đội nhân dân Việt Nam. Quá trình định hình từng bước quan điểm của Đảng về xây dựng lực lượng vũ trang cũng là quá trình lần lượt hình thành các tổ chức vũ trang cách mạng do Đảng lãnh đạo. Đó là các đội tự vệ công nông trong cao trào cách mạng 1930-1931, là các đội Du kích Bắc Sơn, Quân du kích Nam Kỳ, Cứu quốc quân, Việt Nam Tuyên truyền Giải phóng quân, Đội du kích Ba Tơ, các đội du kích chiến đấu khu Quang Trung, Trần Hưng Đạo... trước Cách mạng Tháng Tám năm 1945. Nhờ có Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh lãnh đạo, giáo dục, rèn luyện, được nhân dân giúp đỡ, che chở, các đội quân vũ trang ấy đã phát triển nhanh chóng trong cao trào kháng Nhật, cứu nước và được thống nhất thành Việt Nam Giải phóng quân, cùng toàn dân tiến hành Tổng khởi nghĩa Tháng Tám năm 1945 thắng lợi, mở ra kỷ nguyên mới độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Những quan điểm chỉ đạo ấy của Đảng là nền tảng quyết định sự trưởng thành, lớn mạnh của lực lượng vũ trang, của Quân đội nhân dân Việt Nam trên những chặng đường cách mạng và kháng chiến năm xưa cũng như trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa hiện nay.
Luận cương chính trị của Đảng Cộng sản Đông Dương (Dự án để thảo luận trong Đảng) // Sách Quân đội nhân dân Việt Nam truyền thống và hiện đại. - H.: Khoa học xã hội, 2014. - Tr. 45-47
…
Cách tranh đấu
Trong lúc định chiến lược, Đảng phải xét kỹ tình hình trong nước và ngoài thế giới, sức mạnh của địch nhân, sức tranh đấu của quần chúng, thái độ các hạng người đối với cách mạng,… Đảng căn cứ ở những điều kiện ấy mà định ra chiến lược để lãnh đạo cho quần chúng tranh đấu. Lúc thường thì phải tùy theo tình hình mà đặt khẩu hiệu “phần ít” để binh vực lợi quyền cho quần chúng như: tăng tiền lương, bớt giờ làm, giảm thuế, chống thuế, chống sự sanh hoạt mắc mớ… để khoách trương sự tranh đấu cách mạng ra. Phải đem khẩu hiệu “phần ít” ấy phụ thuộc vào khẩu hiệu chánh của Đảng như: đánh đổ đế quốc chủ nghĩa, địa chủ và phong kiến, xứ Đông Dương hoàn toàn độc lập, lập chánh phủ công nông…
Không chú ý đến những sự nhu yếu và sự tranh đấu hằng ngày của quần chúng là rất sai lầm. Mà nếu chỉ chú ý đến những sự nhu yếu hằng ngày mà không chú ý đến những mục đích lớn của Đảng cũng là rất sai lầm.
Nhiệm vụ của Đảng là phải lấy những sự nhu yếu hằng ngày làm bước đầu mà dắt vô sản giai cấp và dân cày ra chiến trường cách mạng. Đến lúc sức cách mạng lên rất mạnh, giai cấp thống trị đã rung động, các giai cấp đứng giữa đã muốn bỏ về phe cách mạng, quần chúng công nông thì sôi nổi cách mạng, quyết hi sanh phấn đấu, thì Đảng phải lập tức lãnh đạo quần chúng để đánh đổ chánh phủ của địch nhân và giành lấy chánh quyền cho công nông.
Lúc đó Đảng phải ra khẩu hiệu “giao tiếp” và nâng cao những khẩu hiệu ấy lên như: lập Xô Viết, lập hội đồng tịch kí ruộng đất, sản nghiệp do công nhân kiểm soát, võ trang cho công nông… Đồng thời Đảng phải tổ chức và khoách trương hết cả các tranh đấu của quần chúng như bãi công, bãi công vừa thị oai, bãi công vừa võ trang thị oai, tổng bãi công bạo động.
Võ trang bạo động không phải là một việc thường, chẳng những là theo hình thế trực tiếp cách mạng, mà lại phải theo khuôn phép nhà binh, cho nên cần phải chú ý. Trong khi không có tình thế trực tiếp cách mạng cũng cứ kịch liệt tranh đấu; nhưng kịch liệt tranh đấu ấy không phải là để tổ chức những cuộc manh động, hoặc là võ trang bạo động quá sớm, mà cốt là để suy động đại quần chúng ra thị oai, biểu tình bãi công… để dự bị họ về cuộc võ trang bạo động sau này.
Phản đối đế quốc chiến tranh
Thời kì này là thời kì khủng hoảng khắp cả các nước đế quốc, phong trào công nhân ở các nước và ở Đông Dương nổi lên rất mạnh. Cái nguy cơ chiến tranh của các đế quốc càng ngày càng gần. Bởi vậy Đảng phải hết sức khoách trương công tác “phản đối binh bị”, và một mặt tổ chức trong quân đội, một mặt tổ chức đội tự vệ của công nông, phải làm cho khẩu hiệu chống đế quốc chủ nghĩa chiến tranh lan khắp và sâu vào trong quần chúng, như: đổi chiến tranh đế quốc ra chiến tranh cách mạng, đánh đổ đế quốc chủ nghĩa và giai cấp bóc lột. Binh vực Liên bang Xô Viết và phong trào cách mạng thế giới…
Liên lạc với vô sản và dân thuộc địa trên thế giới
Vô sản Đông Dương phải liên lạc mật thiết với vô sản thế giới, nhứt là vô sản Pháp để làm mặt trận vô sản “mẫu quốc” và thuộc địa cho sức tranh đấu cách mạng được mạnh lên.
Trong cuộc tranh đấu chống đế quốc, quần chúng cách mạng Đông Dương lại phải liên lạc với quần chúng cách mạng ở các thuộc địa và bán thuộc địa, nhứt là ở Tàu và Ấn Độ…
Trong công tác, Đảng phải liên lạc mật thiết với Đảng Cộng sản Pháp, Tàu và Ấn Độ.
NGUYỄN CHÍ THANH. Quân đội ta là Quân đội nhân dân do Đảng lãnh đạo / Nguyễn Chí Thanh // Sách Quân đội nhân dân Việt Nam 65 năm chiến đấu, xây dựng và trưởng thành. - H.: Chính trị quốc gia, 2009. - Tr. 22-31
Quân đội của ta thường gọi là Quân đội nhân dân Việt Nam là công cụ chính trị của Đảng, của giai cấp, của nhân dân, có nhiệm vụ bảo vệ hòa bình, bảo vệ Tổ quốc, xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền bắc và đấu tranh thống nhất nước nhà. Đó là quân đội cách mạng, quân đội nhân dân do Đảng ta lãnh đạo. Quân đội này khác hẳn quân đội Ngô Đình Diệm ở miền Nam. Quân đội Ngô Đình Diệm là công cụ chính trị của đế quốc Mỹ và giai cấp địa chủ phong kiến chuyên làm các việc hại dân, hại nước. Đế quốc Mỹ cố nắm lấy quân đội đó để thực hiện âm mưu đen tối của nó đối với nước ta.
Hai thứ quân đội trên khác nhau về căn bản, tức khác nhau về bản chất, về mục đích chính trị, do đó, trên các mặt tổ chức, huấn luyện, chế độ, chính sách, chiến lược, chiến thuật… đều khác nhau về nguyên tắc. Đường lối xây dựng của hai thứ quân đội đó căn bản khác nhau và hoàn toàn trái ngược nhau.
Vấn đề bản chất của quân đội là một vấn đề rất lớn. Địch thường tìm mọi cách che giấu bản chất phản động của quân đội của chúng hòng lừa dối nhân dân và binh lính của chúng. Chúng nói rằng quân đội đứng ngoài chính trị, đứng trên giai cấp, không đảng phái… Thực chất của các luận điểm này cũng giống như những luận điểm về nhà nước của bọn học giả tư sản mà C.Mác và Ph.Ăngghen, V.I.Lênin, J.Xtalin đã bóc trần từ lâu. Còn ta thì không những ta không che giấu mà lại làm cho cán bộ và chiến sĩ, quần chúng nhân dân thấy rõ bản chất của Quân đội ta một cách sâu sắc, vì việc làm rõ bản chất của Quân đội ta là vấn đề trung tâm của sự phân rõ ranh giới giữa Quân đội ta và quân đội địch. Đó là vấn đề lập trường tư tưởng của chúng ta. Chúng ta đều hiểu rằng, lịch sử loài người từ khi có giai cấp là lịch sử đấu tranh giai cấp, nhà nước và quân đội là sản phảm của đấu tranh giai cấp chứ không phải là cái trên trời rơi xuống. Quân đội chúng ta là công cụ chính trị của Đảng, của giai cấp, của nhân dân lao động; nó phải thực hiện nhiệm vụ chính trị của Đảng trong từng thời kỳ, và cụ thể hiện nay là bảo vệ hòa bình, bảo vệ và xây dựng miền Bắc, đấu tranh thống nhất nước nhà, làm cho dân tộc độc lập, dân cày có ruộng, đưa cả nước ta lên chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản.
Quân đội ta từ trước tới nay đã xây dựng theo đúng đường lối chủ nghĩa Mác - Lênin. Bản chất của Quân đội ta là quân đội nhân dân. Do bản chất tốt đẹp đó nên Quân đội ta có tính hơn hẳn quân đội địch. Cũng nhờ có bản chất đó mà Quân đội ta đã chiến thắng quân thù mạnh gấp nhiều lần chúng ta.
Đảng là người tổ chức, lãnh đạo và giáo dục Quân đội ta
Địch không dám nói rõ tính giai cấp, tính đảng của quân đội của chúng, vì nói rõ những cái ấy thì binh sĩ của chúng và quần chúng nhân dân sẽ “thắc mắc”, sẽ thấy rõ bản chất phản động của chúng. Trái lại, nếu ta không nói rõ tính giai cấp, tính đảng của Quân đội ta thì cán bộ và chiến sĩ ta và quần chúng nhân dân ta lại thắc mắc. Cán bộ và chiến sĩ ta, nhân dân ta hiểu rõ rằng Đảng ta là đảng của giai cấp công nhân, của nhân dân lao động, tức là của họ. Họ hiểu rõ nếu Đảng Cộng sản Đông Dương trước kia và Đảng Lao động Việt Nam ngày nay không nắm chắc việc lãnh đạo quân đội thì dân tộc không thể được độc lập, dân cày không có ruộng, giai cấp bị áp bức, bóc lột không vùng lên được. Cách mạng Tháng Tám thành công, kháng chiến thắng lợi, đế quốc bị đánh đuổi, miền Bắc được giải phóng, cải cách ruộng đất hoàn thành và chủ nghĩa xã hội đang được xây dựng ở miền Bắc, những thực tế đó đã làm cho họ hiểu vai trò lãnh đạo của Đảng một cách sâu sắc hơn.
Một quân đội chân chính nhân dân, thật sự nhân dân thì phải do Đảng theo chủ nghĩa Mác - Lênin lãnh đạo. Chúng ta đã theo đúng nguyên lý đó, chúng ta đã xác định dứt khoát quan điểm: Quân đội ta là quân đội của Đảng và thực tiễn cũng đã chứng minh điều đó. Do nắm vững quan điểm cơ bản đó mà chúng ta đã chủ trương Đảng lãnh đạo tuyệt đối quân đội. Chúng ta đã kiên quyết đấu tranh chống tất cả khuynh hướng cho quân đội là phi Đảng, phi chính trị, phi giai cấp và đòi làm giảm nhẹ sự lãnh đạo của Đảng trong quân đội.
Nắm vững quan điểm cơ bản đó, làm cho quan điểm đó thấu suốt trong đường lối, phương châm xây dựng quân đội, nên chúng ta đã:
1. Lấy tư tưởng Mác - Lênin làm nền tảng xây dựng quân đội. Chúng ta đã giáo dục lập trường, quan điểm giai cấp vô sản cho quân đội. Chúng ta coi chủ nghĩa Mác - Lênin là một vũ khí sắc bén nhất trong tất cả các thứ vũ khí; nếu không xây dựng và giáo dục quân đội theo chủ nghĩa Mác - Lênin thì không bảo đảm được bản chất nhân dân của quân đội. Bản chất nhân dân không phải là một cái gì trừu tượng mà là cụ thể, về mặt thực tiễn nó phải được thể hiện trước hết, căn bản hơn hết ở lòng trung thành với giai cấp công nhân, với Đảng. Trên cơ sở lòng trung thành với Đảng, với giai cấp, với nhân dân, chúng ta mới có thể xây dựng và phát huy cao độ chủ nghĩa yêu nước chân chính và chủ nghĩa quốc tế vô sản cho quân đội.
2. Lấy tổ chức của Đảng trong quân đội làm hạt nhân đoàn kết và lãnh đạo quân đội. Trên tất cả các mặt, phải bảo đảm cho quân đội luôn luôn và tuyệt đối theo đúng đường lối chính trị, đường lối giai cấp, mục tiêu phấn đấu trước mắt và lâu dài mà Đảng đã vạch ra. Không nắm vững vấn đề này tức là sẽ làm giảm sút đi đến mất hẳn bản chất nhân dân của quân đội.
3. Lấy khoa học quân sự của chủ nghĩa Mác - Lênin tức là lấy học thuyết chiến tranh nhân dân và quân đội nhân dân để lãnh đạo, giáo dục quân đội; vận dụng khoa học đó vào trong hoàn cảnh của nước ta để xây dựng Quân đội ta trong thời kỳ hòa bình cũng như trong thời kỳ chiến tranh.
Thực tế lịch sử của Quân đội ta đã chứng tỏ rằng, những chỉ thị, nghị quyết lịch sử của Đảng ta về việc thành lập những lực lượng vũ trang đầu tiên (Cứu quốc quân, Việt Nam Tuyên truyền Giải phóng quân…) là vô cùng sáng suốt. Trong thời kỳ kháng chiến, những chỉ thị, nghị quyết của Đảng và Hồ Chủ tịch đã chỉ rõ đường lối xây dựng quân đội trên tất cả các mặt, đã vạch ra phương hướng chiến lược, chiến thuật của quân đội. Hòa bình được lập lại, nghị quyết Bộ Chính trị tháng 9-1954 nhấn mạnh nhiệm vụ phải xây dựng quân đội nhân dân thành một quân đội cách mạng, chính quy và tương đối hiện đại; nghị quyết của hội nghị Tổng Quân ủy (mở rộng tháng 3-1959) một lần nữa lại xác nhận đường lối xây dựng quân đội của Đảng ta là hoàn toàn đúng. Sự lãnh đạo chặt chẽ của Đảng đã quyết định sự ra đời, lớn mạnh không ngừng và chiến thắng của Quân đội ta.
Bản chất nhân dân của quân đội không phải ngẫu nhiên mà có, nó do nhiều yếu tố tạo thành, trong đó yếu tố cơ bản hơn hết là sự lãnh đạo của Đảng. Vì vậy, đứng về mặt nhận thức, quan điểm, lập trường cũng như về mặt thực tiễn thì khái niệm quân đội của nhân dân và quân đội của Đảng là đồng nhất. Nếu không phải là quân đội của Đảng thì cũng không thể là quân đội của nhân dân được.
Xác định rõ ràng quân đội nhân dân là quân đội của Đảng có ý nghĩa thực tiễn rất lớn. Xác định được điều đó, toàn Đảng sẽ nhận rõ trách nhiệm đối với việc xây dựng quân đội. Toàn Đảng sẽ chú ý xây dựng và lãnh đạo quân đội về đường lối, nguyên tắc cũng như về các mặt khác, bảo đảm cho quân đội không ngừng lớn mạnh, có thể hoàn thành tốt tất cả mọi nhiệm vụ mà Đảng và Chính phủ giao phó cho quân đội. Riêng quân đội lại càng phải đề cao nhận thức này để không ngừng tăng cường sự lãnh đạo tuyệt đối của Đảng trong quân đội, làm cho đường lối giai cấp của Đảng được thật sự thấu suốt trong việc xây dựng quân đội, khắc phục tất cả những khuynh hướng lệch lạc coi nhẹ sự lãnh đạo của Đảng, giảm nhẹ vai trò của Đảng đối với quân đội.
Quân đội ta là quân đội nhân dân
Trước đây trong chúng ta, đối với vấn đề này, mỗi người hiểu một cách. Nhưng trải qua quá trình giáo dục thường xuyên của Đảng, nhận thức của chúng ta được nâng cao dần, nên chúng ta đã nghiêm khắc phê phán và khắc phục dần những nhận thức lệch lạc và hành động sai trái với quan điểm quân đội nhân dân. Đến bây giờ, chúng ta đã thống nhất quan điểm vững chắc là: Quân đội của ta từ nhân dân mà ra, vì nhân dân mà chiến đấu. Nhìn lại lịch sử của quân đội từ ngày thành lập, qua kháng chiến cũng như từ khi hòa bình được lập lại, chúng ta thấy rằng: Quân đội ta là con đẻ của phong trào chính trị của quần chúng nhân dân. Chúng ta thấy rõ quân đội mà một ngày xa dân thì như một ngày con nhỏ xa vú mẹ. Quân đội ta không thể có một sức sống độc lập, mà phải bắt nguồn từ nhân dân. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, quần chúng nhân dân đã xây dựng lấy quân đội của mình về mặt tinh thần và vật chất, về kinh nghiệm đấu tranh chống giặc… Vì vậy, quan hệ giữa quân đội và nhân dân là quan hệ “cá nước”. Về vấn đề này, ngay từ khi quân đội mới thành lập, Đảng ta đã định rõ trong 10 lời thề danh dự, 12 điều kỷ luật của quân đội cũng như quân đội phải luôn luôn “bảo vệ dân, ủng hộ dân, cứu giúp dân”, “không dọa nạt dân, không lấy cái kim sợi chỉ của dân, làm hỏng, đánh mất của dân phải đền”… Hồ Chủ tịch cũng thường chỉ thị cho chúng ta cần phải xây dựng Quân đội ta thành một quân đội nhân dân thật sự.
Từ trước tới nay, Quân đội ta đã làm đúng như thế và đó cũng là một truyền thống rất tốt đẹp của Quân đội ta. Quân đội ta đã lấy việc phục vụ nhân dân không điều kiện làm lý tưởng của mình. Lòng trung thành tận tụy hy sinh vì nhân dân cao hay thấp là thước đo của đạo đức cách mạng của Quân đội ta. Vì vậy, Quân đội ta thường tự xưng là “con em của nhân dân lao động”. Còn nhân dân thì gọi là Quân đội ta bằng cái tên rất triều mến “anh bộ đội”.
Liên hệ mật thiết với nhân dân đó là nguồn sống và sức mạnh hùng hậu của Quân đội ta mà quân đội địch không bao giờ có được. Sở dĩ có được điều đó là vì quyền lợi kinh tế, chính trị của nhân dân và Quân đội ta căn bản thống nhất nhất; trái lại, giữa nhân dân và mục đích chính trị của quân đội địch có mâu thuẫn đối kháng sâu sắc.
Nhiệm vụ của Quân đội ta không những là phấn đấu cho độc lập dân chủ, mà còn phấn đấu cho sự thắng lợi của chủ nghĩa xã hội. Nhiệm vụ của quân đội nhân dân trong giai đoạn này là: bảo vệ miền Bắc tiến lên chủ nghĩa xã hội, đấu tranh thống nhất nước nhà, bảo vệ hòa bình ở Đông Nam Á và thế giới. Cho nên, ngày nay Quân đội ta là công cụ của chuyên chính vô sản, là công cụ của Đảng để bảo vệ sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội và đấu tranh thống nhất nước nhà, giải phóng cả nước, đưa cả nước lên chủ nghĩa xã hội.
Chúng ta phải xác định rõ Quân đội ta là quân đội của nhân dân lao động, thực chất là của công nông do Đảng của giai cấp công nhân lãnh đạo. Có xác định dứt khoát điểm này, chúng ta mới hiểu được rõ ràng nội dung giai cấp của quân đội. Sự hiểu biết rõ ràng về điểm này sẽ cổ vũ lòng hăng hái của nhân dân lao động, của công nông trong và ngoài quân đội. Nó giúp cho quân đội giải quyết được những tư tưởng mơ hồ, làm cho quân đội phân rõ được địch, ta, phân rõ được lao động và bóc lột. Do đó, nó giúp Quân đội ta xác định rõ ràng phương hướng và nhiệm vụ chống đế quốc và phong kiến đến cùng, đi tới xóa bỏ mọi thứ tệ lậu người bóc lột người.
Tuy nhiên, về vấn đề này, hiện nay trong Đảng ta còn có hai khuynh hướng sai lầm: một là, có một số người trong quân đội hiểu sai về đường lối xây dựng chính quy và hiện đại của Quân đội ta, nên đã quá nhấn mạnh tác dụng của kỹ thuật, đánh giá thấp vai trò của quần chúng nhân dân trong việc xây dựng quân đội và trong chiến tranh tương lai nếu địch gây ra; những người này thoát ly quần chúng, không dựa vào nhân dân để xây dựng quân đội và tác chiến. Hai là, một số đồng chí ở địa phương thì khoán trắng việc xây dựng quân đội và củng cố quốc phòng cho Trung ương, cho các “anh quân sự”.
Hai khuynh hướng sai lầm trên đều là trái với quan điểm chiến tranh nhân dân và quân đội nhân dân của Đảng. Trong thực tiễn, những khuynh hướng này đã dẫn đến những khuyết điểm cụ thể như: coi nhẹ phong trào dân quân, trong một số công tác thường thiếu sự phối hợp chặt chẽ giữa bộ đội với nhân dân và đảng bộ địa phương, nhất là trong công tác giáo dục nhân dân và bộ đội. Những khuyết điểm này tuy đã có sửa chữa, nhưng chưa làm được tốt lắm.
