THƯ MỤC ĐỊA CHÍ GIA LAI
Mô tả Số lần tải Tải về
TM Địa chí GL T.3 133
TM Địa chí GL T.1 171
TM Địa chí GL T.2 101
Ý kiến - Góp ý
      

Tra cứu từ điển
 
Liên kết website
Giới thiệu sách online
Văn bản pháp quy
Nhạc phố núi
Ảnh Tây Nguyên
Thống kê truy cập
Tổng số truy cập: 1,822,336
Hôm nay: 109
Đang xem: 24
Thư mục toàn văn chuyên đề: "Những mẩu chuyện về phụ nữ Gia Lai" (04/10/2016)

 NGỌC NHƯ. Người con của buôn làng / Ngọc Như // Báo Công an nhân dân. - 2008. - Số 1231. - Ngày 9/12. - Tr. 4

          Hồi mới đặt chân lên Tây Nguyên, tôi nghe có người kể về H'Yéo là phụ nữ mà bắn súng giỏi, đội phó... thật anh dũng. Chị kể, mình là người con của dân tộc Jơ Rai ở núi rừng Tây Nguyên đánh giặc hay và mạnh dạn hơn cả nam giới. Khi ấy tôi tìm H'Yéo để chiêm ngưỡng người đàn bà Jơ Rai tài hoa này và được gặp chị ở Hội Liên hiệp phụ nữ tỉnh Gia Lai. Bấy giờ, chị không còn cầm súng nhưng ký ức về những năm tháng làm du kích ở xã, rồi trở thành nữ sĩ quan trong quân đội, huyện núi rừng Tây Nguyên đại ngàn nên thấu hiểu nỗi đau của dân làng khi bị giặc Mỹ xâm chiếm, cướp bóc. Dù phận nữ nhưng không thể yên lòng ngồi chịu trước cảnh xâm lược của giặc Mỹ nên đã quyết tâm theo cách mạng từ năm chưa tròn 17 tuổi. Vào du kích xã Ia Phí (Chư Păh, Gia Lai) đầu tháng 1-1967, H'Yéo đã thể hiện rõ năng khiếu quân sự của mình nên nhiều phen đã làm cho kẻ thù khiếp sợ. Sau một năm vào du kích, H'Yéo đã trở thành người nổi tiếng đánh Mỹ ở Tây Nguyên, chị trở thành A phó, A trưởng của Huyện đội Khu 4 Gia Lai bấy giờ. Năm 1968, chị được Tỉnh đội Gia Lai khen thưởng Dũng sĩ diệt xe cơ giới. Năm 1970, được Tư lệnh mặt trận B3 tặng bằng khen Kiện tướng gùi đạn. Từ năm 1971 đến 1974 chị liên tục được tặng thưởng Huân chương Giải phóng nhất, nhì, ba...

            Năm 1977, chị H'Yéo rời cương vị huyện đội phó Chư Păh, Gia Lai về nhận nhiệm vụ mới ở Hội Liên hiệp phụ nữ tỉnh Gia Lai. Từ năm 1990 đến khi nghỉ hưu năm 2006, chị Rơ Chăm H'Yéo giữ các chức vụ Chủ tịch Hội Liên hiệp phụ nữ tỉnh Gia Lai, rồi Chủ tịch UBMT Tổ Quốc Việt Nam tỉnh Gia Lai. Ở cương vị nào chị H'Yéo cũng thể hiện là đầu tàu gương mẫu, sống trung thực, liêm khiết, giản dị và cống hiến hết mình cho sự nghiệp chung của Đảng, của cách mạng. Có lần cùng đoàn công tác của lãnh đạo Bộ Công an đi về thăm các buôn làng, làm công tác dân vận, chị H'Yéo đã nói chuyện với bà con dân làng mình rằng: ''Khi xưa quân và dân mình đánh thắng giặc Mỹ là nhờ tinh thần đoàn kết một lòng vì đất nước, hôm nay có nơi còn một số bà con chưa thoát khỏi đói nghèo là vì chúng ta chưa đoàn kết tốt để lao động sản xuất mà cái bụng nhẹ dạ dễ nghe theo bọn xấu xúi giục". Chị H'Yéo nói tiếng Kinh xong lại giải thích bằng tiếng Jơ Rai cho những bà con chưa hiểu sẽ hiểu rõ hơn. Chị đến giải thích với bà con bằng tình cảm, bằng lý lẽ pháp lý, và cả tấm lòng yêu thương đồng bào nên dù ai có chống đối mấy cũng sẽ mềm lòng vì nhân nghĩa và lẽ phải. Vì thế chị Rơ Chăm H'Yéo được coi là người của công tác dân vận ở các vùng đồng bào dân tộc thiểu số Tây Nguyên.

            Theo tuổi tác, chị H'Yéo đã về nghỉ hưu theo chế độ được gần 2 năm nay, nhưng thực tế chị không một ngày nào nghỉ ngơi vì công việc chung. Rời chức Chủ tịch UBMT Tổ quốc Việt Nam tỉnh Gia Lai chưa được bao lâu thì Hội Cựu chiến binh tỉnh Gia Lai lại tín nhiệm bầu chị vào Ban chấp hành và giao giữ chức Phó Chủ tịch Thường trực Hội. Hàng ngày ở đâu có chuyện cần giải thích cho đồng bào dễ nghe là nhờ chị giúp. Chị bảo rằng, mình không cần phải được giao chức vụ gì, mà tự mình chủ động tiếp cận với dân thường xuyên để lắng nghe tâm tư, nguyện vọng của nhân dân và vận động, nói cho bà con làm theo ý Đảng, làm theo lẽ phải là mình thấy tự hào lắm. Chị kể chuyện thời kỳ đầu mới giải phóng, lúc đó bọn phản động FULRO ráo riết hoạt động chống phá chính quyền cách mạng còn non trẻ. Bây giờ chị là cán bộ của Hội Phụ nữ tỉnh được giao về địa bàn xã Nhơn Hòa (Chư Sê, Gia Lai) để làm công tác vận động quần chúng. Bằng những kinh nghiệm và kiến thức của mình cùng phương châm ''3 cùng'' (cùng ăn, cùng ở và cùng làm), chị đã làm thay đổi nhận thức của Nay Tơr, một toán trưởng FULRO bấy giờ. Rỉ tai nhiều lần, Nay Tơr đã nghe ra và nhận biết được việc làm sai trái của mình nên kêu gọi cả nhóm 45 tên ra trình diện. Bây giờ về lại Nhơn Hòa và nhiều nơi khác; chứng kiến cuộc sống của những người một thời lầm lỡ trước đây đã đổi thay, no đủ, chị H'Yéo mừng không sao tả xiết. Riêng Nay Tơr đã tích cực tham gia hoạt động cách mạng và được tín nhiệm giao giữ trọng trách Trưởng thôn, rồi lên Phó Chủ tịch xã, nay giữ chức Phó Chủ tịch UBMT Tổ quốc xã Nhơn Hòa (Chư Sê, Gia Lai).

            Trong Sử thi Tây Nguyên có con chim chơ rao, tương truyền đó là con chim mạnh mẽ, thông minh nhất của đại ngàn Tây Nguyên. Con chim biết tiếng người, thường bay khắp nơi kể cho buôn làng nghe những câu chuyện của núi rừng Tây Nguyên hùng vĩ. Những năm tháng ở Tây Nguyên được công tác, gần gũi với chị Rơ Chăm H'Yéo, tôi cũng cảm thấy chị giống như chim chơ rao yêu quý, vẫn mải miết, mải miết cống hiến cả cuộc đời mình cho những buôn làng Tây Nguyên bình yên. ''Và điều đó cũng là ước mong của chị'', chị H'Yéo nói.

NGUYỄN VĂN CHI. Bám lớp ở Krông Pa / Nguyễn Văn Chi // Báo Giáo dục & Thời đại. - 2011. - Số 190. - Ngày 29/11. - Tr. 1,5

           Ở mỗi thôn, buôn ở các xã vùng III huyện Krông Pa (Gia Lai) hằng ngày hằng giờ có hàng trăm thầy cô giáo vượt bao khó khăn bám trường, bám lớp cần mẫn "gieo chữ". Những giáo viên nơi đây dù rất thiếu thốn nhưng tình yêu nghề, yêu học trò luôn đầy ắp.

            39 tuổi, cô giáo Lê Thị Hồng, giáo viên Trường tiểu học xã Krông Năng huyện Krông Pa (Gia Lai) gắn bó với nghề dạy gần 14 năm nay. Trong câu chuyện của cô, kỷ niệm về như ngày đầu khi mới lên nhận công tác nơi đây với bao ngỡ ngàng và cả những điều "không tưởng" như vẫn còn nguyên vẹn trong ký ức. Mỗi sáng thức dậy, nhìn xung quanh chỉ thấy núi các buôn đồng bào dân tộc thiểu số sống thưa thớt, học sinh đến lớp thất thường, điều kiện vật chất thiếu thốn, nếp ăn, nếp ở cũng khác khiến cô cảm thấy xa lạ và đã có lúc cô cảm thấy nản lòng. Cô Lê Thị Hồng cho biết: Khó khăn nhất đối với tôi lúc đó là sự bất đồng về ngôn ngữ với học trò, vả lại sự khác xa về lối sống, về phong tục tập quán đã làm cho khoảng cách giữa cô và trò trở nên xa hơn. Nhưng rồi, những bỡ ngỡ ban đầu qua đi, tôi đã cố gắng học và đã học được tiếng của bà con đồng bào nơi đây. Tình cảm chân chất của học sinh và người dân đã khiến tôi thực sự yêu thương và gắn bó với nơi này.

Với những giáo viên ở vùng III của huyện Krông Pa, Gia Lai thì động lực lớn nhất để họ gắn bó với nghề chính là tình yêu thương vô bờ bến và cả đức hy sinh. Học sinh nơi đây thân thiện, hiền lành nhưng các em hơi nhút nhát và quen với nếp sống tự do; các bậc phụ huynh chưa nhận thức được tầm quan trọng của việc học đối với con cái nên đến mùa rẫy hay trong nhà có việc là bắt các em nghỉ học. Bên cạnh đó, vào mùa mưa đường sá đi lại khó khăn, những học sinh ở xa trường "ngại" đến lớp nên việc duy trì sĩ số vô cùng khó khăn đòi hỏi sự kiên trì, nỗ lực của mỗi thầy cô giáo. Vậy là, sau những gì lên lớp, các giáo viên lại phải lặn lội xuống các thôn, buôn, đến từng gia đình để động viên phụ huynh cho các con em trở lại trường. Thầy giáo Cao Chí Thắng (giáo viên Trường THCS Nguyễn Huệ xã Chư Drăng huyện Krông Pa, Gia Lai) tâm sự: "Ngày nắng ráo thì không sao chứ những ngày mưa, gió thì cực lắm; giáo viên nam như mình còn thấy vất vả nói gì những giáo viên nữ. Nói vậy, nhưng chỉ cần trong lớp có học sinh nghỉ học không có lý do là trong ngày hôm đó, dù đêm tối cũng phải đến tận gia đình để tìm hiểu rõ lý do, rồi tìm cách thuyết phục các bậc cha mẹ cho các em tới trường". Ngày thường việc vận động bà con cho con em đến trường còn khó khăn, huống gì trong ngày thu hoạch mùa màng lại càng khó khăn hơn. Cũng theo thầy Cao Chí Thắng thì khi ngày mùa tới nhiều phụ huynh muốn con họ ở nhà giúp bố mẹ, một bộ phận khác thì muốn con em mình ở nhà để đi làm thuê kiếm tiền. Lúc này, các giáo viên thì lại gác tất cả những công việc cá nhân để tranh thủ đến các gia đình tìm cách thuyết phục các bậc cha mẹ cho các em trở lại trường.

Nỗ lực vượt qua những khó khăn trong đời thường, trong giảng dạy, những giáo viên ở đây còn phải đối mặt với những nguy hiểm. Trường hợp của cô Vũ Đàm Thị Minh Xuân (Hiệu phó Trường tiểu học Chư Drăng huyện Krông Pa, Gia Lai) là một ví dụ, trên đường đi tới trường phải qua sông; một  hôm khi cô lên đò do người dân chở, đò chạy  gần tới bờ bên kia thì bất ngờ đò bị tắt máy tất cả hành khách trên đò mặc cho dòng nước đưa đi gần 1km rất may là nước sông hôm đó không lớn, bác lái đò kịp xử lý nên tất cả hành khách trên đò đều qua sông an toàn, nhưng được một phen... Gian khó, nguy hiểm là vậy, nhưng các thầy cô vượt qua tất cả vì sự nghiệp "trồng người" trên vùng đất Krông Pa này đã không ngừng nỗ lực, tìm tòi phương pháp giảng dạy phù hợp với điều kiện đặc thù của địa phương, nâng cao chất lượng dạy và học... và các thầy cô giáo đã có nhiều niềm vui, hạnh phúc giản dị từ chính sự quan tâm, tình yêu của học sinh. Hằng năm, vào dịp kỷ niệm ngày Nhà giáo Việt Nam, Phòng giáo dục cũng như chính quyền địa phương đều tổ chức các hoạt động giao lưu, thăm hỏi, động viên tinh thần các giáo viên. Và những món quà mà học sinh tặng cho các thầy cô giáo là những bông hoa rừng do tự tay các em hái. "Những món quà giản dị và mộc mạc như chính tâm hồn các em vậy. Những bông hoa rừng ấy đã làm cho chúng tôi thực sự ấm lòng và hạnh phúc" - cô giáo Lê Thị Xuân Thanh (giáo viên Trường Tiểu học xã IaReh huyện Krông Pa, Gia Lai) tâm sự.

Cuộc sống và công việc của những người giáo viên vùng III Krông Pa vẫn còn rất nhiều khó khăn. Nhưng với nỗ lực bám trường, bám lớp của mỗi thầy cô, hàng ngàn học sinh ở vùng đất khó khăn này biết cái chữ, tiếp thu được tiến bộ khoa học kỹ thuật... và hạnh phúc nhất đối với thầy cô giáo ở Krông Pa là cái chữ đã dần "bám rễ" vào mỗi gia đình và cũng từ đây ấm no, văn minh sẽ về.

NAY LY HƯƠNG. Bản lĩnh của một nữ trinh sát / Nay Ly Hương // Sách Công an Gia Lai học tập, làm theo lời Bác. - Gia Lai, 2013. - Tr. 131-135

            Trong tiết trời se lạnh của một buổi chiều, tại phòng làm việc của mình, Trung tá Y Mai Anh- Phó trưởng phòng Cảnh sát Điều tra tội phạm về ma túy, Công an tỉnh Gia Lai đã kể cho tôi nghe những câu chuyện đánh án. Đối với các anh, các chị đó là nhiệm vụ, là công việc cần phải tập trung cao sức lực, trí tuệ để hoàn thành bất chấp hiểm nguy, vất vả. Còn với chúng tôi đó là sự khâm phục về bản lĩnh, tinh thần hết lòng vì công việc của các anh chị làm công tác trinh sát trong lực lượng Công an.

            Theo thống kê của đơn vị chức năng, 17 huyện, thị xã, thành phố đã có tội phạm ma túy và tệ nạn ma túy. Bên cạnh một số địa bàn có nhiều điểm tàng trữ, mua bán, sử dụng trái phép chất ma túy với hình thức nhỏ lẻ, đã xuất hiện các đường dây vận chuyển, mua bán trái phép chất ma túy với nhiều đối tượng tham gia, hoạt động phức tạp, tinh vi, có tổ chức, liên quan đến nhiều địa bàn trong và ngoài tỉnh. Trước diễn biến phức tạp của loại tội phạm trên, đòi hỏi lực lượng trinh sát, điều tra viên của đơn vị Cảnh sát Điều tra tội phạm về ma túy, Công an tỉnh Gia Lai phải luôn có bản lĩnh, sự nhạy bén, linh hoạt trong mọi tình huống, đồng sức đồng lòng, nỗ lực, nêu cao tinh thần trách nhiệm, ý thức đấu tranh phòng chống tội phạm.

            Là một điều tra viên tham gia công tác trinh sát, với chị Mai Anh, qua mỗi vụ án tham gia là mỗi lần đúc rút một bài học kinh nghiệm sâu sắc, có thể đánh đổi bằng máu và nước mắt, để quá trình phá án tiếp theo không xảy ra sai sót, xử lý nhanh các tình huống có thể xảy ra. Để tiếp cận tội phạm ma túy, bất kể đêm khuya hay mờ sáng, khí hậu khắc nghiệt, chị và đồng đội đã đến nhiều nơi rất phức tạp về tệ nạn xã hội, rừng rậm, xa khu dân cư với nhiều vai diễn khác nhau... Có những lần vào vai, các trinh sát còn bị dân nghi ngờ là người không đàng hoàng, bị đuổi, bị nói những điều khó nghe... Nhiều lần truy bắt đối tượng manh động, liều lĩnh với những tình huống nguy hiểm có thể xảy ra bất cứ lúc nào, khi trở về nhà toàn thân đau nhức. Nhưng tất cả điều đó không làm chị và đồng đội chùn bước trước loại tội phạm đặc biệt nguy hiểm này.

            Còn nhớ trong lúc khám phá vụ án Trần Thị Minh cùng đồng bọn có hành vi tàng trữ, mua bán trái phép chất ma túy vào năm 2010, tại Chư Sê. Chị Mai Anh được phân công cùng đồng chí Mai Văn Hùng- Đội trưởng đội Trinh sát điều khiển xe máy bám sát đối tượng từ dưới chân đèo Chư Sê về TP.Pleiku. Các mũi trinh sát đã ở vị trí sẵn sàng, bất chợt đối tượng không về nhà mà rẽ vào một nhà bên đường. Tình huống ngoài dự tính, chị và đồng chí Hùng liền đóng giả người đi đường ngồi nghỉ mát. Hơn một tiếng đồng hồ trôi qua đối tượng vẫn chưa quay ra, chị xin ý kiến chỉ huy và nhận được lệnh lên xe ô tô vào vai người xuống xe tìm nhà người quen. Lúc này, chị và một đồng nghiệp nữ cầm túi xách xuống xe đi thẳng đến nhà đối tượng vừa vào, vờ hỏi thăm nhà người quen. Quan sát nhanh trong sân có 5 thanh niên đang ngồi chơi, bên cạnh có 1 con dao mác cán dài khoảng 1 thước, chị Mai Anh xin đi nhờ vệ sinh và phát hiện Minh đang trong buồng ngủ cùng con trai. Chị nhanh chóng điện báo, đồng thời tìm cách kéo dài thời gian trong nhà vệ sinh để đồng đội kịp thời hỗ trợ, bao vây, bắt giữ đối tượng, tịch thu tang vật an toàn trước sự ngỡ ngàng của tốp thanh niên trong sân. Năm 2011, thực hiện kế hoạch theo dõi, giám sát 2 đối tượng Trần Thị Trang, Hoàng Thanh Mai về hành vi tàng trữ, mua bán trái phép chất ma túy tại huyện Ia Grai, cùng các mũi công tác khác của đơn vị, chị và đồng chí Lê Hồng Phương- Đội trưởng đội Điều tra dùng xe máy chạy vào khu vực nghi vấn có đối tượng xuất hiện...Sau một buổi sáng đảo xe dưới trời nắng như đổ lửa, bụng đói cồn cào, đến đầu giờ chiều lực lượng Công an mới phát hiện đối tượng nghi vấn từ một tiệm sửa xe đi ra và bất ngờ chạy hướng đường rừng về nhà chứ không đi đường chính. Nhanh chóng hội ý, với quyết tâm bắt bằng được đối tượng, 6 đồng chí trong tổ công tác chia thành ba ngả truy tìm, tổ chức bao vây, mai phục, bắt giữ đối tượng tại khu cà phê quanh nhà đối tượng. Đối tượng chống trả quyết liệt, chị và 2 đồng nghiệp nam đã phải vật lộn khoảng 15 phút sau mới khống chế được, thu giữ các tang vật chứng phục vụ cho công tác điều tra làm rõ vụ án.v.v...

            Sau mỗi vụ án được khám phá, các đối tượng mua bán, vận chuyển, sử dụng trái phép các chất ma túy sa lưới pháp luật, chị lại về với tổ ấm của mình với vai trò của một người vợ, người mẹ. Hạnh phúc lớn đối với chị lúc này là được chăm sóc gia đình, cùng chồng, con chia sẻ những câu chuyện cuộc sống, kinh nghiệm công tác, được nấu những bữa ăn quây quần đầm ấm, vui vẻ bên gia đình. Được biết, chồng chị cũng là một cán bộ công tác lâu năm trong ngành Công an. Anh luôn là người bạn, người đồng nghiệp sát cánh, hiểu, sẻ chia cùng chị nhiều kinh nghiệm trong cuộc sống, sẵn sàng tạo điều kiện giúp chị yên tâm, vững lòng cùng đồng đội truy bắt tội phạm, điều tra, khám phá án.