Quân đội ta là một công cụ bạo lực chủ yếu của nhà nước chuyên chính dân chủ nhân dân
Hiện nay, miền Bắc nước ta đang tiến lên chủ nghĩa xã hội, nhưng miền Nam đang còn dưới ách thống trị của đế quốc phong kiến. Trước tình hình đó, Đảng đã đề ra nhiệm vụ chính trị chung cho cả nước là: “Đoàn kết toàn dân, kiên quyết đấu tranh để giữ gìn hòa bình, thực hiện thống nhất nước nhà trên cơ sở độc lập và dân chủ; hoàn thành nhiệm vụ cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân trong cả nước; ra sức củng cố miền Bắc, đưa miền bắc tiến lên chủ nghĩa xã hội; xây dựng một nước Việt Nam hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ, giàu mạnh; tích cực góp phần bảo vệ hòa bình ở Đông Nam Á và thế giới”. Quân đội ta cần phải ra sức thực hiện nhiệm vụ chính trị đó. Nhiệm vụ chính trị mà Đảng đề ra đó là mục tiêu phấn đấu của Quân đội ta.
Ở miền Bắc nước ta hiện nay, chính quyền đã về tay giai cấp công nhân và nhân dân lao động. Chúng ta đang ở trong thời kỳ quá độ tiến lên chủ nghĩa xã hội tức là thời kỳ của chuyên chính vô sản. Nhiệm vụ lịch sử của chuyên chính vô sản là thực hành đấu tranh giai cấp đưa miền Bắc nước ta lên chủ nghĩa xã hội. Là công cụ bạo lực sắc bén của chuyên chính vô sản, quân đội chúng ta cần nhận thức rõ: chúng ta muốn hòa bình, nhưng kẻ địch lại luôn luôn âm mưu phá hoại hòa bình, chia cắt nước ta, phá hoại sự nghiệp lao động xã hội chủ nghĩa ở nước ta, nên chúng ta cần có một lực lượng vũ trang ngày càng mạnh mẽ để trấn áp kẻ địch và sẵn sàng đối phó với âm mưu gây chiến của chúng. Là một bộ phận của nền chuyên chính vô sản, chúng ta phải và sẽ là chỗ dựa vững chắc cho cuộc đấu tranh thống nhất nước nhà, đồng thời phải là chỗ dựa cho cuộc đấu tranh của chủ nghĩa xã hội để chiến thắng chủ nghĩa tư bản ở miền Bắc nước ta, giúp vào việc giải quyết vấn đề “ai thắng ai” giữa hai con đường xã hội chủ nghĩa và tư bản chủ nghĩa.
Quân đội không phải là một lực lượng đứng trên và đứng ngoài Nhà nước, quan hệ giữa quân đội và Nhà nước là quan hệ bộ phận với toàn cục, bộ phận phải phục tùng toàn cục. Quân đội ta không phải là công cụ của nhà nước chung chung, mà là công cụ của nhà nước chuyên chính dân chủ nhân dân, thực chất là chuyên chính vô sản.
Việc xác định đúng đắn quan điểm quân đội là một công cụ bạo lực chủ yếu của nhà nước chuyên chính vô sản có ý nghĩa rất lớn đối với việc giáo dục lập trường, tư tưởng cho quân đội, làm cho quân đội luôn luôn tìm mọi cách để tăng cường lực lượng của mình, củng cố chuyên chính vô sản, tạo điều kiện tốt để thực hiện nhiệm vụ cách mạng mà Đảng đã đề ra. Vì vậy, Quân đội ta phải nghiêm túc và gương mẫu trong việc chấp hành sắc lệnh, pháp luật của Nhà nước, phải cùng với nhân dân và các đảng bộ địa phương ra sức củng cố chính quyền dân chủ nhân dân.
Dưới sự lãnh đạo của Đảng, Quân đội ta đã thấu suốt quan điểm đó, nên từ khi thành lập đến nay, Quân đội ta đã hoàn thành một cách vẻ vang nhiệm vụ cách mạng do Đảng đề ra: tham gia khởi nghĩa giành chính quyền trong Cách mạng Tháng Tám, anh dũng kháng chiến góp phần củng cố và tăng cường nền chuyên chính dân chủ nhân dân của chúng ta. Nhưng hiện nay, trong quân đội còn có một số đồng chí chúng ta chưa thấu suốt quan điểm đó, nên trong công tác chính trị ở địa phương, họ không quan tâm đến việc củng cố chuyên chính dân chủ nhân dân. Điều sai lầm vô tình hay hữu ý này đã làm cho quân đội tách rời chính quyền nói chung. Một số đồng chí làm công tác chính quyền ở địa phương lại nhận thức chưa đúng mối quan hệ giữa chính quyền và quân đội, nên ít chú trọng chăm lo đến việc xây dựng quân đội, củng cố quốc phòng, nhất là về mặt góp ý kiến giáo dục cho quân đội về những chủ trương, chính sách, pháp luật của Nhà nước.
Để thực hiện nhiệm vụ chính trị chung của Đảng, để phù hợp với yêu cầu khách quan của cách mạng, Đảng ta quyết định xây dựng Quân đội ta thành một quân đội cách mạng, chính quy và hiện đại hùng mạnh. Chúng ta cần nỗ lực khắc phục mọi khó khăn xây dựng cho quân đội có một cơ sở vật chất tương đối đầy đủ và tiến bộ hơn trước. Vì vậy, lúc này hơn lúc nào hết, chúng ta cần giữ vững và phát huy bản chất tốt đẹp của Quân đội ta, vì bản chất của Quân đội ta là vấn đề căn bản thuộc về lập trường, quan điểm giai cấp, thuộc về phương hướng tư tưởng và chính trị, thuộc về đường lối xây dựng và tác chiến của quân đội. Phấn đấu để xây dựng Quân đội ta tiến dần lên chính quy và hiện đại là rất cần thiết và có ý nghĩa cách mạng quan trọng. Nhưng muốn bảo đảm xây dựng tnành công thì quân đội chúng ta phải luôn luôn xác định và trau dồi lập trường quan điểm giai cấp, nắm vững nguyên tắc xây dựng quân đội, làm cho quân đội tiến bước một cách vững vàng theo đúng đường lối quân sự của chủ nghĩa Mác - Lênin, của Đảng.
Chỉ thị thành lập Đội Việt Nam Tuyên truyền Giải phóng quân // Sách Quân đội nhân dân Việt Nam truyền thống và hiện đại. - H.: Khoa học xã hội, 2014. - Tr. 48-49
1. Tên Đội Việt Nam Tuyên truyền Giải phóng quân nghĩa là chính trị trọng hơn quân sự. Nó là đội tuyên truyền. Vì muốn hành động có kết quả thì về quân sự, nguyên tắc chính là nguyên tắc tập trung lực lượng, cho nên, theo chỉ thị mới của đoàn thể, sẽ chọn lọc trong hàng ngũ những du kích Cao - Bắc - Lạng số cán bộ và đội viên kiên quyết, hăng hái nhất và sẽ tập trung một phần lớn vũ khí để lập ra đội chủ lực.
Vì cuộc kháng chiến của ta là cuộc kháng chiến toàn dân cần phải động viên toàn dân, vũ trang toàn dân, cho nên trong khi tập trung lực lượng để lập một đội quân đầu tiên, cần phải duy trì lực lượng vũ trang trong các địa phương cùng phối hợp hành đồng và giúp đỡ về mọi phương diện. Đội quân chủ lực, trái lại có nhiệm vụ dìu dắt về mọi phương diện. Đội quân chủ lực, trái lại có nhiệm vụ dìu dắt cán bộ vũ trang của các địa phương, giúp đỡ huấn luyện, giúp đỡ vũ khí nếu có thể được, làm cho các đội này trưởng thành mãi lên.
2. Đối với các đội vũ trang địa phương: đưa các cán bộ địa phương về huấn luyện, tung các cán bộ đã huấn luyện đi các địa phương, trao đổi kinh nghiệm, liên lạc thông suốt, phối hợp tác chiến.
3. Về chiến thuật: vận dụng lối đánh du kích, bí mật, nhanh chóng, tích cực, nay Đông mai Tây, lai vô ảnh, khứ vô tung.
Đội Việt Nam Tuyên truyền Giải phóng quân là đội quân đàn anh, mong cho chóng có những đội đàn em khác.
Tuy lúc đầu quy mô của nó còn nhỏ, nhưng tiền đồ của nó rất vẻ vang. Nó là khởi điểm của giải phóng quân, nó có thể đi suốt từ Nam chí Bắc, khắp đất nước Việt Nam.
Gửi Quân đội nhân dân ngày độc lập // Sách 60 năm Quân đội nhân dân anh hùng. - H.: Quân đội nhân dân, 2004. - Tr. 25-26
Quân đội ta mới tổ chức, mới huấn luyện.
Nhưng lòng yêu nước, đức dũng cảm, chí hy sinh, thì chẳng kém quân đội nào.
Vì vậy, trong hai năm kháng chiến cứu nước, từ Nam đến Bắc, quân đội ta đã nhiều phen chiến thắng quân thực dân Pháp là một quân đội kinh nghiệm nhiều, khí giới tốt, là một quân đội có tiếng trên toàn cầu.
Tuy vậy, chúng ta không vì thế mà khinh địch, mà kiêu căng, mà sơ suất.
Trái lại, chúng ta phải luôn luôn cẩn thận, luôn luôn ra sức cầu tiến bộ.
Các cấp chỉ huy cần phải:
a) Biết rõ bộ đội, chăm nom bộ đội.
b) Mỗi một mệnh lệnh đưa ra thì cần phải mau chóng chuyển khắp đến từng đội viên và phải thi hành triệt để.
c) Mỗi người chỉ huy về quân sự cũng như về chính trị, phải làm kiểu mẫu, phải giữ đúng đạo đức của quân nhân cách mạng.
Tất cả các đội viên cần phải:
a) Ra sức học tập kinh nghiệm và cố gắng nghiên cứu kỹ thuật.
b) Rèn luyện tinh thần chịu khó chịu khổ.
Toàn thể bộ đội cần phải:
Ra sức thực hành những nghị quyết đã do những Hội nghị quân sự toàn quốc ấn định. Phải thực hành cho đến nơi đến chốn.
Quân đội ta quyết phải làm được những điều đó để khỏi phụ lòng tin cậy của Chính phủ, của đồng bào, và để trở nên một quân đội tất thắng.
Mấy lời căn dặn các đơn vị bộ đội vào thành // Sách 60 năm Quân đội nhân dân anh hùng. - H. Quân đội nhân dân, 2004. - Tr. 131-132
Suốt 8 năm kháng chiến, các chú đã làm kiểu mẫu anh dũng, do đó chúng ta đã thắng lợi. Nay chúng ta về thành thị, các chú cũng phải làm kiểu mẫu đúng đắn, để tranh lấy thắng lợi trong hòa bình.
Ở thành thị tình hình phức tạp, có nhiều sự quyến rũ làm cho người ta mê muội, hủ hóa, trụy lạc. Để tránh những cạm bẫy nguy hiểm ấy, để làm tròn nhiệm vụ cao quý của quân đội nhân dân, toàn thể cán bộ và chiến sĩ ta phải ghi nhớ và làm đúng những lời Bác dặn như sau:
- Chớ tự kiêu, tự mãn.
- Chớ rượu chè, cờ bạc, trai gái, hút thuốc phiện.
- Chớ để lộ bí mật.
- Chớ xa xỉ, tham ô, lãng phí.
- Phải kính trọng nhân dân, giúp đỡ nhân dân, đoàn kết với nhân dân.
- Phải khiêm tốn, nghiêm chỉnh.
- Phải giữ gìn tính chất trong sạch, chất phác của người chiến sĩ cách mạng.
- Phải thực hiện cần, kiệm, liêm, chính.
- Phải làm đúng mười điều kỷ luật.
- Phải luôn luôn cảnh giác, và phải thực hiện tự phê bình và phê bình để tiến bộ không ngừng.
Bác mong các chú tiến bộ và chúc các chú mạnh khỏe.
Bài nói của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong buổi chiêu đãi mừng Quân đội ta 20 tuổi // Sách Quân đội nhân dân Việt Nam truyền thống và hiện đại. - H.: Khoa học xã hội, 2014. - Tr. 50-51
Thưa các đồng chí
Nhân dịp kỷ niệm lần thứ 20 ngày thành lập Quân đội nhân dân Việt Nam, tôi thay mặt Trung ương Đảng, Chính phủ thân ái khen ngợi bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương, công an nhân dân vũ trang và dân quân, tự vệ trong cả nước đã lập được nhiều thành tích và có nhiều tiến bộ trong chiến đấu, học tập, công tác và sản xuất.
Tôi vui mừng hoan nghênh đồng chí Đại tướng Kim Tsang Bông và các đồng chí trong Đoàn đại biểu quân sự nước Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Triều tiên anh em, chúc cuộc đi thăm hữu nghị của các đồng chí thành công tốt đẹp.
Quân đội ta là một quân đội anh hùng của một dân tộc anh hùng. Mới ra đời, với gậy tầy, súng kíp đã cùng toàn dân đánh Pháp, đánh Nhật, đưa Cách mạng tháng Tám đến thành công. Lên mười tuổi thì cùng toàn dân giành được thắng lợi lớn Điện Biên Phủ, đánh bại cuộc chiến tranh xâm lược của đế quốc Pháp được Mĩ giúp sức.
Quân đội ta anh dũng trong kháng chiến mà cũng anh dũng trong hòa bình. Đã làm tốt nhiệm vụ bảo vệ miền Bắc, đập tan mọi hành động khiêu khích, phá hoại của đế quốc Mĩ và tay sai. Đã giáng trả lại đế quốc Mĩ những đòn thích đáng như ngày 5 tháng 8 năm 1964 vừa qua.
Quân đội ta cũng đã góp phần tích cực xây dựng kinh tế, phát triển văn hóa, làm tròn trách nhiệm của một quân đội cách mạng.
Quân đội ta trung với Đảng, hiếu với dân, sẵn sàng chiến đấu hi sinh vì độc lập, tự do của Tổ quốc, vì chủ nghĩa xã hội. Nhiệm vụ nào cũng hoàn thành, khó khăn nào cũng vượt qua, kẻ thù nào cũng đánh thắng.
Cán bộ và chiến sĩ thương yêu nhau như ruột thịt, chia ngọt sẻ bùi. Quân với dân như cá với nước, đoàn kết một lòng, học hỏi, giúp đỡ lẫn nhau.
Quân đội ta có tinh thần yêu nước chân chính, lại có tinh thần quốc tế vô sản cao cả, luôn luôn đoàn kết với nhân dân và quân đội các nước xã hội chủ nghĩa anh em, với nhân dân các nước đang đấu tranh giải phóng dân tộc và nhân dân yêu chuộng hòa bình trên thế giới.
Quân đội ta có sức mạnh vô địch, vì nó là một quân đội nhân dân do Đảng ta xây dựng, Đảng ta lãnh đạo và giáo dục.
Cán bộ và chiến sĩ phải luôn luôn khiêm tốn, luôn luôn cố gắng hơn nữa. Phải phát huy bản chất và truyền thống cách mạng. Phải học tập tinh thần quyết chiến quyết thắng của quân và dân Miền Nam anh dũng trong cuộc kháng chiến cứu nước chống đế quốc Mĩ xâm lược và bè lũ tay sai.
Kẻ địch còn nhiều âm mưu thâm độc. Toàn dân và toàn quân ta phải luôn luôn nâng cao cảnh giác, sẵn sàng chiến đấu, hăng hái thi đua với tinh thần “mỗi người làm việc bằng hai” để xây dựng và bảo vệ miền Bắc xã hội chủ nghĩa, làm cơ sở vững mạnh cho sự nghiệp giải phóng miền Nam, thực hiện hòa bình thống nhất nước nhà.
Thắng lợi nhất định sẽ về ta.
Nói chuyện với cán bộ cao cấp toàn quân // Sách 60 năm Quân đội nhân dân Việt Nam anh hùng. - H.: Quân đội nhân dân, 2004. - Tr. 166-167
Từ tết Mậu Thân đến nay, cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của nhân dân ta đã bước vào giai đoạn mới. Đồng bào và chiến sĩ ta ở miền Nam đã đánh rất giỏi, thắng rất to; ở miền Bắc cũng đánh rất giỏi, thắng rất to. Quân và dân cả nước ta đã giành được những thắng lợi vẻ vang.
Bác rất vui lòng thay mặt Trung ương Đảng và Chính phủ khen ngợi tất cả cán bộ, chiến sĩ bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương, dân quân, tự vệ, các đơn vị, các cơ quan, các ngành đã lập được nhiều thành tích, góp phần xứng đáng vào thắng lợi chung.
Thế giặc Mỹ thua đã rõ ràng, nhất định chúng sẽ hoàn toàn thất bại. Nhưng chúng còn rất ngoan cố, chưa chịu từ bỏ âm mưu xâm lược nước ta.
Quân và dân cả nước ta còn phải vượt qua nhiều hy sinh, gian khổ để đi tới thắng lợi cuối cùng. Chỉ khi nào quét sạch hết giặc Mỹ ra khỏi đất nước, đánh đổ bọn Việt gian bán nước, miền Nam được hoàn toàn giải phóng thì nhân dân ta mới có hòa bình và tự do thực sự. Bắc Nam mới sum họp một nhà.
Để mau tiến tới ngày vui lớn ấy, các chú phải ra sức phát huy ưu điểm, sửa chữa khuyết điểm, thực hiện thật tốt mọi nhiệm vụ Đảng và Chính phủ giao phó.
Bác dặn các chú:
1. Phải cố gắng cùng với các địa phương làm tốt hơn nữa nhiệm vụ của hậu phương lớn đối với tiền tuyến lớn, để đánh thắng giặc Mỹ. Đó là nhiệm vụ hàng đầu.
2. Phải xây dựng lực lượng thật tốt, chất lượng thật cao. Luôn luôn cảnh giác, sẵn sàng chiến đấu và chiến đấu giỏi, bảo vệ tốt miền Bắc xã hội chủ nghĩa. Chú ý tiết kiệm sức người và sức của, giữ gìn thật tốt vũ khí, trang bị.
3. Bộ đội phải hết lòng giúp dân, tham gia củng cố hậu phương ta ngày càng vững mạnh. Phải cùng với các cơ quan Nhà nước và các đoàn thể, chấp hành thật tốt các chính sách đối với anh em thương binh, bệnh binh và các gia đình có công với kháng chiến.
Các chú có trách nhiệm tốt nặng nề nhưng rất vẻ vang.
Phải cố gắng học tập và luôn luôn gương mẫu về đạo đức cách mạng.
Bác gửi lời thăm tất cả các cô, các chú cán bộ, chiến sĩ và công nhân quốc phòng.
Bác chờ tin thắng lợi mới của các đơn vị.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng Quân đội nhân dân - xây dựng Quân đội nhân dân theo tư tưởng Hồ Chí Minh // Sách Quân đội nhân dân Việt Nam truyền thống và hiện đại. - H.: Khoa học xã hội, 2014. - Tr. 99-106
…
Nội dung cơ bản của tư tưởng quân sự Hồ Chí Minh là tư tưởng chiến tranh nhân dân Việt Nam và quốc phòng toàn dân trong thời đại mới - Toàn dân đánh giặc có lực lượng vũ trang làm nòng cốt, lấy nhỏ thắng lớn, lấy chất lượng cao thắng số lượng đông, lấy nhân nghĩa thắng bạo tàn, “Dùng binh là việc nhân nghĩa cứu dân, cứu nước”.
Chủ nghĩa Mác - Lênin đã xác định vai trò và sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân - giai cấp đại diện cho phương thức sản xuất tiên tiến, giai cấp đứng ở vị trí trung tâm của thời đại - giai cấp thông qua đội tiên phong của nó là Đảng Cộng sản lãnh đạo tiến hành sự nghiệp cách mạng vô sản.
Theo Hồ Chí Minh, trước hết cách mạng Việt Nam cần có một Đảng cách mạng, mới có con đường chính trị đúng, con đường tổ chức đúng. Chỉ sau khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời, mới có tiền đề cho sự xuất hiện một quân đội kiểu mới: “quân đội công nông”. Vấn đề cơ bản nhất của một quân đội là bản chất giai cấp của nó. Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã lãnh đạo, giáo dục quân đội ta quán triệt bản chất giai cấp công nhân của Đảng về mặt chính trị, tư tưởng và tổ chức phù hợp với đặc điểm của một tổ chức quân sự. Cương lĩnh của Đảng là mục tiêu chiến đấu của quân đội.
Chủ nghĩa Mác Lênin - tư tưởng Hồ Chí Minh khẳng định nhân dân là người sáng tạo ra lịch sử. Đảng Cộng sản lấy dân làm gốc, quân đội cách mạng cũng phải dựa vào dân, “lực lượng chính là ở dân”. “Nhân dân là nền tảng, là cha mẹ của bộ đội”, Quân đội nhân dân Việt Nam mang bản chất giai cấp công nhân, tính nhân dân và tính dân tộc sâu sắc.
Nửa thế kỷ qua, quân đội ta đã mang nhiều tên gọi khác nhau:
Việt Nam Tuyên truyền Giải phóng quân (12.1944);
Việt Nam Giải phóng quân (4.1945);
Vệ quốc Đoàn (9.1945);
Quân đội Quốc gia Việt Nam (5.1946);
Quân đội nhân dân Việt Nam (từ tháng 2.1951).
Mỗi tên gọi thể hiện nhiệm vụ của một giai đoạn lịch sử mà quân đội ta phải phấn đấu để thực hiện:
- Là tổ chức quân sự, nhưng có thời kỳ hoạt động theo phương châm: chính trị trọng hơn quân sự.
- Là đội quân chủ lực, từ các địa phương tập trung lên trở thành Giải phóng quân - do Trung ương lãnh đạo và chỉ huy thống nhất từ Nam chí Bắc.
- Là quân đội chính quy của một Nhà nước, của một quốc gia hoàn chỉnh, một quân đội cách mạng, cùng nhân dân vũ trang khởi nghĩa giành chính quyền, bảo vệ vững chắc chính quyền, bảo vệ tính mạng, tài chính và quyền làm chủ của nhân dân, bảo vệ nền độc lập thống nhất và bản sắc dân tộc.
Mặc dù mang những tên gọi khác nhau do tình hình và nhiệm vụ cách mạng trong thời kỳ lịch sử có sự phát triển, Quân đội ta vẫn là Quân đội nhân dân, thực hiện chức năng quân đội chiến đấu, đội quân công tác và đội quân sản xuất. Những nguyên tắc xây dựng quân đội theo tư tưởng Hồ Chí Minh vẫn được giữ vững. Đó là:
1. “Quân sự phục tùng chính trị”, “quân sự mà không có chính trị như cây không có gốc, vô dụng, lại có hại”. Sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản là nhân tố quyết định bản chất cách mạng, sự trưởng thành và chiến thắng của quân đội nhân dân. Không ngừng củng cố sự lãnh đạo của Đảng, quân đội ta luôn luôn lấy việc xây dựng chính trị làm cơ sở để nâng cao sức mạnh chiến đấu tổng hợp, thường xuyên tăng cường hiệu lực công tác Đảng - công tác chính trị. Khi đã có Nhà nước, trở thành một bộ phận của Nhà nước, quân đội ta tuân thủ Hiến pháp và pháp luật. Thực tiễn lịch sử cho thấy, cơ chế quản lí của Nhà nước với quốc phòng không làm suy yếu sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng với quân đội; vì quân đội là một tổ chức quân sự, khác với các tổ chức khác trong bộ máy Nhà nước… Đảng trực tiếp lãnh đạo Nhà nước đồng thời trực tiếp lãnh đạo quân đội.
2. Quân đội ta là quân đội của dân, do dân, vì dân, luôn đứng vững trên lập trường của giai cấp công nhân, có thái độ chính trị đúng đắn trước những mối quan hệ chính trị cơ bản:
- Với nhân dân, quân đội là người phục vụ trung thành, cùng nhân dân bảo vệ độc lập chủ quyền, chế độ xã hội, bảo vệ Nhà nước, bảo vệ Đảng, bảo vệ thành quả cách mạng, bảo vệ tính mạng, tài sản và quyền làm chủ của nhân dân.
- Với đất nước, quân đội là công cụ để bảo vệ độc lập thống nhất toàn vẹn lãnh thổ của tổ quốc, bảo vệ sự bình đẳng và đoàn kết giữa các dân tộc, giữ gìn bản sắc dân tộc…
- Với bầu bạn, quân đội ta thấm nhuần tinh thần quốc tế vô sản, ủng hộ sự nghiệp đấu tranh cho độc lập dân tộc, tiến bộ xã hội và hòa bình thế giới.
- Với nội bộ, thực hiện toàn quân một ý chí, kỷ luật nghiêm minh, dân chủ, bình đẳng về chính trị.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khái quát: “Quân đội ta có sức mạnh vô địch, vì nó là một quân đội nhân dân do Đảng ta xây dựng, Đảng ta lãnh đạo và giáo dục”.
3. Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ nguyên tắc tổ chức quân đội: “Phải có tổ chức vững chắc và nghiêm mật”, “nếu không có tổ chức thì không phải là một đội quân cách mạng, không thể đánh thắng được” kết cục sẽ rơi vào tình trạng vô chính phủ và tan rã. Người chủ trương xây dựng lực lượng vũ trang ba thứ quân, xác định đúng đắn mối quan hệ giữa bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương và dân quân tự vệ. Vận dụng sáng tạo nguyên tắc tập trung dân chủ của Đảng vào xây dựng quân đội cách mạng, Người nêu rõ có tổ chức mạnh mới có con người mạnh. Con người mạnh làm cho tổ chức mạnh, Đảng bộ trong quân đội làm nòng cốt và hạt nhân lãnh đạo, vừa có hệ thống lãnh đạo, vừa có hệ thống chỉ huy, xác định rõ lãnh đạo là tập thể, chỉ huy là trách nhiệm cá nhân. Phải có kỷ luật sắt “quân lệnh như sơn” đi đôi với thực hiện dân chủ, phê bình, tự phê bình từ dưới lên, chống quân phiệt, độc đoán, chống tự do vô kỷ luật.
4. Theo tư tưởng Hồ Chí Minh, trong xây dựng quân đội phải lấy việc bồi dưỡng xây dựng con người là chính. Bác Hồ nói: “Người trước, súng sau”.
Chiến lược “trồng người” của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã tạo nên một đội ngũ cán bộ quân đội trung thành, có trí tuệ đáp ứng yêu cầu khắc nghiệt của chiến tranh và mọi thử thách của cách mạng. Người nói: “Muôn việc thành công hay thất bại, đều do cán bộ tốt hoặc kém”, “… cán bộ là cái gốc của mọi công việc”.
Đối với cán bộ trong quân đội, Chủ tịch Hồ Chí Minh yêu cầu: “Trí - Dũng - Nhân - Tín - Liêm - Trung”. Người đặt ra “Trí” lên hàng đầu.
Theo Hồ Chí Minh, cán bộ quân sự trước hết phải là người có trí tuệ, không ngừng trau dồi trí thức, nâng cao trí tuệ, mới hoàn thành nhiệm vụ. Người cán bộ phải có giác ngộ chính trị hơn quần chúng vì vậy phải có trình độ hiểu biết về chủ nghĩa Mác - Lênin, khoa học xã hội và nhân văn, khoa học kỹ thuật; nắm vững đường lối chính sách của Đảng mới tự giác phấn đấu theo con đường cách mạng mà Đảng đã vạch ra, có niềm tin thắng lợi, dựa vào căn cứ khoa học, có lý luận để thuyết phục quần chúng, có khả năng tổng kết thực tiễn, phát huy sức sáng tạo của quần chúng để góp phần cụ thể hóa, bổ sung đường lối chủ trương của Đảng.
Quân đội nhân dân Việt Nam chiến thắng quân đội nhà nghề của hai đế quốc to, trước hết thắng bằng trí tuệ, bằng tài thao lược, kế thừa truyền thống đánh giặc của tổ tiên, tiếp thu có chọn lọc nghệ thuật quân sự của nhân loại, có phương pháp xem xét đúng, hiểu rõ sức mạnh của quân đội các nước đế quốc, sáng tạo cách đánh tài giỏi. Chủ tịch Hồ Chí Minh nhấn mạnh, quân đội cách mạng phải: “nghiên cứu cách đánh giặc” để “có một lối đánh rất tài giỏi thì trăm trận trăm thắng”. Nếu “thiếu nghiên cứu tìm hiểu tình hình khả năng ta và địch một cách tỉ mỉ để định ra mục đích và cách đánh thích hợp” thì “mắc nhiều khuyết điểm”.
Người căn dặn cán bộ phải chịu khó học tập, không ngừng nâng cao trí tuệ, văn hóa để có phương hướng đúng cho việc trau dồi đạo đức cách mạng.
Chủ tịch Hồ Chí Minh coi việc cán bộ học ở trường, ở sách vở và trong thực tiễn đấu tranh cách mạng đều rất quan trọng. Theo Người, học phải đi đôi với hành, lời nói phải đi đôi với việc làm. Người coi quá trình xây dựng quân đội nhân dân phải là quá trình rèn luyện lâu dài trong chiến đấu với kẻ thù, trong đấu tranh chính trị, trong vận động quần chúng, trong xây dựng nâng cao sức mạnh chiến đấu. Bản lĩnh chính trị, bản lĩnh chiến đấu của cán bộ quân đội chẳng những là sự tích lũy một hàm lượng trí tuệ mà còn là kết quả của sự đấu trí giữa ta và địch. Qua nửa thế kỷ xây dựng và chiến đấu, quân đội ta đã bồi dưỡng được một đội ngũ cán bộ quân sự trung thành, thao lược, đánh thắng mọi kẻ thù. Trong quân đội nhân dân Việt Nam, có nhiều tướng lĩnh từ công nhân, nông dân, trí thức cách mạng trưởng thành lên. Đó là một thành công lớn của Đảng và Bác Hồ.
Chiến lược “trồng người” trong quân đội của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã xây dựng nên hình tượng đẹp tuyệt vời, đó là danh hiệu “Anh bộ đội cụ Hồ” được nhân dân tặng cho chiến sĩ Quân đội nhân dân, một biểu tượng của con người mới, vừa mang phẩm chất truyền thống của dân tộc, vừa mang nhân cách và tầm vóc của người anh hùng thời đại và có giá trị nhân văn xã hội chủ nghĩa.
Năm mươi năm qua, xây dựng và chiến đấu theo tư tưởng Hồ Chí Minh, quân đội ta đã hoàn thành nhiệm vụ làm trụ cột trong khởi nghĩa và chiến tranh. Những năm hòa bình vừa qua quân đội ta là một lực lượng rất quan trọng đảm bảo sự ổn định chính trị và xã hội của một quốc gia. Ngày nay, trong bối cảnh mới, đất nước bước vào thời kỳ công nghiệp hóa - hiện đại hóa. Chúng ta đang đứng trước vận hội mới và những thách thức mới.
Đảng ta đã xác định xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa là hai nhiệm vụ chiến lược. Nhiệm vụ quân đội rất nặng nề, phải bảo vệ được hòa bình, góp phần tạo môi trường ổn định để công nghiệp hóa đất nước, bảo vệ chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, vùng trời, vùng biển, biên giới hải đảo của Tổ quốc, bảo vệ chế độ, bảo vệ Đảng và Nhà nước, bảo vệ quyền làm chủ của nhân dân, bảo vệ bản sắc dân tộc (trong điều kiện đất nước đang hội nhập vào cộng đồng thế giới, các lợi ích của các quốc gia đan xen nhau, xâm nhập nhau), chống lại các thế lực thù địch với các thủ đoạn “diễn biến hòa bình”, “chiến tranh không bằng chiến tranh” và sẵn sàng đánh bại mọi cuộc chiến tranh xâm lược. Chức năng cơ bản của quân đội: bảo vệ vững chắc độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, bảo vệ Đảng, Nhà nước, bảo vệ tính mạng tài sản, quyền làm chủ của nhân dân và chức năng đội quân công tác, đội quân sản xuất có những nội dung và yêu cầu mới.
Trước những chuyển biến to lớn, phức tạp của tình hình thế giới và khu vực, trước vận hội mới và thách thức mới, “bộ đội cụ Hồ” vẫn là một trụ cột, là lực lượng kiên định đi theo con đường mà Bác đã lựa chọn. Quân đội ta phải tiếp tục xây dựng nâng cao trình độ về mọi mặt ngang tầm với nhiệm vụ, trước hết và cơ bản nhất là trình độ chính trị.
Để cán bộ quân đội có nhãn quan chiến lược mới, hiểu rõ tình thế của đất nước, đặc điểm, tính chất của cuộc đấu tranh nhằm thực hiện mục tiêu dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng văn minh, cần khẳng định vị trí chính trị của quân đội nhân dân, chủ động trong mọi tình huống, góp phần tích cực, có hiệu quả vào việc ổn định, phát triển đất nước, răn đe và loại trừ những nguy cơ do các thế lực thù địch gây nên. Do đó phải nắm vững nguyên tắc lấy xây dựng chính trị làm cơ sở, vừa kế thừa, vừa đổi mới nội dung công tác chính trị, tư tưởng, nhận thức rõ sự thống nhất giữa bảo vệ Tổ quốc và bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ công cuộc lao động hòa bình của nhân dân, ngăn ngừa không để xảy ra chiến tranh, đồng thời sẵn sàng đánh bại các loại hình chiến tranh xâm lược “diễn biến hòa bình”.
Cùng với việc bồi dưỡng lý tưởng cách mạng, tình cảm cách mạng, rèn luyện bản lĩnh, trí tuệ cho đội ngũ sĩ quan, cần phải thấy rằng: sự hư hỏng, biến chất của con người và tổ chức có thể bắt đầu trực tiếp từ hệ tư tưởng, quan điểm chính trị, nhưng cũng có thể bắt đầu từ lề thói tư duy, từ đạo đức lối sống. Do đó phải chống lại một cách kiên trì, với biện pháp thích hợp sự tiến công toàn diện của tư tưởng, lối sống chạy theo đồng tiền, mưu cầu lợi ích trước mắt, xa rời nguyên tắc, lợi ích cơ bản và lâu dài.
Đất nước đang bước vào giai đoạn mới, giai đoạn công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Quân đội ta cũng từng bước hiện đại hóa, cùng toàn dân khắc phục nguy cơ tụt hậu về kinh tế và khoa học kỹ thuật. Một yêu cầu lớn đang được đặt ra là tiếp tục nâng cao trình độ trí tuệ và môi trường văn hóa cao đẹp lành mạnh, phong phú của quân đội, thực hiện đại học hóa đội ngũ sĩ quan, nghiên cứu tiếp thu những thành tựu khoa học kỹ thuật tiên tiến của các nước.
Nhiệm vụ xây dựng đất nước trong thời bình, xây dựng một nhà nước pháp quyền đòi hỏi quân đội phải xây dựng với chất lượng cao, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại. Nhiệm vụ đó đặt ra yêu cầu đầu tư hơn nữa vào công tác tổng kết chiến tranh và nghiên cứu khoa học, lý luận, vận dụng một cách nghiêm chỉnh những kinh nghiệm của chiến tranh, phát triển và đổi mới tư duy quân sự, tiếp tục xây dựng học thuyết quân sự Việt Nam trong thời đại Hồ Chí Minh, góp phần vào việc đổi mới căn bản chính sách xây dựng quân đội nhân dân. Cần thiết phải bổ sung, hoàn thiện hệ thống luật về xây dựng Quân đội nhân dân, về củng cố nền quốc phòng toàn dân, bảo vệ Tổ quốc; tiếp tục thể chế hóa đường lối, quan điểm, nghị quyết của Đảng về xây dựng quân đội; ban hành hệ thống điều lệnh, điều lệ về các hoạt động của Quân đội nhân dân, tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa trong quân đội, giải quyết tốt nhiệm vụ xây dựng quân đội nhân dân trong nhà nước pháp quyền do Đảng lãnh đạo.
Những vấn đề trên đặt ra trước chúng ta nhiệm vụ nghiên cứu sâu sắc hơn nữa tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng Quân đội nhân dân, góp phần đẩy mạnh công cuộc xây dựng Quân đội nhân dân theo tư tưởng Hồ Chí Minh, làm cho Quân đội ta mãi mãi xứng đáng với danh hiệu cao quý: “Bộ đội Cụ Hồ”.
Bác Hồ giáo dục quân đội về quan hệ quân dân // Sách Quân đội nhân dân Việt Nam truyền thống và hiện đại. - H.: Khoa học xã hội, 2014. - Tr. 139-145
Ngày nay, những cụm từ “quân với dân như cá với nước” hay “quan hệ quân dân là quan hệ máu thịt”… đã trở thành quen thuộc đối với mỗi cán bộ, chiến sĩ và mỗi người dân Việt Nam. Đó là kết quả một quá trình giáo dục lâu dài của Chủ tịch Hồ Chí Minh đối với quân đội về trách nhiệm vun bón mối quan hệ quân dân. Ngay từ khi chuẩn bị thành lập Đội Việt Nam Tuyên truyền Giải phóng quân cũng như trong lịch sử lâu dài và chiến thắng vẻ vang của quân đội, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn động viên giáo dục và nhắc nhở cán bộ, chiến sĩ về mục tiêu chiến đấu của quân đội, về vai trò quyết định thắng lợi của nhân dân trong cách mạng và chiến tranh cách mạng, đồng thời chỉ ra cho toàn quân phương hướng nhiệm vụ xây dựng và phát huy quan hệ tốt đẹp giữa quân đội và nhân dân.
Lời thề thứ nhất trong Mười lời thề danh dự (do Người chỉ đạo soạn thảo chuẩn bị cho việc thành lập Đội Việt Nam Tuyên truyền Giải phóng quân) đã khẳng định mục tiêu cầm súng của người chiến sĩ quân đội cách mạng Việt Nam là: “Hi sinh tất cả vì Tổ quốc Việt Nam, chiến đấu đến giọt máu cuối cùng để chống xâm lược và bọn Việt gian phản quốc, để giải phóng cho toàn dân Việt Nam, làm cho nước Việt Nam trở nên một nước dân chủ, độc lập, tự do, ngang hàng với các nước dân chủ trên thế giới”.
Mục tiêu chiến đấu đó được Chủ tịch Hồ Chí Minh nhắc lại nhiều lần trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mĩ. Trong Hội nghị kiểm thảo chiến dịch Đường số 18 (tháng 5.1951), Người nói “mình đánh giặc là vì nhân dân. Nhưng mình không phải là “cứu tinh” của dân, mình có trách nhiệm phụng sự nhân dân…”.
Trong bài phát biểu nhân dịp kỷ niệm 20 năm ngày thành lập Quân đội nhân dân Việt Nam (tháng 12.1964), Người nói: “Quân đội ta trung với Đảng, hiếu với dân, sẵn sàng chiến đấu hi sinh vì độc lập tự do của Tổ quốc, vì chủ nghĩa xã hội. Nhiệm vụ nào cũng hoàn thành, khó khăn nào cũng vượt qua, kẻ thù nào cũng đánh thắng”.
Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn khẳng định: dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhân dân là chỗ dựa vững chắc nhất để quân đội tồn tại, phát triển, trưởng thành và chiến thắng.
Ngay từ cuối năm 1944, khi giao nhiệm vụ cho đồng chí Võ Nguyên Giáp thực hiện chủ trương thành lập Đội Việt Nam Tuyên truyền Giải phóng quân, Người đã nói: Đội vũ trang phải có chi bộ lãnh đạo, phải dựa vào dân, dựa chắc vào dân thì không kẻ địch nào có thể tiêu diệt được. Sau Cách mạng tháng Tám, trong buổi lễ bế mạc khóa 5 Trường huấn luyện cán bộ Việt Nam (tháng 11.1945), Người nói với anh em học viên: “Phải nhớ rằng dân là chủ. Dân như nước, mình như cá. Lực lượng bao nhiêu là nhờ ở dân hết…”. Trong điều kiện cụ thể lúc đó, lực lượng vũ trang đang phát triển rất nhanh trong những ngày đầu của chính quyền cách mạng, kiến thức chính trị chung của toàn quân còn hạn chế, công tác chính trị lại đang trong quá trình mò mẫm, đây là lần đầu tiên bộ đội được nghe Người giáo dục về quan hệ quân dân, về sức mạnh vô tận và vai trò quyết định của nhân dân.
Quan hệ “cá nước” không chỉ là quan hệ giữa nhân dân với quân đội mà còn giữa nhân dân với lực lượng vũ trang nói chung. Tháng 3.1948, trong thư gửi du kích xã Kim Thành (Hải Dương), Người nhắc nhở: “… Một điều nữa các chú phải luôn luôn nhớ: Du kích như cá, nhân dân như nước… Muốn giết địch, thắng trận, thì phải có đồng bào giúp mọi mặt…”.
Trong Mười hai điều răn, viết tháng 4.1948, Người chỉ rõ: “Nước lấy dân làm gốc. Trong công cuộc kháng chiến kiến quốc, lực lượng chính là ở dân…”. Bài viết kết thúc bằng hai câu thơ: “Gốc có vững cây mới bền. Xây lầu thắng lợi trên nền nhân dân”.
Cùng với việc khẳng định vai trò quyết định và sức mạnh vô tận của nhân dân, Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ vẽ cụ thể cho bộ đội biết thế nào để dựa vào dân, tranh thủ được sức mạnh của toàn dân để cùng nhân dân đi đến thắng lợi cuối cùng của sự nghiệp cách mạng.
Vào từng thời điểm cụ thể của hai cuộc kháng chiến, Người thường chỉ ra những việc cần làm, những điều cần tránh để từng đối tượng cán bộ, chiến sĩ, ngành nghề, địa phương vận dụng trong công tác dân vận. Một yêu cầu chung mà Người luôn nhắc nhở bộ đội, nhất là cán bộ, là phải làm sao cho dân mến: “khi sắp đến dân mong, khi ở dân thương, khi đi dân nhớ…”. Bộ đội được dân yêu, dân tin, dân phục thì nhất định thắng lợi… Chớ vác mặt làm quan cách mạng cho dân ghét, dân khinh, dân không ủng hộ”.
Người đặc biệt coi trọng vai trò các tờ báo của lực lượng vũ trang trong công tác vận động quần chúng. Tháng 3.1947, báo Vệ quốc quân ra số đầu tiên. Trong thư gửi tòa soạn, Chủ tịch Hồ Chí Minh nêu lên 12 điều để tờ báo “khuyến khích mỗi chiến sĩ phải làm theo”, trong đó có 9 điều về kỷ luật dân vận: “… 3) Không động đến một cái kim, một sợi chỉ của dân. 4) Khi đến đóng, lúc kéo đi, phải giữ gìn nhà, vườn của dân sạch sẽ. 5) Nói năng, cử động phải giữ lễ phép, phải kính người già, yêu trẻ con. 6) Mua bán phải công bình. 7) Mượn cái gì phải trả tử tế. 8) Hỏng cái gì phải bồi thường. 9) Phải đỡ dân, bất kì việc to, việc nhỏ… 11) Chớ ve gái, say sưa, cờ bạc, hút sách. 12) Phải giúp đỡ gia đình chiến sĩ tại nơi mình đóng, phải giúp đỡ việc tăng gia sản xuất”.