            Khi nói về những nguy hiểm đối mặt trên mặt trận đấu tranh với cái chết trắng và bổn phận người vợ, người mẹ trong gia đình, chị tâm sự: “Là nữ làm trinh sát sẽ gặp rất nhiều khó khăn so với anh em đồng nghiệp. Để hoàn thành tốt các nhiệm vụ được giao và làm tốt vai trò người vợ, chỉ yêu nghề, vững nghiệp vụ thôi chưa đủ mà quan trọng là phải luôn nhận được sự thông cảm, động viên, ủng hộ, quan tâm chia sẻ của chồng, con, gia đình; sự giúp đỡ của đồng chí đồng đội. Nhiều lần đi công tác xa dài ngày, xâm nhập vào những nơi phức tạp, nguy hiểm, bản thân cũng lo lắm, trong lòng nghĩ về chồng, về con, về gia đình với điều không may: “Lỡ có chuyện gì thì biết làm sao đây?...”, nhưng suy nghĩ đó mau chóng qua đi khi nghĩ tới lòng quyết tâm cao của toàn thể cán bộ chiến sĩ trong đơn vị và trách nhiệm của bản thân trước mỗi vụ án. Lúc này, tất cả chúng tôi, nam cũng như nữ đều đồng tâm, đồng lòng hướng đến ý nghĩ duy nhất là phải hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao, góp một phần nhỏ công sức cùng toàn lực lượng trong công tác đấu tranh loại bỏ tệ nạn ma túy ra khỏi đời sống xã hội.

            Với thâm niên gần 20 năm công tác trong ngành Công an, chị Y Mai Anh hàng chục lần được Bộ Công an, UBND tỉnh, Giám đốc Công an tỉnh khen thưởng. Nhiều năm được đồng đội tín nhiệm bầu chọn là chiến sĩ Thi đua cơ sở. Cuộc đấu tranh phòng chống tội phạm về ma túy đầy cam go, khốc liệt vẫn còn tiếp diễn phía trước, nhưng được sự hậu thuẫn vững chắc của gia đình, chồng con, đồng nghiệp, chị sẽ luôn vững vàng sát cánh cùng đồng nghiệp trên mọi nẻo đường đấu tranh với tội phạm, khắc phục khó khăn, nỗ lực phấn đấu hoàn thành tốt các nhiệm vụ chính trị được giao. Chia tay Trung tá Y Mai Anh, nữ trinh sát của đơn vị Cảnh sát Điều tra tội phạm về ma túy Công an tỉnh Gia Lai, trong tôi trào dâng niềm cảm phục về những công việc thầm lặng mà mỗi ngày trôi qua, chị cùng đồng đội đã, đang và tiếp tục cống hiến để góp phần cùng toàn lực lượng Công an tỉnh Gia Lai giữ vững cuộc sống bình yên cho nhân dân.

GIA LY. Cảm phục tấm lòng “người mẹ” chưa chồng của 30 đứa con mang chất độc da cam / Gia Ly, Phương Linh // Báo Gia đình  & Xã hội. - 2013. - Số 33. - Ngày 15 - 31/8. - Tr. 4

            Chị không biết mình đã đắn đo bao nhiêu, suy nghĩ bao nhiêu khi quyết định về đây để rồi bén duyên dưới cùng một mái nhà với những đứa trẻ kém may mắn, mang trong mình di chứng của chiến tranh. Mỗi lúc chỉ có một mình, chị lại khóc, vì thương cho những đứa trẻ bất hạnh giữa cuộc đời...

            Cô giáo chưa chồng trong lớp học đặc biệt

            Tôi gặp chị H'Khuyn (26 tuổi, trú làng Chuet 1, phường Thắng Lợi, TP. Pleiku, Gia Lai) tại Trung tâm Nuôi dưỡng - Phục hồi chức năng bán trú cho nạn nhân chất độc da cam/dioxin tỉnh Gia Lai (đường Yết Kiêu, TP. Pleiku) khi chị đang tỉ mẩn chỉ dạy cho lũ trẻ những con chữ. Nhìn đôi tay co quắp của những đứa trẻ “vẽ” mấy nét chữ nguệch ngoạc trên giấy mới thấu hiểu hết được những khó khăn của công việc này. Trong lớp học, giữa các cô cậu học trò đủ mọi lứa tuổi là nạn nhân của chất độc da cam quái ác, hình dáng nhỏ bé của cô giáo hết chạy đi lấy tập cho em này lại chạy lại kéo em khác ngồi vào bàn. Giữa một lớp học với 30 học sinh đặc biệt như vậy, để cho các em chịu ngồi yên một chỗ đã khó, khiến các em tập trung lên bảng lại càng khó hơn. Thế nhưng mấy ngày, trong cùng một lớp, chị vẫn phải dạy tới mấy giáo án, khi thì lớp 1 lúc đi lớp 3, thậm chí là lớp 6 nếu có em nào tiếp thu được. Hơn nữa, ở lớp học này, việc dạy đi dạy lại một bài là chuyện thường ngày.

            Quá mải mê với lũ trẻ, chị không chú ý đến việc có một người đang lặng lẽ quan sát lặng lẽ chụp hình và ghi chép lại những gì cần thiết phía bên ngoài, bởi tất cả tâm trí của chị đã giành hết cho lũ học trò bất hạnh mà chị gọi là con đang cặm cuội học bên chiếc bàn viết kia: Mãi một lúc sau, chị mới ngẩng đầu lên và phát hiện ra, cùng lúc đó là sự ngại ngùng cố hữu như bản tính thẹn thùng của những cô sơn nữ Jrai ở đất Tây Nguyên này. Đợi khi những đứa con của mình lặng lẽ tập viết chị mới tranh thủ đứng nói chuyện với tôi. Chị bảo chăm những đứa trẻ đã khó, mà săn sóc những đứa trẻ bị di chứng chất độc da cam lại càng khó khăn hơn gấp bội. Tôi hỏi chị vẫn còn trẻ, sao không xin vào một trường nào đó dạy với mức lương cao hơn, đỡ áp lực hơn, thoải mái hơn. Chị gục gặc cái đầu bảo cũng đã có lúc nghĩ tới điều đó, nhưng nghề này đã chọn mình rồi, mình đã gắn với nó rồi thì không muốn dứt ra nữa. Hóa ra, chị đã từng tốt nghiệp ngành Sư phạm mầm non. Nhưng chẳng hiểu sao trong một lần đến thăm trung tâm này, chị lại bén duyên với các cô cậu học trò kém may mắn, không được lành lặn. Để rồi sau đó, chị chuyển ngành trước sự phản đối của gia đình, bạn bè, quyết tâm theo học Khoa Giáo dục đặc biệt của Trường Cao đẳng Sư phạm Trung ương Nha Trang, dù biết phía trước là một chặng đường dài và gian nan và cả những lời đàm tiếu của mọi người.

            Chị tâm sự, trước khi về công tác tại Trung tâm này, bản thân mình đã từng được mời đến dạy tại một cơ sở khuyết tật tư nhân. “Bước đầu mới vào nghề, mình cũng lưỡng lự và lo lắng nhiều lắm. Nghĩ là làm để thử sức, nếu không nổi sẽ quay về làm giáo viên mầm non. Nhưng may mắn là cuối cùng, nghề đã chọn mình”, chị cười đầy thánh thiện. Sống trong lớp học toàn học trò dị tật, chị tự thấy mình quá may mắn vì không phải chịu những nỗi đau tinh thần hay thể xác như các em.

            Cũng bởi vậy, cô giáo trẻ lại thấy thương yêu hơn, quyết tâm dùng những kiến thức mình đã học để giúp các em vượt qua số phận, phát triển nhận thức, sớm hòa nhập cộng đồng dù cho hi vọng đó mong manh. Người cô giáo Jrai trên lớp là thế, nhưng về nhà chị vẫn không ngừng quan tâm đến tình hình học tập của các em nhỏ trong ngôi làng mình sinh sống. Tranh thủ ngày Chủ nhật hàng tuần, chị H'Khuyn vẫn thường tập trung các em lại để dạy các em học thêm “con chữ”...

            Khi nghề chọn mình

            Sinh ra từ ngôi làng Chuet 1 (phường Thắng Lợi, TP. Pleiku, Gia Lai), ngày ngày lớn lên chứng kiến những đứa trẻ bị tật chậm phát triển, nhận thức yếu nên học hành kém, H'Khuyn đã mong muốn được giúp cho các em. Vì vậy, H'Khuyn chủ động từ bỏ con đường bằng phẳng để bước đi trên con đường gập ghềnh cùng các mảnh đời bấp bênh. Đối với chị, mỗi em nhỏ là một “đứa con số phận”. 30 đứa con là 30 câu chuyện mà mỗi lần nhắc đến, chị lại rưng rưng. Với chị, các em là thiên thần dẫu mang trong mình những nỗi đau số phận. Nhiệm vụ của chị là nuôi nấng, dạy dỗ để chúng tiếp bước con đường được làm người: Chị hiểu, mọi sự vui buồn của bản thân đều tác động đến những đứa trẻ này. Thế nên, chị gạt bỏ tất cả muộn phiền trước khi bước qua cổng trung tâm.

            Ngày ngày, chị cùng các sơ khác của trung tâm luôn “miệng cười, đầu nghĩ, chân đi và tay làm”. Cứ thế, nụ cười trở thành “phản ứng dây chuyền” nơi đây. Lớp học càng đông, vất vả càng đặt nặng trên bờ vai của chị. Không chỉ là cô giáo, chị còn là mẹ, kiêm vai trò thầy thuốc, thậm chí là... quan tòa. Chị luôn lấy tình thương tâm “cán cân” để và đứng ra giải quyết mọi việc. “Không thứ thuốc nào có tác dụng bằng tình thương”, chị bảo thế, và đó chính là động lực thôi thúc sơ ngày đêm gieo mầm thiện.

            Mệt nhọc, vất vả là thế nhưng chính sự ngây ngô, tình cảm con trẻ của đám học trò lại là niềm vui khiến chị quên đi mọi phiền muộn trong lòng. “Dù cho có đang buồn bực chuyện gì nhưng khi vào lớp rồi mọi thứ như tan biến: Đó chính là món quà mà các em học sinh ở đây ưu ái dành tặng cho mình” chị nói với ánh mắt lấp lánh niềm vui. Mỗi lần các em đứng lên cười nói, chạy nhảy và la hét trong lớp, chị không cáu gắt mà bằng tình cảm như của một người mẹ để khuyên nhủ các em. Không những thế, chị còn ôm ấp, hôn lên đầu em rồi giỗ dành cho đến khi các em cảm nhận được hơi ấm và tình cảm của người mẹ hiền. Hay những giờ ngoại khóa, ra chơi, chị lại ngồi bên các em vỗ về trò chuyện với các em nên hiểu tâm lý của từng em. Vì vậy, chị không còn gặp nhiều khó khăn trong việc bấm giờ đi vệ sinh của các em hay những phút các em không làm chủ được bản thân nữa. Nhưng có lẽ, niềm hạnh phúc lớn nhất của chị chính là những lúc các em nhớ thêm được một chữ cái, một con số hay nhận thức thêm được một đồ vật xung quanh dù cho chị đã dạy đi dạy lại nguyên một tháng trời. Mỗi lần như thế, chị lại cảm thấy công sức của mình không “đổ sông đổ biển” như mọi người vẫn nghĩ. Với chị, niềm vui ấy có thể sánh với tiếng gọi “Mẹ ơi” đầu tiên của một đứa trẻ.

            Tôi nhìn chị giảng bài cho lũ trẻ trong lớp học mà dâng lên niềm cảm phục khó tả. Tôi biết, không chỉ một mình chị mà còn rất nhiều người khác nữa cũng đang làm công việc như chị. Họ cũng là cô giáo, cũng đứng trên bục giảng, cũng uốn nắn những học trò nhỏ tuổi, nhưng khi được phân công giảng dạy khối học sinh khuyết tật như thế này chắc hẳn trong lòng cũng có chút buồn và bối rối. Nhưng với những cô giáo như chị thì chỉ có tình yêu nghề và tâm huyết sâu sắc mới trụ lại nổi. Đến với một ngày dạy và học của chị mới thấy hết được sự vất vả và nỗi niềm của cô giáo nuôi dạy trẻ khuyết tật, có lẽ điều cần thiết là sự tâm huyết với nghề, trách nhiệm tình yêu thương nhân đạo mới có thể chăm sóc các con tỉ mỉ và đủ kiên nhẫn để dạy các con các kĩ năng tự lập cơ bản. Nụ cười, tiếng khóc của những đứa trẻ ấy trong lành như buổi bình minh, không hề vướng bận một chút gì của cuộc sống thường nhật hối hả. Không thể lớn lên đâu phải là một cái tội, con người sinh ra đâu có quyền được lựa chọn trước cho riêng mình. Nhưng khi các em đến tuổi phải bước ra khỏi cánh cổng trường ấy, cánh cửa cuộc đời nào sẽ là nơi các em có thể đi qua, để các em có thể cảm nhận được  niềm vui và nỗi buồn cuộc sống, nếu không có những người như chị.

HUỲNH KIÊN. Cao cả hơn tình mẫu tử / Huỳnh Kiên // Sách Giữa rừng hoa đẹp T.2. - Gia Lai: Hội nhà báo, 2005. - Tr. 158-161

Tôi gặp hai chị ở Hội nghị phụ nữ điển hình 5 năm (2001- 2005) của tỉnh Gia Lai. Gầy guộc, xanh xao và lam lũ với 5 đứa trẻ đều có chung căn bệnh bại não, song nụ cười thì vẫn tươi rói: “Nếu có điều kiện tốt hơn tôi sẽ nhận thêm các cháu về nuôi”.

Hết lòng vì trẻ tật nguyền

Năm 1999, người dân ở Plei Ngó - Trà Bá - Pleiku thấy một người đàn bà gầy tầm 40 tuổi từ Lâm Đồng tới dựng lều vỡ đất, trồng trọt. Đây là khu đất cao nhất làng nên cằn cỗi đã hoang hóa từ lâu, do một người địa phương nhượng lại. Thân gái giữa đồng không mông quạnh, năm sau chị Nguyễn Thị Tuyết Lan - chủ khu vườn dẫn thêm một người em kết nghĩa cùng quê là Nguyễn Thị Hiền cùng về sinh sống. Họ lấy ngắn nuôi dài: Trồng rau màu bán kiếm tiền sinh sống và trồng thanh long, nhãn, tiêu... Đào giếng hơn 30m không đủ nước, hai người đàn bà phải thuê máy về khoan nước ngầm, quyết tâm gây dựng kinh tế để có chút tiền giúp đỡ trẻ tật nguyền.

Khi được chị Trần Thị Lân - Chủ tịch Hội Phụ nữ phường Trà Bá dẫn vào khu vườn rộng 6.000 m2 của chị Lan, tôi thật ngỡ ngàng về cơ ngơi mà 2 người đàn bà tay trắng tạo dựng sau 5 năm. Căn nhà cấp 4 nhưng rộng và thoáng đãng, thiết kế giống cô nhi viện hơn là căn hộ. Vườn cây tươi tốt, xanh um. Chị Lan đang tất bật lo việc cho cháu Y Ly ở Plei Ngó được đi khám ở Bệnh viện Nhi TP. Hồ Chí Minh, nhà còn một mình Hiền với những đứa trẻ. Chị Hiền kể: Đầu năm 2001 cháu Y Liễu ở Kon Tum được cha Oanh giới thiệu đến cho hai chị chăm sóc. Liễu là con gái chị Y Jút (dân tộc Sê Đăng) ở Đak Hà năm ấy đã 3 tuổi mà chẳng biết nói, biết cười chỉ nằm một chỗ. Cháu bị bại não, liệt cứng, chỉ sống đời sống thực vật. Hoàn cảnh gia đình Y Liễu hết sức thương tâm, cha cháu lấy vợ khác để chị Y Jút lại với đứa con tật nguyền. Từ khi về với hai người mẹ nuôi, Y Liễu được chăm nom sạch sẽ, chu đáo và thật sự có một mái ấm gia đình.

Giữa năm 2001 anh Trần Văn Cảnh ở Nam Yang có con thứ hai là Nguyễn Thị Lành bị khối u não mới sanh phải mổ, cháu bại liệt toàn thân cứ ốm đau quặt quẹo mãi. Được nhiều người giới thiệu, vợ chồng anh tìm tới chị Lan - Hiền gởi cháu để anh chị còn có thời gian làm ăn và chăm sóc đứa con đầu. Từ khi về với mẹ Lan, mẹ Hiền chăm sóc, bé đỡ đau, ăn ngủ được. Ba mẹ Lành vẫn thường xuyên đến thăm, thi thoảng bế con về nhà chơi, nhưng về Nam Yang cháu lại ốm đau phải lập tức quay trở lại với 2 chị. Tiếng lành đồn xa, đầu năm 2004 họ nhận cháu Thanh Thảo ở Pleiku, cháu Nguyễn Văn Nam ở Phú Nhơn - Chư Sê, cháu Chân ở tổ 4 cùng phường Trà Bá. Cả 5 đứa trẻ đều bị căn bệnh bại não, chỉ sống thực vật, mọi sinh hoạt các chị đều phải chăm lo.

Chị Trần Thị Lân nhiều lần đến thăm các cháu nói với chúng tôi: “Phải là những người có tấm lòng của cô tiên trong cổ tích mới chăm lo được cho các cháu chu toàn như vậy”.

Làm được điều tốt cũng không dễ

Chúng tôi ngồi chơi nấn ná đợi chị Lan về. Người đàn bà từ tâm ấy trông tất bật và xanh xao. Chị bảo sáng nay chạy ra chợ bán rau gần được 20.000 đồng rồi tranh thủ đi làm thủ tục cho cháu H’Ly dân tộc Jrai ở Plei Ngó (Trà Bá) được vào nhập bệnh viện Nhi TP. Hồ Chí Minh. Thủ tục rườm rà quá, chị đã chạy lên chạy xuống hôm nay là ngày thứ 4 mà sự việc vẫn chưa đâu vào đâu. Muốn xin cái giấy xác nhận chuyển viện để gia đình H’Ly có thêm 200.000 đồng từ kinh phí hỗ trợ của Nhà nước mà gặp toàn khó khăn. Nhưng dù khó khăn thế nào, chị vẫn quyết tâm. Rồi tâm sự: Với mong muốn chăm lo tốt nhất cho các cháu, chị Hiền đã vào Lái Thiêu - Thuận An - Bình Dương học lớp chăm sóc cho trẻ khiếm thính, rồi học tiếp lớp vật lý trị liệu ở TP. Hồ Chí Minh. Có nhiều hoàn cảnh thương tâm lắm đã đến đây gởi nhờ chúng tôi nhận nuôi, nhưng sức chúng tôi chưa thể cáng đáng thêm. Nhận cháu mà không lo chu đáo là có tội.

            Đã có vài tấm lòng thơm thảo từ các nơi đến thăm nom, động viên hỗ trợ giúp các cháu. Có người đã mua tặng các cháu một chiếc máy giặt. Tiền từ bán rau quả chị đã mua được cho những cháu cái xe đẩy, xe lăn… Im lặng một lúc, chị bảo: “Nếu có điều kiện vật chất tốt hơn các chị sẽ nhận thêm nhiều cháu tật nguyền nữa về chăm nom…”.

NGỌC TẤN. Cây Kơ nia ở phía mặt trời / Ngọc Tấn // Báo Nông thôn ngày nay. - 2016. - Số Tất niên. - Ngày 4/2. - Tr. 28

            Câu chuyện cứ đứt quảng vì có khách ghé vào. “Có lẽ thấy tôi là người lạ nên bà con tò mò?”- nghe tôi thắc mắc, bà Her cười: “Không đâu, thường ngày vẫn thế. Bà con cứ thấy tôi có nhà lại ghé vào hỏi chuyện”. Tôi bỗng hiểu sự tin tưởng, quý mến của dân làng với người đã gần trọn đời vì cuộc sống bình yên của họ...

Địu con đi... chống Fulro

Căn nhà vách đất thấp tè, mái ngói khấp khểnh là tài sản đáng giá nhất của vợ chồng Đinh Thị Her - Nguyễn Văn Nên với bao khát vọng cho một cuộc sống riêng từ sau ngày đất nước im tiếng súng, nên quyết định trưng tập vào đoàn công tác chống Fulro đã khiến Đinh Thị Her lặng đi trong chốc lát... Trọn đêm cho đến khi ánh ngày mới nhuốm đầu rặng cây xa thì mọi trù liệu đã được quyết định: Ông sẽ đảm nhận hai đứa con trai lớn, còn bà sẽ địu con gái bé theo đoàn công tác...

Đó là những năm 1970, huyện Mang Yang (cũ) của tỉnh Gia Lai dân cư thưa thớt, chính quyền mới còn non yếu đã khiến Fulro trỗi lên như nấm độc sau mưa. Chúng vô hiệu hóa cán bộ cơ sở, khống chế dân, tổ chức đánh úp trụ sở giữa ban ngày. Đảm nhận công tác tuyên truyền, phát động quần chúng, Đinh Thị Her hiểu rằng mình cũng là người lính xung kích với bao gian khổ, hiểm nguy. Dẫu sao trong cuộc chiến mới này, Her vẫn có bao đồng đội bên mình; có bao đồng bào đã hiểu dã tâm và tội ác của Fulro, sẵn sàng chở che, bảo vệ...

Bằng niềm tin ấy, suốt hơn 3 năm ròng Đinh Thị Her đã có mặt hầu khắp huyện Mang Yang. Từ nơi nóng nhất, phức tạp nhất, cả với trung tá Y Dip - trùm Fulro vùng, hay thiếu tá Nay Plú - chỉ huy trưởng ZG 23, bà cũng đến tận nhà ăn ở với vợ con họ để vận động. Vợ Y Dip còn nấu cơm cho bà Her ăn, ngủ chung “để nghe bà tâm tình”. Còn vợ Nay Plú, hơn thế đã nghe lời bà viết thư gọi chồng về... Điều này khiến Fulro càng căm tức bà. Cái tên Đinh Thị Her đã được đặt lên hàng đầu trong sổ đen của chúng. Và một lần chỉ nhờ sự may mắn mà bà đã thoát chết...

Đó là khi bà đi phát động quần chúng ở Ia Pech. Hôm đó mới khoảng 4 giờ chiều nên khá đông cán bộ xã và đoàn công tác đang có mặt ở trụ sở. Đặt đứa con đang ngủ say vào chiếc võng, bà sang nhà bên mượn bếp nướng bánh mì. Bất thần những tiếng nổ vang dậy đất, bọn Fulro tổ chức đánh úp trụ sở xã! Rất may một chiến sĩ công an đã kịp ấn bà nằm xuống rồi đạp phên kéo bà thoát ra cửa ngách. Nhìn lại nơi đứa con đang ngủ, một giàn lửa đã trùm kín mái nhà. “Con ơi!” - bà chỉ thốt lên hai tiếng nấc nghẹn, đinh ninh đứa con đã bị chết cháy. Nhưng may sao trước đó một cán bộ trong đoàn đã kịp ôm bé thoát ra, nhưng một bên mặt bé bị cháy sém, để lại trong lòng bà một vết sẹo suốt đời...

Có mặt ở mọi điểm nóng

Nhưng rồi trong một lần đi kiếm củi nấu cơm cho anh em, bà đã bị vướng mìn đứt một bên chân... Hưởng chế độ trợ cấp một lần, trở về mái nhà đã hơn 3 năm các con chưa tròn hơi ấm vòng tay của mẹ, bà tự an ủi: Tham gia cách mạng lúc mới 16 tuổi, trải hơn 9 năm gian khổ cũng là sự đóng góp đáng kể. Giờ chẳng làm được việc lớn thì vận động bà con trong làng giũ bỏ nếp cũ, siêng năng làm ăn để thoát lạc hậu đói nghèo cũng là điều Đảng cần, dân mong... Và Đinh Thị Her đã không thể nghĩ rằng hơn 20 năm sau một lần nữa mình lại phải đối diện những kẻ xấu.

Năm 2001 Tây Nguyên xảy ra sự biến. Bọn phản động lưu vong đã nảy ra cái gọi là ‘Tin lành Đêga” hòng lợi dụng khoảng trống mơ hồ về niềm tin tôn giáo trong một bộ phận đồng bào để gây chia rẽ đoàn kết dân tộc, chống lại chính quyền. Hiểu rằng đã đến lúc không thể ngồi yên, khi xã thành lập đội công tác vận động quần chúng, Đinh Thị Her đã tham gia không chút chần chừ. Dù sức khỏe yếu, đi lại bằng chân giả, nhưng không ngỏ ngách nào các làng trong xã không in dấu chân bà. Tài vận động của bà không chỉ thuyết phục được bao người lầm lỡ mà còn cảm hóa những kẻ cốt cán từng có quá khứ đen tối. Xã A Yun và những “điểm nóng” trong huyện Mang Yang sau cơn sóng cả đã trở lại bình yên.

Giỏi thuyết phục người khác

Tôi tò mò hỏi bà nói cách nào mà dân lại chịu nghe? Bà cười: Tôi chỉ học được đến lớp 2 thôi. Vận động dân, tôi chẳng biết lý luận cao xa gì, cứ sự thật trước mắt mà bẻ lại luận điệu xằng bậy của bọn phản động. Tỉ như với những kẻ “Tin lành Đêga”, để che giấu dã tâm, chúng vẫn rêu rao rằng theo “đạo” là để không uống rượu, không hút thuốc, làm việc tốt. Tôi bẻ lại luận điệu ngụy biện ấy cho bà con hiểu: Chẳng phải từ lâu nay rồi Nhà nước vẫn khuyên chúng ta không hút thuốc lá, không uống rượu để khỏi ảnh hưởng tới sức khỏe đó sao? Còn “làm việc tốt”, chẳng lẽ lâu nay chính quyền bảo bà con cứ phải làm việc xấu? Thì ra giỏi tuyên truyền, giản đơn là người biết cách làm cho người ta nhận rõ sự thật.

... Dù không còn xập xệ như xưa thì ở thôn 2 này, căn nhà của vợ chồng bà vẫn thuộc “diện nghèo”. Câu chuyện của bà tạm gác bởi lũ cháu đang đợi cơm trưa. Nhà nghèo, bữa cơm cũng nghèo với thu nhập cả nhà chỉ mỗi suất lương hưu của ông là đáng kể. Nhưng ngôi nhà ấy đầy ắp hạnh phúc.

Không giấu giếm sự hãnh diện, vừa ăn bà vừa kể cho tôi nghe mối tình đầy lãng mạn của mình... Cha bà - ông Đinh Kang từng là Bí thư đầu tiên của xã A Yun này, hy sinh lúc còn rất trẻ. Noi gương cha, bà thoát ly lúc mới là một thiếu nữ tuổi trăng tròn. Tự nhủ giải phóng miền Nam rồi mới lấy chồng, vậy mà đã gặp ông Nên. Ông quê ở Bình Định, là lính vận tải H1 Tỉnh ủy Gia Lai. Những ngày bom đạn ác liệt, không tin là có ngày chồng trở về, vợ ông ở quê bỏ theo người khác. Nỗi đau của ông may mắn đã được bà Her bù đắp...

Chính vậy mà ngay cả thời điểm 3 năm ròng bà theo đoàn công tác chống Fulro, ông vẫn vừa đảm đương Bí thư xã A Yun vừa lo việc nhà, nuôi nấng con cái chu đáo để bà yên tâm làm nhiệm vụ mà không một chút phàn nàn.

PHƯƠNG DUNG. "Cô giáo" của bản / Phương Dung // Báo Phụ nữ Việt Nam. - 2011. - Số 70. - Ngày 13/6. - Tr. 5

           Sinh năm 1982 nhưng chị Đinh Thị Lan đã làm Chủ tịch Hội LHPN xã Lơpang, huyện Mang Yang, tỉnh Gia Lai, được 5 năm. Là người dân tộc Bana, song chị lại có cái tên giống người Kinh, là vì xưa kia dân tộc Bana rất ít người có họ, sau khi Anh hùng Núp được Bác Hồ đặt tên là "Đinh Núp" thì nhiều người Bana cũng theo đó mà lấy họ "Đinh".

Lơpang là 1 trong 5 xã nghèo nhất tỉnh Gia Lai, trong đó, thôn Pờ Yâu (địa hình rất hiểm trở) có tỉ lệ hộ nghèo tới hơn 90%. Đa phần hội viên phụ nữ của xã đều mù chữ. Chị Lan may mắn có cha rất quan tâm đến việc học hành của con... Năm 1999, tốt nghiệp cấp 2 trường PTDT nội trú, chị Lan nghỉ học về làm rẫy, lúc đó cả xã chưa có phụ nữ nào học đến lớp 9 nên chị được mời làm thư ký cho UBND. Năm 2000, mới 18 tuổi, chị trúng Đại biểu HĐND xã và được cử đi học cấp 3, trở thành "cán bộ nguồn", rồi được cử đi học Trung cấp lý luận chính trị, tiếp đó là Đại học Y... Năm 2006, do xã thiếu cán bộ, chị ngừng học về nhận nhiệm vụ mới: Chủ tịch Hội LHPN xã khi mới 24 tuổi.

Chị Lan tâm sự: Làm cán bộ Hội ở vùng đồng bào dân tộc cần nhất là sự nhiệt tình với phong trào, tác phong cởi mở, gần gũi, hiểu biết tường tận về đời sống, phong tục tập quán để sáng tạo trong phương pháp vận động. Đặc biệt, mình phải "nói được làm được" thì chị em mới tin tưởng, tín nhiệm; không bao giờ được nói suông vì chỉ thất hứa hay nói dối 1 lần là coi như "mất tất". Do tỉ lệ hội viên mù chữ cao, trình độ dân trí thấp nên trước khi họp phát động tuyên truyền vấn đề gì, chị Lan phải chuẩn bị rất kỹ, thậm chí phải vận dụng khiếu hài hước để buổi sinh hoạt có nội dung hấp dẫn, thu hút chị em...

Trong khuôn khổ Dự án "Hợp tác kỹ thuật nâng cao năng lực phát triển nông thôn" giữa Hội LHPN tỉnh và tổ chức Jica (Nhật Bản), chị Lan được chọn là 1 trong 2 giáo viên tham gia dạy lớp xóa mù chữ cho hội viên phụ nữ tại thôn Chứp. Nhiệm vụ khó khăn nhất là làm sao để chị em chịu đi học, vì hầu hết chị em đều là lao động chính, thường phải đi làm nương rẫy cả ngày, chỉ có thể tổ chức lớp vào buổi tối. Thêm vào đó, phụ nữ Bana không có thói quen học tập, phần lớn không thạo tiếng Kinh nên vận động chị em đến lớp là điều rất nan giải. Chị Lan đã kiên trì đi gặp từng hội viên, đưa ra những câu hỏi khảo sát để vừa nắm được nhu cầu của chị em, vừa gợi ý, thuyết phục. Ví dụ: Chị em có muốn biết đọc không? Có muốn biết chế biến thực phẩm cho bữa ăn gia đình không? Có muốn biết cách chăm sóc sức khỏe cho bản thân và chồng con không? Nếu đi học, chị em sẽ có những quyền lợi gì?...

Cuối cùng, 45/100 hội viên phụ nữ thôn Chứp tình nguyện ghi tên học lớp xóa mù. Việc có "cô giáo" Lan vừa là người cùng thôn, vừa là cán bộ phụ nữ đã giúp chị em tự tin hơn, bớt tâm lý e ngại, mặc cảm. Những buổi đầu thật gian nan vất vả, chị em học tiếng phổ thông mà cứ như học "ngoại ngữ", những bàn tay chỉ quen làm nương rẫy không chịu tô theo nét chữ, rồi phải "đánh vật" với những bài toán đố...

Sau 4 tháng học tập, kết quả thật đáng mừng: Toàn bộ 45 học viên đã được nhận chứng chỉ hoàn thành chương trình xóa mù (lớp 1). Chị Thong, 57 tuổi, học viên cao tuổi nhất lớp, tuy hơi ngượng ngập nhưng phấn khởi khoe: "Bây giờ mình đã viết được cái tên của tất cả mọi người trong nhà, làm được 4 phép tính rồi. Nhiều chị em đã biết ký tên vào văn bản vay vốn, hay ký giấy khai sinh cho con, đi khám bệnh đã biết mình bị bệnh gì... Ai cũng vui lắm".

Từ thành công ban đầu đó, chị Lan đang tiếp tục nghĩ ra các hình thức tuyên truyền, vận động mới để tất cả chị em hội viên nhận thức được lợi ích của việc đi học và tích cực tham gia vào chương trình xóa mù này. 

THIÊN THƯ. Cô giáo "khùng" làng Plei Kly Phun / Thiên Thư // Báo Khuyến học & Dân trí. - 2010. - Số 37. - Ngày 16/9. - Tr. 5

            Đất thị trấn đang lên giá từng ngày, nhưng cô vẫn sẵn sàng hiến đất để xây lớp học, “khùng” hơn khi cô chính là người đi vay tiền nợ lãi để xây lớp, đón học sinh về dạy.

            Người dân thị trấn Nhơn Hòa, huyện Chư Pưh, Gia Lai luôn biết đến cô giáo Kpă H’Dup (51 tuổi) ở làng Plei Kly Phun như một người phụ nữ trong câu chuyện cổ tích bước ra.

            Tốt nghiệp trường Sư phạm mẫu giáo Gia Lai năm 1976, cô giáo Kpă H’Dup đã xin về nơi mình sinh ra để cống hiến cho sự nghiệp trồng người. Cô được phân công về dạy lớp mầm non tại trường Tiểu học Lê Hồng Phong.

            Lớp học thì nghèo nàn làm bằng tranh tre, vách nứa, không có cửa nẻo gì hết. Thương học trò nghèo, để chúng thấy mỗi ngày đến lớp là một niềm vui nên cô luôn trang trí phòng học cho thật đẹp, làm những đồ chơi bằng giấy… cho trẻ. Công sức bỏ ra là vậy, nhưng sáng mai đến lớp là không còn gì hết, phòng học tanh bành vì bị những trẻ em nghịch ngợm khác đến phá hỏng.

            Thời gian cứ trôi, mà tình hình vẫn không thay đổi, trong khi trẻ em của làng Plei Kly Phun ngày càng ít đi học, dù cô đã đến từng nhà vận động. Nhưng cảnh nghèo đói khiến cho các em ở đây chỉ biết theo cha mẹ vào rẫy đi làm. Cô buồn bã và lo cho cái vòng luẩn quẩn của tương lai những đứa trẻ đồng bào J’rai của mình.

            Rồi tai họa ập đến đầu cô, năm 2003, đứa con trai khôi ngô, đang học lớp 6 của cô bỗng dưng qua đời bị căn bệnh viêm màng não. Nỗi đau chưa nguôi ngoai thì năm sau, 2004, chồng cô làm giáo viên cũng ra đi theo cậu con trai. Tận cùng của nỗi đau mất người thân, cô tưởng mình đã ngã quỵ. Nhưng rồi được những đồng nghiệp của mình đến an ủi, rồi còn phải lo cho tương lai của 6 đứa con của mình nữa nên cô đã nén nỗi đau và vực dậy.

            Năm 2005, cô quyết định hiến một phần của mảnh đất nhà mình để xây lớp học cho những đứa trẻ của làng Plei Kly Phun. Không có tiền xây phòng, cô đã làm đơn vay ngân hàng 10 triệu đồng để dựng phòng học. Số tiền ít ỏi này cũng chỉ đủ làm phần móng, láng nền, mua tôn và ván gỗ để dựng một lớp học đơn sơ cùng ít đồ dùng học tập.

            Lớp học đã có, hàng ngày cô lại đến từng nhà vận động từng gia đình để cho con trẻ đi học. Cảm phục trước tấm lòng của cô giáo nhiều phụ huynh đã dẫn con đến lớp cô giáo Kpă H’Dup trước khi đi rẫy.

            Đến năm 2009, lớp học bị xuống cấp trầm trọng, học sinh ngồi học trong những khe hở của nắng nóng, còn trời mưa thì cô trò lại đi hứng những giọt nước mưa. Thấy vậy, số lượng học sinh đến lớp lại thưa dần.

            Lòng cô đau như thắt lại. Cô biết, người đồng bào mình nghèo là vì “đói cái chữ”: “Muốn thoát nghèo là phải có văn hóa, phải biết tính toán… như vậy thì chỉ có con đường duy nhất là đi học”. Nghĩ vậy, cô quyết định phá bỏ phòng học cũ, xây phòng học mới.

            Nhưng cuộc sống của cô còn quá nhiều khó khăn, với đồng lương ít ỏi, một mình phải nuôi 6 đứa con, trong đó có hai đứa đang học lớp 7 và lớp 8. Để xây được phòng học là điều không dễ. Nhưng đã quyết là làm, cô đã làm đơn vay 30 triệu đồng về xây lớp học khang trang hơn. Chỉ sau vài tháng lớp học mới đã đi vào hoạt động.

            Buồn nỗi, ngoài cái phòng ra thì bên trong không có lấy một cái ghế hay bất kì đồ chơi, đồ dùng cho học sinh (ngoài vài quyển sách bé tập tô, sách toán… của nhà nước hỗ trợ). Học sinh đến lớp chỉ ngồi dưới sàn nhà. Cô lại lặn lội đến trường tiểu học Lê Hồng Phong, xin lại những bàn ghế đã hư hỏng về đóng lại cho học sinh ngồi. Học sinh đi học không có tiền mua bảng con, phấn viết, bút tô… cô lại trích tiền lương của mình để mua và làm đồ chơi cho trẻ.

            Hàng ngày cô vẫn đến nhiều gia đình vận động cha mẹ cho trẻ đến lớp để… thoát nghèo, thương cô giáo nên trẻ con trong làng đã đến đi học đầy đủ. Hiện lớp của cô luôn vang tiếng cười của 25 đứa học trò nhỏ cùng 5 đứa em hàng ngày theo anh chị đến lớp ngồi học.

            Cô tâm sự, số nợ của cô có lẽ phải 3 năm nữa mới trả hết được.

            Trước việc làm cao đẹp của cô Kpă H’Dup, nhiều người luôn xem cô là cô tiên trong chuyện cổ tích bước ra. Còn những người thấy giá đất thị trấn đang lên theo thời gian thì nói cô là “khùng”. Còn với cô: “Nâng cao trình độ dân trí bằng con đường học hành mới mong thoát được cái nghèo bao đời nay của người J’rai” là quan trọng nhất.

NGUYỄN QUẢNG HÀ. Chị đã gắn cuộc đời với những hạt giống / Nguyễn Quảng Hà // Sách Giữa rừng hoa đẹp T.2. - Gia Lai: Hội nhà báo, 2005. - Tr. 132-137

Khi bản thân những người làm công tác khoa học đôi lúc đã tự cảm thấy mình khô khan và... khổ, thì lúc được chứng kiến sự lăn lộn của những người phụ nữ nghiên cứu khoa học, nhất là trong lĩnh vực bán mặt cho đất, bán lưng cho trời mới cảm thấy thấm thía hơn. Vẫn biết họ có mặt ở khắp mọi nơi, nhưng với tôi, cái ấn tượng của hơn 10 năm được thường xuyên gặp chị vẫn còn đọng nguyên một điều: Cảm phục.

Từ cánh đồng đến với nương rẫy

Xuất thân từ một gia đình thuần nông, vượt qua vô số những khó khăn của thời cả nước dồn sức mình cho Đại thắng mùa Xuân 1975, chị Nguyễn Thị Thông, người con gái vùng quê Đan Phượng - Hà Tây đã gửi những ước mơ cho mái trường Đại học Nông nghiệp I. Chị kể, những ước mơ của chị thời đó đơn giản lắm, là làm sao giúp cho bà con, cho người thân mình được vận dụng những tiến bộ mới, được làm giàu trên những mảnh đất của chính mình. Để đến khi tốt nghiệp vào năm 1978, hòa chung trong khí thế của những trí thức miền Bắc tham gia xây dựng miền Nam, chị đã đến Tây Nguyên, được phân công về đơn vị mà đến 27 năm sau chị vẫn hết lòng vì nó: Trung tâm nghiên cứu giống cây trồng tỉnh.

Tất nhiên, với 27 năm trước, vùng đất này còn khó khăn lắm. Nằm giữa chốn hoang vu, với cơ sở hạ tầng, trang thiết bị nghiên cứu hầu như không có gì, đã có những lúc người con gái chưa từng đi xa khỏi nhà hơn 50 cây số cảm thấy buồn, nản. Biết bao nhiêu đêm mất ngủ trong căn tập thể tuềnh toàng, tưởng như chỉ cần đạp một cái là đổ, lại được chị trấn an bằng cách... khóa thật nhiều ổ khóa. Xung quanh đó, tàn quân Fulro thỉnh thoảng vẫn còn lén lút hoạt động. Sợ, cái cảm giác đó rất thường gặp trong suốt 3 năm đi theo chương trình còn ám ảnh chị đến khi trở về Hà Nội. Với những người tình nguyện như chị, các cấp sẽ tạo những điều kiện ưu tiên cho bố trí công việc nơi quê nhà.

Chính vì vậy mà rất nhiều người đã ngạc nhiên khi thấy chị viết đơn tình nguyện trở lại Gia Lai, về lại với cơ quan mà mình đã từng 3 năm gắn bó. Hỏi chị tại sao, chị cũng ngập ngừng: Có nhiều điều, nhất là những điều kiện làm việc không giống như những mơ ước của mình, thế nhưng mảnh đất này lạ lắm, nó níu kéo bởi tình người, cứ tưởng như không dứt ra được. Thêm nữa, bao nhiêu tiềm năng nông nghiệp chưa được khai thác, trình độ sản xuất của bà con lại thấp. Và thế là nhiệt tình tuổi trẻ thúc giục,... Và thế là tạm biệt những cánh đồng quê hương, người trí thức ấy đến với những nương rẫy Tây Nguyên.

Niềm vui sau những khó khăn

Lớp đàn em cùng ngành nghề như chúng tôi chỉ được gặp chị mới hơn 10 năm trước, những cuộc gặp gỡ trong đen nhẻm bụi đất, dưới cái nóng nung người hay những cơn mưa dầm tê tái. Vừa mới tranh luận về một chỉ tiêu cho giống sắn đang nghiên cứu tại An Khê, lần sau đã vồn vã với nhau trên những cánh đồng giống lúa mới tại Ayun Hạ. Cả Trung tâm nghiên cứu thời đó chỉ có 3 kỹ sư chuyên ngành, trong đó 2 người đã kiêm công tác lãnh đạo, và cũng chỉ duy nhất chị là cán bộ kỹ thuật nữ, không lăn lộn không được. Còn nhớ vào thời điểm 1995 - 1998, khi mà chương trình khảo nghiệm một số giống lúa lai Trung Quốc đang được tiến hành, có những lúc chị ở lại với những cánh đồng đến vài tháng trời, quên cả gia đình, chồng con. May mà sau những bức bối ban đầu, gia đình đã thông cảm cho chị. Chồng chị cũng đã quyết định nghỉ hưu trước tuổi, chăm sóc con cái và gia đình. Có được niềm động viên đó, người phụ nữ mới đỡ áy náy trong những chuyến công tác đằng đẳng xa nhà. Nghiên cứu khoa học đã khổ, những người phụ nữ làm công tác này còn khổ và cần thông cảm hơn gấp nhiều lần.