Với báo Quân du kích, Người xác định nhiệm vụ của tờ báo là phải: “Làm cho mỗi quốc dân là một chiến sĩ, mỗi làng xóm là một pháo đài. Làm cho quân đội giặc đến đâu cũng bị khuấy, bị phá, bị diệt, bộ đội ta đến đâu cũng được giúp đỡ đầy đủ về vật chất và tinh thần…”.
Từ thực tế quan hệ giữa quân đội và nhân dân các dân tộc Việt Bắc trong Thu Đông năm 1947, Chủ tịch Hồ Chí Minh viết, Mười hai điều răn đối với bộ đội trong công tác dân vận: “Sáu điều không nên làm: 1) Không nên làm điều gì có thể thiệt đến nương vườn, hoa màu, hoặc làm bẩn, làm hư nhà cửa, đồ đạc của dân; 2) Không nên năn nỉ quá hoặc mượn cho bằng được những đồ vật người ta không muốn bán hoặc cho mượn; 3) Không nên đưa gà còn sống vào nhà đồng bào miền ngược; 4) Không bao giờ sai lời hứa; 5) Không nên xúc phạm đến tín ngưỡng phong tục của dân (như nằm trước bàn thờ, giơ chân lên bếp, đánh đàn trong nhà…); 6) Không nên làm hoặc nói gì có thể làm cho dân hiểu lầm rằng mình xem khinh họ”. “Sáu điều nên làm: 1) Giúp công việc thực tế hàng ngày cho đồng bào (như việc gặt hái, lấy củi, nước, vá may…); 2) Tùy khả năng mà mua giùm những đồ cần dùng cho những người ở xa chợ búa (…); 3) Nhân những lúc rảnh, kể cho đồng bào nghe những chuyện vui ngắn, giản dị, có lợi ích cho tinh thần kháng chiến mà không lộ bí mật; 4) Dạy chữ quốc ngữ và những điều vệ sinh thường thức; 5) Nghiên cứu cho hiểu rõ phong tục mọi nơi, trước là để gây cảm tình và sau để dần dần giải thích cho dân bớt mê tín; 6) Làm cho dân nhận thấy mình là người đúng đắn, chăm công việc, trọng kỷ luật”.
Hơn hai năm sau, thông qua thực tế công tác huy động dân công phục vụ chiến dịch tiến công quy mô lớn đầu tiên trong kháng chiến chống Pháp, tại Hội nghị tổng kết chiến dịch Biên giới (11.1950), Người nói: “Phải biết trọng nhân dân. Tôn trọng có nhiều cách, không phải ở chỗ chào hỏi kính thưa có lễ phép mà đủ. Không được phung phí nhân lực vật lực của dân. Khi huy động nên vừa phải, không nên nhiều quá, lãng phí vô ích. Phải khôn khéo tránh điều gì có hại cho đời sống nhân dân. Biết giúp đỡ nhân dân cũng là biết tôn trọng dân; mùa tới phải gặt hộ dân; dạy bình dân học vụ cho dân quân và bộ đội địa phương ở đó…”.
Từ cuối năm 1951 và trong cả năm 1952, do hành động càn quét của quân Pháp, cuộc đấu tranh trong vùng sau lưng địch nói chung, chiến tranh du kích nói riêng, gặp nhiều khó khăn. Tại Hội nghị chiến tranh du kích, tháng 7.1952, Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ thị 5 công việc cần làm, trong đó điểm thứ 3 là phải bám sát lấy dân để cùng nhân dân chiến đấu bảo vệ quê hương. Người nói: “… Điểm trọng yếu là bất kỳ bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương, dân quân du kích đều phải bám sát lấy dân, rời dân ra nhất định thất bại. Bám lấy dân là làm sao cho được lòng dân, dân tin cậy, dân mến, dân yêu. Như vậy thì bất kể việc gì khó cũng làm được cả và nhất định thắng lợi. Muốn thế phải bảo vệ, giúp đỡ, giáo dục nhân dân… Phải vận động nhân dân, để tự nguyện, tự giác, nếu bắt buộc thì có kết quả ngay lúc đó thôi, còn sau thì không thấm…”.
Địch âm mưu dùng chính sách “chia để trị”, đặc biệt là đối với nhân dân các dân tộc ít người. Bởi vậy, một trong ba mục đích của chiến dịch Tây Bắc (cuối năm 1952) là tranh thủ nhân dân. Tại hội nghị cán bộ chuẩn bị chiến dịch, Chủ tịch Hồ Chí Minh động viên quyết tâm mọi người vượt qua khó khăn để giành thắng lợi cho chiến dịch, đồng thời Người chỉ thị phải chấp hành nghiêm chỉnh kỷ luật quần chúng trong điều kiện cụ thể của chiến trường Tây Bắc: “Chính sách đối với đồng bào thiểu số, Chính phủ đã có quy định, các chú và bộ đội phải làm đúng. Đó là một cách tranh thủ nhân dân để phá âm mưu của địch “lấy người Việt hại người Việt”. Phải làm cho mỗi chiến sĩ là một người tuyên truyền. Các chú phải làm thế nào khi mình đến thì đồng bào hoan nghênh, khi đóng quân thì đồng bào vui vẻ, giúp đỡ, khi mình đi thì đồng bào quyến luyến… Đối với đồng bào dân công, phải giáo dục, phải thăm nom thân mật, phải giải thích, tuyên truyền cổ động, làm cho đồng bào vui vẻ công tác. Phải làm cho giữa dân công và bộ đội có một tình thân ái đoàn kết khăng khít. Phải làm cho họ không muốn về mà muốn luôn luôn đi giúp bộ đội. Đó là một điều giúp cho mình chiến thắng. Nếu không làm được như thế thì sẽ gặp nhiều khó khăn…”.
Trước ngày bộ đội vào tiếp quản các thành phố Miền Bắc, sau Hiệp định Giơnevơ, Người viết, Mấy lời căn dặn các đơn vị bộ đội vào thành, trong đó 4 điểm đề cập đến kỷ luật quần cúng: “Chớ rượu chè, cờ bạc, trai gái, hút thuốc phiện. Phải kính trọng nhân dân, giúp đỡ nhân dân, phải đoàn kết với nhân dân. Phải khiêm tốn, nghiêm chỉnh. Phải giữ gìn tính chất trong sạch chất phác của người chiến sĩ cách mạng…”.
Bộ đội ta đã chấp hành nghiêm chỉnh chỉ thị của Người. Cụm từ “Anh bộ đội cụ Hồ” xuất hiện trong những ngày tiếp quản đã nói lên tình thương yêu của nhân dân vùng mới giải phóng đối với quân đội cách mạng, đồng thời cũng phản ánh sự khác biệt về bản chất so với quân đội Pháp và tay sai trong vùng tạm chiếm mà đồng bào đã chứng kiến trước ngày miền Bắc được giải phóng.
Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, đặc biệt là trong hai lần chống chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ trên miền Bắc, mặc dù điều kiện xây dựng và chiến đấu khác với kháng chiến lần thứ nhất, nhưng quân đội vẫn thường xuyên được Chủ tịch Hồ Chí Minh giáo dục về quan hệ quân dân trong hoàn cảnh mới. Hầu như địa phương nào, đơn vị nào, binh chủng nào, quân chủng nào hạ được máy bay Mỹ cũng được Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi thư khen. Người động viên toàn dân “Quyết tâm đánh thắng giặc Mỹ xâm lược”, kèm theo là những lời dặn ân cần: “Đoàn kết chặt chẽ giữa quân đội và nhân dân”, đề cao cảnh giác, thi đua chiến đấu giỏi, sản xuất giỏi, làm tốt công tác giao thông vận tải thời chiến và phòng không nhân dân…
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đi xa hơn 30 năm, nhưng tư tưởng của Người về vai trò của quân dân, về công tác dân vận, mãi mãi vẫn là kim chỉ nam với toàn quân ta trong quan hệ quân dân.
Chiến tranh đã kết thúc một phần tư thế kỷ, nhưng các thế lực thù địch vẫn dùng mọi thủ đoạn để chia rẽ Đảng với quân đội, Đảng với nhân dân, quân đội với nhân dân. Bởi vậy, hơn lúc nào hết, công tác dân vận vẫn có vị trí rất quan trọng trong đời sống chính trị của quân đội. Ngày nay, trong hoàn cảnh hòa bình, quân đội gắn bó với nhân dân trong các mặt của đời sống kinh tế, văn hóa, khoa học, kỹ thuật và đặc biệt là an ninh, quốc phòng. Công tác dân vận của quân đội do đó cũng đang được đổi mới về nhiều mặt. Trong quá trình đổi mới đó, quân đội tiếp tục tuân theo lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh, thường xuyên chăm lo làm tốt công tác dân vận, vun đắp mối quan hệ tốt đẹp mang tính truyền thống, làm cho hình ảnh “bộ đội cụ Hồ” mãi mãi thể hiện tình cảm gắn bó máu thịt giữa quân đội và nhân dân.
CÁC TƯỚNG LĨNH TIÊU BIỂU CỦA QUÂN ĐỘI NHÂN DÂN VIỆT NAM
Đại tướng - Tổng Tư lệnh Võ Nguyên Giáp // Sách Chân dung tướng lĩnh trong lịch sử Việt Nam qua hai cuộc chiến tranh (1945 - 1975). - H. Lao động, 2011. - Tr. 7-9
Đại tướng Võ Nguyên Giáp, sinh ngày 25-8-1911 tại làng An Xã, xã Lộc Thủy, huyện Lệ Thủy, tỉnh Quảng Bình
Năm 1925 - 1926: Tham gia phong trào học sinh ở trường Quốc học Huế.
Năm 1929: Vào Đảng Tân Việt cách mạng, cùng một số đồng chí cải tổ Đảng Tân Việt thành Đông Dương Cộng sản Liên đoàn (lúc đầu là Việt Nam Cộng sản Liên đoàn). Tham gia viết “Tiếng dân”.
Năm 1930: Bị bắt trong vụ cứu tế Nghệ An đỏ ở nhà in báo “Tiếng dân”, bị kết án 2 năm tù. Ra tù mất liên lạc với tổ chức; một thời gian sau ra Hà Nội dạy học ở trường Thăng Long, tuyên truyền và gây cơ sở cách mạng trong thanh niên học sinh, tiếp tục học thêm cho đến đại học.
Từ năm 1936: Tham gia phong trào Mặt trận Dân chủ, ở trong Ban lãnh đạo nửa hợp pháp của Đảng, lãnh đạo phong trào thanh niên, học sinh ở Hà Nội.
Thành lập báo Hồn trẻ, cùng một số đồng chí sáng lập và biên tập các báo Le Travail (Lao động), báo Notre voix (Tiếng nói của chúng ta), báo En avant (Tiến lên), báo Rassemblement (Tập hợp), viết báo Đời nay, Tin tức, Thời báo, Cờ giải phóng.
Năm 1940: Được Đảng cử ra nước ngoài gặp đồng chí Nguyễn Ái Quốc.
Tháng 6 - 1940: Làm thủ tục kết nạp vào Đảng.
Được đồng chí Nguyễn Ái Quốc giới thiệu đi Diên An, giữa đường được chỉ thị trở về Quế Lâm hoạt động ở biên giới Trung - Việt. Về nước, cùng làm việc với Bác Hồ tại Pác Bó. Sau Hội nghị Trung ương lần thứ 8, được giao nhiệm vụ vận động đồng bào ở Hòa An và Nguyên Bình, chuẩn bị vũ trang khởi nghĩa, lập ra những xã hoàn toàn, những châu hoàn toàn (hoàn toàn tham gia Việt Minh).
Năm 1941: Tham gia công tác chuẩn bị khởi nghĩa vũ trang và xây dựng căn cứ địa ở Cao - Bắc - Lạng.
Năm 1942: Phụ trách Ban Xung phong Nam tiến, tuyên truyền giác ngộ nhân dân, tổ chức con đường quần chúng từ Cao Bằng về Thái Nguyên.
Tháng 12 - 1944: Đồng chí Nguyễn Ái Quốc giao nhiệm vụ thành lập Đội Việt Nam tuyên truyền Giải phóng quân.
Tháng 4 - 1945: Tại Hội nghị Quân sự Bắc Kỳ, được cử vào Ủy ban Quân sự cách mạng Bắc Kỳ.
Tháng 5 - 1945:Tư lệnh các lực lượng vũ trang cách mạng mới thống nhất thành Việt Nam Giải phóng quân.
Tháng 6 -1945: Đồng chí Nguyễn Ái Quốc giao nhiệm vụ thành lập Ủy ban Chỉ huy lâm thời khu giải phóng.
Tháng 8 - 1945: Tại hội nghị toàn quốc của Đảng, được bầu vào Ban Chấp hành Trung ương. Sau đó được cử vào Ban Thường vụ Ban Chấp hành Trung ương và Ủy ban Khởi nghĩa toàn quốc.
Tại Đại hội Quốc dân Tân Trào được bầu vào Ủy ban Dân tộc giải phóng Việt Nam.
Cách mạng Tháng Tám thành công, khi thành lập Chính phủ lâm thời nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, được cử làm Bộ trưởng Bộ Nội vụ, Bí thư Đảng - Đoàn Chính phủ.
Tháng 1 - 1946: Đại biểu Quốc hội khóa I nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (liên tiếp là đại biểu các khóa II, III, IV, V, VI, VII).
Tháng 3 - 1946: Chủ tịch quân sự ủy viên Hội trong Chính phủ liên hiệp.
Khi thành lập Quân ủy Trung ương là Bí thư Quân ủy Trung ương.
Tháng 11 - 1946: Bộ trưởng Bộ Quốc phòng trong Chính phủ mới. Trước ngày toàn quốc kháng chiến, được Chủ tịch Hồ Chí Minh ủy quyền làm Tổng chỉ huy Quân đội quốc gia và Dân quân tự vệ Việt Nam.
Năm 1948: Được phong quân hàm Đại tướng.
Tháng 2 - 1951: Tại Đại hội toàn quốc lần thứ II của Đảng, được bầu vào Ban Chấp hành Trung ương, được Trung ương cử vào Bộ Chính trị, Quân ủy Trung ương.
Tháng 9 - 1955: Phó Thủ tướng kiêm Bộ trưởng Bộ Quốc phòng, Tổng Tư lệnh Quân đội nhân dân Việt Nam.
Tháng 9 - 1960: Tại Đại hội lần thứ III của Đảng, được bầu lại vào Ban Chấp hành Trung ương, được cử vào Bộ Chính trị, tiếp tục làm Bí thư Quân ủy Trung ương.
Tháng 4 - 1976: Là Đại biểu Quốc hội khóa VI nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Được cử làm Phó Thủ tướng kiêm Bộ trưởng Bộ Quốc phòng.
Tháng 12 - 1976: Tại Đại hội lần thứ IV của Đảng được bầu lại vào Ban Chấp hành Trung ương Đảng và được Trung ương cử vào Bộ Chính trị. Tiếp tục làm Bí thư Quân ủy Trung ương cho đến năm 1978.
Tháng 1 -1977: Được phân công làm Phó Thủ tướng kiêm Bộ trưởng Bộ Quốc phòng, phụ trách quốc phòng và khoa học kỹ thuật.
Tháng 1 - 1980: Được phân công làm Phó Thủ tướng, tiếp tục phụ trách khoa học và kỹ thuật, tháng 12 năm ấy phụ trách thêm công tác khoa giáo (phụ trách khoa học tự nhiên, khoa học kỹ thuật và khoa học xã hội).
Tháng 4 - 1981: Đại biểu Quốc hội khóa VII, được cử làm Phó Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng.
Tháng 3 - 1982: Đại hội lần thứ V của Đảng, được bầu lại vào Ban Chấp hành Trung ương Đảng. Là Phó Thủ tướng phụ trách công tác khoa học và công tác giáo dục và chỉ đạo công tác nghiên cứu dự báo chiến lược khoa học kỹ thuật và kinh tế xã hội.
Từ năm 1992 đến 2012: Chủ tịch Danh dự Hội Cựu chiến binh Việt Nam.
Chủ nhiệm đề tài “Tư tưởng Hồ Chí Minh và con đường cách mạng Việt Nam”, kiêm Cố vấn chương trình khoa học cấp Nhà nước về “Nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh”.
Chủ tịch Danh dự Hội Khoa học lịch sử Việt Nam.
Chủ tịch Danh dự Hội khuyến học Việt Nam.
Chủ tịch Danh dự Quỹ Hỗ trợ sáng tạo khoa học kỹ thuật Việt Nam (VIFOTEC).
Chủ tịch Danh dự Hội Cựu giáo chức Việt Nam.
Với những cống hiến to lớn cho sự nghiệp cách mạng của Đảng, đất nước và quân đội, Đại tướng Võ Nguyên Giáp đã được tặng nhiều phần thưởng cao quý: Huân chương Sao vàng, hai Huân chương Hồ Chí Minh, hai Huân chương Quân công hạng Nhất…
Đại tướng Võ Nguyên Giáp qua đời ngày 4/10/2013, hưởng thọ 103 tuổi (tuổi âm) và là Đại tướng Việt Nam sống thọ nhất.
Đại Tướng Văn Tiến Dũng // Sách Tướng lĩnh quân đội nhân dân Việt Nam qua hai cuộc chiến tranh. - H.: Quân đội nhân dân, 2007. - Tr.101-102
Đại tướng Văn Tiến Dũng sinh năm 1917, quê ở xã Cổ Nhuế, huyện Từ Liêm, thành phố Hà Nội. Đồng chí tham gia cách mạng năm 1936, trở thành đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam năm 1937. Năm 1943-1944 là Bí thư Ban cán sự Đảng Hà Đông, Bắc Ninh; là Ủy viên thường vụ rồi Bí thư Xứ ủy Bắc Kỳ. Hoạt động tích cực trong phong trào cách mạng, đồng chí nhiều lần bị thực dân Pháp bắt giam và bị kết án tử hình vắng mặt (tháng 1-1945). Trong Cách mạng tháng Tám, đồng chí được giao phụ trách tổ chức chiến khu Quang Trung, chỉ đạo vũ trang giành chính quyền ở các tỉnh Hòa Bình, Ninh Bình, Thanh Hóa.
Trong kháng chiến chống Pháp, đồng chí Văn Tiến Dũng được giao đảm nhiệm: Chính ủy Chiến khu 2 (1945-1946), Cục trưởng Cục Chính trị Quân đội quốc gia Việt Nam, Phó Bí thư Quân ủy Trung ương (1946-1949), rồi Chính ủy Quân khu 3 (1950). Từ năm 1951 đến 1953 là Đại đoàn trưởng kiêm Chính ủy đầu tiên của Đại đoàn 320. Tháng 11-1953 là Tổng tham mưu trưởng Quân đội nhân dân Việt Nam.
Sau chiến dịch Điện Biên Phủ, đồng chí là trưởng đoàn đại biểu của Bộ Tổng tư lệnh Quân đội Việt Nam trong Ủy ban liên hiệp đình chiến thi hành Hiệp định Giơ-ne-vơ về Việt Nam.
Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, đồng chí đảm nhiệm chức vụ Tổng tham mưu trưởng, trực tiếp chỉ đạo các chiến dịch: Đường 9 - Nam Lào (1971); Trị - Thiên (1972); Tây Nguyên (1975), Tư lệnh Chiến dịch Hồ Chí Minh (Xuân 1975).
Sau ngày đất nước thống nhất, Đại tướng Văn Tiến Dũng tiếp tục đảm nhiệm Bộ trưởng Bộ Quốc phòng (1980-1986), là Bí thư Đảng ủy Quân sự Trung ương (1984-1986), Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng từ khóa II đến khóa V, Ủy viên Bộ Chính trị khóa IV, V; đại biểu Quốc hội khóa II đến khóa VII.
Với những đóng góp và thành tích xuất sắc, Đại tướng Văn Tiến Dũng đã được Đảng, Nhà nước tặng thưởng nhiều phần thưởng cao quý: Huân chương Sao Vàng, Huân chương Hồ Chí Minh, hai Huân chương Quân công (hạng nhất, hạng nhì), một Huân chương Chiến thắng hạng nhất, một Huân chương Kháng chiến hạng nhất...
Đại tướng Lê Trọng Tấn // Sách Chân dung tướng lĩnh trong lịch sử Việt Nam qua hai cuộc chiến tranh (1945 - 1975). - H.: Lao động, 2011. - Tr. 193,194
Đại tướng Lê Trọng Tấn sinh năm 1914, quê xã Yên Nghĩa, huyện Hoài Đức, tỉnh Hà Tây cũ, tham gia cách mạng 1944, vào Đảng Cộng sản Việt Nam năm 1945, nhập ngũ tháng 8-1945. Tháng 8-1945 đồng chí là Ủy viên quân sự trong Ban lãnh đạo khởi nghĩa tỉnh Hà Đông (cũ). Trong kháng chiến chống Pháp từ năm 1945 đến năm 1950, Lê Trọng Tấn giữ chức Trung đoàn phó, Trung đoàn trưởng, quyền Khu trưởng Khu 14, Phó Tư lệnh Liên khu 10, Phó chỉ huy trận Đông Khê và chỉ huy đánh binh đoàn Sáctông trong chiến dịch Biên Giới. Tháng 12-1950 đến năm 1954, đồng chí là Đại đoàn trưởng đầu tiên Đại đoàn 312, tham gia chiến dịch Điện Biên Phủ. Tháng 12-1954 đến 1960, Lê Trọng Tấn là hiệu trưởng Trường sĩ quan Lục quân. Tháng 3-1961 đến năm 1969, đồng chí là Phó Tổng tham mưu trưởng Quân đội nhân dân Việt Nam. Phó Tư lệnh, Ủy viên Quân ủy Quân giải phóng miền Nam Việt Nam. Năm 1970 đến năm 1974, Lê Trọng Tấn là Phó Tổng tham mưu trưởng kiêm Tư lệnh Mặt trận Đường 9, đặc phái viên Bộ Tổng tư lệnh Quân đội nhân dân Việt Nam, tham gia chỉ đạo chiến dịch Cánh Đồng Chum, Tư lệnh chiến dịch Trị - Thiên, Tư lệnh đầu tiên Quân đoàn 1, Viện trưởng Viện Khoa học quân sự Bộ Quốc phòng, Tư lệnh chiến dịch Huế - Đà Nẵng, Phó Tư lệnh chiến dịch Hồ Chí Minh. Năm 1976-1977,đồng chí là Phó Tổng tham mưu trưởng, kiêm Viện trưởng Học viện Quân sự cấp cao. Tháng 12-1978 đến năm 1979 Lê Trọng Tấn là Tư lệnh Mặt trậnTây Nam trong chiến tranh bảo vệ Tổ quốc. Năm 1980 đến năm 1986, đồng chí là Thứ trưởng Bộ Quốc phòng. Tổng tham mưu trưởng Quân đội nhân dân Việt Nam, Ủy viên Thường vụ Đảng ủy Quân sự Trung ương, Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa IV, khóa V, đại biểu Quốc hội khóa VII.