Và tất nhiên sau những gian khổ sẽ là thành công. Không thể kể hết được ra đây những kết quả khả quan mà chị và các đồng nghiệp đã đem lại. Nhiều giống lúa được lưu giữ, lai tạo, nhiều cơ cấu sản xuất mới được xây dựng phù hợp với điều kiện đặc thù của từng vùng,... Cũng chỉ mới đây thôi, việc lần đầu tiên sản xuất thành công hạt giống lúa lai Fl, tổ hợp Bác Ưu 903 và HYT83 cũng là một thành tựu nông nghiệp tỉnh nhà được ghi nhận khá cao. Đối với những người làm công tác nghiên cứu kỹ thuật, còn gì vui hơn khi nhận được sự tin tưởng từ người nông dân, những người trực tiếp đưa kết quả nghiên cứu của mình ra với đồng ruộng. Nhắc lại điều này, tự nhiên chị sôi nổi hẳn lên khi kể về những kỷ niệm của 10 năm trước, lúc các nhà nghiên cứu đang tập trung khảo nghiệm những giống sắn có năng suất, phẩm chất cao phục vụ cho vùng nguyên liệu tại khu vực An Khê. Sự nhiệt tình giúp đỡ, thái độ trân trọng của lãnh đạo địa phương, nhà máy đã thật sự kích thích niềm say mê của những người nghiên cứu. Để đưa đến kết quả khả quan hôm nay: phần lớn vùng nguyên liệu đã được trồng bằng những giống rút ra từ kết luận của đề tài.

Rồi lớp trẻ sẽ tiếp tục

Có phải vì đã quá quen thuộc hay không mà đến chiều nay tôi mới nhận ra: Bụi thời gian đã phủ trắng mái đầu của chị. Thời gian trôi nhanh quá, chỉ còn 2-3 năm nữa, chị Nguyễn Thị Thông - nữ Trưởng phòng Kỹ thuật của Trung tâm Nghiên cứu giống cây trồng với nhiệm kỳ kéo dài mười mấy năm sẽ đến tuổi nghỉ hưu. Khi được hỏi về những điều chưa làm được trong quãng thời gian cống hiến của mình, chị áy náy: Trình độ sản xuất của một bộ phận bà con nông dân còn quá lạc hậu, làm cho những tiến bộ khoa học - kỹ thuật phải rất công phu mới có thể đưa vào ứng dụng. Thêm vào đó, trang thiết bị nghiên cứu của đơn vị còn quá nghèo nàn, những ước mơ được bổ sung kiến thức đành phải bỏ dở... Một thoáng lặng rồi niềm vui trở lại. Chị hào hứng kể với tôi về những bước phát triển vượt bậc của đơn vị mình. Những dự án, kế hoạch bổ sung trang thiết bị nghiên cứu lên đến hàng tỷ đồng đã được lãnh đạo tỉnh, lãnh đạo ngành quan tâm giải quyết. Chị cũng không còn phải có những chuyến công tác đằng đẵng hàng tháng trời nữa, bởi giờ đây phòng kỹ thuật của chị đã có đội ngũ kỹ sư chuyên ngành lên đến gần chục người với những hành trang cơ bản, những nhiệt huyết của tuổi trẻ đang khao khát thể hiện mình.

Để chị lại có thêm chút thời gian với căn nhà cấp 4 đơn sơ nằm giữa những mảnh vườn thí nghiệm. Chẳng nhiều nhặn gì. 300 cây cà phê đang oằn mình trong cơn khát, đàn lợn trong chuồng, chiếc xe đạp vẫn thường xuyên theo những bước chân đồng ruộng của chị. Chỉ vậy thôi, nhưng với sự động viên của gia đình, của đồng nghiệp, những cống hiến của chị đã được thừa nhận. Tôi hiểu và tin điều đó khi nhìn vào những chàng thanh niên (mà tại sao cả phòng vẫn chỉ có một mình chị là nữ?) vừa là “đàn em”, vừa là đồng nghiệp của chị. Rồi họ sẽ chấp nhận dấn thân. Cũng như hai đứa con của chị ngày nay, cũng đã chọn cho mình hai nghề mà người ta vẫn thừa nhận là... cực: cháu trai lớn đã là sĩ quan Quân đội nhân dân Việt Nam, còn cháu gái sau, hiện đang là sinh viên thuộc ngành của mẹ mình 30 năm về trước.

Chiều hôm nay, tôi lại song hành với chị trên những cánh đồng còn đang nứt nẻ. Ngày kia đã là 8/3 rồi. Hỏi chị về những dự định và mong muốn trong ngày của “riêng phái mình”, chị lặng im để rồi bâng quơ: Năm nay hạn quá, chắc chắn lại có nhiều vùng cây cối, đồng ruộng phải bỏ hoang nữa đây,... Thế là tôi hiểu, đang là mùa vụ. Có lẽ có nhiều phụ nữ sẽ kỷ niệm ngày vui của mình trên những thửa ruộng, những phòng thí nghiệm. Cũng đành thôi, nhưng chắc chắn gia đình, bạn bè, đồng nghiệp sẽ có những phút riêng dành cho họ.

Tự dưng tôi lại nhìn quanh để tìm kiếm. Không có gì trên cánh đồng đang khô không khốc. Dẫu chỉ là một bông hoa dại. Mùa năm nay hạn quá!!!

HỒNG LĨNH. Chị H’Myai - chăm chỉ làm giàu ở làng Bông / Hồng Lĩnh // Sách Giữa rừng hoa đẹp T.3. - Gia Lai: Hội Nhà báo,  2006. - Tr. 133-135

           Bà con dân tộc Jrai ở làng Bông thuộc xã Hà Bầu (huyện Đak Đoa) đều coi chị H’Myai như một gương sáng trong lao động sản xuất để học tập và làm theo. Nhờ biết cách làm ăn theo khoa học, gia đình chị H’Myai từ chỗ nghèo đói nay đã vươn lên giàu có nhất làng. Bình quân mỗi năm gia đình chị có mức thu nhập từ trồng trọt và chăn nuôi hơn 80 triệu đồng (đã trừ chi phí), một khoản tiền mà từ bao đời nay cả làng nằm mơ cũng không thấy. Có tiền chị xây dựng được một ngôi nhà mới khang trang, thoáng mát trên diện tích 120m2, mua sắm thêm được 1 xe công nông dùng làm phương tiện sản xuất, 2 xe máy để đi lại và nhiều tiện nghi khác trong nhà như: Ti vi, radio, giường tủ, bàn ghế... Hai đứa con lớn của chị đều theo học lớp 5 và lớp 7 ở trường xã. Chị tâm sự: Mình không đẻ nữa mà tập trung sức làm ăn và nuôi con ăn học cho đến nơi đến chôn. Mình cũng may mắn có được cái chữ (học hết hớp 7/12) nên mới có tí trình độ để tiếp thu được những cái mới trong sản xuất, mang lại sự giàu có và sung sướng như ngày hôm nay.

Gia đình chị H'Myai có 1 ha lúa nước 2 vụ và gần 2 ha đất canh tác. Như bao gia đình khác trong làng, trước đây đất canh tác cũng chỉ là... canh tác thôi chứ đâu có nghĩ đến chuyện năng suất, sản lượng và hiệu quả như bây giờ. Riêng 1 ha ruộng 2 vụ, chị cũng trồng được 1 vụ bằng giống lúa địa phương và vụ, còn lại trong năm để cho đất “nghỉ ngơi”; còn 2 ha đất đồi cũng bỏ hoang hóa, cỏ dại mọc để cho bò ăn... Do vậy năm nào gia đình chị cũng đều thiếu ăn đến 3-4 tháng. Đó là chưa nói đến có năm mất mùa thì coi như đói ăn đến 6 tháng và cần phải có sự giúp đỡ cứu đói của chính quyền địa phương và của cộng đồng. Từ năm 2000 được coi là bước ngoặt về cuộc sống của gia đình, thoát khỏi cảnh nghèo đói và dần vươn lên làm giàu. Chị được chọn đi tập huấn lớp khuyến nông ở huyện và đi tham quan nhiều mô hình sản xuất trong tỉnh. Thấy cách làm ăn của họ khác hơn nhiều so với làng mình; cũng đất, cũng nước như mình mà sao họ làm ra nhiều hạt lúa, hạt ngô đến thế và cuộc sống ai cũng đầy đủ, sung túc cả. Với những gì tiếp thu được, chị ứng dụng vào trên chân ruộng của nhà mình, gieo bằng giống mới, dùng thêm phân xanh bón ruộng và thấy có kết quả ngay từ vụ đầu. Phấn khởi, chị không cho đất “nghỉ ngơi” mà “bắt” làm vụ 2. Năng suất cả 2 vụ trong năm đạt đến 12 tấn thóc. Càng làm “cái đầu” càng sáng ra, chị tận dụng hết đất để đưa vào trồng cây cà phê, rồi vay vốn nuôi bò, đào ao thả cá... “Món” gì chị đầu tư làm ra cũng đều có hiệu quả cả, lúa nước mỗi năm thu được 24 triệu, cà phê 48 triệu, chăn nuôi 12 con bò sinh sản thu 25 triệu, ao cá thu 10 triệu...

Điều đáng mừng, không những chị H'Myai chỉ biết làm giàu cho riêng mình mà còn trở thành khuyến nông viên giỏi giúp đỡ và hướng dẫn cho bà con dân làng cùng làm theo. Nhiều hộ ở làng Bông học tập cách làm của chị H’Myai cũng đã thoát được nghèo; tuy chưa giàu bằng chị nhưng cũng... kha khá, mỗi năm dật được chừng hơn chục triệu đồng. Già làng Bông phấn khởi nói: H’Myai là con gái nhưng rất giỏi, nó nghe theo lời cán bộ và biết làm nhiều thứ lắm. Nó mang lại sự no ấm cho dân làng nên già phải vận động bà con làm theo nó thôi... 

LÊ QUANG HỒI. Chuyện cổ tích giữa lòng phố núi / Lê Quang Hồi // Báo Quân đội Nhân dân. - 2012. - Số 18361. - Ngày 25/5. - Tr. 3

            Ở phố núi Pleiku, tỉnh Gia Lai, có hai người phụ nữ không lấy chồng, không sinh con, nguyện cùng nhau đem hết tình thương của mình để chăm bẵm, nuôi dưỡng 105 “đứa con bất hạnh” từ năm 1994 đến nay. Đó là chị Nguyễn Thị Khiết và Trần Thị Mỹ Hậu.

Đã 8 giờ nhưng cái lạnh đầu ngày ở phố núi vẫn chưa tan. Trong căn nhà thoáng rộng của Trung tâm Nuôi dạy trẻ mồ côi Sao Mai, mọi vật dụng sinh hoạt được sắp đặt rất ngăn nắp và khá đẹp mắt, tiếng trẻ sơ sinh khóc đòi mẹ, có lúc tiếng khóc như ré lên đau đớn… Rồi tiếng mẹ dỗ con nhè nhẹ: “Ngoan nào… nín đi con! Con bú sữa đi, tí nữa “mẹ Khiết” về cho con uống thuốc là lành liền à, bú đi con…”. Tiếng ru, tiếng dỗ dành thương yêu của người mẹ đã đưa đứa bé vào giấc ngủ. Xung quanh, gần 10 bé khác cũng đang nhao nhao, đứa thì đòi mẹ cho ăn, đứa đòi uống nước, lau mặt…

“18 năm kể từ ngày thành lập, Trung tâm Nuôi dạy trẻ mồ côi Sao Mai của chúng tôi đã tiếp nhận và nuôi dưỡng 105 cháu. Các cháu đến đây có nhiều  hoàn cảnh khác nhau, nhưng có chung một điểm đó là sự bất hạnh. Khi đến với Trung tâm, cháu nhỏ nhất được một ngày tuổi, cháu lớn 13 tuổi. Đến nay, hiện còn 50 cháu, trong đó 13 cháu bị các bệnh về di chứng chất độc da cam/đi-ô-xin, bại não, u thủy não, liệt cơ… Đặc biệt, có 20 cháu là con em đồng bào dân tộc thiểu số bị các chứng bệnh nan y khó chữa, hoặc lúc sinh ra không may mẹ bị chết, trước nguy cơ bị chôn sống (theo tục Năn tui mi - con chết theo mẹ), biết tin chúng tôi cùng một số bà con đã đến “cứu thoát” đưa về nuôi. Các cháu là cuộc sống, là niềm vui hạnh phúc của chúng tôi..." - chị Nguyễn Thị Khiết, một trong hai người mẹ, dành chút thời gian kể với chúng tôi.

“...Chiến tranh đi qua, trên địa bàn các tỉnh Tây Nguyên như Đắc Lắc, Đắc Nông, Gia Lai và Kon Tum vẫn còn rất nhiều bom đạn và chất độc hóa học, môi trường sinh thái bị tàn phá nghiêm trọng, ảnh hưởng không nhỏ đến sức khỏe, cuộc sống của đồng bào các dân tộc. Bên cạnh đó, nhiều hủ tục lạc hậu vẫn đeo bám, khiến họ đã nghèo lại càng khó khăn hơn. Nhiều em bé sinh ra không lành lặn, nhiều cặp vợ chồng sinh con ra nhưng khó khăn về kinh tế buộc lòng phải đem cho... Thương các cháu, chúng tôi quyết định thành lập Trung tâm Nuôi dạy trẻ mồ côi Sao Mai ở đường Wừu, phường Ia Kring, thành phố Pleiku, tỉnh Gia Lai vào đầu năm 1994”. Câu chuyện với chúng tôi bị đứt quãng vì tiếng khóc của cháu Nguyễn Ngọc Bảo Trâm (tên do mẹ Khiết, mẹ Hậu đặt).

Chị Trần Thị Mỹ Hậu tâm sự: "Cháu Bảo Trâm mới sinh được hai ngày tuổi tại Bệnh viện Đa khoa tỉnh Gia Lai, trong một đêm vắng không biết vì lý do gì người mẹ trẻ đã bỏ con lại và ra đi. Cháu ngủ dậy không có mẹ, đói sữa nên khóc hoài, người tím tái, các bác sĩ trong khoa sản đã xin sữa của các bà mẹ xung quanh cho cháu ăn và gom tiền mua thêm sữa cho bé. Biết tin, tôi đã đi xe thồ đến và xin được “bảo lãnh” đưa cháu về nuôi. Đến nay cháu đã hơn một tuổi. Cháu Tuyết Minh sinh ngày 8-9-2008 ở thành phố Quy Nhơn (Bình Định), bị khối u thủy não, gia đình nghèo không đủ sức lo chữa bệnh cho cháu, nên cháu trong tình trạng chết dần chết mòn...".

Ngày được chị Khiết, chị Hậu nhận về nuôi, Tuyết Minh còn đỏ hỏn. Chị Hậu kể: "Lần đầu thấy cháu, chúng tôi nhìn nhau không nói nên lời. Chúng tôi đã dành cho Minh một sự quan tâm đặc biệt, vừa đưa đi Bệnh viện Nhi Đồng ở TP Hồ Chí Minh để bác sĩ cứu chữa, vừa thay nhau chăm bẵm… Đến nay, Minh đã biết cười và biết nhận được từng người mẹ…".

Còn kia là cháu Siu Vun, người dân tộc Giơ Rai, một trong những nạn nhân của hủ tục Năn tui mi, cũng được hai mẹ cứu sống. Vun sinh ngày 28-9-2009 tại huyện Mang Yang, tỉnh Gia Lai. Cũng như Bảo Trâm, Vun chào đời được một ngày thì không may chị Siu Blới - mẹ Vun bị băng huyết rồi qua đời. Trong lúc gia đình, họ hàng lo làm ma cho người xấu số, thì ông ngoại đã lẳng lặng bế Vun bỏ vào trong cái chuồng bò gần nhà chờ chết để chôn luôn cùng mẹ. Nghe tiếng con khóc, anh Siu Veh - cha Vun như đứt từng khúc ruột, muốn nhảy vào cứu con nhưng ông bà ngoại không cho phép, còn dọa phạt mấy con bò vì cái tội “không biết thương con”. Quan niệm cổ hủ của người Giơ Rai, con người cũng như con chim, con heo... Đứa trẻ sinh ra phải có mẹ cho ăn, cho bú mới khôn lớn. Không may mẹ mất, phải cho nó đi theo để mẹ cho bú, cho ăn. Giữ lại mà không nuôi được là có tội. Anh Ksor Pa, một người bà con sống ở huyện Đak Đoa về dự đám tang đã nhìn thấy Vun đang nằm thoi thóp, không một mảnh vải che thân, toàn thân tím tái, bị ruồi vàng và kiến đen bâu cắn. Anh Pa bí mật cởi áo bọc Vun lại, rồi nhanh chóng đưa Vun về nhờ "mẹ Khiết” và “mẹ Hậu” nuôi cháu.

Chị Khiết kể lại: "Khi bế Vun trên tay, tôi thấy người cháu đầy vết sưng tím do bị côn trùng cắn, bị đói, bị lạnh, chỉ còn thoi thóp thở. Chúng tôi lấy nước ấm tắm cho cháu, lấy sữa cho cháu ăn, rồi cởi áo ấp cháu vào lòng để truyền cho cháu hơi ấm… Ba mươi phút, rồi một giờ, hai giờ, tất cả chúng tôi như nín lặng trong xúc động, chỉ biết cầu mong cho Vun… Rồi cái gì đến cũng đến, sự sống đã bắt đầu nhen nhóm, cháu cựa quậy, da hồng lên, mắt mở ra…". Hơn bốn tháng tích cực đưa Vun đi chữa trị, từ Bệnh viện Gia Lai đến Bệnh viện Nhi TP Hồ Chí Minh, các chị đã cứu Vun thoát khỏi lưỡi hái tử thần. Giờ Vun đã được hơn hai tuổi, trắng trẻo bụ bẫm, đôi mắt tròn to long lanh rất đáng yêu.

Rơ Mah Phương Uyên cũng về Trung tâm từ tháng 9-2008, khi mới được 20 ngày tuổi. Chỉ vì nghiện rượu mà người cha (ở một làng biên giới thuộc huyện Đức Cơ) đã đang tâm bỏ đi, trong lúc người mẹ đau nặng không nuôi được cháu.

Không chỉ có Siu Vun, Rơ Mah Phương Uyên, mà ở Trung tâm còn có hơn 20 em nhỏ khác được bà con dân làng và hai người mẹ cứu sống khỏi hủ tục lạc hậu của đồng bào dân tộc thiểu số. Có em bây giờ đã lớn và đang học lớp 11, 12.

Gặp chúng tôi, cháu Hó (dân tộc Ba-na) xúc động kể: “Cháu ở làng Li Pong, xã AYun, huyện Chư Sê (Gia Lai). Nghe ông bà ngoại kể lại rằng, vào giữa tháng 7-1996, trong lúc đi vào rừng lấy măng thì mẹ cháu bị rắn lục cắn, khi ông mặt trời trốn mình sau đỉnh núi A Yun cũng là lúc mẹ cháu mất. Lúc đó cháu mới được 2 tuổi, thằng Hơm em cháu mới sinh được 3 tháng. Bọn cháu đã được các chú cán bộ xã can thiệp, không cho dân làng bắt chết theo mẹ. Rồi mẹ Khiết, mẹ Hậu đã nuôi dưỡng hai chị em đến bây giờ. Năm nay cháu đang học lớp 12 ở Trung tâm Giáo dục thường xuyên TP Pleiku, còn Hơm đang học lớp 9. Chị em cháu cố gắng học thật tốt để khỏi phụ công các chú cán bộ đã giải cứu và hai mẹ tận tình chăm sóc, nuôi dưỡng...”.

Ở bên đường phố núi Pleiku có những cây thông già tựa đầu vào nhau, như hình bóng mẹ con. Ở Trung tâm Nuôi dạy trẻ mồ côi Sao Mai thì tình người được viết bằng những câu chuyện thật cảm động. Mỗi con người là một cảnh đời, một số phận. Hai người mẹ ở đây đã lấy tình yêu thương của chính mình để hòa vào dòng chảy riêng của từng số phận ấy làm nên một chuyện cổ tích.

Trên đường trở về, tôi nhớ mãi hình ảnh của những đứa trẻ bất hạnh ngày nào giờ tung tăng chạy nhảy trong cuộc sống hạnh phúc. Và tôi cũng nhớ mãi những lời tâm sự của hai người mẹ lúc chia tay: Nuôi dưỡng các cháu, chúng tôi thấy cuộc đời mình có ý nghĩa hơn. Ngày từng ngày, đêm từng đêm, chúng tôi dành hết tình cảm và sức lực chăm sóc các cháu. Mình đã khổ cực, bị thất học thì đừng để các cháu phải chịu thiệt thòi như mình...

TRẦN VĂN THIỀU. Chuyện về cô giáo Rahlan H’Lut vận động học sinh ra lớp / Trần Văn Thiều // Sách Người tốt việc tốt làm theo gương Bác T.3. - Gia Lai: Ban tuyên giáo Tỉnh ủy, 2013. - Tr. 171-173

          Sau khi tốt nghiệp Trung học Sư phạm, năm 2004 cô giáo trẻ đầy nhiệt huyết Rahlan H’Lút về nhận công tác tại Trường PTCS Nguyễn Bá Ngọc xã Chư A Thai, huyện Ayun Pa, nay là thị xã Ayun Pa. Với sức trẻ cô đã hăng say trong công tác giảng dạy, học tập, đem kiến thức của mình để truyền đạt cho học sinh thân yêu. Đến tháng 09/2009, chấp hành sự phân công điều động của cấp trên, cô về nhận công tác tại trường Tiểu học Anh Hùng Núp, xã Ia Yeng, huyện Phú Thiện.

Trong học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh, cô giáo Rahlan H’Lút đã có nhiều hành động, việc làm thiết thực. Một trong những việc mà cô quan tâm nhất đó là làm sao động viên con em đồng bào đến trường, đến lớp. “Hồi đó tôi cũng học khá nhưng nếu không có các thầy cô động viên thì ước mơ thành cô giáo của tôi đã không thành hiện thực. Giờ quay về làng gieo chữ cho chính con em đồng bào mình cũng là ước nguyện của tôi. Từng ngày đứng trên bục giảng tôi luôn khao khát tất cả các em học sinh của lớp tôi nói riêng, của trường tiểu học Anh Hùng Núp học thật giỏi, để về làm giàu, xây dựng cho quê hương đất nước” - cô giáo Rahlan H’Lút tâm sự.

Xã Ia Yeng là xã vùng đặc biệt khó khăn, cách trung tâm huyện hơn 15 km, hầu hết bà con nơi đây là đồng bào Jrai, đời sống khó khăn, nhiều trẻ em trong độ tuổi còn chưa được đến trường, thất học và đói nghèo luôn hiện hữu ở vùng quê này. Để khắc phục tình trạng học sinh bỏ học, bản thân cô thực hiện biện pháp: sáng học sinh nghỉ học thì tối cô phải đến nhà hỏi thăm lý do và vận động đến lớp. Với học sinh chưa đến lớp thì phân tích cho phụ huynh hiểu lợi ích của việc học để họ không ngăn cản con mình đến lớp. Học sinh yếu kém, chán học thì cô tổ chức dạy phụ đạo để các em vươn lên bằng bạn bè. Cô luôn xem học sinh gần gũi như chính người nhà của mình. Cô cho biết: “Nếu mình chỉ cần lơ là không quan tâm sâu sát là các em bỏ học ngay, mà bỏ hai hôm là chán, rất khó vận động trở lại lớp. Cái khó ở địa bàn xã là hầu hết gia đình phụ huynh khó khăn nên muốn thông báo hay liên lạc gì phải đến tận nhà, nhiều khi phải đến mấy lần mới gặp được phụ huynh. Có khi phải vận động cả buổi họ mới cho con đi học. Hầu hết học sinh, sau giờ lên lớp về nhà đều nói tiếng Jrai nên vốn tiếng Việt các em học rất nhanh quên”. Khó khăn là thế, nhưng với tâm huyết của mình, cô đã biết kết hợp với gia đình, nhà trường và nhất là Đội thiếu niên tiền phong của trường xây dựng kế hoạch nhỏ giúp các em có hoàn cảnh khó khăn. Trong các buổi học và các tiết sinh hoạt luôn thường xuyên động viên, giáo dục các em, tổ chức cho các em chơi trò chơi dân gian, lúc giờ ra chơi, cô còn giúp các em cắt móng tay, móng chân, cột tóc cho các học trò nữ gọn gàng. Cô luôn dặn các em, ngoài việc học ở trường và làm bài tập ở nhà, phải giúp bố mẹ những việc mình có thể như trông em, quét dọn nhà cửa, nấu cơm... Nhiều lần, thấy ý thức tự học của học sinh ở đây chưa cao, ngoài giờ chính khóa, cô giáo đến tận từng nhà để hướng dẫn các em học bài, những gì các em chưa hiểu cô sẵn sàng giải thích cặn kẽ, tạo cho các em tính ham học...

Chính vì lòng nhiệt huyết không mệt mỏi của cô mà trong các năm học 2011-2012, 2012-2013 lớp của cô làm chủ nhiệm không có học sinh bỏ học, sĩ số luôn được đảm bảo 100%, lớp có 11% học sinh giỏi, trên 30% học sinh tiên tiến, 100% học sinh lớp 5 đều hoàn thành chương trình tiểu học.

Không chỉ là một giáo viên có năng lực, tâm huyết với nghề, được đồng nghiệp mến phục, học trò quý mến, cô giáo Rahlan H’Lút còn là một người vợ, người mẹ đảm đang, vun vén xây dựng gia đình hạnh phúc. Lãnh đạo nhà trường đánh giá cao về năng lực công tác, tâm huyết yêu nghề, mến trẻ của cô. Thầy giáo Nghị-Hiệu trưởng Trường tiểu học Anh Hùng Núp cho biết: “Là một trong những giáo viên trẻ ở trường, cô luôn vượt qua mọi khó khăn, thử thách để hoàn thành nhiệm vụ giảng dạy, cô rất tâm huyết với nghề, mến trẻ, với lợi thế là người gốc Jrai nên cô huy động được học sinh đến lớp đầy đủ. Lớp của cô không có tình trạng học sinh bỏ học hay yếu kém. Cô giáo Rahlan H’Lút xứng đáng là tấm gương sáng để những giáo viên khác noi theo”.

Nhờ những thành tích nổi bật đó, Cô giáo Rahlan H’Lút nhiều năm liền được tặng các danh hiệu: Giáo viên dạy giỏi, Lao động tiên tiến, Chiến sĩ thi đua của ngành. Năm 2013 cô vinh dự được tham gia dự Hội nghị sơ kết hai năm thực hiện Chỉ thị 03 của Bộ Chính trị về tiếp tục đẩy mạnh việc học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh do Huyện ủy Phú Thiện tổ chức và được UBND huyện Phú Thiện tặng Giấy khen vì có thành tích xuất sắc trong việc học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh.

H’LINH NIÊ. Đã có một giọng hát Giarai như thế! / H’Linh Niê // Sách Nghệ sĩ Tây Nguyên: Người dân tộc thiểu số. - H. : Văn hóa dân tộc, 2002. - Tr. 31-34

           Thiếu tá quân đội nhân dân Rchăm Phiang hiện đang là giáo viên, bộ môn thanh nhạc của Trường Cao đẳng Nghệ thuật quân đội, và là giảng viên thỉnh giảng của Nhạc viện Hà Nội, tham gia dạy cả bậc trung học lẫn đại học thanh nhạc - địa vị mà không phải ca sỹ nào - dù có bằng tốt nghiệp đại học - cũng có thể đạt được. Ngoài những buổi biểu diễn với các nhóm ca nhạc dân tộc ra, chị còn thường xuyên tham gia những chương trình hòa nhạc thính phòng lớn của Nhà hát Giao hưởng Việt Nam và Nhạc viện Hà Nội. Những chương trình biểu diễn mà một nửa số khán giả là khách nước ngoài, thường bày tỏ sự khen ngợi rằng: “Không kém gì những cuộc hòa nhạc và hát thính phòng ở phương Tây”.

Đạt được thành công ấy, đối với một người phụ nữ dân tộc Jrai như Rchăm Phiang là không dễ. Bởi mảnh đất Chư Prông (Gia Lai) quê chị, dẫu có đặc sản chè Bầu Cạn, thì vẫn là một miền đất nghèo, chỉ quen với những câu hát giao duyên ngẫu hứng, những trường ca Hrê kể về những nữ tù trưởng xinh đẹp, những dũng sỹ dũng cảm, đâu có phức tạp gì, và hoàn toàn xa xôi đối với khái niệm ca hát cộng minh. Lại càng xa lạ hơn với những nhân vật trong những vở ca kịch của các tác giả Traicopxki, Verdi, Chopin... mà chị phải học.

Học chính quy hết trung cấp, đến đại học môn thanh nhạc. Sau nhiều năm ca hát, mỗi khi biểu diễn bài Khúc ca Hrê chị vẫn nhận được rất nhiều những lời tán thưởng của khán giả. Chỉ với tiếng hát bản năng trong sáng và cao vút, Rchăm Phiang đã chân đất ra đi, tạm biệt buôn làng và núi rừng Tây Nguyên, để đến ca hát với những đội văn nghệ quần chúng Quân khu. Rồi cũng lại chân đất mà vào thẳng Đoàn Ca múa quân khu 5. Dấu ấn để người nghe nhớ đến tiếng hát trong trẻo, mượt mà của cô gái Jrai ấy, có lẽ là từ bài hát Khúc ca Hrê của nhạc sỹ Phan Ngọc, mà Rchăm Phiang được nhận chiếc Huy chương Vàng đầu tiên trong Hội diễn ca múa nhạc chuyên nghiệp toàn quốc năm 1981. Sau hội diễn đó, chị rời quân ngũ về Nhạc viện Hà Nội.

Ai bảo học hát là dễ, đặc biệt các ca sỹ nhạc trẻ hiện nay, chỉ cần có một chất giọng đẹp, một ngoại hình dễ coi là đủ? Rchăm Phiang đã phải trải qua 8 năm rèn luyện ở Nhạc viện Hà Nội, dưới sự dìu dắt của cô giáo Hồ Mộ La. Từng có nhiều buổi hoàng hôn đã sậm màu, mà tiếng hát Rchăm Phiang vẫn vang lên từ cửa sổ tầng 2 của Nhạc viện. Chị đã rớt không ít nước mắt, đổ không biết bao nhiêu mồ hôi trên những phím đàn pianô, chỉ để tập đi tập lại một đoạn tự sự nào đó trong trích đoạn ca kịch, một kỹ thuật hát liền giọng (Legato) cho mềm mại, hay kỹ thuật nảy âm (Stâcto) cho sắc, gọn để có thể giành được giải Người hát được yêu thích nhất ở Liên hoan âm nhạc quốc tế tại Bình Nhưỡng 1996, hoặc giải Nhất hát thính phòng toàn quốc tại thành phố Hồ Chí Minh năm 1997. Năm 1995, chị cũng đã được cử đại diện cho giới ca sỹ hát thính phòng opera Việt Nam đi dự cuộc thi âm nhạc lớn nhất thế giới Traicopxki tại Liên bang Nga. Dẫu không đoạt giải gì, nhưng đó cũng là một cái mốc quan trọng đáng ghi nhớ trong cuộc đời ca hát của người nghệ sĩ dân tộc Jrai Rchăm Phiang.

Cũng có người trách Rchom Phiang đã chọn Hà Nội làm nơi lập nghiệp, mà không phải là trở về Tây Nguyên. Nhưng đó cũng chỉ là cách trách yêu một chiều của những người quá yêu mến giọng hát chị mà thôi. Bởi việc những giọng ca như Rchăm Phiang có mặt ở những ngôi trường nghệ thuật lớn của đất nước là có ý nghĩa lắm chứ. Mọi dân tộc trên đất nước Việt Nam đều bình đẳng khi phục vụ cho Tổ quốc. Huống chi ở trên cương vị giáo viên dạy hát của mình, chị cũng đã và đang góp phần gieo ươm những mầm xanh ca hát người dân tộc thiểu số, theo học tại Trường Nghệ thuật quân đội hoặc tại Nhạc viện Hà Nội như Đinh Xuân Đề, Ka Sim Hoàng Vũ, hay Y Giang Tuyn...

Với một chất giọng cao, trong sáng, thuận lợi cho việc thực hiện những kỹ thuật ca hát thiên về vui tươi, trữ tình; và với sự lao động nghệ thuật miệt mài của mình, tiếng hát Rchăm Phiang không chỉ mãi mãi xứng đáng với niềm tự hào của buôn làng, mà còn giành được nhiều cảm tình của những khán giả yêu thích nhạc thính phòng trong và ngoài nước.

VƯƠNG THỪA VIỆT. Đinh Xuân La - Người nghệ sĩ suốt đời trăn trở // Báo Phụ nữ Việt Nam. - 2000. - Ngày 29/5. - Tr. 12

           Không mấy người biết chị quê Quảng Ngãi, dân tộc Hơ-rê. Cứ tưởng chị người Tây Nguyên vì chị gắn với Tây Nguyên chặt quá.

Năm 1965 bé Xuân La mới 12 tuổi đang là học sinh trường miền Nam tập kết (tại Hà Đông) thì trúng tuyển vào Đoàn văn công Tây Nguyên. Mới 12 tuổi Xuân La đã đóng một cái mốc quyết định trong cuộc đời mình: khẳng định hướng đi cho mình mặc dù ba má luôn hướng nghiệp con cái vào ngành sư phạm hoặc y (để sau về xóa mù hay chữa bệnh cho đồng bào quê hương đang gặp muôn vàn đói khổ). Cô bé 12 tuổi tóc vừa chấm vai, cổ quàng khăn đỏ đã nghiêm nghị hứa với ba má sẽ hết sức cố gắng, luôn luôn cố gắng hoàn thành mọi phần việc được giao-của một diễn viên múa. Trong suốt cuộc đời nghệ thuật của mình đến nay đã 35 năm Xuân La nhớ mãi lời hứa đó. Và chị đã mau chóng trưởng thành.

Đoàn văn công Tây Nguyên bấy giờ có 3 bộ môn ca, múa, nhạc cụ dân tộc. Xuân La ở bộ môn múa. Việc chính của người diễn viên này là học và biểu diễn các điệu múa của đồng bào các dân tộc Tây Nguyên, song cũng phải học nhiều điệu múa của đồng bào các dân tộc khác: Tày, Nùng, Mường, Mán, Lào... vào đêm diễn có thể kiêm nhiệm vai giới thiệu, cầm đèn, kéo phông, hát (mà chị nói vắn tắt là “làm tùm lum mọi chuyện”). Xuân La phấn khởi thấy đêm diễn nào cũng đông người xem đặc biệt các tiết mục về Tây Nguyên càng được hoan nghênh nhiệt liệt. (Về sau chị mới biết đó là tình cảm của nhân dân miền Bắc dành cho "Đây bất khuất Tây Nguyên cao cao").

Cũng như nhiều diễn viên khác Xuân La thích nhất là được đi phục vụ chiến trường B. Qua sông Bến Hải chị thấy như đã về với quê hương mình cứ muốn được đi sâu mãi, ở lâu mãi. Chị đã có nhiều chuyến đi phục vụ bộ đội ta và đồng bào các dân tộc Lào anh em. Chuyến đi nào cũng bị sốt rét nặng. Đến nay chị vẫn lấy làm lạ là tại sao sốt cao 39-40° mà vẫn biểu diễn được. Dù ở tiết mục cá nhân hay đóng vai "lĩnh xướng" ở các tiết mục tập thể người bệnh nhân sốt rét này vẫn "biểu diễn ngon ơ”. Phải chăng chị đã ý thức rằng mình nghĩ sẽ không có người thay? Trong số bộ đội ngồi xem biết đâu cũng có những người đang bị sốt hoặc bị thương rất nặng? Tình cảm cách mạng trong lòng người chiến sĩ cách mạng được bồi bổ rất nhiều ở những chuyến đi đó.

Nước nhà thống nhất Xuân La cùng chồng- anh Lê Hoài Ba công tác cùng đoàn văn công Tây Nguyên-xin về Đoàn nghệ thuật Đam San tức Đoàn nghệ thuật dân tộc Gia Lai. Ở đây chị vừa là diễn viên, vừa là biên đạo múa, sáng tác múa, chỉ đạo nghệ thuật. Tính ra chị đã sáng tác được 50 tiết mục trong đó có nhiều tiết mục được giải thưởng tại các cuộc thi văn nghệ lớn. Cũng về đây chị càng biết đồng bào ở vùng sâu, vùng xa đang rất đói văn hóa nên đêm diễn nào cũng có hàng nghìn người xem. Càng xa đô thị càng đông người xem. Và lạ là họ thích xem múa nhất. Đoàn Đam San hiện nay có 34 người thì số diễn viên múa chiếm hơn một nửa (18 người), diễn viên hát 3 người, còn lại là diễn viên biểu diễn nhac cụ dân tộc, cán bộ quản lý... Từ năm 1993 chị không làm diễn viên nữa chủ yếu là sáng tác và chỉ đạo nghệ thuật,  đồng thời làm phó đoàn phụ trách chuyên môn. Mỗi năm đoàn của chị đi xa phục vụ đồng bào trên dưới 30 buổi (hoàn toàn không bán vé thu tiền). Kinh phí biểu diễn do tỉnh cấp. Tỉnh chỉ cấp để biểu diễn được chừng ấy. Những buổi biểu diễn hợp đồng với các cơ quan đoàn thể ở thành phố Pleiku mới có chút ít bồi dưỡng góp phần chút đỉnh cải thiện đời sống cho diễn viên. Nhà tập của đoàn chưa có. Với một đoàn nghệ thuật mà không có nhà tập quả thật là gay go. Sự thiếu kinh phí này còn thể hiện ở số lượng biên chế của đoàn. Theo tính toán của lãnh đạo đoàn, Đoàn nghệ thuật Đam San phải có 40 người mới tạm gọi là đủ. Thiếu diễn viên, đặc biệt thiếu diễn viên người dân tộc đang làm chị đau đầu. Các em trẻ người dân tộc từng được tuyển vào, được đào tạo công phu nhưng rồi đều bỏ về vì những lý do hết sức “vớ vẩn”: Lấy vợ, lấy chồng, về làm nương rẫy kinh tế hơn. Đoàn hiện nay chỉ có 10 diễn viên người dân tộc. Ít quá. Đã thế lại luôn luôn phải đối mặt với những lý do "vớ vẩn" của đời thường.

Trong khi đang đau đầu và bộn bề công việc như vậy thì một tai họa khủng khiếp giáng xuống nhà chị: chồng chị bị tai biến mạch máu não từ năm 1997 đến nay. Anh chị vốn đã không có con đẻ, đã neo người càng neo người hơn. Chị phải đón mẹ già 84 tuổi từ Quảng Ngãi lên Pleiku chăm sóc con rể!

Chị vẫn phải phấn đấu, còn làm việc ngày nào còn phải phấn đấu. Cả cuộc đời nghệ thuật của chị là cả một chuỗi ngày phấn đấu không mệt mỏi. Tính ra chị đã được nhận 6 Huy chương vàng trong các cuộc thi biểu diễn nghệ thuật, đã được phong tặng danh hiệu Nghệ sĩ nhân dân cao quý. Hiện thời chị là đại biểu Hội đồng nhân dân Gia Lai và Ủy viên Ban chấp hành Hội nghệ sĩ múa Việt Nam.

TRẦN SỸ. Gặp cựu Thẩm phán Rơmah Sao trên mảnh đất Tây Nguyên / Trần Sỹ, Nhật Khánh // Báo Công lý. - 2016. - Số Xuân Bính Thân. - Tr. 24

Trải qua rất nhiều công việc, với nhiều cương vị khác nhau trong thời chiến cũng như thời bình, nhưng ở cương vị nào bà cũng hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ được giao. Bà chính là “nữ dũng sĩ diệt Mỹ cấp ưu tú” Rơmah Sao, nguyên Thẩm phán TAND tỉnh Gia Lai.

Người con gái quả cảm

Sinh ra trong một gia đình có ba anh chị em ở vùng biên thuộc huyện Đức Cơ, giáp với Campuchia, tuổi thơ của bà cũng giống như bao người dân khác, hàng ngày đều phải chứng kiến cảnh Campuchia bom đạn chiến tranh. Là một người sớm giác ngộ lý tưởng cách mạng, dù không được học hành nhiều nhưng 15 tuổi, Rơmah Sao đã về nhà xin cha mẹ cho mình tham gia vào đội du kích của xã để trực tiếp được cầm súng giết giặc, giữ làng.

Bà Rơmah Sao nhớ lại: Đầu năm 1967, địch tăng cường các trận càn quét, trong đó chúng dùng đến cả xe cơ giới và phi pháo yểm trợ. Bà mạnh dạn đề xuất với xã đội trưởng chỉ huy xin được nhận mìn trực tiếp đi tiêu diệt xe địch: “Mày cho tao 1 quả mìn. Tao cũng đi đánh xe. Chỉ mình tao thôi kẻo nhỡ cái xe không chết lũ nó cười cho!”. Theo bà, nam nhi làm được thì nữ nhi cũng làm được.

Đầu tháng 7-1967, tổ gài mìn của bà Sao gồm ba người: Rơmah Sao, Rơ Lan Mek và một nam du kích nhận nhiệm vụ gài mìn ở ba tuyến đường mà xe cơ giới, xe chở quân lính của địch thường xuyên qua lại. Để tránh bị địch phát hiện, tất cả đều được làm nhanh gọn trong một thời gian ngắn vào ban đêm. Sau khi đào hố xong, mìn được đặt xuống, rồi lấy vỏ cây chuối được cắt nhỏ xếp lên trên. “Vỏ cây chuối nó ẩm ướt nên các thiết bị rà soát bom, mìn của địch không thể nhận dạng được phía dưới”, bà Sao nói.

Đêm đầu, tổ của bà chọn tuyến đường 15 gần đồi Chư Nghé (xã Ia Krái, huyện Ia Grai). Do vị trí đường hơi thấp nên đặt mìn xong cả tổ chọn vị trí ở phía bên kia suối quan sát. Trong đêm, sương mù giăng phủ, mọi người phải ngủ lại giữa núi đồi đợi trời sáng quan sát xem xe địch có đi qua nơi đã đặt mìn không. Quả đúng như dự đoán, một chiếc xe GMC đi qua tuyến đường, va phải mìn, nổ tung. Với trận đầu ra quân thắng lợi đã tiếp thêm sức mạnh cho cả tổ tiếp tục thực hiện nhiệm vụ tại các tuyến đường tiếp theo. Hai quả mìn còn lại và một loạt đầu đạn được gom nhặt lại chôn xuống ba hố tiếp, tiêu diệt thêm 3 xe tăng M113 của địch.