Đại tướng Lê Trọng Tấn được tặng thưởng Huân chương Hồ Chí Minh, 1 Huân chương Quân công hạng Nhất, 1 Huân chương Quân công hạng Ba, 1 Huân chương Chiến thắng hạng Nhất, 1 Huân chương Kháng chiến hạng Nhất.
Đại tướng Hoàng Văn Thái (Hoàng Văn Xiêm) // Sách Tướng lĩnh quân đội nhân dân Việt Nam qua hai cuộc chiến tranh. - H.: Quân đội nhân dân, 2007. - Tr.139-140
Đồng chí Đại tướng Hoàng Văn Thái sinh năm 1915 trong một gia đình nông dân yêu nước, tại xã Tây An, huyện Tiền Hải, tỉnh Thái Bình - một vùng quê giàu truyền thống cách mạng.
Năm 18 tuổi, đồng chí rời quê hương đi làm công nhân ở mỏ than Hòn Gai và sau đó là mỏ thiếc Tĩnh Túc, Cao Bằng. Sớm giác ngộ cách mạng, năm 1936, đồng chí trở về Tiền Hải hoạt động trong phong trào Mặt trận bình dân, tổ chức các hội Tương tế, Ái hữu, tham gia chống thuế, chống bắt phu, bắt lính; tuyên truyền và tổ chức xây dựng cơ sở cách mạng trong nhân dân.
Tháng 5 năm 1938, đồng chí được kết nạp vào Đảng Cộng sản Đông Dương. Đồng chí tích cực góp phần xây dựng tổ chức Đảng ở các xã Tiền Hoàn, Đại Hữu, An Khang thuộc huyện Tiền Hải, Thái Bình. Tháng 9 năm 1940, đồng chí bị địch bắt; không tìm được chứng cứ, địch buộc phải thả.
Tháng 10 năm 1940, đồng chí được Đảng đưa về hoạt động bí mật ở căn cứ Lạng Giang, Hiệp Hòa tỉnh Hà Bắc, tham gia xây dựng và làm Đội trưởng Đội Cứu quốc quân Bắc Sơn.
Tháng 9 năm 1941, đồng chí được Đảng cử đi học quân sự ở nước ngoài. Tháng 10 năm 1944 về nước, đồng chí được giao nhiệm vụ quan trọng là tham gia tổ chức Đội Việt Nam tuyên truyền Giải phóng quân, phụ trách công tác tình báo và tác chiến.
Tháng 4 năm 1945 phụ trách Trường Quân chính kháng Nhật. Tháng 9 năm 1945, đồng chí được cử giữ chức Tổng tham mưu trưởng Quân đội nhân dân Việt Nam, Ủy viên Quân ủy hội, Ủy viên Ban quân sự Trung ương. Năm 1948 được phong quân hàm Thiếu tướng; tháng 9 năm 1958 là Trung tướng, Chủ nhiệm Tổng cục Quân huấn kiêm Chủ nhiệm Ủy ban Thể dục thể thao Trung ương.
Tháng 2 năm 1966, đồng chí nhận nhiệm vụ vào truyền đạt Nghị quyết 12 của Trung ương Đảng cho các đồng chí lãnh đạo, chỉ huy miền Nam. Tháng 7 năm 1966 nhận nhiệm vụ ở lại làm Tư lệnh kiêm Chính ủy Quân khu 5, quyền Bí thư khu ủy Khu 5; tháng 10 năm 1967, làm Tư lệnh Bộ chỉ huy Quân giải phóng miền Nam, Phó Bí thư Trung ương Cục kiêm phó Bí thư Quân ủy Miền. Năm 1974, đồng chí được phong quân hàm Thượng tướng; năm 1980, được thăng quân hàm Đại tướng.
Sau khi đất nước được hoàn toàn giải phóng, đồng chí giữ chức Thứ trưởng Bộ Quốc phòng, Ủy viên thường vụ Đảng ủy quân sự Trung ương; được bầu làm Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam các khóa III, IV, V và đại biểu Quốc hội khóa VII.
Với những cống hiến xuất sắc và phẩm chất trong sáng, đồng chí Hoàng Văn Thái đã được Đảng, quốc hội, Nhà nước tặng thưởng: Huân chương Hồ Chí Minh, hai Huân chương Quân công (hạng nhất, hạng nhì), Huân chương Chiến thắng hạng nhất, Huân chương Kháng chiến hạng nhất; ba Huân chương Chiến sĩ vẻ vang (hạng nhất, hạng nhì, hạng ba), Huy chương Quân kỳ quyết thắng, Huy hiệu 40 năm tuổi Đảng.
Là vị tướng trận mạc đã trải qua thực tiễn hai cuộc kháng chiến thần thánh của dân tộc ta chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược; với kiến thức và tài năng quân sự hiếm có, Hoàng Văn Thái đã trở thành một nhà chỉ huy quân sự xuất sắc. Đồng chí là người tổ chức và chỉ huy đầu tiên của Bộ Tổng tham mưu - cơ quan chiến lược của Quân đội nhân dân Việt Nam; là “người học trò ưu tú của Chủ tịch Hồ Chí Minh” (lời Thủ tướng Phạm Văn Đồng). Đồng chí Hoàng Văn Thái được các tướng lĩnh cao cấp trong Quân đội ta đánh giá: “Là một nhà chỉ đạo, chỉ huy toàn diện, rất coi trọng nhân tố chính trị, yếu tố nhân dân và là một nhà tham mưu lão luyện”, “là một vị tướng có đức độ và tài năng”, “không những có kinh nghiệm về công tác tham mưu mà còn là một vị tướng chỉ huy có tài năng”.
Cũng từ những năm tháng bám sát thực tiễn, hết sức gắn bó với các chiến trường, gần gũi chiến sĩ, kết hợp nhuần nhuyễn quân sự và chính trị, tác chiến của bộ đội chủ lực và chiến tranh du kích, lại được đào tạo qua trường quân sự, đồng chí Hoàng Văn Thái đã trở thành một trong những người giỏi về lý luận, khoa học quân sự của Quân đội ta.
Từ những trải nghiệm trên chiến trường và trên nhiều cương vị công tác, trong suốt cuộc đời mình, Đại tướng Hoàng Văn Thái có nhiều đóng góp quan trọng trong công tác nghiên cứu khoa học quân sự, tổng kết chiến tranh và xây dựng ngành lịch sử quân sự Việt Nam. Đồng chí đã viết hơn mười tác phẩm hồi ký và luận văn quân sự cùng hàng trăm bài viết đăng trên các báo, tạp chí. Khối lượng lớn các tác phẩm, công trình nghiên cứu khoa học mà Đại tướng Hoàng Văn Thái để lại mãi mãi là tài sản tinh thần vô giá cho Đảng, Quân đội và nhân dân ta...
Đại tướng Chu Huy Mân (Chu Văn Điều) // Sách Tướng lĩnh quân đội nhân dân Việt Nam qua hai cuộc chiến tranh. - H.: Quân đội nhân dân, 2007. - Tr. 61-62
Đồng chí Chu Huy Mân sinh năm 1913, Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị Quân đội nhân dân Việt Nam (1977- 1986). Quê xã Hưng Hòa, thành phố Vinh, tỉnh Nghệ An. Đồng chí tham gia cách mạng năm 1929 (đội phó Tự vệ đỏ xã), nhập ngũ năm 1945, Đại tướng năm 1980; đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam năm 1930. Đồng chí nhiều lần bị thực dân Pháp bắt giam; năm 1940 bị đưa đi an trí ở Đắc Lay, Đắc Tô, Kon Tum. Năm 1943 vượt ngục, tiếp tục hoạt động cách mạng. Trong Cách mạng tháng Tám 1945, tham gia lãnh đạo khởi nghĩa ở Quảng Nam, Phó bí thư Tỉnh ủy, Chính trị viên Chi đội Quảng Nam. Trong kháng chiến chống Pháp, 1945 đến 1951 là Chủ tịch Ban quân chính Khu C (gồm 4 tỉnh Trung Bộ), Chính trị viên Mặt trận Đường 9, Tham mưu chủ nhiệm Liên khu 4, Trung đoàn trưởng, Chính ủy trung đoàn. Năm 1951 đến 1954 là Phó chính ủy rồi Chính ủy Đại đoàn 316.
Trong kháng chiến chống Mỹ, 1954 đến 1963 là Đoàn trưởng Đoàn 100 (đoàn chuyên gia quân sự Việt Nam tại Lào); Chính ủy: Quân khu 4, Quân khu Tây Bắc; Tổng cố vấn Việt Nam cho Chính phủ liên hiệp Lào của Thủ tướng Xu-va-na Phu-ma. Năm 1964 đến 1965 là Chính ủy Quân khu 5. Năm 1965 đến 1967 là Tư lệnh kiêm Chính ủy Mặt trận Tây Nguyên, chỉ huy các chiến dịch: Plây Me (1965), Sa Thầy (1966). Cuối năm 1967 đến 1976 là Tư lệnh, kiêm Chính ủy (1975) Quân khu 5, Chính ủy chiến dịch Đà Nẵng (28-29.3.1975). Năm 1977 đến 1986 là Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị, Phó bí thư Đảng ủy Quân sự Trung ương; Phó Chủ tịch Hội đồng Nhà nước (1981-1986). Đồng chí là ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam khóa III-V; Ủy viên Bộ Chính trị khóa IV, V; đại biểu Quốc hội khóa II, VI, VII. Đồng chí được Đảng và Nhà nước tặng thưởng Huân chương: Sao vàng, Hồ Chí Minh, Quân công (hạng nhất, 2 hạng nhì), Chiến công (hạng nhất, hạng nhì), Chiến thắng hạng nhất...
Trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, đồng chí Chu Huy Mân đã trực tiếp gắn bó với địa bàn Khu 5 - Tây Nguyên, trực tiếp cùng quân dân nơi đây đương đầu với những khó khăn gian khổ, khắc phục những thiếu thốn đủ bề, xây dựng lực lượng vũ trang mạnh, xây dựng mối đoàn kết quân dân gắn bó, thực hiện thắng lợi nhiệm vụ chiến lược của Đảng giao cho. Đặc biệt, công tác đảng, công tác chính trị đã tập trung xây dựng con người, tổ chức vững mạnh, chiến đấu giỏi, dám đánh, biết đánh và quyết thắng. Điều đó thể hiện rõ trong nghiên cứu sâu về đối tượng tác chiến, sáng tạo trong cách đánh, truyền thụ được tư tưởng quân sự của Đảng tới từng người chiến sĩ, được thể hiện qua hành động cụ thể với phương châm: “Nắm thắt lưng địch mà đánh” được phổ biến trên chiến trường.
Chính vì vậy, vượt qua mọi cam go khổ cực, đồng chí đã cùng quân dân Khu 5 - Tây Nguyên quyết thắng từ trận đầu khi đối mặt với đối tượng tác chiến mới, với phương tiện chiến tranh hiện đại, từng bước đánh tiêu hao tiêu diệt sinh lực địch từ nhỏ đến lớn, tạo được bước trưởng thành vững chắc trong từng trận chiến đấu, từng chiến dịch, thực hiện thắng lợi tư tưởng chỉ đạo chiến lược của Đảng.
Thực tiễn chiến trường đã khẳng định, đồng chí Chu Huy Mân với bí danh Hai Mạnh đã làm tròn nhiệm vụ được Bác Hồ giao là mạnh về chính trị, mạnh về quân sự. Đồng thời qua thực tiễn chiến trường, đồng chí Chu Huy Mân vừa chiến đấu, vừa công tác, vừa tự học tự rèn, luôn sáng suốt, dũng cảm, quyết đoán, hoàn thành tốt nhiệm vụ và trọng trách mà Đảng, Quân đội và nhân dân tin cậy giao phó.
Thượng tướng Nguyễn Hữu An // Sách Chân dung tướng lĩnh trong lịch sử Việt Nam qua hai cuộc chiến tranh (1945 - 1975). - H.: Lao động, 2011. - Tr. 317-318
Thượng tướng Nguyễn Hữu An sinh tháng 9 năm 1926 ở xã Trường Yên, huyện Gia Viễn (nay là Hoa Lư), tỉnh Ninh Bình. Đồng chí tham gia quân đội tháng Tám năm 1945 và từ đó liên tục chiến đấu trên nhiều chiến trường trong hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ.
Trong kháng chiến chống Pháp, đồng chí Nguyễn Hữu An trưởng thành từ chiến sĩ đến trung đoàn trưởng. Tham gia chiến dịch Điện Biên Phủ lịch sử, Trung đoàn 174 Đại đoàn 316 do Nguyễn Hữu An chỉ huy được giao đảm nhiệm đánh chiếm đồi A1 - lá chắn phía Đông của tập đoàn cứ điểm và là một vị trí trọng yếu bảo vệ chỉ huy sở của tướng Đờ Cát. Trận đánh kéo dài, đòihỏi ở người chỉ huy bản lĩnh vững vàng, ý chí và trí tuệ kiên cường, sắc sảo: tập trung được sức mạnh ý chí của toàn đơn vị quyết giành thắng lợi. Sau gần 2 tháng giằng co quyết liệt giữa ta và địch, sáng ngày 7 tháng 5 Trung đoàn 174 đã đập tan hoàn toàn sức kháng cự cuối cùng của địch, làm chủ A1, mở toang cánh cửa sắt cho quân ta tiến vào hầm chỉ huy tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ.
Trong kháng chiến chống Mỹ, đồng chí Nguyễn Hữu An được giao đảm nhiệm: Tham mưu phó Sư đoàn 316, Tham mưu phó Quân khu Tây Bắc (1955 - 1964); Phó Tư lệnh Mặt trận Tây Nguyên, Sư đoàn trưởng các Sư đoàn 6 và 1 (1964 - 1967). Từ 1968 đến 1974 là Tham mưu trưởng Quân khu Hữu Ngạn; Sư đoàn trưởng Sư đoàn 308, Phó Tư lệnh các mặt trận: 31, Đường 9 và Quân khu Trị - Thiên. Năm 1975 là Tư lệnh Quân đoàn 2 tham gia Chiến dịch Hồ Chí Minh. Trải qua nhiều cương vị công tác, sống gắn bó với cán bộ, chiến sĩ trên nhiều chiến trường gian khổ và ác liệt, đồng chí Nguyễn Hữu An đã tỏ rõ bản lĩnh của "nhà chỉ huy quân sự quyết đoán và mưu lược". Đồng chí đã cùng bao đồng đội và nhân dân viết nên những bản anh hùng ca tuyệt đẹp - những chiến thắng còn vang vọng trong lịch sử như: Plây Me, Tu Mơ Rông, Ia Đrăng (Tây Nguyên), chiến dịch Đường 9 - Nam Lào, chiến dịch Cánh Đồng Chum. Trong Chiến dịch Hồ Chí Minh Xuân 1975, lực lượng Quân đoàn 2 do Nguyễn Hữu An chỉ huy nằm trong cánh quân phía Đông thần tốc hành tiến dọc miền duyên hải, giải phóng Huế, Đà Nẵng, Phan Rang, Phan Thiết... và cắm lá cờ giải phóng trên nóc Dinh Độc lập trưa ngày 30 tháng 4 năm 1975.
Đất nước thống nhất, đồng chí Nguyễn Hữu An tiếp tục đảm nhiệm: Phó Tổng thanh tra quân đội (1981 - 1984); Phó Tư lệnh kiêm Tham mưu trưởng, quyền Tư lệnh Quân khu 2 (1984 - 1987). Từ năm 1988 đến 1991 là Giám đốc Học viện Lục quân, sau đó là Giám đốc Học viện Quốc phòng (1991 - 1995)...
Thượng tướng Nguyễn Hữu An vinh dự được Đảng, Nhà nước trao tặng nhiều phần thưởng cao quý: Huân chương Độc lập hạng Nhất, ba Huân chương Quân công (hai hạng Nhất, một hạng Ba), ba Huân chương Chiến công (hạng Nhất, hạng Nhì, hạng Ba).
Thượng tướng Vũ Lăng // Sách 130 danh tướng, tướng lĩnh Việt Nam trong lịch sử dân tộc và trong thời đại Hồ Chí Minh. - H.: Lao động, 2011. - Tr. 347-348
1. Họ và tên: Vũ Lăng (Đỗ Đức Liêm)
2. Năm sinh: 1921; Mất năm 1988.
3. Cấp bậc, chức vụ cao nhất: Thượng tướng, Tư lệnh đầu tiên của Quân đoàn 3.
4. Quê quán: Xã Ngũ Hiệp, huyện Thanh Trì, Thành phố Hà Nội.
5. Trú quán: Quận 3, Thành phố Hồ Chí Minh.
6. Thành phần: Dân nghèo.
7. Năm tham gia cách mạng: Năm 1945.
8. Năm nhập ngũ: Năm 1945.
9. Năm vào Đảng Cộng sản Việt Nam: năm 1947
10. Năm phong quân hàm cấp tướng: Thiếu tướng 1974; Trung tướng năm 1980; Thượng tướng năm 1986.
11. Quá trình tham gia cách mạng:
Năm 1945, đồng chí tham gia hoạt động ở địa phương và là một trong những chiến sĩ đầu tiên chiến đấu ở mặt trận Nha Trang - Ninh Hòa. Năm 1947, đồng chí nhập ngũ (trưởng thành từ cán bộ Trung đội lên đến Trung đoàn trưởng). Vào ngày toàn quốc kháng chiến chống Pháp bùng nổ, đồng chí là quyết tử quân của trung đoàn Thủ đô, tham gia chiến đấu bảo vệ Bắc Bộ phủ. Sau khi rút lui an toàn không mất một người lính, một khẩu súng nào vào đêm 17/2/1947 của trung đoàn Thủ đô ra vùng tự do, đồng chí là tiểu đoàn trưởng tiểu đoàn 54, trung đoàn Thủ đô (E102), đại đoàn 308. Đồng chí đã chỉ huy tiểu đoàn trong trận hạ đồn Đại Bục, mở màn chiến dịch tấn công vào phòng tuyến sông Thao, đúng ngày sinh nhật của Hồ Chủ tịch năm 1949. Năm 1953, đồng chí là trung đoàn trưởng trung đoàn 98, đại đoàn 316. Trong chiến dịch Điện Biên Phủ, trung đoàn 98 do đồng chí chỉ huy đã anh dũng chiến đấu vàchiến thắng trong trận đánh đồi C1 góp phần quan trọng vào chiến thắng của chiến dịch lịch sử. Từ năm 1954 đến năm 1964, đồng chí là Tham mưu trưởng Sư đoàn 316, sau đó là Phó cục trưởng Cục Khoa học Quân sự Bộ Tổng tham mưu. Tháng 3 năm 1965, đồng chí là Phó Tư lệnh Quân khu 4, rồi Phó Cục trưởng Cục Tác chiến Bộ Tổng tham mưu. Năm 1968, đồng chí là Cục phó Cục Tác chiến Bộ Tổng tham mưu, kiêm Phó Tư lệnh Mặt trận Khe Sanh. Tháng 5 năm 1969, đồng chí là Phó viện trưởng Viện Khoa học Quân sự Bộ Quốc phòng. Năm 1971, đồng chí là Phó Tư lệnh Mặt trận Đường 9 Nam Lào, Cục trưởng Cục Tác chiến Bộ Tổng tham mưu. Tháng 6 năm 1974, đồng chí là Tư lệnh Mặt trận Tây Nguyên. Tháng 3 năm 1975, đồng chí là Tư lệnh Quân đoàn 3. Trên cương vị là Cục trưởng Cục tác chiến Bộ Tổng Tham mưu, rồi Tư lệnh mặt trận Tây Nguyên và Phó Tư lệnh chiến dịch Tây Nguyên, đồng chí đã xây dựng phương án tác chiến, tham mưu chỉ huy và đánh thắng lợi trong trận Buôn Ma Thuột giải phóng Tây Nguyên, tạo bước đột phá quan trọng trong sự nghiệp đấu tranh thống nhất đất nước. Trong chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, đồng chí đảm nhiệm hướng Tây Bắc, là tấn công chủ yếu của chiến dịch, tiêu diệt Sưđoàn 25 của Quân lực Việt Nam Cộng hòa, sau đó tiếp tục đánh chiếm sân bay Tân Sơn Nhất và Bộ Tổng Tham mưu ngụy. Quân đoàn 3 dưới sự chỉ huy của đồng chí đã nhanh chóng bao vây chia cắt, đập tan mọi sự kháng cự của Sưdoàn 25, là quân đoàn đầu tiên đặt chân đến cửa ngõ Sài Gòn và vào ngày 30/4/1975 đã giương cao lá cờ Quyết chiến Quyết thắng của quân đoàn trên nóc tòa nhà Bộ Tư lệnh Không quân và Bộ Tổng tham mưu của quân đội SàiGòn. Từ tháng 3 năm 1977 đến năm 1988, đồng chí là Viện trưởng Học viện Lục quân. Từ năm 1977, đồng chí kiêm Phó Chủ tịch Hội đồng Khoa học Quân sự Bộ Quốc phòng.