Và rồi, chiến công nối tiếp chiến công làm cho tên tuổi của chị Sao, chị Mek lúc bấy giờ ngày càng vang xa và trở thành biểu tượng của phụ nữ Tây Nguyên trong phong trào tiêu diệt xe cơ giới. Đặc biệt, cùng lúc 2 chị đã được nhận danh hiệu “Dũng sĩ diệt Mỹ cấp ưu tú” và “Dũng sĩ diệt xe cơ giới”. Tại Đại hội tổng kết thành tích đánh địch toàn miền trong năm 1967, tổ của hai chị được nhận Bằng khen và Huân chương Chiến công hạng Nhất, ngoài ra bản thân chị được phong tặng Huân chương Chiến công hạng Ba. Hay tin chị Sao đánh giỏi, nữ anh hùng Quân giải phóng Nguyễn Thị Út (Tịch) đã gửi tặng một khẩu súng Carbin.

 Năm 1968, Rơmah Sao xin tham gia vào quân đội và được phân công về phụ trách công tác trợ lý dân quân Huyện đội khu 4 (nay là huyện Ia Grai), rồi được cử đi học văn hóa, quân sự tại Trường Quân chính B3. Năm 1969, lớp được tạo điều kiện ra khu Dân tộc ở tỉnh Hòa Bình để học tiếp. Rơmah Sao và A Sâu (Kon Tum) được cấp trên chọn ra gặp Bác Hồ. Chưa kịp ra thăm thì hay tin Bác đã về cõi vĩnh hằng, bà không thiết gì đến ăn ngủ, chỉ muốn được yên tĩnh nằm khóc một mình.

Vực dậy tinh thần, bà cố gắng học thật tốt nên vào năm 1970, bà đã trở thành Đại đội phó của Đại đội 3 thuộc Trường Quân chính B3. Đến ngày giải phóng bà về làm Tiểu đoàn phó của Trường Quân chính Tỉnh đội; sau đó được chuyển qua làm công tác phong trào của Hội Liên hiệp Phụ nữ tỉnh.

Cơ duyên với Tòa án

Đất nước thống nhất, bà được bầu làm Thẩm phán của TAND tỉnh Gia Lai chuyên về lĩnh vực án Dân sự và án Hôn nhân & Gia đình (HNGĐ) vào tháng 7/1977. Kể từ đó bà trau dồi thêm kiến thức, học hỏi chuyên môn nghiệp vụ từ các đồng chí đi trước, cống hiến hết mình cho TAND đến lúc nghỉ hưu vào năm 2001. Các vụ việc liên quan đến vấn đề HNGĐ đa số được bà giải quyết theo hình thức hòa giải. “Tôi luôn phân tích cho hai bên hiểu được tầm quan trọng của ngọn lửa hạnh phúc gia đình là như thế nào, nếu ly hôn thì con cái sẽ ra sao, từ đó khuyên nhủ mọi người hãy cho nhau cơ hội. Cuộc sống dù khó khăn thì hãy cùng giúp nhau, bên nhau để cố gắng vượt qua”- Bà tâm sự.

Gia Lai thời bấy giờ, giao thông đi lại còn khó khăn. Mỗi lần có việc xuống các bản, làng, chiếc xe lam ba bánh chỉ chở được tới trung tâm huyện. Từ đây, mọi người sẽ phải “cuốc bộ” qua những con suối, những ngọn đồi mới tới nơi cần đến. Trong hồi ức, bà nhớ lại: Một dịp đi xuống làng Lang, làng vùng sâu, vùng xa của huyện Chư Prông để giải quyết vụ người dân tộc Jrai tranh nhau bộ chiêng. Bộ chiêng đó quý và đặc biệt đến nỗi, làng nào có được nó như là có được một báu vật, thần linh sẽ dang tay bảo vệ bà con, nên làng nào cũng muốn có nó. “Sau một quãng đường ngồi xe xuống thị trấn, đoàn chúng tôi phải xuống đi bộ hơn năm tiếng đồng hồ. Đến nơi trời đã tối, dù mệt nhừ người muốn vào nghỉ nhưng thấy dân làng đang đợi, tất cả chỉ kịp rửa mặt, rồi vội chạy vào trò chuyện. Cuộc nói chuyện kéo dài đến mười giờ đêm rồi sự tình đã rõ. Làng Lang mua bộ chiêng, nhưng sau đó không chịu trả tiền cho làng Đức Ngol. Hai làng đã xảy ra xô xát, không bên nào chịu nhường nhịn, nên họ đã nhờ tòa phân xử. Tôi cũng là con cháu Jrai… thấy cảnh vậy buồn lắm”. Nói đến đây, nước mắt bà rưng rưng trong khóe mi. Chúng tôi muốn lái sang chuyện khác, nhưng sau hồi im lặng, bà kể tiếp: “Chuyện hôm ấy đã được giải quyết rất tốt đẹp, nhân dân hai làng đã hiểu ra được cái sai của mình nên đã bắt tay làm hòa. Bộ chiêng đã về được với chủ của nó”.

Nhắc đến bà, nhiều cán bộ Tòa án nơi đây nghĩ ngay đến nữ Thẩm phán Jrai đầu tiên này, một con người hết lòng vì công việc, với lối sống ngay thẳng và phẩm chất đạo đức trong sáng. Ông Võ Văn Bình - Chánh án TAND Tp Pleiku cho biết: “Lúc ấy, tôi đang làm ở TAND tỉnh Gia Lai, và đã học được từ cô Sao về phong cách sống, đến việc giữ gìn đạo đức phẩm chất của một cán bộ Tòa án. Với công việc cô luôn nhiệt tình và không chịu bất kỳ tác động nào từ bên ngoài làm ảnh hưởng đến công tác giải quyết án, còn với đồng nghiệp lại rất dễ gần, dễ mến…”.

HẠNH NGUYÊN. Gieo chữ vùng sâu / Hạnh Nguyên // Sách Giữa rừng hoa đẹp T.3. - Gia Lai: Hội Nhà báo, 2006. - Tr. 117-119

Nhiều năm qua, bao lớp thầy cô đã tình nguyện đến những xã vùng Đông sông Ayun (Mang Yang) dạy học, tạm quên những nhọc nhằn của cuộc sống đời thường, họ đã cống hiến sức trẻ, lòng yêu nghề của mình cho những buôn làng xa vắng... Bao khát vọng, ước mơ... của các em thơ đã được những “ngọn lửa” nhiệt huyết thắp sáng.

Không ngại gian khổ

Đường vào xã Lơ Pang (Mang Yang) nay đã được rải nhựa, không còn cảnh lầy lội vào mùa mưa như các năm trước. Nhưng từ năm 1997, cô giáo Trần Thị Thanh Tâm đã vượt qua con đường lầy lội ấy mang cái chữ đến với học sinh ở những buôn làng xa vắng vùng Đông sông Ayun. Làng Hlim, làng Chưp rồi đến làng Phên, nơi đâu cũng in bước chân, tấm lòng cô giáo trẻ... Học xong sư phạm ở Trường Cao đẳng Gia Lai là xin về đây luôn. Những ngày đầu, tiếng địa phương không biết, phải vừa dạy vừa học. Mọi bỡ ngỡ ban đầu rồi cũng dần quen. Chính nơi đây, tình yêu đã ươm mầm giữa cô giáo cắm làng và một thanh niên người địa phương... Chồng làm việc ở Huyện ủy Mang Yang, sáng sớm đã phải vội vàng cho kịp giờ, đến tối mới về. Còn cô giáo cũng tất bật không kém, năm giờ sáng đã dậy lo bữa ăn sáng cho gia đình để kịp giờ lên lớp.

Làm cô giáo cắm làng, phải dạy lớp ghép 1 và 2. Dạy đầu này xong lại quay đầu khác. Sáng dạy, chiều tổ chức sinh hoạt, phụ đạo thêm cho những em học yếu. Hồi đó, đa số học sinh đều không học qua mẫu giáo. Nhiều em vào lớp một không biết cách cầm bút, phải dạy mãi mới được. Học sinh ở đây tiếp thu bài cũng không được nhanh. Nhiều khi cô giáo phải giảng đi giảng lại một con toán, bài văn cho học sinh... Đến mùa thu hoạch lại phải đến từng nhà vận động mọi người cho con em ra lớp thay vì để chúng lăn lưng cùng bố mẹ trên nương rẫy mà quên chuyện học.

Ngày mưa, đến được làng thì người cũng lấm lem đất.. Đường đến làng gần 10 km, nhiều hôm, chiếc xe máy cũ kỹ trở chứng, máy không nổ, cứ nghĩ đến cảnh các em học sinh trong làng đang ngóng cô giáo, nước mắt lại trào ra.

Những hôm để dạy thêm cho học sinh còn yếu, phải ở lại lớp thêm hai, ba chục phút, quay lại trường đón con thì đã vắng teo. Vào làng tìm thấy con mặt mày, chân tay lấm đầy đất vì chơi đùa. Lắm bữa mẹ con về tới nhà đã mười hai giờ trưa, vội vàng ăn uống cho xong để còn đến lớp.

Một mình với những mầm xanh

Tốt nghiệp sư phạm mầm non, cô giáo trẻ Hoàng Thị Hương Lan lặn lội khăn gói đến xã Đê Ar (Mang Yang) dạy học. Trước đó, xã Đê Ar chưa có lớp mẫu giáo. Một mình cô giáo phụ trách lớp mẫu giáo trung tâm của xã. Bảy năm nay, đã có hơn 200 cháu được cô dạy dỗ trước khi lên lớp một. Các cháu đến tuổi vào mẫu giáo ở làng Pir, làng Sek, Btok đều học ở đây. Nhờ vậy, chất lượng học tập trong những năm qua ở xã Đê Ar đã có tiến bộ hơn nhiều.

Cô Lan tâm sự: Muốn cho bài giảng được sinh động, lý thú, mình phải tự tay làm thêm một số đồ dùng dạy học. Mỗi tuần về nhà, mình ra chợ mua giấy màu, xốp... về. Những khoản này nhiều lúc phải tự bỏ tiền túi ra mua. Ngày dạy học, tôi về lại cặm cụi cắt, dán chữ cái, bình bông, tranh minh họa. Khó nhất là tranh minh họa theo sách. Nó cần sự tỷ mỉ, sáng tạo. Phải cắt làm sao để trẻ có thể hiểu được khi mình đem tranh ra minh họa. Lắm hôm đến khuya, cắt đi cắt lại một món đồ mà mình vẫn thấy chưa ưng ý.

Năm trước, con chưa được một tuổi, cô Lan phải bồng con theo. Hai mẹ con sống với nhau trong căn nhà buồn tênh của khu tập thể. Con lớn lên trong ước mong ngọt ngào của người mẹ trẻ nhưng thiếu bàn tay của bố.  Mỗi tuần, cô giáo chở con vượt gần 40 km ra thị trấn Kon Dỡng (Mang Yang) đoàn tụ cùng gia đình. Năm nay, mỗi tuần cô lại vượt quãng đường ấy về nhà thăm con. “Nhiều đêm một mình vò võ, nhớ con, thương chồng, nước mắt cứ trào trên gối. Dẫu vậy, công việc cũng không vì thế mà sao nhãng” - Cô Lan nói…

QUANG VĂN. Hạnh phúc là làm được điều tốt cho mọi người / Quang Văn // Sách Người tốt việc tốt làm theo gương Bác T.3. - Gia Lai: Ban tuyên giáo Tỉnh ủy, 2013. - Tr. 45-49

            Đó là trải lòng của bà Phạm Thị Thú, Bí thư Chi bộ 7, thuộc Đảng bộ phường An Bình, thị xã An Khê trong lần tiếp chuyện với chúng tôi mới đây. Có lẽ vì suy nghĩ đặt niềm vui và hạnh phúc của mọi người lên trên hạnh phúc riêng tư nên ẩn sau vóc dáng nhỏ nhắn có vẻ yếu đuối của bà luôn đầy ắp những trăn trở ấy, Bà với cương vị là Bí thư chi bộ 7 đã gợi mở những việc làm thiết thực giúp ích cho dân, cho xã hội; xứng đáng là điển hình trong “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”.

Ngồi trong căn phòng khách bày biện đơn sơ, bà Phạm Thị Thú mở đầu chuyện học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh rằng: Sau khi tiếp thu mỗi chuyên đề về tấm gương đạo đức của Bác, bà tâm niệm việc học tập tấm gương đạo đức của Bác không chỉ bằng lý thuyết, mà phải bằng việc làm cụ thể, thiết thực; đặc biệt là phong trào thi đua yêu nước; xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc. Để chuyển những suy nghĩ ấy thành hiện thực, đêm bà vắt tay lên trán tìm lời giải cho câu hỏi phải làm việc gì. Khi định hình được công việc cụ thể, bà lại chia sẻ với các vị lão thành cách mạng, các đồng chí trong chi bộ, tổ dân phố, các đoàn thể để mong nhận được ý kiến đóng góp và sự đồng thuận trước khi đưa ra cuộc họp chi bộ. Vì vậy, những công việc do bà khởi xướng đều được Chi bộ 7 nhất trí đưa vào Nghị quyết để thực hiện và từ đó đã trở thành phong trào thi đua của tổ dân phố 7.

Bây giờ các phần việc do bà khởi xướng đã trở thành phong trào của tổ dân phố 7; song theo cách nói của bà Thú, đó là thành quả của sự dấn thân vì việc chung. Còn nhớ, ngày đầu phát động phong trào phụ nữ thực hành tiết kiệm giúp nhau xóa đói giảm nghèo thông qua việc thành lập các tổ tương trợ vốn, có tổ góp 1 triệu đồng/người/tháng; tổ góp 500.000 đồng/người/tháng và tổ góp từ 200 - 300 nghìn đồng/người/tháng. Số tiền các tổ góp hàng tháng ưu tiên cho các trường hợp cần tiền, hoặc hoàn cảnh gia đình gặp khó khăn lấy trước để giải quyết công việc. Tháng nào không có trường hợp trên thì tổ chức bốc thăm để quyết định người nhận tiền. Mục đích của việc thành lập tổ tương trợ vốn là giúp cho chị em chủ động vốn phát triển chăn nuôi, buôn bán nhỏ tăng thu nhập, thoát nghèo bền vững. Song không ít chị em lo sợ đồng tiền mình bỏ ra bị mất nên không tham gia. Ở cương vị là người Bí thư chi bộ lại được chị em tin nên bà phải trực tiếp gặp để giải thích, vận động và tiên phong tham gia tổ tương trợ. Khi chị em nhìn nhận được ý nghĩa nhân văn của việc tương trợ, bà tiếp tục xây dựng mô hình nuôi heo đất và giao cho câu lạc bộ phụ nữ không sinh con thứ ba của tổ dân phố 7 quản lý. Số tiền góp được từ mô hình nuôi heo đất mỗi năm giải quyết cho 2 chị có hoàn cảnh khó khăn vay, định suất vay 2 triệu đồng/người, lãi suất 0,5% tháng. Số tiền được vay không nhiều, song cũng giúp các chị có đồng vốn chủ động làm ăn, vượt qua lúc khốn khó.

Giữa lòng thị xã An Khê đang trên đà phát triển, đời sống đại bộ phận nhân dân khấm khá từng ngày, bên cạnh đó vẫn còn những cảnh đời cơ cực, trong đó có những gia đình định cư ở tổ dân phố 7- nơi bà Thú làm Bí thư Chi bộ. Đối diện với thực tế ấy, nhất là dịp Tết cổ truyền tại các gia đình thiếu vắng không khí ngày Tết, bà lại mất ngủ nhiều đêm để nghĩ cách sẻ chia, “kéo” họ hòa vào nhịp sống rộn ràng đón Tết đang diễn ra khắp mọi nhà. Để rồi ý tưởng huy động các hộ dân trong khu phố hỗ trợ vật liệu gói bánh tét, bánh chưng tặng các gia đình khó khăn hình thành và nhận được sự ủng hộ và góp sức của Chi bộ, Mặt trận, đoàn thể và tổ dân phố. Tết Quý Tỵ 2013 này, ngoài phần quà là bánh tét, bánh chưng, các gia đình có hoàn cảnh khó khăn còn nhận thêm phần quà bánh kẹo từ các doanh nghiệp đứng chân trên địa bàn thị xã An Khê ủng hộ.

Hỏi chuyện vận động tài trợ, huy động dân góp để tổ chức các phong trào vì cộng đồng, giúp ích cho các gia đình và xã hội, liệu có ngại cái nhìn hoài nghi từ các tổ chức, cá nhân vận động hay không, bà Thú khẳng định không ngại. Vì, việc bà làm là vì cái chung chứ đâu phải cho cá nhân mình. Hơn nữa, việc sử dụng tiền vận động đúng hay sai đã có tổ giám sát do dân bầu quản lý, đồng thời ý nghĩa thiết thực từ những việc làm thuyết phục mọi người tin mình. Để củng cố niềm tin ấy, bản thân mình là người khởi xướng nên phải gương mẫu ủng hộ trước, thậm chí là gạt bỏ quyền lợi riêng của gia đình mặc dù gia cảnh không dư dật gì.

Bà Thú trải lòng quê gốc ở xã Thái Yên, huyện Đức Thọ, tỉnh Hà Tĩnh. Trước khi định cư ở An Khê, bà công tác tại Cục hậu cần, Quân khu 5 và có thời gian 6 tháng làm nhiệm vụ quốc tế trên đất bạn Cam-pu-chia. Về nước bà tiếp tục công tác tại Cục hậu cần, song hệ quả những cơn sốt rét triền miên buộc bà nghỉ việc theo diện mất sức lao động 61%. Năm 1988, bà theo cha mẹ lên định cư ở An Khê và lập gia đình. Cuộc sống đang yên ổn, hạnh phúc thì năm 2004 chồng bà-ông Phan Như Hóa bị tai nạn nằm viện suốt 3 năm liền. Một mình bà gồng gánh nuôi 2 con và chồng bệnh tật. Để có tiền lo cho cuộc sống, bà thành lập cơ sở sản xuất nước đá cung cấp cho người dân trên địa bàn An Khê để có điều kiện chăm sóc cho chồng. Khi tận mắt thấy việc vận chuyển và đi lại khó khăn của các hộ dân định cư sau nhà bà vì chiều rộng đường hẻm nhỏ, gia đình bà hiến 1m ngang đất mặt tiền trên đường Quang Trung, xén bớt 1 góc mái nhà để mở đường, tạo điều kiện cho các hộ dân đi lại dễ dàng.

Gương mẫu ủng hộ phong trào không chỉ có cá nhân, mà các thành viên trong gia đình bà đều nhiệt tình hưởng ứng các hoạt động mang tính cộng đồng. Vào dịp hè, đứa con trai thứ 2 của bà đang học năm cuối tại trường Đại học Bách khoa Đà Nẵng lại tập hợp trẻ em trong tổ dân phố để tổ chức phong trào vui chơi có ích. Khi con bà bận chưa kịp tổ chức thì chồng bà lại nhắc con sớm tổ chức để các em khỏi đợi. Chính sự gương mẫu, tấm lòng luôn hướng đến lợi ích chung của cộng đồng, xã hội của bà đã tạo được niềm tin, sự sẻ chia, ủng hộ của nhân dân, các tổ chức đoàn thể, doanh nghiệp trên địa bàn thị xã An Khê. Sự ủng hộ ấy đã giúp bà vận động nhân dân đóng góp ngày công, phương tiện và số tiền gần 60 triệu đồng xây dựng tường rào, sửa chữa hội trường tổ dân phố; hỗ trợ các phong trào cộng đồng gần 15 triệu đồng. Duy trì các phong trào trồng cây nhân kỷ niệm sinh nhật Bác; tổ chức hoạt động sinh hoạt hè tạo sân chơi cho học sinh giao lưu, học tập kiến thức, kỹ năng sống từ thế hệ anh chị là con em của các gia đình tại tổ dân phố đang theo học các trường đại học, cao đẳng; tổ chức thăm hỏi, động viên các gia đình chính sách; các hoạt động nhân ngày Quốc tế thiếu nhi, kỷ niệm ngày thành lập Hội liên hiệp phụ nữ Việt Nam. Và tương lai sẽ còn nhiều phong trào, việc làm mang ý nghĩa nhân văn nữa được bà khởi xướng, được chi bộ đưa vào Nghị quyết để cụ thể hóa vào thực tiễn. Niềm tin ấy không phải hình thành ngẫu nhiên, mà xuất phát từ tâm niệm của bà Thú, rằng: hạnh phúc của nhân dân chính là hạnh phúc của gia đình mình.

VI THẢO. H'Ben hành trình góp nhặt dân ca / Vi Thảo // Tạp chí Tuần tin Văn hóa Thông tin. - 2005. - Số Xuân Ất Dậu. - Tr. 26

              Chàng kéo violon, nàng cất cao tiếng hát. Một cảnh trên sân khấu? Không nó ở ngay giữa đời thường, trong một căn nhà sàn nhỏ bên dòng sông Ba. “Chàng” là Lê Đức Thịnh, 70 tuổi, trai Hà Nội 100% và “nàng” là H'Ben, gái Bana 73 tuổi...

            Ngay từ khi còn nhỏ, H'Ben đã nổi tiếng với đôi mắt sâu thẳm như rừng hoang và giọng hát trong như suối, giọng hát “vượt qua ba ngọn núi, bảy dòng sông”. H'Ben ngày một lớn, đôi mắt ngày một sâu hơn, tiếng hát ngày một quyến rũ hơn. Năm 1957, tại Đại hội thanh niên thế giới lần thứ 6 ở Matxcơva, giọng hát và tiếng cười trong như suối của H'Ben được rất nhiều anh hùng Liên Xô ái mộ. Chuyện tình của H'Ben và Lê Đức Thịnh cũng lắm chông gai. Biết chuyện con trai mình quen một cô gái dân tộc đã có con, gia đình Thịnh ngăn cản hai người bằng đủ mọi cách. Lần đầu tiên đi dạo chơi, H'Ben phải mặc đồ của bố Thịnh, cải trang thành nam giới để tránh dị nghị. Năm 1966, đám cưới diễn ra thật đơn giản với thủ trưởng và vài người bạn. Góp gạo thổi cơm chung, cả hai phải góp mùng đơn, giường đơn, chăn đơn lại cho... có đôi. “Nếu có dịp, tôi sẽ tổ chức lại đám cưới với cô...” - ông Thịnh nhớ lại và mơ ước. Tình yêu của cô gái núi rừng đã mang chàng trai Hà thành đi cùng trời cuối đất, bỏ cuộc sống phồn hoa đô thị về sống cuộc đời của một “già làng Bana”, trong căn nhà sàn nhỏ ở một góc làng hẻo lánh của thị trấn Kông Chro heo hút (cách Pleiku khoảng 140 km). Hơn 40 năm yêu nhau, hơn 38 năm là vợ chồng, giờ đây, cả hai đã qua tuổi “thất thập cổ lai hy” nhưng “chàng” vẫn đàn cho “nàng” hát, vẫn cùng nhau ngắm sông, ngắm núi, vẫn đèo nhau trên chiếc xe cũ kỹ để nàng đi nhặt những câu dân ca xưa.

            Không biết H'Ben yêu dân ca tự khi nào, chỉ biết rằng ngay khi còn bé, H'Ben đã thích nghe bà và mẹ hát dân ca. H'Ben lớn lên cùng những câu dân ca. Khi là một ca sĩ tuổi vừa đôi mươi, con chim rừng H'Ben đã tích cóp trong đầu mình rất nhiều dân ca. Lúc ấy, H'Ben không biết tiếng Kinh, không biết nhạc lý, chỉ biết để câu dân ca trong đầu. “Có bài tốt để ở đây cả mấy mươi năm” - bà vừa nói vừa đưa tay chỉ vào đầu. Khi tuổi về chiều, không còn đi hát nữa, bà vừa dạy dân ca cho học sinh Trường Văn hóa Nghệ thuật Tây Nguyên, vừa sưu tầm những bài dân ca cổ xưa. Bà cùng chồng vượt qua không biết bao nhiêu sông, bao nhiêu suối, bao nhiêu núi đến những làng hẻo lánh ở Kông Chro, K'Bang, Mang Yang, Chư Sê, Chư Prông, Chư Păh... và đi qua những con đường chưa từng có vết bánh xe để tìm câu dân ca. Chỉ cần nghe ở đâu có người già nhớ dân ca là bà tìm đến để nghe hát dân ca. Có nhiều đêm, bà phải ngủ lại giữa rừng, nhiều lúc đang đi tự nhiên lăn ra ốm đành nằm lại giữa rừng, rồi sau đó tiếp tục cuộc hành trình tìm và nhặt nhạnh những câu dân ca, những bài dân ca xưa còn sót lại trong đầu những người già. Công việc sưu tầm của bà chỉ dựa vào “cái đầu của mình thôi”. Nghe họ hát, bà cố nhớ hoặc ghi tốc ký cả nhạc và lời, sau đó về thẩm âm và nhớ, dịch sang tiếng Việt. Theo thời gian, những cuốn sổ tay ghi chép của bà cứ dày thêm, kho dân ca của bà ngày một đầy thêm. Sau hơn mấy chục năm sưu tầm, bà đã có tài sản khoảng 100 bài dân ca J'Rai, Bana, Xê đăng, H'rê và rất nhiều bài dở dang. Bà biết rõ từng đặc trưng của dân ca, từng giai điệu dân ca. “Inh mêm tơ t'rong doh krá” (tôi thích những câu ca dao cổ xưa) - bà H'Ben cho biết. Hiện nay bà vẫn lặng lẽ tiếp tục công việc của mình - sưu tầm, ký âm những câu dân ca J'Rai, Bana, Xê đăng, H'rê cổ xưa - mà chẳng cần tài trợ, vì bà nghĩ đơn giản rằng “thời gian đâu có chờ đợi ai đâu, để dân ca mai một dần thì buồn lắm. Mình phải để lại cái gì đó cho con cháu”. “Kinh phí hả? Lương hưu và làm rẫy chứ đâu”. Cứ thế, hết mùa rẫy bà lại đi. Những công việc xa  hơn như nghiên cứu, xuất bản thì dành cho người khác vì “sức mình chỉ tới đó”.

HÀ CÔNG TRƯỜNG. Họa sĩ Hồ Thị Xuân Thu và hành trình tìm kiếm đam mê / Hà Công Trường // Báo Gia Lai cuối tuần. - 2012. - Ngày 29/12. - Tr.7

            Sinh ra và lớn lên tại xứ Huế thơ mộng, tốt nghiệp Khoa Đồ họa Trường Đại học Mỹ thuật Huế năm 1985 nhưng mảnh đất chị chọn dừng chân là Gia Lai. Để rồi như mắc nợ với đất và người nơi đây, họa sĩ Hồ Thị Xuân Thu chuyên chú đi sâu vào mảng đời sống sinh hoạt cũng như vẻ đẹp khỏe khoắn của người phụ nữ Tây Nguyên. Vẻ đẹp đó là nhịp sống, nếp sinh hoạt, những mùa lễ hội, đời sống tâm linh... của con người và truyền thống văn hóa miền đất cao nguyên đầy nắng gió. Không dừng lại ở sự tiếp xúc văn hóa bề ngoài, chị còn hướng đến cõi nội tâm sâu kín và cái hồn của vùng đất và con người. Đó là những chân dung thiếu nữ với đôi mắt tĩnh lặng như núi rừng nhưng cũng vời vợi, mênh mông như thảo nguyên bazan phóng khoáng, những người phụ nữ nhảy múa say chuếnh choáng bên ché rượu cần trong những ngày lễ hội âm vang tiếng cồng chiêng, hoặc một bông hoa chuối rừng buông mình bên suối vắng, nơi những thiếu nữ đang tắm-gợi lên vẻ đẹp hài hòa giữa con người và thiên nhiên hoang dã...

            Chị khao khát được hiểu cuộc sống của nhiều cuộc đời trong mọi sinh hoạt của đồng bào dân tộc thiểu số Tây Nguyên nói chung Gia Lai nói riêng, ở đó mọi niềm vui nỗi buồn được bung tỏa, khiến chị day dứt để rồi tĩnh lặng trong phòng vẽ, tâm trí và đôi tay của chị thỏa sức gửi gắm nỗi niềm. Và niềm vui của chị đó là khi ngắm những bức tranh được hoàn thiện đúng ý, xuất thần theo cảm xúc mình.

            Niềm đam mê màu sắc và những họa tiết đã khiến họa sĩ Hồ Thị Xuân Thu luôn mải miết trên con đường sáng tạo, phong cách vẽ và những ứng xử nồng hậu đặc biệt của chị sẽ không bao giờ lẫn vào đám đông. Ban đầu lên Tây Nguyên chị vẽ tranh bằng chất liệu sơn dầu-một chất liệu chứa đựng trong nó sự mạnh mẽ, dữ dội với những gam màu nóng, những đường nét góc cạnh. Trong một lần tình cờ mà cũng có thể nói là cơ duyên họa sĩ Hồ Thị Xuân Thu nhận ra trong những nét dữ dội kia vẫn có sự mềm mại uyển chuyển và chị tìm đến với sơn mài như một cuộc chơi thật sự. Vẽ bằng chất liệu sơn mài khiến tranh chị mềm mại dịu dàng trong từng đường nét nhưng đòi hỏi ở người nghệ sĩ sự lao động cần cù, nhẫn nại và cả sự kỳ công trong tốn kém. Nó buộc người nghệ sĩ phải mài vàng và bạc thật ra để bỏ lên tranh, lên họa tiết để có một bức vẽ hoàn thiện có khi phải mất cả năm trời. Mặc dù như vậy nhưng chị biết rằng nếu được dẫn dắt bởi đam mê, thì ít nhiều cũng sẽ thu được thành quả và hạnh phúc.

            Năm 2001 chị được kết nạp vào Hội Mỹ thuật Việt Nam. Chị tham gia triển lãm Mỹ thuật nhóm tác giả tại TP. Hồ Chí Minh năm 1992, 1998 và tại Đak Lak năm 2003. Triển lãm Mỹ thuật toàn quốc năm 2000, 2010, triển lãm Mỹ thuật Nhiếp ảnh dân tộc thiểu số miền núi tại An Giang năm 2011. Đặc biệt năm 2004, tại Hội Mỹ thuật TP. Hồ Chí Minh-phòng tranh “Sắc màu Tây Nguyên” của chị đã long trọng ra mắt người xem. Với 40 tác phẩm sơn mài trình bày về một chủ đề hình ảnh người phụ nữ Tây Nguyên trong hầu hết các sinh hoạt trong cuộc sống, thật sự đã mang lại cho công chúng thành phố một nét văn hóa mới lạ, gây xúc động cho người xem, bởi nó do chính tay một người từ nhiều năm nay nằm trong lòng Tây Nguyên thể hiện. Triển lãm đã đem đến cho người yêu hội họa một cái nhìn đầy đủ về người dân tộc thiểu số cũng như phong cảnh thiên nhiên hoang sơ hùng vĩ của Tây Nguyên với những “mảng miếng” lớn được tạo thành từ những hình khối hình học, màu sắc nhẹ nhàng từ trắng chuyển sang vàng đến nâu rồi đen diễn tả mặt đất và cây to trụi lá với những người phụ nữ đang leo con dốc trong một mùa thu Tây Nguyên mơ màng. Dù vội vã nhưng dáng điệu của những người phụ nữ trong tranh của họa sĩ Hồ Thị Xuân Thu vẫn rất duyên dáng trong từng tư thế đứng ngồi.

            Hơn 26 năm lao động, cống hiến hết mình vì nghệ thuật, họa sĩ Hồ Thị Xuân Thu đã gặt hái được những thành công đáng kể như: giấy khen Hội Mỹ thuật Việt Nam các năm 1998, 1999, 2001. Giải tặng thưởng của Hội Mỹ thuật Việt Nam tại các triển lãm khu vực năm 2002, 2003, 2008, 2010. Giải thưởng “Tác giả trẻ năm 2000” của Liên hiệp các Hội Văn học Nghệ thuật Việt Nam. Giải thưởng của Bộ Văn hóa-Thể thao và Du lịch tại triển lãm Nhiếp ảnh-Mỹ thuật Tây Nguyên lần thứ I năm 2005. Giải B Văn học Nghệ thuật tỉnh Gia Lai (2000-2005), Giải A Văn học Nghệ thuật tỉnh Gia Lai (2005-2010).

            Năm 2012 chị tổ chức thành công triển lãm tranh sơn mài cá nhân nhân “Ngày văn hóa các dân tộc Tây Nguyên” tại Hà Nội, với hơn 30 tác phẩm sơn mài. Đây là số tác phẩm sáng tác trong vòng 15 năm trở lại đây về hình ảnh người phụ nữ Tây Nguyên. Như là một chuyến thu hoạch, chiêm nghiệm và nhìn lại những đứa con tinh thần trên con đường rong ruổi của mình. Triển lãm là cơ hội để chị giới thiệu đến bạn bè và đồng nghiệp một Tây Nguyên đa màu sắc, đa văn hóa nhưng cũng đẹp dịu dàng qua nét cọ của mình.

PHƯƠNG DUYÊN. “Là hoa Tư tưởng Hồ Chí Minh…” / Phương Duyên // Sách Giữa rừng hoa đẹp T.2. - Gia Lai: Hội nhà báo, 2005. - Tr. 76-80

“Là HOA Tư tưởng Hồ Chí Minh

Nở giữa Hội thi nghĩa vẹn tình

Trồng người sự nghiệp xanh tươi thắm

Có gốc sinh thành tại xứ Thanh”

Chị Nguyễn Thị Hoa đưa cho tôi xem những câu thơ ấy, mắt lại long lanh xúc động. Đấy là những câu thơ của một người chưa từng quen biết gửi tặng chị, một khán giả tại Hội thi “Báo cáo viên giỏi Tư tưởng Hồ Chí Minh toàn quốc”. Khi chị vinh dự nhận giải III của Hội thi, khi đang ngập trong những bó hoa và những lời chúc mừng, người ấy lặng lẽ đến dúi vào tay chị những câu thơ như thế, kèm theo câu “Gửi tặng cháu Nguyễn Thị Hoa” cùng một dòng địa chỉ ngắn ngủi. Ấy là một người nguyên là cán bộ Ban Dân vận Trung ương, vì xúc động trước bài thuyết trình của chị, đã làm tặng những câu thơ như thế. Tôi đoán ông cũng là người gốc xứ Thanh.

Nếu chị không kể rằng quê chị là xứ Thanh yêu mến với biết bao kỷ niệm thời thơ ấu thì tôi sẽ nghĩ rằng chị là một phụ nữ Hà Nội gốc: thanh mảnh, dịu dàng, lịch thiệp. Trên bàn, những bông hoa chúc mừng thành công của chị vẫn còn tươi roi rói như vừa được cắm xong. Rót cho tôi tách trà nóng trong buổi chiều trời âm âm, lành lạnh, chị thuyết trình lại cho tôi nghe một đoạn trong bài dự thi của chị tại Hà Nội, từ ngày 17 đến 19-5-2004.

“Tôi đến từ quê hương anh hùng Núp” - Bài thuyết trình của chị đã được bắt đầu như thế, đầy tự tin và tự hào. Mặc dù là người gốc Thanh Hóa, theo chồng vào Gia Lai từ năm 1985, nhưng với chị, Gia Lai đã trở thành quê hương thứ hai. Chị tự nhận mình đã là người của Gia Lai rồi. Bây giờ nghĩ lại thì “hình như người ta có cảm tình với mình ngay từ khi nghe câu giới thiệu đó”, một câu giới thiệu rất Tây Nguyên của một người con Tây Nguyên. Cả Hội trường gần như lắng lại khi chị bắt đầu bài thuyết trình với chuyên đề “Chăm lo bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau”. Một chuyên đề rất gần gũi với công việc của một nhà giáo như chị (Hiện chị là Phó Hiệu trưởng trường THCS Nguyễn Huệ, TP. Pleiku). Đặc biệt, trong tình hình Tây Nguyên đang có nhiều phức tạp như hiện nay thì nội dung chuyên đề chị đã chọn lại càng thiết thực. Và rồi chị cuốn lấy sự chú ý của người nghe trong suốt 25 phút thuyết trình bằng giọng nói đầy truyền cảm và tự tin của một người mười mấy năm từng đứng trên bục giảng. “Tất cả mọi người đều chăm chú lắng nghe con đấy!” - Hai ông bố, một là bố ruột, một là bố chồng, hai khán giả trung thành của chị trong Hội thi đã đoán chắc như thế. Chị thì cho rằng, chính những tình cảm chân thành dành cho Bác Hồ kính yêu, chính sự xúc động thật sự đã giúp chị đạt được giải III của Hội thi và mang về niềm tự hào cho tỉnh nhà.

Mà có lẽ cũng nhờ vào sự tự tin nữa. Những ngày đứng trên bục giảng đã rèn cho chị đức tính đáng quý ấy. Năm 1978, khi tròn 17 tuổi, chị rời Thanh Hóa vào học sư phạm ở Đà Nẵng. Bố chị, ông Nguyễn Xuân Dụ, là người đã ủng hộ chị trong từng chặng đường quan trọng của cuộc đời. 74 năm tuổi đời, 54 năm tuổi Đảng và những tư tưởng cách mạng của ông đã có nhiều ảnh hưởng đối với chị. Mắt chị cứ cay cay khi nhớ lại lần đầu tiên chị xa nhà đi học. Tần ngần chuẩn bị từ ngày hôm trước, mờ sáng hôm sau bố chẳng dặn dò gì nhiều, chỉ đưa cho chị một cái cặp nhỏ, trong có một cuốn sổ, một cây bút và một bài thơ:

“Cơm ăn ba họ rõ ràng

Nào ngô, nào sắn, khoai lang độn vào

Gạo thời chẳng được là bao

Thế mà con vẫn hồng hào học chăm...”

Những tình cảm thân thương ấy của bố mẹ và xứ Thanh theo chị suốt những ngày ở Đà Nẵng. Có những lúc thấy người làng vác cuốc ra đồng mà lòng bỗng nhớ quê quay quắt. Lại nhớ đến những câu thơ của bố mà lòng mềm lại, ấm lên. Niềm vui thì chị chia về nhà, còn bao nhiêu buồn phiền chị nén lại trong lòng. Với chị, đó cũng là một cách trả hiếu cho bố mẹ. Rồi chị ra trường, về nhận công tác ở huyện Duy Xuyên (Quảng Nam). Suốt 5 năm ở đó, chị vừa dạy, vừa lăn vào làm với bà con “để họ thấy rằng các cô giáo không chỉ dạy tốt mà làm cũng tốt nữa!”. Năm 1985, chị lên Gia Lai thăm người họ hàng và gặp mối nhân duyên của mình ở đó... Cho đến khi chị tham gia Hội thi “Báo cáo viên giỏi Tư tưởng Hồ Chí Minh toàn quốc”, những người quen và học trò cũ ở Duy Xuyên mới được “gặp” lại cô giáo Hoa khi ti vi đang phát buổi truyền hình trực tiếp cuộc thi. Đã mười mấy năm rồi! Vui nhất là dù xa như thế, dù đã nhiều năm như thế, họ vẫn tìm ra được địa chỉ và gọi điện chúc mừng chị...

Với những gì chị đang có, người ta có thể gọi chị là một người thành đạt. Ở vai trò một người quản lý trong công tác giáo dục, chị luôn hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ. Là người vợ, người mẹ, chị là người “giữ lửa” cho gia đình. “Điều quan trọng là cần phải tạo được sự hài hòa trong cuộc sống, trong công việc và gia đình” - Chị tâm sự. Chồng chị, anh Lê Xuân Tùng, Phó Ban quản lý Dự án thủy điện 4, bận rộn suốt ngày, chẳng mấy khi có nhiều thời gian cho gia đình. Mười mấy năm nay, hầu như một tay chị chăm sóc cho cả 2 đứa con trong việc học tập, cả khi đau ốm. Chị thích đọc sách, sách là vốn kiến thức lớn nhất mà chị có thể gửi gắm lại cho các con. Chị cũng đọc cả sách về y học để chăm sóc sức khỏe cho cả nhà... “Mình là bác sĩ nhà đây! Hễ đứa nào nóng sốt, cảm vặt là biết ngay”. Điều đó có lẽ chị nhận biết không chỉ bằng kiến thức mà còn bằng sự nhạy cảm của một người mẹ. Hiện giờ, đứa con trai lớn của anh chị đang học lớp 12 chuyên Lý, còn con gái nhỏ đang học lớp 8, cũng là học sinh giỏi nhiều năm liền. Đó là niềm vui, niềm tự hào giản dị của tất cả những người làm cha làm mẹ. Vì vậy, ngoài công việc ở trường, chị dành nhiều thời gian lo lắng cho chồng, cho con. Khi bắt đầu đi sâu nghiên cứu về Tư tưởng Hồ Chí Minh, sau một ngày bận rộn, cứ 10 giờ đêm là chị lại ngồi vào bàn viết, có khi đến 2 giờ sáng mới chợp mắt. Những tư tưởng và lý luận của Bác càng tìm hiểu càng thấy thấm thía, càng thấy gần gũi với cuộc sống. Cứ như vậy, chị say sưa nghiên cứu suốt một năm trời, vừa nghiên cứu vừa “soi rọi lại tâm hồn mình”. Hơn 40 tuổi, chị vẫn thấy mình còn phải học nhiều, càng học hỏi càng thấy mình trưởng thành. Chỉ có chồng chị mới biết chị cần mẫn như thế nào, và anh cũng biết rằng chị đã quyết làm việc gì phải làm cho bằng được. Thấy chị miệt mài đến hốc hác, anh tranh thủ dành quỹ thời gian ít ỏi của mình để đỡ đần bớt nhiều việc nhà cho chị. Nhờ vậy, chị đã liên tiếp giành ba giải Nhất trong các cuộc thi ở cấp phường, thành phố, tỉnh, sau đó là hai giải III trong cuộc thi khu vực và toàn quốc. Quả thật, với phụ nữ, thành đạt là điều không dễ dàng khi mà ngoài công việc, họ còn phải hoàn thành thiên chức của một người vợ, người mẹ. Họ là người xây tổ ấm, mà việc ấy lại không hề đơn giản, đôi lúc đòi hỏi cả sự hy sinh...

Hiện giờ, chị vẫn đang theo học lớp Cao cấp lý luận chính trị. “Học gì cũng phải chuyên sâu, không chuyên sâu là thua!”. Tôi nghĩ đến những lúc chị tất bật với công việc, với gia đình, rồi những đêm thanh tĩnh chị ngồi vào bàn viết... Thì ra tôi đã bị “đánh lừa” bởi cái dáng vẻ dịu dàng và có phần yếu đuối của chị!

TRẦN ĐỨC. Nơi ấy có một tấm lòng / Trần Đức // Sách Giữa rừng hoa đẹp T.3. - Gia Lai: Hội Nhà báo, 2006. - Tr. 49-52

Nhờ giỏi tiếng Bahnar, hiểu biết phong tục tập quán, đặc biệt tinh thần trách nhiệm với đồng bào dân tộc thiểu số mà gần 10 năm qua cô giáo Bùi Tố Như đã gây dựng được ngôi trường mầm non đầu tiên và như lẽ tự nhiên chị là thành viên thân thuộc của các gia đình người Bahnar ở mảnh đất Hà Tây (Chư Păh) này.