12. Học vị: Giáo sư
13. Phần thưởng được Đảng, Nhà nước trao tặng:
- Huân chương Độc lập hạng Nhất.
- Hai huân chương Quân công hạng Nhất.
- Huân chương Quân công hạng Ba.
- Huân chương Chiến thắng hạng Nhất.
- Huân chương Kháng chiến hạng Nhất.
- Huân chương Kháng chiến chống Mỹ hạng Nhất.
- Huân chương Chiến sỹ vẻ vang hạng Nhất, Nhì, Ba.
- Huy chương Quân kỳ Quyết thắng,
- Huy hiệu 40 năm tuổi Đảng.
Thượng tướng Hoàng Minh Thảo // Sách 130 danh tướng, tướng lĩnh Việt Nam trong lịch sử dân tộc và trong thời đại Hồ Chí Minh. - H.: Lao động, 2011. - Tr. 424 -425
1. Họ và tên (bí danh): Hoàng Minh Thảo (Tạ Thái An).
2. Năm sinh: 1921
3. Quê quán: Xã Bảo Khê, huyện Kim Động, tỉnh Hưng Yên.
4. Trú quán: Số nhà 69 Phùng Chí Kiên, quận Cầu Giấy, TP. Hà Nội
5. Thành phần: Trung nông
6. Năm tham gia cách mạng: 1937
7. Năm nhập ngũ: 1944
8. Năm vào Đảng: 1945
9. Năm phong quân hàm cấp tướng: Thiếu tướng ngày 31 tháng 8 năm 1959; Trung tướng tháng 4 năm 1974; Thượng tướng năm 1984.
10. Cấp bậc, chức vụ cao nhất: Thượng tướng, Viện trưởng Viện Chiến lược Bộ Quốc phòng.
11. Quá trình tham gia cách mạng:
Năm 1944, đồng chí hoạt động du kích huyện Tràng Định, Lạng Sơn. Tháng 7 năm 1945 tham gia Tỉnh ủy, là Ủy viên dự khuyết Tỉnh ủy lâm thời tỉnh Lạng Sơn. Tháng 10 năm 1945, đồng chí Phụ trách Khu trưởng Chiến khu 3 miền duyên hải tả ngạn sông Hồng. Tháng 8 năm 1948, đồng chí là Phó Tư lệnh Liên khu 3. Tháng 8 năm 1949, đồng chí là Tư lệnh Liên khu 4. Tháng 5 năm 1950 đến năm 1953, đồng chí là Đại đoàn trưởng Đại đoàn 304.
Năm 1954, đồng chí là Hiệu phó Trường Bổ túc Quân sự Trung cao cấp. Năm 1959, đồng chí là Hiệu trưởng Trường Bổ túc Quân sự Trung cao cấp.
Tháng 11 năm 1966, đồng chí là Phó Tư lệnh Mặt trận B3. Năm 1967, đồng chí là Tư lệnh Mặt trận Tây Nguyên. Tháng 8 năm 1974, đồng chí là Phó Tư lệnh Quân khu 5.
Tháng 3 năm 1975, đồng chí là Tư lệnh chiến dịch Tây Nguyên và là Chỉ huy trưởng trận đánh Buôn Mê Thuột.
Năm 1976, đồng chí là Viện trưởng Học viện Lục Quân. Từ năm 1977 đến năm 1989, đồng chí là Viện trưởng Học viện Quân sự cấp cao (nay là Học viện Quốc phòng). Năm 1987, đồng chí là Phó Chủ tịch Hội đồng Khoa học Quân sự Bộ Quốc phòng. Năm 1990, đồng chí là Viện trưởng Viện Chiến lược Quân sự Bộ Quốc phòng. Năm 1988, đồng chí là Ủy viên Ban Biên soạn từ điển Bách khoa Quân sự Việt Nam. Năm 1996, đồng chí là Phó trưởng ban chỉ đạo biên soạn từ điển Bách khoa Quân sự Việt Nam.
Đồng chí là tác giả của nhiều tác phẩm quân sự Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam khóa IV (1976 - 1981), Ủy viên chính thức (1981 - 1982).
12. Học hàm: Giáo sư khoa học quân sự
13. Danh hiệu: Nhà giáo nhân dân
14. Phần thưởng được Đảng, Nhà nước trao tặng:
- Huân chương Hồ Chí Minh
- Huân chương Độc lập hạng Nhất
- Huân chương Quân công hạng Nhất
- Huân chương Chiến công hạng Nhất
- Huân chương Chiến thắng hạng Nhất
- Huân chương Kháng chiến chống Mỹ hạng Nhất
- Huân chương Chiến sỹ vẻ vang hạng Nhất, Nhì, Ba
- Huân chương Chiến sỹ giải phóng hạng Nhất, Nhì, Ba
- Huy chương Quân kỳ Quyết thắng
- Huy hiệu 50 năm tuổi Đảng.
Thượng tướng Trần Văn Trà // Sách 130 danh tướng, tướng lĩnh Việt Nam trong lịch sử dân tộc và trong thời đại Hồ Chí Minh. - H.: Lao động, 2011. - Tr. 443 - 444
1. Họ và tên (bí danh): Trần Văn Trà (Nguyễn Chấn).
2. Năm sinh: 1919; Mất ngày 20 tháng 4 năm 1996.
3. Quê quán: Xã Tịnh Long, huyện Sơn Tịnh, tỉnh Quảng Ngãi.
4. Trú quán: số nhà 161, đường Pasteur, quận 3, TP. Hồ Chí Minh.
5. Thành phần: Bần nông
6. Năm tham gia cách mạng: 1936
7. Năm nhập ngũ: 1945
8. Năm vào Đảng Cộng sản Việt Nam: 1938
9. Năm phong quân hàm cấp tướng: Trung tướng ngày 31 tháng 8 năm 1959; Thượng tướng tháng 4 năm 1974.
10. Cấp bậc, chức vụ cao nhất: Thượng tướng; Thứ trưởng Bộ Quốc phòng; Tư lệnh Quân giải phóng miền.
11. Quá trình tham gia cách mạng:
Đồng chí tham gia cách mạng từ năm 1936, hoạt động trong Đoàn Thanh niên Dân chủ Huế. Tháng 8 năm 1938, đồng chí được kết nạp vào Đảng Cộng sản Đông Dương. Tháng 12 năm 1939 đồng chí bị địch bắt tại Sài Gòn, chúng đưa về giam tại nhà lao Huế và nhà lao Thừa Thiên, sau 5 tháng được trả lại tự do nhưng bị quản thúc vô thời hạn ở quê. Tháng 3 năm 1941, đồng chí trốn lên Đà Lạt tiếp tục hoạt động rồi về Nha Trang, sau đó trở lại Sài Gòn thì bắt được liên lạc với Đảng. Đồng chí được giao phụ trách Giải phóng và cơ quan ấn loát của Kỳ Bộ Việt Minh. Tháng 11 năm 1944 đồng chí bị địch bắt lần thứ hai, chúng giam tại Khám Lớn Sài Gòn.
Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công, đồng chí là Ủy viên Kỳ bộ Việt Minh Nam Bộ. Từ năm 1945 đến 1949, đồng chí được giao giữ các chức vụ: Ủy viên Chính trị Liên quân Hoóc Môn - Bà Điểm; Khu trưởng Khu 8; Xứ ủy viên Nam Bộ. Ngày 31 tháng 3 năm 1949 đồng chí được Chủ tịch nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa cử làm Phó Tư lệnh Bộ Tư lệnh Nam Bộ. Từ năm 1950 đến năm 1954 đồng chí là Phó Tư lệnh Bộ Tư lệnh Nam Bộ kiêm Tư lệnh và Chính ủy Khu Sài Gòn - Chợ Lớn; Khu ủy viên; Tư lệnh Phân liên khu miền Đông Nam Bộ; Phân liên Khu ủy.
Năm 1955 đồng chí giữ chức vụ Tổng Tham mưu Phó Quân đội nhân dân Việt Nam. Tháng 4 năm 1958 đồng chí được Chủ tịch nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa bổ nhiệm giữ chức Phó Chủ nhiệm Tổng cục Quân huấn. Năm 1962 đồng chí là Giám đốc Học viện Quân chính và Chánh án Tòa án Quân sự Trung ương. Năm 1963 đồng chí được Trung ương cử vào miền Nam đảm nhiệm chức vụ: Tư lệnh Quân giải phóng miền Nam Việt Nam, Phó Bí thư Quân ủy Quân giải phóng miền Nam, Ủy viên Trung ương Cục miền Nam.
Ngày 1 tháng 3 năm 1973 đồng chí là Trưởng đoàn đại biểu Quân sự Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam tại Ban Liên hợp Quân sự bốn bên ở Sài Gòn, Phó bí thư Quân ủy Quân giải phóng miền Nam Việt Nam.
Năm 1975 đồng chí là Phó Tư lệnh Chiến dịch Hồ Chí Minh.
Ngày 5 tháng 12 năm 1975 đồng chí là Chủ tịch Ủy ban Quân quản thành phố Sài Gòn - Gia Định.
Từ năm 1976 đến năm 1978 đồng chí là Tư lệnh kiêm Chính ủy Quân khu 7.
Từ năm 1978 đến năm 1982 đồng chí là Thứ trưởng Bộ Quốc phòng.
Đồng chí là Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam dự khuyết khóa III (năm 1960), chính thức khóa IV (năm 1976).
Đồng chí là Đại biểu Quốc hội khóa VI.
Năm 1982 đồng chí được Nhà nước cho nghỉ hưu.
Từ năm 1993 đến năm 1996 đồng chí là Phó Chủ tịch Hội Cựu chiến binh Việt Nam, kiêm Chủ tịch Hội Cựu chiến binh Thành phố Hồ Chí Minh.
12. Phần thưởng được Đảng, Nhà nước trao tặng:
- Hai Huân chương Hồ Chí Minh.
- Huân chương Quân công hạng Nhất
- Huân chương Quân công hạng Ba
- Huân chương Chiến công hạng Nhất
- Huân chương Chiến thắng hạng Nhất
- Huân chương Kháng chiến hạng Nhất
- Huân chương Kháng chiến chống Mỹ hạng Nhất
- Huân chương Chiến sỹ vẻ vang hạng Nhất, Nhì, Ba
- Huân chương Chiến sỹ Giải phóng hạng Nhất, Nhì, Ba
- Huy hiệu 50 năm tuổi Đảng.
Thượng tướng Hoàng Cầm // Sách 130 danh tướng, tướng lĩnh Việt Nam trong lịch sử dân tộc và trong thời đại Hồ Chí Minh. - H.: Lao động, 2011. - Tr. 247 - 248
1. Họ và tên: Hoàng Cầm (Đỗ Văn Cẩm).
2. Năm sinh: 1920
3. Quê quán: Xã Cao Sơn, huyện Ứng Hòa, tỉnh Hà Tây (cũ).
4. Trú quán: số nhà 244 đường Pasteur, phường 6, quận 3, TP. Hồ Chí Minh.
5. Thành phần: Nông dân
6. Năm tham gia cách mạng: 1945
7. Năm nhập ngũ: 1945
8. Năm vào Đảng Cộng sản Việt Nam: 1947
9. Năm phong quân hàm cấp tướng: Thiếu tướng năm 1974; Trung tướng năm 1980; Thượng tướng năm 1984.
10. Cấp bậc, chức vụ cao nhất: Thượng tướng; Phó Tham mưu trưởng Quân giải phóng Miền; Tư lệnh Quân đoàn 4.
11. Quá trình tham gia cách mạng:
Năm 1945 đồng chí nhập ngũ. Trong kháng chiến chống Pháp, đồng chí trưởng thành từ chiến sỹ đến trung đoàn trưởng. Tháng 9 năm 1954 đến năm 1963, đồng chí là Tham mưu trưởng Sư đoàn, Phó Sư đoàn trưởng rồi Sư đoàn trưởng Sư đoàn 312. Từ năm 1964 đến năm 1970, đồng chí hoạt động ở chiến trường miền Đông Nam Bộ, là Sư đoàn trưởng Sư đoàn 9, rồi Phó Tham mưu trưởng Quân giải phóng miền Nam, Phó Tư lệnh và Tư lệnh một số chiến dịch ở miền Đông Nam Bộ. Từ năm 1970 đến năm 1974, đồng chí là Tham mưu trưởng Quân giải phóng miền Nam, kiêm Tư lệnh đoàn 301. Năm 1974, đồng chí là Tư lệnh đầu tiên của Quân đoàn 4, tham gia Chiến dịch Hồ Chí Minh từ năm 1975. Từ năm 1977 đến năm 1979, đồng chí kiêm Chính ủy Quân đoàn 4. Từ năm 1981 đến tháng 3 năm 1982 đồng chí là Phó Tư lệnh Quân tình nguyện Việt Nam tại Campuchia. Từ tháng 4 năm 1982 đến năm 1986, đồng chí là Tư lệnh Quân khu 4. Từ năm 1987 đến năm 1992, đồng chí là Tổng Thanh tra Quân đội. Đồng chí là ủy viên Trung ương Đảng khóa VI. Đồng chí là đại biểu Quốc hội khóa VII.
12. Phần thưởng được Đảng, Nhà nước trao tặng:
- Huân chương Hồ Chí Minh
- Huân chương Quân công hạng Nhất
- Huân chương Quân công hạng Nhì
- Huân chương Chiến thắng hạng Nhất
- Huân chương Kháng chiến chống Mỹ hạng Nhất
- Huân chương Chiến sỹ vẻ vang hạng Nhất, Nhì, Ba.
- Huy hiệu 50 năm tuổi Đảng.
Thượng tướng Đàm Quang Trung // Sách 130 danh tướng, tướng lĩnh Việt Nam trong lịch sử dân tộc và trong thời đại Hồ Chí Minh. - H.: Lao động, 2011. - Tr. 449 - 450
1. Họ và tên (Bí danh): Đàm Quang Trung (Đàm Ngọc Lưu).
2. Năm sinh: Sinh ngày 12 tháng 9 năm 1921, Mất ngày 3 tháng 3 năm 1995.
3. Quê quán: Xã Xóc Hòa, Huyện Hà Quảng, Tỉnh Cao Bằng.
4. Trú quán: Thành phố Hà Nội.
5. Năm tham gia cách mạng: 1937.
6. Ngày vào Đảng Cộng sản Việt Nam - Chính thức: tháng 2 năm 1939.
7. Năm nhập ngũ: Tháng 12 năm 1944.
8. Cấp bậc, chức vụ cao nhất: Thượng tướng; Tư lệnh Quân khu I.
9. Năm phong quân hàm cấp tướng: Thiếu tướng tháng 4 năm 1974; Trung tướng tháng 1 năm 1980; Thượng tướng năm 1984.
10. Quá trình tham gia cách mạng:
Năm 1937, đồng chí tham gia hoạt động cách mạng ở xã. Tháng 2 năm 1939, đồng chí được kết nạp vào Đảng Cộng sản Đông Dương. Tháng 5 năm 1940, đồng chí bị đế quốc Pháp bắt. Tháng 3 năm 1941, ra tù đồng chí được tổ chức cử sang Tĩnh Tây - Trung Quốc phục vụ cho cơ quan lãnh đạo của Đảng ở hải ngoại rồi được cử đi học ở Trường Quân sự Quảng Tây. Cuối năm 1944, đồng chí về nước tham gia huấn luyện du kích ở các xã vùng biên giới.
Tháng 12 năm 1944, đồng chí là Trung đội trưởng Đội Việt Nam Tuyên truyền Giải phóng quân, sau đó là Đại đội trưởng rồi Chi đội trưởng. Tháng 8 năm 1945, đồng chí tham gia chiến đấu giành chính quyền ở Thái Nguyên.
Trong kháng chiến chống Pháp đồng chí được giao các nhiệm vụ: Khu đội trưởng Khu đặc biệt Hà Nội, Trung đoàn trưởng, Đại đoàn trưởng, chỉ huy Mặt trận Quảng Nam - Đà Nẵng. Sau đó, đồng chí là Khu phó Liên khu 5 kiêm Trung đoàn trưởng Trung đoàn chủ lực Liên khu 5.
Từ năm 1953 đến năm 1954, đồng chí là Đại đoàn phó Đại đoàn 312, Đảng ủy viên Đại đoàn. Tháng 3 năm 1955, đồng chí là Tư lệnh Đại đoàn 312, sau đó là Tư lệnh Quân khu Đông Bắc kiêm Tư lệnh Đại đoàn 312.
Tháng 4 năm 1958, đồng chí là Phó Tư lệnh Quân khu Tả Ngạn, được phong quân hàm đại tá.
Tháng 3 năm 1961, đồng chí là Tư lệnh Quân khu Việt Bắc, Thường vụ Quân khu ủy. Tháng 8 năm 1966, đồng chí là Tư lệnh Bộ Tư lệnh tiền phương kiêm Phó Tư lệnh, sau là Tư lệnh Quân khu 4, Bí thư Quân khu ủy Quân khu 4. Năm 1974, đồng chí được phong quân hàm thiếu tướng. Tháng 7 năm 1976, đồng chí là Tư lệnh kiêm Chính ủy Quân khu 1, Bí thư Quân khu ủy.
Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IV (tháng 12 năm 1976), đồng chí được bầu vào Ban Chấp hành Trung ương Đảng, ủy viên Đảng ủy Quân sự Trung ương. Năm 1980, đồng chí được phong quân hàm Trung tướng.
Tháng 7 năm 1981, đồng chí được Quốc hội khóa VII cử làm ủy viên Hội đồng Nhà nước.
Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ V (tháng 3 năm 1982) đồng chí được bầu vào Ban Chấp hành Trung ương Đảng. Năm 1984, được phong quân hàm Thượng tướng giữ chức Tư lệnh Quân khu 1, Bí thư Đảng ủy Quân khu.
Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI (tháng 12 năm 1986), đồng chí được bầu vào Ban Chấp hành Trung ương Đảng, được Trung ương bầu vào Ban Bí thư. Đồng chí là Đại biểu Quốc hội từ khóa V đến khóa VIII.
Năm 1987 đồng chí được Quốc hội khóa VIII bầu làm Phó Chủ tịch Hội đồng Nhà nước, Chủ tịch Hội đồng Dân tộc.
11. Phần thưởng được Đảng, Nhà nước trao tặng:
- Huân chương Hồ Chí Minh.
- Huân chương Quân công hạng Nhất.
- Huân chương Chiến công hạng Nhất.
- Huân chương Chiến thắng hạng Nhất.
- Huân chương Kháng chiến chống Mỹ hạng Nhất.
- Huân chương Chiến sỹ vẻ vang hạng Nhất, Nhì, Ba.
- Huy chương Quân kỳ Quyết thắng.
- Huy hiệu 50 năm tuổi Đảng.
Trung tướng Nguyễn Bình // Sách 130 danh tướng, tướng lĩnh Việt Nam trong lịch sử dân tộc và trong thời đại Hồ Chí Minh. - H.: Lao động, 2011. - Tr. 242 - 243
1. Họ và tên: Nguyễn Bình (Tên thật là Nguyễn Phương Thảo).
2. Năm sinh: Sinh năm 1908; Mất ngày 29 tháng 9 năm 1951.
3. Quê quán: Làng An Phú, xã Tịnh Tiến, huyện Yên Mỹ, tỉnh Hưng Yên.
4. Thành phần: Dân nghèo.
5. Năm tham gia cách mạng: 1935.
6. Năm nhập ngũ: 1944.
7. Ngày vào Đảng Cộng sản Việt Nam - Chính thức: Năm 1946.
8. Cấp bậc, chức vụ cao nhất: Trung tướng, Chỉ huy trưởng chiến khu Đông Triều, Khu trưởng Khu VII.
9. Năm phong quân hàm cấp tướng: Trung tướng ngày 20 tháng 01 năm 1948.
10. Quá trình tham gia cách mạng:
Từ năm 1925 đến năm 1927, đồng chí tham gia hoạt động trong phong trào học sinh. Năm 1928, đồng chí gia nhập Quốc dân Đảng do Nguyễn Thái Học lãnh đạo. Năm 1929, đồng chí bị thực dân Pháp bắt đày ra Côn Đảo. Trong nhà tù đế quốc được những người Cộng sản giác ngộ, đồng chí đã kiên quyết từ bỏ Quốc dân Đảng đi theo đường lối Đảng Cộng sản. Năm 1935, ra tù đồng chí tiếp tục hoạt động cách mạng trong phong trào Bình dân, bị địch bắt ở Thái Nguyên năm 1936 và Hưng Yên năm 1938. Năm 1942, đồng chí hoạt động ở Lai Châu. Năm 1943, đồng chí được Trung ương giao phụ trách binh vận mua sắm vũ khí cho cách mạng ở Hải Phòng, Đông Triều, Uông Bí, tham gia tổ chức và chỉ huy chiến khu Đông Triều.
Tháng 7 năm 1945, dồng chí chỉ huy đánh chiếm và giải phóng thị xã Quảng Yên. Trong Cách mạng Tháng Tám, đồng chí tham gia chỉ huy giành chính quyền ởKiến An - Hải Phòng, Hải Dương, sau đó đượcTrung ương chỉ định làm Khu trưởng Khu Duyên Hải, Bắc Bộ (nay là Quân khu III).
Tháng 10 năm 1945, đồng chí được Chủ tịch Hồ Chí Minh trực tiếp giao nhiệm vụ vào Nam Bộ. Tháng 11 năm 1945, đồng chí là Khu trưởng Khu VII. Năm 1946, đồng chí được kết nạp vào Đảng Cộng sản Đông Dương. Năm 1948, đồng chí được bổ nhiệm làm Tư lệnh chỉ huy Quân đội Quốc gia và dân quân Nam Bộ (Tư lệnh Nam Bộ). Ngày 25 tháng 1 năm 1948, đồng chí được Chủ tịch Hồ Chí Minh ký sắc lệnh phong quân hàm trung tướng.
Năm 1951, đồng chí được Trung ương triệu tập ra Bắc báo cáo tình hình Nam Bộ, trên đường thi hành nhiệm vụ, đồng chí bị địch phục kích và hy sinh ngày 2 tháng 9 năm 1951 tại tỉnh Ráp-ta-na-ki-ri, Căm-pu-chia.
11. Liệt sỹ
12. Phần thưởng được Đảng, Nhà nước trao tặng:
- Huân chương Hồ Chí Minh.
- Huân chương Quân công hạng Nhất...
- Huân chương Chiến thắng hạng Nhất.
Năm 2000 được sự giúp đỡ của Chính phủ Hoàng gia Campuchia, đội công tác của Bộ Quốc phòng đã tìm được hài cốt Trung tướng Nguyễn Bình đưa về nước ngày 29 tháng 2 năm 2000. Lễ truy điệu và mai táng hài cốt liệt sỹ Trung tướng Nguyễn Bình tổ chức trọng thể theo nghi thức quân đội tại hội trường Quân khu VII vào hồi 8h ngày 11 tháng 3 năm 2000 và tổ chức an táng cùng ngày tại nghĩa trang liệt sỹ Thành phố Hồ Chí Minh. Ông được Nhà nước truy tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân.
Trung tướng Cao Văn Khánh // Sách 130 danh tướng, tướng lĩnh Việt Nam trong lịch sử dân tộc và trong thời đại Hồ Chí Minh. - H.: Lao động, 2011. - Tr. 331 - 333
Ông sinh năm 1917 tại Huế, trong một gia đình quý tộc trí thức của triều Nguyễn. Được giáo dục theo văn hóa Pháp, thời trẻ, ông từng sang Pháp học bằng Cử nhân Luật và tham gia phong trào Hướng đạo Pháp. Cũng tại đây, ông có những tiếp xúc với một số trí thức trẻ như Phan Anh, Tạ Quang Bửu... . Chính vì vậy, sau khi tốt nghiệp về Việt Nam, nhưng ông lại không làm nghề luật mà trở thành một giáo sư tư thục ở Huế, và tiếp tục tham gia phong trào Hướng đạo Trung Kỳ.
Sau khi chính phủ Trần Trọng Kim được thành lập, do sự vận động của Phan Anh và Tạ Quang Bửu, ông tham gia trường Quân sự Thanh niên tiền tuyến. Khi Cách mạng tháng Tám nổ ra, ông trở thành Trung đội trưởng rồi Đại đội trưởng Giải phóng quân của Việt Minh ở Huế.
Khi quân Pháp nổ súng tại Nam Bộ, ông được cử theo đội quân Nam tiến, tiến quân vào Bình Định và trở thành ủy viên quân sự tỉnh Bình Định. Cuối năm 1945, ông được cử làm Khu trưởng Khu V (với chính ủy là Trần Lương, chính là tướng Trần Nam Trung sau này), rồi chỉ huy phó phân sở của ủy ban Hành chính Kháng chiến miền Nam (do Nguyễn Sơn làm Chủ tịch), phụ trách các tỉnh từ Phú Yên đến Bình Thuận. Giữa năm 1946, khi Đại đoàn 27 ra đời, ông được cử làm Đại đoàn phó, rồi Đại đoàn trưởng. Tháng 12 năm 1946, ông trở lại làm Khu trưởng Khu V một lần nữa.
Tháng 8 năm 1949, ông được điều về làm Đại đoàn phó cho Đại đoàn 308, Đại đoàn chủ lực đầu tiên của Bộ Tổng Tư lệnh, cùng tham gia chỉ huy của đại đoàn này trong nhiều chiến dịch lớn như Sông Thao 1949, Biên Giới 1950... Đầu năm 1954, để chuẩn bị cho chiến dịch Điện Biên Phủ, ông chỉ huy một bộ phận của đại đoàn này, cơ động mở đường hành quân sang Lào, tấn công quân Pháp dọc tuyến sông Nậm Hu, nhằm tiêu hao lực lượng có khả năng tiếp viện và bịt trước đường rút lui dự kiến của binh đoàn Pháp tại lòng chảo Điện Biên.
Sau Hiệp định Genève, ông được điều về làm Cục trưởng Cục Quân huấn. Tháng 4 năm 1958, ông giữ chức Cục trưởng Cục tổ chức Kế hoạch, kiêm Cục trưởng Cục Nhà trường, thuộc Tổng Cục Quân huấn. Tháng 10 năm 1960, ông trở thành Hiệu trưởng trường Sĩ quan Lục quân, quân hàm Đại tá.
Tháng 3 năm 1964, ông được điều vào chức vụ Phó tư lệnh, kiêm Tham mưu trưởng Quân khu III, nhằm mục đích chuẩn bị cho chiến trường miền Nam. Từ năm 1966 đến 1969, ông lần lượt giữ các chức vụ Phó tư lệnh của Chiến trường B3, Quân khu Trị Thiên, Quân Khu IV. Đến tháng 5 năm 1970, ông được điều làm Tư lệnh Mặt trận 968 Hạ Lào, kiêm Phó tư lệnh Binh đoàn B70. Từ tháng 2 năm 1971, ông là Phó tưlệnh Mặt trận Đường 9 Nam Lào, rồi Tư lệnh Mặt trận B5, kiêm Phó tư lệnh Quân khu IV. Từ tháng 12 năm 1972, ông trở thành Tư lệnh Quân khu Trị Thiên. Có thể nói, Cao Văn Khánh gắn bó với chiến trường miền Trung và Tây Nguyên suốt cuộc chiến tranh chống Mỹ, liên tục với các chiến dịch lớn như Đắc Tô (1966), Khe Sanh (1968), Đường 9 (1971), Quảng Trị (1972), Tây Nguyên (1974).
Năm 1974, ông được điều về làm việc tại cơ quan Bộ Tổng Tham mưu với chức vụ Phó Tổng Tham mưu trưởng và được thăng quân hàm Thiếu tướng (1974), rồi Trung tướng (1980), với nhiệm vụ thường trực, nắm tình hình chiến sự, truyền đạt các mệnh lệnh của Tổng tư lệnh đến các cánh quân, các lực lượng trên chiến trường, ông giữ chức vụ này liên tục cho đến ngày qua đời.
Năm 1949, trong buổi nói chuyện với các sinh viên trường Đại học Y khoa Việt Bắc, ông gặp một nữ sinh viên người đồng hương là Nguyễn Thị Ngọc Toản. Ngày 22 tháng 5 năm 1954, ông bà tổ chức đám cưới tại Điện Biên Phủ sau ngày chiến thắng, ngay trong hầm của tướng Christian de Castries.
Vợ của ông, bà Nguyễn Thị Ngọc Toản xuất thân trong gia đình quý tộc triều Nguyễn. Thân phụ của bà là ông Tôn Thất Đàn, từng giữ chức Thượng thư bộ Hình. Tên gốc của bà là Tôn Nữ Ngọc Toản. Người chị gái của bà là Tôn Nữ Thị Cung là phu nhân của Giáo sư Bác sĩ Đặng Văn Ngữ.
Bà Ngọc Toản hiện đang là Giáo sư, Bác sĩ Quân y, hàm Đại tá, Phó Chủ tịch Hội phụ sản Việt Nam. Bà cũng là ủy viên Trung ương Hội Nạn nhân chất độc da cam/Dioxin. Bà cũng là tác giả một số sách y học, với các chuyên đề về sinh sản và giới tính, kiến thức về bệnh ung thư gan... được người đọc đánh giá cao.
Ông bà có với nhau 4 người con, 3 trai 1 gái. Người con trai đầu tên là Cao Quý Vũ, là học sinh trường Nguyễn Văn Trỗi, đã qua đời trong chiến tranh. Người con trai thứ là Cao Quý Bảo từng phục vụ bộ đội, đã rời ngũ và hiện là doanh nhân, chủ nhân khu Resort Vạn Chài ở Thanh Hóa. Người con gái duy nhất là Cao Thị Bảo Vân hiện là Viện phó Viện Pasteur Thành phố Hồ Chí Minh. Người con trai út là Cao Quý Anh đã qua đời vào năm 2003 do bệnh ung thư gan từ di chứng của Dioxin.
Bản thân tướng Cao Văn Khánh cũng được xác định qua đời do bệnh ung thư gan từ di chứng của Dioxin. Theo lời của Thiếu tướng Nguyễn Đôn Tự kể với nhà báo Phùng Nguyên, trong một chuyến công tác qua huyện A Lưới - Thừa Thiên Huế, có 5 người gồm cả tướng Cao Văn Khánh, ông và 3 người nữa, đã có đi qua một khu vực bị rải Dioxin làm trụi lá cây. Sau chiến tranh, 4 người trong chuyến công tác ấy đều chết vì ung thư gan, riêng tướng Nguyễn Đôn Tự sinh một người con gái bị di chứng chất độc da cam, gây chậm phát triển.
Trung tướng Đồng Sĩ Nguyên (Nguyễn Văn Đồng) // Chân dung tướng lĩnh trong lịch sử Việt Nam qua hai cuộc chiến tranh (1945-1975). - H.: Lao động, 2011. - Tr. 413, 414
Trung tướng Đồng Sĩ Nguyên sinh năm 1923, quê ở xã Quảng Trung, huyện Quảng Trạch, tỉnh Quảng Bình.
Tham gia cách mạng năm 1938, được kết nạp Đảng năm 1939 rồi nhập ngũ năm 1945, đồng chí Đồng Sĩ Nguyên hoạt động tích cực trong phong trào cách mạng tỉnh Quảng Bình. Đồng chí tham gia thành lập Ban cán sự đảng, là Tỉnh ủy viên lâm thời (tháng 3 đến tháng 6-1945). Trong kháng chiến chống Pháp, đồng chí là ủy viên Thường vụ Tỉnh ủy, Chủ nhiệm Việt Minh, Chính trị viên kiêm Tỉnh đội trưởng Quảng Bình (1945-1948). Những năm 1950-1953, đồng chí là cán bộ Tổng cục Chính trị, Phó ban tổ chức đảng các chiến dịch: Hoàng Hoa Thám, Trần Hưng Đạo; Cục phó Cục Tổ chức; phái viên Bộ Tổng tư lệnh tham gia Ban chỉ huy Mặt trận Trung Lào; Trưởng đoàn kiểm tra phục vụ chiến dịch Điện Biên Phủ (1954), phụ trách công tác trao trả tù binh và đón tiếp bộ đội từ miền Nam tập kết ra miền Bắc (1954-1955).
Trong kháng chiến chống Mỹ, đồng chí Đồng Sĩ Nguyên được giao đảm nhiệm: Cục phó rồi Cục trưởng Cục Động viên dân quân (1956-1961); Phó Tổng tham mưu trưởng Quân đội nhân dân Việt Nam (1964-1965); Chính ủy Quân khu 4 kiêm Tư lệnh Đoàn 565, Tư lệnh Đoàn 559 kiêm chính ủy Đoàn 968 (1965-1975). Tháng 5-1976 là Chủ nhiệm Tổng cục Xây dựng kinh tế, Thứ trưởng Bộ Quốc phòng. Từ 1977 đến 1979 là Thứ trưởng rồi Bộ trưởng Bộ Xây dựng. Đồng chí là Tư lệnh kiêm Chính ủy Quân khu Thủ đô (tháng 3-1979); là Phó Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng (1982-1991); Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam từ khóa IV đến khóa VI; Ủy viên Bộ Chính trị khóa VI; đại biểu Quốc hội các khóa I, VI và VII. Đồng chí Đồng Sĩ Nguyên được Đảng, Nhà nước tặng thưởng Huân chương Hồ Chí Minh, Huân chương Chiến thắng hạng Nhất, Huân chương Chiến công hạng Nhất...
Trải hơn 60 năm hoạt động và công tác trên nhiều cương vị, nhiều địa bàn khác nhau, Trung tướng Đồng Sĩ Nguyên đã công hiến trọn vẹn tâm sức, trí tuệ và tài năng cho sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc và dựng xây đất nước.
Trung tướng Vương Thừa Vũ // Sách 130 danh tướng, tướng lĩnh Việt Nam trong lịch sử dân tộc và trong thời đại Hồ Chí Minh. - H.: Lao động, 2011. - Tr. 462 - 463
1. Họ và tên: Vương Thừa Vũ (Nguyễn Văn Đồi).
2. Năm sinh: 1910; Mất năm: 1980
3. Cấp bậc, chức vụ cao nhất: Trung tướng, Phó Tổng Tham mưu trưởng Quân đội nhân dân Việt Nam.
4. Quê quán: Xã Đại Hưng, huyện Thanh Trì, Thành phố Hà Nội
5. Trú quán: Ngõ 19, Liễu Giai, phường Cống Vị, quận Ba Đình, Thành phố Hà Nội
6. Thành phần: Dân nghèo
7. Năm tham gia cách mạng: 1942
8. Năm nhập ngũ: tháng 8 năm 1945
9. Năm vào Đảng Cộng sản Việt Nam: 1943
10. Năm phong quân hàm cấp tướng: Thiếu tướng năm 1954, Trung tướng năm 1974
11. Quá trình tham gia cách mạng:
Cuối năm 1941, đồng chí bị thực dân Pháp bắt. Năm 1942, đồng chí được giác ngộ cách mạng ở trại giam Bá Vân tỉnh Thái Nguyên. Năm 1943, đồng chí được kết nạp vào Đảng Cộng sản Đông Dương. Trong tù, đồng chí tham gia công tác binh vận, phụ trách công tác quân sự. Tháng 3 năm 1945, Nhật đảo chính Pháp, đồng chí được thả tự do. Ngày 3 tháng 7 năm 1945, đồng chí tham gia bạo động giành chính quyền ở tỉnh Nghĩa Lộ nhưng không thành. Sau đó đồng chí về tỉnh Bắc Ninh gây cơ sở cách mạng, huấn luyện quân sự. Năm 1946, đồng chí là Chỉ huy trưởng Bộ đội Hà Nội, Khu trưởng Khu 11 Hà Nội, Chỉ huy Quân sự Khu 2 bảo vệ Hà Nội. Từ năm 1947 đến năm 1948, đồng chí là Khu phó Khu 4 rồi Phân khu trưởng Phân khu Bình Trị Thiên. Tháng 4 năm 1949, đồng chí được giao nhiệm vụ tổ chức Đại đoàn 308 ở Việt Bắc. Từ năm 1949 đến năm 1954, đồng chí là Đại đoàn trưởng đầu tiên của Đại đoàn 308, kiêm Chính ủy Đại đoàn từ năm 1949 đến năm 1951. Từ năm 1949 đến năm 1954, đồng chí chỉ huy bộ đội chiến đấu tham gia nhiều chiến dịch lớn trong đó có chiến dịch Hòa Bình năm 1951, chiến dịch Tây Bắc năm 1952, đặc biệt là chiến dịch Điện Biên Phủ năm 1954. Tháng 10 năm 1954, đồng chí là Chủ tịch Ủy ban Quân chính Hà Nội.
Từ năm 1955 đến năm 1963, đồng chí là Tư lệnh Quân khu Hữu Ngạn. Từ năm 1964 đến năm 1980, đồng chí là Phó Tổng Tham mưu trưởng Quân đội nhân dân Việt Nam kiêm Giám đốc Học viện Quân chính (năm 1964), kiêm Tư lệnh Quân khu 4 (năm 1971).
Đồng chí là tác giả của nhiều tác phẩm quân sự có giá trị.
12. Phần thưởng được Đảng, Nhà nước trao tặng:
- Huân chương Hồ Chí Minh
- Huân chương Quân công hạng Nhất, hạng Ba.
- Huân chương Chiến thắng hạng Nhất
- Huân chương Kháng chiến chống Mỹ hạng Nhất
- Huân chương Chiến sỹ vẻ vang hạng Nhất, Nhì, Ba
- Huy chương Quân kỳ Quyết thắng.
Trung tướng Lê Văn Tri // Sách 130 danh tướng, tướng lĩnh Việt Nam trong lịch sử dân tộc và trong thời đại Hồ Chí Minh. - H.: Lao động, 2011. - Tr. 445 - 446
1. Họ và tên: Lê Văn Tri (Hồng Lĩnh).
2. Năm sinh: tháng 9 năm 1920.
3. Cấp bậc, chức vụ cao nhất: Trung tướng, Tư lệnh Quân chủng Phòng không - Không quân, Chủ nhiệm Tổng cục Kỹ thuật.
4. Quê quán: Xã Hạ Trạch, huyện Bố Trạch, tỉnh Quảng Bình.
5. Trú quán: Số 3A2 Đống Đa, phường 2, Quận Tân Bình, Thành phố Hồ Chí Minh.
6. Thành phần: Dân nghèo.
7. Năm tham gia cách mạng: Tháng 6 năm 1945.
8. Năm nhập ngũ: Ngày 15 tháng 9 năm 1945.
9. Ngày vào Đảng Cộng sản Việt Nam: Ngày 12 tháng 10 năm 1946; Chính thức tháng 4 năm 1947.
10. Năm phong quân hàm cấp tướng: Thiếu tướng tháng 4 năm 1974, Trung tướng tháng 12 năm 1982.
11. Quá trình tham gia cách mạng:
Tháng 6 năm 1945, đồng chí gia nhập Thanh niên Tiền phong ở Biên Hòa. Tháng 8 năm 1945, đồng chí tham gia cướp chính quyền ở Sài Gòn, Biên Hòa. Ngày 15 tháng 9 năm 1945, đồng chí nhập ngũ là Chiến sỹ Giải phóng quân, Chi đội 12 (Lê Trực) tỉnh Quảng Bình. Đồng chí trưởng thành từ Chiến sỹ lên Tiểu đội trưởng, Trung đội trưởng, Đại đội phó, Đại đội trưởng Đại đội 12 (Lê Trực). Năm 1946, đồng chí là Đại đội trưởng, Chi ủy viên Đại đội 6, Mặt trận Bana, Đường 12, Lào. Năm 1948, đồng chí là Tỉnh đội phó, Tỉnh đội trưởng Tỉnh đội Quảng Bình kiêm Tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn 274. Năm 1949, đồng chí là Tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn 274, Trung đoàn 18. Năm 1950, đồng chí là Trung đoàn phó Trung đoàn 161, Tham mưu phó Phân khu Trị Thiên. Năm 1952, đồng chí là Trung đoàn trưởng Trung đoàn 95, Sư đoàn 325, Đảng ủy viên, Bí thư Đảng ủy Trung đoàn 95. Sau đó, đồng chí chuyển về Trung đoàn 101, Sư đoàn 325. Tháng 3 năm 1953, đồng chí là Trung đoàn trưởng Trung đoàn Pháo Phòng không 367, tham gia chiến đấu tại Điện Biên Phủ.
Tháng 9 năm 1954, đồng chí là Đại đoàn phó, Tham mưu trưởng Đại đoàn Pháo Phòng không 367, Đảng ủy viên Đại đoàn. Năm 1955, đồng chí là Tham mưu trưởng Đại đoàn 367. Năm 1956, đồng chí là Học viên Học viện Pháo binh Lêningrát Liên Xô. Năm 1957, đồng chí là Đại đoàn phó Đại đoàn 367. Tháng 12 năm 1961, đồng chí là Phó tham mưu trưởng Binh chủng Pháo binh phụ trách pháo phòng không. Tháng 11 năm 1963, đồng chí là Phó tư lệnh Quân chủng Phòng không - Không quân. Từ tháng 9 năm 1964 đến tháng 11 năm 1967, đồng chí là Phó cục trưởng Cục Tác chiến Bộ Tổng tham mưu. Tháng 12 năm 1967, đồng chí là Phó tư lệnh kiêm Tham mưu trưởng, Quân chủng Phòng không - Không quân, Ủy viên Thường vụ Đảng ủy Quân chủng.
Từ năm 1971 đến năm 1977, đồng chí là Tư lệnh Quân chủng Phòng không - Không quân, Đảng ủy viên Quân chủng.
Từ ngày 10 tháng 3 năm 1977 đến năm 1987, đồng chí là Chủ nhiệm, Bí thư Đảng ủy Tổng cục Kỹ thuật.
Đồng chí là Ủy viên dự khuyết Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam khóa IV, là Đại biểu Quốc hội khóa VII.
Tháng 10 năm 1987, đồng chí được Nhà nước cho nghỉ hưu.
12. Phần thưởng được Đảng, Nhà nước trao tặng:
- Huân chương Độc lập hạng Nhất.
- Huân chương Quân công hạng Nhất.
- Huân chương Chiến thắng hạng Nhì.
- Huân chương Kháng chiến chống Mỹ hạng Nhất.
- Huân chương Chiến công hạng Nhì.
- Huân chương Chiến sỹ vẻ vang hạng Nhất, Nhì, Ba.
- Huy chương Quân kỳ Quyết thắng.
- Huy hiệu 50 năm tuổi Đảng.
Trung tướng Nguyễn Hòa // Sách 130 danh tướng, tướng lĩnh Việt Nam trong lịch sử dân tộc và trong thời đại Hồ Chí Minh. - H.: Lao động, 2011. - Tr. 322 - 323
1. Họ và tên (bí danh): Nguyễn Hòa (Trần Danh).
2. Năm sinh: 1927
3. Cấp bậc, chức vụ cao nhất: Trung tướng, Tư lệnh Quân đoàn 1.
4. Quê quán: Xã Nghĩa Trai, huyện Mỹ Văn, tỉnh Hưng Yên.
5. Trú quán: Phường Phạm Đình Hổ, quận Hai Bà Trưng, TP. Hà Nội.
6. Thành phần: Trung nông.
7. Năm tham gia cách mạng: 1944.
8. Năm nhập ngũ: Tháng 8 năm 1945.
9. Ngày vào Đảng: Tháng 1 năm 1946.
10. Năm phong quân hàm cấp tướng: Thiếu tướng năm 1974; Trung tướng năm 1980.
11. Quá trình tham gia cách mạng:
Đồng chí tham gia cách mạng từ năm 1944 ở Hưng Yên, tham gia cướp chính quyền ở Thụy Yên ngày 19 tháng 8 năm 1945.
Tháng 8 năm 1945, đồng chí được học Trường Quân chính kháng Nhật ở Việt Bắc. Tháng 3 năm 1946, Bộ Tổng tham mưu điều đồng chí về làm Chánh Văn phòng Khu Quân sự đặc biệt ở Hà Nội, sau đổi thành Khu 11.
Tháng 12 năm 1946, đồng chí lên chiến trường Hòa Bình, Sầm Nưa hoạt dộng. Năm 1949, đồng chí về Trung đoàn 52. Tháng 4 năm 1950, đồng chí là Tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn 2 Trung đoàn 48, sau là Trung đoàn phó, Trung đoàn trưởng Trung đoàn 48.
Từ năm 1955 đến năm 1957, đồng chí là giáo viên Trường Quân sự Trung cao. Năm 1957 đến năm 1960, đồng chí là Sư đoàn trưởng Sư đoàn 304 rồi Sư đoàn 320.
Từ năm 1960 đến năm 1963, đồng chí sang Liên Xô học Học viện Vô rô si lốp. Tháng 4 năm 1964, đồng chí đi đường biển vào Cà Mau, là Phó chỉ huy kiêm Tham mưu trưởng chiến dịch Bình Giã. Từ năm 1960 đến năm 1967, đồng chí là Sưđoàn trưởng Sư đoàn 9, Sưđoàn 5, Sưđoàn 7.
Tháng 7 năm 1967, đồng chí ra Hà Nội. Tháng 9 năm 1967, đồng chí là Phó tư lệnh Quân khu 4 kiêm Phó tư lệnh Mặt trận B5 (Mặt trận đường 9 Bắc Quảng Trị). Tháng 1 năm 1969, đồng chí là Sư đoàn trưởng Sư đoàn 320.
Từ tháng 5 năm 1970 đến tháng 10 năm 1971, đồng chí là Phó tư lệnh Đoàn 559 kiêm Tư lệnh Quân tình nguyện Việt Nam ở Nam Lào, tham gia chiến dịch Đường 9 - Nam Lào năm 1971. Tháng 12 năm 1971, đồng chí là Phó tư lệnh Mặt trận Tây Nguyên (B3). Năm 1972, đồng chí là Phó tư lệnh Liên khu 5.
Tháng 11 năm 1973, đồng chí là Phó tư lệnh Quân đoàn 1. Tháng 4 năm 1974, đồng chí được phong thiếu tướng giữ cương vị Tư lệnh Quân đoàn 1, tham gia Chiến dịch Hồ Chí Minh. Tháng 8 năm 1980, đồng chí được phong quân hàm trung tướng và biệt phái sang làm Tổng cục trưởng Tổng cục Dầu khí.
Tháng 3 năm 1985, đồng chí chuyển ngành sang Tổng cục Dầu khí. Tháng 6 năm 1988, đồng chí thuyên chuyển về Quốc hội, là Phó chủ nhiệm Ủy ban Kinh tế kế hoạch và Ngân sách Quốc hội.
Tháng 7 năm 1999, đồng chí có quyết định nghỉ hưu.
Đồng chí là đại biểu Quốc hội khóa VII, VIII, là Ủy viên Trung ương Đảng khóa V, VI.
12. Phần thưởng được Đảng, Nhà nước trao tặng:
- Huân chương Độc lập hạng Nhất.
- 02 Huân chương Quân công hạng Nhất.
- Huân chương Chiến thắng hạng Nhì.
- Huân chương Kháng chiến chống Mỹ hạng Nhất.
- Huân chương Chiến công hạng Hai.
- Huân chương Chiến công hạng Ba.
- Huân chương Chiến sỹ vẻ vang.
- Huân chương Chiến sỹ giải phóng.
- Huy hiệu 50 năm tuổi Đảng.
Thiếu tướng Nguyễn Thị Định // Sách 130 danh tướng, tướng lĩnh Việt Nam trong lịch sử dân tộc và trong thời đại Hồ Chí Minh. - H.: Lao động, 2011. - Tr. 290 - 291,292
1. Họ và tên: Nguyễn Thị Định (còn gọi là Ba Định)
2. Năm sinh: ngày 15 tháng 3 năm 1920; mất ngày 26 tháng 8 năm 1992.
3. Quê quán: Xã Lương Hòa, huyện Giồng Trôm, tỉnh Bến Tre.
4. Trú quán: Thành phố Hồ Chí Minh
5. Thành phần: Dân nghèo
6. Năm tham gia cách mạng: 1963
7. Năm nhập ngũ: 1965
8. Ngày vào Đảng, chính thức: Tháng 10 năm 1938
9. Năm phong quân hàm cấp tướng: Thiếu tướng năm 1974.
10. Cấp bậc, chức vụ cao nhất: Thiếu tướng, Phó Tư lệnh các lực lượng vũ trang Giải phóng miền Nam Việt Nam, Phó Chủ tịch Hội đồng Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Chủ tịch Ban Chấp hành Trung ương Hội Liên hiệp phụ nữ Việt Nam.
11. Quá trình tham gia cách mạng:
Đồng chí tham gia phong trào Đông Dương Đại hội từ năm 1936. Tháng 10 năm 1938, đồng chí được kếp nạp vào Đảng Cộng sản Đông Dương. Năm 1940, đồng chí bị địch bắt đày đi Bà Rá. Năm 1943, ra tù đồng chí về tiếp tục hoạt động tại huyện Châu Thành. Năm 1944, đồng chí tham gia vận động quần chúng theo chương trình hành động của Mặt trận Việt Minh. Năm 1945, đồng chí tham gia khởi nghĩa cướp chính quyền ở tỉnh Bến Tre được bầu vào Ban Chấp hành phụ nữ Cứu quốc tỉnh.
Năm 1946, đồng chí là phái viên trong Đoàn cán bộ của Khu 8 vượt biển ra Trung ương báo cáo với lãnh đạo Đảng và Nhà nước về tình hình kháng chiến ở Nam Bộ và mở tuyến chi viện vũ khí cho Nam Bộ. Tháng 10 năm 1946, đồng chí phụ trách chuyển vũ khí vào khu 8. Năm 1947, đồng chí là ủy viên Ban Chấp hành phụ nữ Cứu quốc Nam Bộ, được bầu vào Tỉnh ủy Bến Tre. Năm 1948, đồng chí là Đoàn trưởng phụ nữ Cứu quốc tỉnh, ủy viên Mặt trận Liên Việt tỉnh Bến Tre. Năm 1951, đồng chí là Tỉnh ủy viên, Bí thư huyện Mỏ Cày, Chủ tịch Mặt trận huyện sau đó được chỉ định làm quyền Bí thư huyện ủy. Năm 1952, đồng chí làm Hội trưởng Hội phụ nữ tỉnh Bến Tre. Năm 1953, đồng chí là Trưởng ban vận động phụ nữ và ủy viên Mặt trận tỉnh Bến Tre. Năm 1954, đồng chí được chỉ định vào Thường vụ Tỉnh ủy Bến Tre.
Trong kháng chiến chống Mỹ, cuối năm 1959 đến đầu năm 1960, đồng chí là người khởi xướng và lãnh đạo chủ chốt phong trào đồng khởi tỉnh Bến Tre (từ ngày 17/1 đến ngày 20/4/1960). Ngày 17 tháng 1 năm 1960, đồng chí trực tiếp chỉ đạo thắng lợi cuộc khởi nghĩa điểm ở ba xã: Định Thủy, Phước Hiệp, Bình Khánh huyện Mỏ Cày, mở đầu cao trào đồng khởi trong toàn tỉnh, đồng bằng sông Cửu Long và miền Đông Nam Bộ.
Năm 1960, đồng chí được bầu làm Bí thư Tỉnh ủy Bến Tre. Tháng 5 năm 1961, đồng chí là Khu ủy viên Khu 8, phụ trách dân vận kiêm Bí thư Đảng Đoàn phụ nữ Khu 8.
Năm 1964, đồng chí là ủy viên Đoàn Chủ tịch ủy ban Trung ương Mặt trận dân tộc Giải phóng miền. Năm 1965, đồng chí gia nhập quân đội. Cũng năm này, đồng chí được bầu làm Hội trưởng Hội liên hiệp phụ nữ Giải phóng miền Nam, Phó tư lệnh các lực lượng vũ trang giải phóng miền Nam, tham gia Quân ủy Miền, phụ trách phong trào chiến tranh du kích.
Từ năm 1969 đến năm 1975, đồng chí phụ trách công tác vận động phong trào phụ nữ miền Nam Việt Nam. Năm 1974, đồng chí được phong quân hàm thiếu tướng. Năm 1976, đồng chí là Phó Chủ tịch thứ nhất Hội Liên hiệp phụ nữ Việt Nam, được bổ nhiệm làm Thư trưởng Bộ Thương binh và xã hội.
Tại Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IV (12/1976), đồng chí được bầu vào Ban Chấp hành Trung ương Đảng. Đầu năm 1980, đồng chí được bầu làm Chủ tịch Hội Liên hiệp phụ nữ Việt Nam (1980 - 1992). Tháng 7 năm 1981, đồng chí được bầu làm ủy viên Hội đồng Nhà nước.
Tại Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ V (3/1982) và lần thứ VI (12/1986), đồng chí được bầu vào Ban Chấp hành Trung ương Đảng giữ chức vụ Chủ tịch Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam. Tháng 6 năm 1987, đồng chí được bầu làm Phó Chủ tịch Hội đồng Nhà nước, nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (1987 - 1992). Đồng chí là Đại biểu Quốc hội các khóa VI, VII và khóa VIII. Đồng chí còn giữ chức Phó Chủ tịch Liên đoàn phụ nữ Dân chủ quốc tế, Chủ tịch Hội Hữu nghị Việt Nam - Cu Ba.
12. Phần thưởng được Đảng, Nhà nước trao tặng:
- Huân chương Hồ Chí Minh
- Huân chương Quân công hạng Nhì
- Huân chương Kháng chiến hạng Nhất
- Huân chương Chiến công hạng Nhất
- Huân chương Kháng chiến hạng Nhất
- Huân chương Chiến sỹ vẻ vang hạng Nhất, Nhì, Ba
- Huân chương Quân kỳ Quyết thắng
- Huy hiệu 50 năm tuổi Đảng
Đồng chí được tặng giải thưởng Hòa bình Lê Nin, được Đảng và Nhà nước Cu Ba tặng thưởng Huân chương Plâya Giron, Huân chương Ana Mariam Granajales.
Ngày 30 tháng 8 năm 1995, Thiếu tướng Nguyễn Thị Định được Nhà nước truy tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân.
Thiếu tướng Trần Đại Nghĩa // Sách 130 danh tướng, tướng lĩnh Việt Nam trong lịch sử dân tộc và trong thời đại Hồ Chí Minh. - H.: Lao động, 2011. - Tr. 373 - 374
Thiếu tướng, Giáo sư, Viện sĩ Trần Đại Nghĩa (1913-1997) là một kỹ sư quân sự, một nhà khoa học lớn, cũng như một nhà quản lý khoa học kỹ thuật cấp cao, cha đẻ của ngành công nghiệp quốc phòng Việt Nam.
Ông tên thật Phạm Quang Lễ, sinh ngày 13 tháng 9 năm 1913, trong một gia đình nhà giáo nghèo tại xã Chánh Hiệp, huyện Tam Bình, tỉnh Vĩnh Long. Mồ côi cha lúc 6 tuổi, ông được mẹ và chị gái đã tần tảo nuôi dưỡng cho ăn học. Giữa 1933, Phạm Quang Lễ đã thi đỗ đầu hai bằng tú tài: Tú tài Việt và Tú tài Tây. Nhưng vì nhà nghèo, không có tiền đi Hà Nội để học tiếp, Phạm Quang Lễ quyết định đi làm giúp mẹ, giúp chị và nuôi chí vươn lên, chờ thời cơ.
Năm 1935, ông đi du học Pháp và tốt nghiệp kỹ sư và cử nhân toán học tại các trường: Đại học Bách khoa Paris, Đại học Mỏ, Đại học Điện, Đại học Sorbonne, Đại học cầu đường Paris. Sau đó ông ở lại Pháp làm việc tại Viện nghiên cứu máy bay. Năm 1942, ông sang Đức làm việc trong xưởng chế tạo máy bay và Viện nghiên cứu vũ khí.
Năm 1946, khi Chủ tịch Hồ Chí Minh qua Pháp ông đã cùng với kiều bào tới đón Người. Sau đó, ông theo Người về nước, tham gia tổ chức, chế tạo vũ khí cho quân đội tại núi rừng Việt Bắc. Ngày 5 tháng 12 năm đó, Chủ tịch Hồ Chí Minh đặt tên mới cho ông là Trần Đại Nghĩa và trực tiếp giao cho ông làm Cục trưởng Cục Quân giới (nay là Tổng cục Công nghiệp Quốc phòng Việt Nam) kiêm Giám đốc Nha nghiên cứu Quân giới (nay là Viện Khoa học và Công nghệ Quân sự), Bộ Tổng tư lệnh Quân đội.
Ông từng giữ các chức vụ: Cục trưởng Cục pháo binh, Phó chủ nhiệm Tổng cục Hậu cần, Phó Chủ nhiệm Tổng cục Kỹ thuật, Chủ nhiệm ủy ban Kiến thiết Cơ bản Nhà nước, Chủ nhiệm ủy ban Khoa học và Kỹ thuật Nhà nước, Viện trưởng Viện Khoa học Việt Nam, Thứ trưởng Bộ Công thương, Chủ tịch đầu tiên của Liên hiệp các Hội Khoa học và Kĩ thuật Việt Nam (nhiệm kỳ 1983-1988), Hiệu trưởng đầu tiên trường Đại học Bách khoa Hà Nội, Đại biểu Quốc hội khóa II, III.
Ông được phong quân hàm Thiếu tướng trong đợt đầu tiên năm 1948. Ông đã được trao tặng Huân chương Hồ Chí Minh và danh hiệu Anh hùng Lao động (tại Đại hội Anh hùng, Chiến sĩ thi đua toàn quổc đầu tiên năm 1952).
6 tháng 3 năm 1956, Bộ trưởng Giáo dục quốc gia Nguyễn Văn Huyên ký nghị định số 147/NĐ về việc thành lập trường Đại học Chuyên nghiệp Bách khoa và ông được bổ nhiệm làm giám đốc.
Năm 1996, ông được Nhà nước Việt Nam trao tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh đợt 1 về Cụm công trình nghiên cứu và chỉ đạo kỹ thuật chế tạo vũ khí (Bazooka, súng SKZ, đạn bay) trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp 1945- 1954. Các công trình nghiên cứu của ông được quốc tế đánh giá cao, được ứng dụng rộng rãi trong Quân đội Nhân dân Việt Nam và là nỗi kinh hoàng của quân đội đối phương. Trong tác phẩm Street Without Joy của Bernard B. Fall ở trang 237 có viết về súng SKZ của ông như sau "... and the feared Viet-Minh SKZ recoilless cannon oppened up at minimum range upon the "soft" vehicles...".
Năm 1966, ông được bầu làm Viện sỹ nước ngoài của Viện Hàn lâm Khoa học Liên Xô.
Những năm cuối đời, ông cùng gia đình trở về quê hương miền Nam, sinh sống tại quận Phú Nhuận, Thành phố Hồ Chí Minh. Ông mất vào 16 giờ 20 phút ngày 9 tháng 8 năm 1997, hưởng thọ 85 tuổi.
Cuối tháng 8 năm 2007, Ủy ban nhân dân TP. Hà Nội đã quyết định đặt tên của ông cho một con đường mới của Thủ đô. Phố Trần Đại Nghĩa nối phố Lê Thanh Nghị với đường Đại cồ Việt, song song với phố Tạ Quang Bửu và đi qua cổng phía đông của các trường Đại học Bách khoa Hà Nội, Đại học Xây dựng.
Tại TP. Đà Nẵng cũng có con đường mang tên ông nối liền từ Núi Ngũ Hành Sơn (cuối đường Lê Văn Hiến) đến địa phận tỉnh Quảng Nam (đường vào Phố cổ Hội An). Năm 2009 con đường này đang được mở rộng 48m
Trước đó, Ủy ban nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh cũng đã đặt tên của ông cho một con đường tại quận Bình Tân, đi từ Quốc lộ 1 (gần vòng xoay An Lạc) vào khu công nghiệp Lê Minh Xuân. Ngoài ra tên của ông còn được đặt cho một số trường học trên cả nước, trong đó có trường THPT chuyên Trần Đại Nghĩa ở TP. Hồ Chí Minh. Ngày 23/12, Thủ tướng Chính phủ đã ký các quyết định thành lập Trường Đại học Trần Đại Nghĩa trên cơ sơ nâng cấp Trường Sĩ quan Kỹ thuật quân sự (Vin-hem-Pích) có trụ sở chính tại 189 Nguyễn Oanh, phường 10, quận Gò Vấp, Thành phố Hồ Chí Minh.
Thiếu tướng Hoàng Sâm // Sách 130 danh tướng, tướng lĩnh Việt Nam trong lịch sử dân tộc và trong thời đại Hồ Chí Minh. - H.: Lao động, 2011. - Tr. 400-401
1. Họ và tên: Hoàng Sâm (Trần Văn Kỳ).
2. Năm sinh: Năm 1915; mất năm 1968.
3. Cấp bậc, chức vụ cao nhất: Thiếu tướng, Tư lệnh Quân khu Tả Ngạn.
4. Quê quán: Xã Lệ Sơn, huyện Tuyên Hóa, tỉnh Quảng Bình.
5. Trú quán: Khu tập thể Pháo binh, phường Đội Cấn, quận Ba Đình, Hà Nội.
6. Thành phần: Dân nghèo.
7. Năm tham gia cách mạng: 1933.
8. Năm nhập ngũ: 1944.
9. Ngày vào Đảng Cộng sản Việt Nam: 1933.
10. Năm phong quân hàm cấp tướng: Thiếu tướng năm 1948.
11. Quá trình tham gia cách mạng:
Đồng chí tham gia cách mạng từ năm 1933. Từ năm 1934 đến năm 1939 nhiều lần đồng chí bị thực dân Pháp bắt giam. Từ năm 1937 đến năm 1939, đồng chí là Tỉnh ủy viên Cao Bằng, phụ trách cơ quan in và là Thường trực tỉnh ủy, công tác giao thông liên lạc ở biên giới. Từ năm 1940 đến năm 1943, đồng chí là Đội trưởng Đội Vũ trang tuyên truyền của Tổng bộ Việt Minh, bảo vệ Hội nghị Trung ương Đảng lần thứ 8 (1941), là Tỉnh ủy viên Bắc Cạn, phụ trách tự vệ chiến đấu trừ gian, củng cốcơ sở cách mạng, tổ chức du kích ở vùng biên giới hai tỉnh Cao Bằng, Lạng Sơn. Tháng 12 năm 1944, đồng chí là Đội trưởng Đội Việt Nam Tuyên truyền giải phóng quân khi mới thành lập, chỉ huy đánh đồn Phai Khắt, Nà Ngần, tham gia Ủy ban Giải phóng, phụ trách quân sự Khu giải phóng gồm 6 tỉnh: Cao Bằng, Bắc Cạn, Lạng Sơn, Hà Giang, Tuyên Quang, Thái Nguyên. Từ năm 1946 đến năm 1950, đồng chí là Khu trưởng Khu 2, Chỉ huy Mặt trận Tây Tiến, rồi Tư lệnh Liên Khu 3. Năm 1951, đồng chí là Phái viên Bộ Quốc phòng, tham gia nhiều chiến dịch với các Đại đoàn 312, Đại đoàn 304. Từ năm 1953 đến năm 1954, đồng chí là Đại đoàn trưởng Đại đoàn 304, Chỉ huy trưởng Mặt trận Trung Lào.
Sau Hiệp nghị Giơnevơ năm 1954, đồng chí vềViệt Nam, chỉ huy tiếp quản Sơn Tây, Hà Đông, là Đại đoàn trưởng Đại đoàn 320, Chỉ huy tiếp quản Hải Phòng. Từ năm 1955 đến năm 1968, đồng chí lần lượtlàm Tư lệnh các quân khu: Quân khu Tả Ngạn, Quân Khu 3, Quân khu Hữu Ngạn, Quân khu Trị Thiên.
Đồng chí là Đại biểu Quốc hội khóa II, khóa III. Đồng chí hy sinh tháng 12 năm 1968.
12. Phần thưởng được Đảng, Nhà nước trao tặng:
- Huân chương Hồ Chí Minh.
- Huân chương Chiến công hạng Nhất.
- Huân chương Chiến thắng hạng Nhất.
- Huân chương Kháng chiến hạng Nhất.