Không chỉ “giữ trẻ”...

Ngôi nhà của chị ở đầu làng Kon Hong Lẽh. Đó là một ngôi nhà xây nhỏ ấm cúng nằm sát trục lộ chính vào xã, phía trước có quán sửa xe nhỏ. Bữa cơm chiều đạm bạc có hai vợ chồng và một bé gái lên bốn. Cháu trai đầu lên sáu đã được ông bà nội đón về thị xã Kon Tum nuôi giúp. Cuộc sống của gia đình chị dẫu còn khó khăn nhưng rất hạnh phúc.

Gần chục năm nay, căn nhà chị là địa chỉ sẻ chia cho bao gia đình. Từ chuyện nhà Ma Piêng ở làng Kon Sơ Lăng hết gạo mấy ngày đến chuyện con gái út nhà Đinh Tháo bị sốt li bì không có tiền mua thuốc, rồi chuyện con heo nái nhà bà Neng trong làng đẻ khó. Tất cả đều nhờ đến sự giúp đỡ của chị. Hễ ai cần là có chị sẵn sàng giúp đỡ. Cứ vậy, suốt gần 10 năm kể từ ngày rời quê hương Ngọc Lạc (Thanh Hóa) lên Tây Nguyên theo đuổi nghề giáo rồi “chui” vào đây bám làng dạy học. Những bữa cơm chiều phải bỏ dở để chạy đi vì có người cậy nhờ, lắm lúc nửa đêm con người ta bị sốt mê man đến gõ cửa, chị phải gói ghém chăn màn cho chồng con để lại vào làng...” sẻ chia cho dân làng bát cơm manh áo cũng chẳng mất đi đâu mà sợ. Mình sống với dân làng thật lòng thì họ thương và quý mình”. Cũng nhờ đó mà gần 10 năm qua hiếm khi có học sinh của chị bỏ học giữa chừng!

Hết giờ dạy học, chị Như lại vào làng. Gần 10 năm dạy học ở làng đã hình thành nơi chị thói quen đó. Lúc hướng dẫn dân làng cách làm hàng rào, làm chuồng trại nhốt gia súc, lúc bày cách ăn chín, uống sôi phòng - chống bệnh tật. Chuyện vận động từng nhà cho con đến trường học cái chữ đã thành công việc thường nhật của chị.

“Cái chữ không phải là cơm gạo mà ăn ngay được nhưng biết nhiều chữ thì cái bụng dân làng mình sáng ra để phân biệt được chuyện đúng - sai mà không nghe theo lời kẻ xấu xúi giục, biết cách trồng bắp nhiều hạt, trồng mì xanh tốt, nuôi heo mau lớn để bán được nhiều tiền. Cô giáo Như bảo thế và hết thảy dân làng mình đều nghe và làm thế.” - Già làng H’Yunh phân trần khi nghe tôi hỏi về cô.

Những bài giảng có lồng ghép giải thích bằng tiếng Bahnar của cô giáo Như trở nên dễ hiểu hơn với các học sinh làng, giúp các em nhận biết được tiếng Việt dễ dàng hơn, cuốn hút các em yêu trường, mến lớp. Ở vùng đồng bào Bahnar này để đưa được cái chữ đến với dân làng như thế đâu phải chuyện muốn là làm ngay được. Nhớ lại năm 1997, Bùi Tố Như là cô giáo duy nhất tình nguyện vào xã Hà Tây dạy học. Cả xã Hà Tây lúc đó chỉ có một ngôi trường tiểu học do 4 thầy giáo phụ trách. Như là giáo viên Mầm non đầu tiên ở đây, nên nhiều khi cũng phải đứng lớp dạy cả mấy môn xã hội của bậc Tiểu học. Trường chính lúc đó mới có đến lớp 5. Gần chục học sinh lớp 4 và 5 lớn tồng ngồng phải ngồi đấu lưng lại nhau trong lớp ghép có hai bảng dựng hai đầu phòng học; thi thoảng cô giáo đang giảng bài cho lớp học này lại phải dừng để quay sang dàn hòa nhóm học sinh đang chọc ghẹo nhau ở đầu kia lớp. Còn lớp học ở làng thì chỉ lèo tèo gian nhà tranh xiêu vẹo thông thống gió lùa, hơn chục học sinh ngồi chung đủ lứa tuổi. Riêng bậc Mầm non của chị có 2 lớp dạy sáng, chiều. Mỗi buổi học giáo viên phải chắt chiu đồng lương để mua sẵn một gói kẹo mang theo rồi vào từng nhà gom học sinh đến lớp. Nhất là vào mùa rẫy, dân làng ăn ngủ tại rẫy cả tuần mới về, mang cả con cái theo, những lúc đó giáo viên chỉ còn biết nhìn lớp học trống không mà bưng mặt khóc. Vào tận rẫy cách hơn chục cây số đường rừng vận động thì đồng bào giải thích đầy hồn nhiên: “Đưa vào rẫy bọn trẻ còn có cái ăn chứ để ở nhà đi học không ai nấu cho ăn thì chết đói à?!”. Bằng sự nhẫn nại, tận tâm của các thầy cô giáo mà người Bahnar ở đây dần ý thức được sự cần thiết của việc học chữ... Cho đến bây giờ, thi thoảng cũng có trường hợp bỏ học giữa chừng, chị Như lại tìm đến tận nhà vận động, bảo ban.

Hạnh phúc nở hoa

Năm học 2005 - 2006, bằng sự quyết tâm của cô giáo Như, Trường mầm non xã Hà Tây đã được tách ra khỏi bậc Tiểu học và THCS để thành lập mới. Địa phương đã xây dựng cho một trường chính khang trang gồm 3 phòng học trung tâm xã và 2 phòng học cho các làng Kon Sơ Lăl, Kon Kơ Mõ, Kon Sơ Bai và làng Kon Sơ Lăng. Trường được bổ sung thêm 3 giáo viên, đủ định biên cho 4 lớp học với tổng số 92 cháu mẫu giáo 5 tuổi là con em người Bahnar của 9 làng. Ở cương vị Hiệu trưởng, chị Như vừa phải đảm trách công việc quản lý vừa phải đứng lớp dạy thay cho một giáo viên trong trường mới nghỉ sinh con. Chị nói: “Học sinh người Kinh bước đầu học chữ đã khó, với học sinh người dân tộc thiểu số lại càng khó hơn. Nhà trường phải bằng mọi cách vận động hết số trẻ 5 tuổi ra lớp để các em làm quen với chữ cái, con số, tạo tâm thế tốt cho các em bước vào lớp 1. Làm công tác quản lý bận rộn nên ít có điều kiện để vào làng hơn. Đôi khi ngồi ở miết trường chính, mình thấy nhớ các gương mặt ngây thơ của học sinh ở điểm trường làng nên lại tìm xuống...”.

Từ năm 2003, trường triển khai dạy thực nghiệm “Chương trình 26 tuần phù hợp cho trẻ 5 tuổi mẫu giáo vùng đồng bào dân tộc Bahnar” nên các giáo viên phải tự học tiếng Bahnar kể cả các bài dân ca và sử dụng ngôn ngữ, vật liệu hiện có ở địa phương như: Cây, lá, gùi, nhà rông... để minh họa cho bài giảng. Nhờ đó, các bài giảng sinh động, hấp dẫn hơn. Tỷ lệ huy động trẻ mẫu giáo 5 tuổi ra lớp của xã Hà Tây mấy năm nay luôn đạt 100%; tỷ lệ duy trì sĩ số luôn ở tốp đầu của huyện. Học kỳ 1 vừa qua, có 79,3% trẻ đạt kênh A, 20,7% trẻ đạt kênh B; không có trẻ đạt kênh C.

Nhớ lại kỷ niệm của những ngày đầu bỏ phố phường vào mở lớp dạy học rồi lấy chồng, sinh con với đồng lương còm cõi, đã có lúc phải trốn ra đồi ngồi khóc một mình, chị Như cười hiền: “Hạnh phúc đã nở hoa trên vùng đất một thời khó khăn heo hút”.

THANH NHẬT. Nữ Bí thư chi bộ tiêu biểu ở khối doanh nghiệp / Thanh Nhật // Báo Gia Lai. - 2016. - Số 4567. - Ngày 22/4. - Tr. 5

          Với vai trò là Bí thư chi bộ, Chủ tịch Hội đồng Quản trị kiêm Giám đốc Công ty cổ phần Kinh doanh và Phát triển Miền núi Gia Lai, những năm qua, bà Nguyễn Thị Sen luôn phát huy vai trò trong lãnh đạo tập thể cán bộ, đảng viên, công nhân viên, người lao động Công ty phát huy truyền thống đoàn kết, vượt mọi khó khăn, nỗ lực phấn đấu thực hiện nhiệm vụ sản xuất-kinh doanh, góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp.

Được giao nhiệm vụ cung ứng các mặt hàng chính sách, hàng năm, bà cùng Ban lãnh đạo Công ty chủ động bàn bạc với các thành viên trong Hội đồng Quản trị và các phòng ban chuyên môn xây dựng kế hoạch sản xuất kinh doanh, cùng người lao động thi đua thực hiện nhiệm vụ chuyên môn... Công ty luôn cử cán bộ bám cơ sở, các huyện, xã vùng sâu, vùng xa để nắm danh sách, hướng dẫn đăng ký chủng loại hàng hóa nhằm cung ứng kịp thời vụ sản xuất. Đối tượng được thụ hưởng chính sách đã từng bước nâng cao đời sống, tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng và Nhà nước. Trong giai đoạn 2011-2015, Công ty đã thực hiện cấp phát các mặt hàng chính sách không thu tiền trên địa bàn tỉnh, với tổng kinh phí trên 380 tỷ đồng.

Những năm trước, Công ty là một trong những đơn vị được tỉnh chọn cung ứng đá bazan phục vụ  xây dựng công trình Tượng đài Bác Hồ với các dân tộc Tây Nguyên tại Gia Lai. Xác định đây là niềm vinh dự và trách nhiệm lớn lao, bà Sen đã tích cực cùng Hội đồng Quản trị Công ty phát động phong trào thi đua trong toàn đơn vị, động viên cán bộ, công nhân viên nỗ lực, trách nhiệm để làm ra những sản phẩm đạt chất lượng tốt nhất phục vụ cho công trình. Sau khi công trình hoàn thành, đơn vị đã được Thủ tướng Chính phủ tặng bằng khen.

Bà Sen cho biết: “Trăn trở lớn nhất của doanh nghiệp là làm sao để tồn tại và đứng vững trong cơ chế thị trường và sự cạnh tranh ngày càng lớn. Tập thể lãnh đạo Công ty chú trọng kiện toàn tổ chức, tinh gọn bộ máy quản lý, giảm thiểu số lao động gián tiếp, bố trí lại lực lượng lao động hợp lý đưa Công ty hoạt động ổn định và phát triển. Đồng thời, Công ty mở rộng quy mô sản xuất, hiện đại hóa trang-thiết bị, máy móc; đầu tư phát triển, đa dạng hóa ngành nghề hoạt động, các mặt hàng sản phẩm hiện có, chủ động đề xuất UBND tỉnh bổ sung chức năng ngành nghề, mạnh dạn vay vốn để mở rộng sản xuất kinh doanh, tạo việc làm cho người lao động...”.

Đến nay, Công ty có 5 phòng chuyên môn nghiệp vụ, 1 chi nhánh tại khu vực Đông Gia Lai, 10 cửa hàng xăng dầu, 1 nhà máy chế biến đá bazan, một xưởng chế biến gỗ. Tổng số cán bộ, công nhân viên gần 170 người. Quy mô hoạt động của Công ty ngày càng lớn mạnh. Các chỉ tiêu doanh thu, lợi nhuận, nộp ngân sách và thu nhập của người lao động hàng năm đều tăng. Chất lượng dịch vụ không ngừng nâng lên, đã tạo được thương hiệu và uy tín của Công ty trên thương trường. Trong giai đoạn 2011-2015, doanh thu bình quân hàng năm trên 160 tỷ đồng-vượt so với nghị quyết đề ra. Riêng các năm từ 2013 đến 2015, lợi nhuận trước thuế bình quân hàng năm khoảng 3,5 tỷ đồng, thu nhập bình quân đầu người 8 triệu đồng/tháng... Ngoài việc thực hiện đầy đủ nghĩa vụ ngân sách cho Nhà nước, Công ty đã giải quyết việc làm ổn định cho người lao động và thực hiện đầy đủ các chế độ chính sách theo quy định.

Cùng với đó, bà Sen đã tích cực cùng Công đoàn cơ sở và tập thể công nhân viên, lao động tham gia tốt các hoạt động an sinh xã hội-từ thiện nhân đạo. Từ năm 2013 đến nay, Công đoàn cơ sở Công ty đã trích gần 3 tỷ đồng để ủng hộ quỹ: bảo trợ trẻ em, đền ơn đáp nghĩa, người tàn tật và trẻ mồ côi, nạn nhân chất độc da cam, bệnh nhân nghèo, quỹ vì người nghèo, tặng 40 sổ tiết kiệm cho học sinh nghèo học giỏi tại Đak Đoa và Mang Yang, xây tặng 11 nhà tình nghĩa, tặng xe đạp cho học sinh nghèo vượt khó tại huyện Kông Chro và Đak Đoa... Đồng thời, tham gia tặng bò giống sinh sản cho hộ nghèo tại một số huyện, góp phần thực hiện cuộc vận động “Làm thay đổi nếp nghĩ, cách làm trong đồng bào dân tộc thiểu số để từng bước vươn lên thoát nghèo bền vững” do Ban Thường trực Ủy ban MTTQ Việt Nam tỉnh chủ trì.

Với những thành tích đạt được, bà Nguyễn Thị Sen nhiều năm liền được bình xét là đảng viên hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ. Đồng thời, bà đã được công nhận Chiến sĩ thi đua toàn quốc, được Chủ tịch nước tặng Huân chương Lao động hạng nhì.

  NGUYỄN DŨNG. Nữ cán bộ y tế 9X của người Bahnar / Nguyễn Dũng // Báo Giáo dục và thời đại. - 2015. - Số 59. - Tr. 7 

            Mới học hết lớp 7 do gia đình nghèo phải nghỉ học, nhưng với quyết tâm, ý chí của tuổi trẻ, cô gái người Bahnar giờ đây đã trở thành nữ cán bộ y tế xuất sắc của địa phương.

             Nói về đồng nghiệp của mình, ông Nguyễn Tự Cường - Trạm trưởng Trạm Y tế xã Đăk Sơmei, huyện Đăk Đoa (Gia Lai) chia sẻ: Người cán bộ y tế ở bản phải có đam mê, nhiệt tình và có tinh thần trách nhiệm với công việc của mình, Ranh đã làm được điều đó. Ranh là cán bộ trẻ nhưng làm việc rất nghiêm túc, xứng đáng là tấm gương cho các cán bộ y tế thôn bản của địa phương noi theo.

            Sinh năm 1996, trong một gia đình người dân tộc Bahnar có 7 anh chị em, Ranh là con thứ 5. Mới học hết lớp 7 đã phải nghĩ học, nhưng Ranh vẫn ấp ủ ước mơ một ngày nào sẽ được tiếp tục được đến trường. Với chủ trương đào tạo các cán bộ y tế để cắm thôn, cắm bản ở các vùng sâu, Ranh được chọn để đi học sau này về phục vụ cho người dân của cô.

            Ranh hoàn thành khóa học xuất sắc và trở thành cán bộ y tế tại làng De Sơmei. Về công tác mới được hơn 1 năm nay thế nhưng, bằng sự nhiệt huyết và năng động của tuổi trẻ, Ranh luôn cố gắng hoàn thành nhiệm vụ của một cán bộ y tế thôn bản, để bảo vệ và chăm sóc sức khỏe cho người dân, đặc biệt là người đồng bào dân tộc thiểu số ở làng mình.

            Làng De Sơmei là ngôi làng nằm ở vùng xa, khó khăn của xã Đăk Sơmei. Làng có 153 hộ đồng bào dân tộc Bahnar với 909 nhân khẩu. Trước kia, khi đời sống của người đồng bào dân tộc thiểu số còn quá khó khăn, trình độ dân trí còn thấp, bệnh tật thường nhờ thầy cúng đến làm lễ để xua đi cái bệnh. Nhiều người vì tin vào thầy cúng mà phải bỏ mạng.

            Với sự nhiệt tình và hăng hái của mình cộng với những kiến thức đã được học, Ranh đã mang chúng truyền đạt lại cho bà con trong làng. Ranh cho biết, mỗi khi trong làng có người bị thương hay ốm đau, Ranh đều có mặt để sơ cứu kịp thời, hướng dẫn người nhà cách chăm sóc và đưa bệnh nhân lên Trạm y tế xã để tiếp tục điều trị.

            Người trong làng giờ đã tin Ranh, không tin vào thầy cúng như trước đây. Ranh rất vui khi bà con đã xóa đi được một cái tục lệ xấu khi đau ốm là mời thầy cúng về làm lễ. Ranh tâm sự, khó khăn nhất vẫn là vận động người dân sinh đẻ có kế hoạch. Lúc đầu, nhiều người phản ứng rất gay gắt, họ đuổi em ra khỏi nhà, không muốn nói chuyện với em. Nhưng em không nản chí, đợi hôm sau khi họ nguôi giận em lại đến. Sau nhiều lần như vậy, họ cũng hiểu và thực hiện theo.

            Nhiều hộ gia đình trong làng nghe theo vận động của Ranh kế hoạch hóa trong sinh đẻ, tập trung phát triển kinh tế. Cái quan niệm "trời sinh voi, trời sinh cỏ" của dân làng đã dần thay đổi mà thay vào đó tập trung cho con học hành đến nơi đến chốn để được như cô Ranh.

THÚY HIỀN. Nữ cảnh sát giao thông thực hiện tốt lời Bác dạy / Thúy Hiền // Sách Công an Gia Lai học tập, làm theo lời Bác. - Gia Lai, 2013. - Tr. 192-194

“Công tác tại Đội xử lý vi phạm hành chính, nơi thường xuyên tiếp xúc làm việc với nhân dân nên tôi luôn thấm nhuần và vận dụng sâu sắc 6 điều Bác Hồ dạy để hoàn thành tốt nhiệm vụ, nhất là lời dạy: Đối với nhân dân phải kính trọng lễ phép”.

Đó là tâm sự của Trung úy Nguyễn Thị Minh Châu - cán bộ phòng Cảnh sát Giao thông Công an tỉnh. Tháng 10/2006, tốt nghiệp trung học Cảnh sát, đồng chí được điều động về công tác tại phòng Cảnh sát Giao thông. Xuất phát từ thực tiễn là đơn vị có chức năng, nhiệm vụ nghiên cứu, đề xuất và trực tiếp đảm bảo an toàn giao thông, chủ động phòng ngừa đấu tranh các hành vi vi phạm luật giao thông, đăng ký và cấp biển số các loại phương tiện giao thông cơ giới đường bộ, xử phạt các hành vi vi phạm hành chính về trật tự an toàn giao thông. Dưới góc độ là người làm công tác xử lý vi phạm hành chính, chị luôn ý thức rằng “phải có cách làm việc khoa học, sắp xếp và lưu trữ hồ sơ dễ tìm để rút ngắn thời gian xử lý, mình làm nhanh tay thì người dân bớt phải chờ đợi, không gây phiền hà bức xúc cho nhân dân; khi tiếp xúc với nhân dân thì phải biết mỉm cười, biết xin lỗi, và quan trọng là phải biết đúng hẹn”. Công tác tại đội xử lý vi phạm hành chính, chị luôn nêu cao tinh thần trách nhiệm, gương mẫu trong công việc, thực hiện tốt công tác chuyên môn cũng như chấp hành tốt các quy định của đơn vị, của ngành. Khi tiếp xúc với nhân dân đến liên hệ công việc, chị luôn có thái độ hòa nhã, lịch thiệp, tận tình hướng dẫn cho người vi phạm làm các thủ tục nộp phạt và giải thích những quy định của Luật giao thông để mọi người hiểu và tránh vi phạm, phát được 10.000 tờ rơi nội dung tuyên truyền Luật giao thông. Thông qua đó nâng cao ý thức chấp hành pháp luật giao thông của người tham gia giao thông. Đồng thời, chị còn tham gia tốt công tác dẫn đoàn, bảo vệ các đồng chí lãnh đạo Đảng, Nhà nước đến thăm và làm việc tại tỉnh nhà.

Bên cạnh đó, Trung úy Nguyễn Thị Minh Châu còn tham mưu cho lãnh đạo đơn vị các biện pháp cải cách hành chính đạt hiệu quả cao, giảm bớt phiền hà cho nhân dân, đặc biệt trong khâu tiếp nhận văn bản. Chị dành thời gian kiểm tra, đối chiếu cẩn thận, tỷ mỉ, từ đó tham mưu ra quyết định kịp thời, chính xác, đúng thẩm quyền, không để xảy ra sai sót trong quá trình xử lý. Không chỉ làm tốt công tác chuyên môn, chị còn là một đoàn viên thanh niên năng nổ, nhiệt tình với các phong trào Đoàn, Hội, hoạt động văn nghệ, thể dục, thể thao do Công an tỉnh tổ chức. Với những thành tích xuất sắc trên các mặt công tác, nhiều năm liên tục đồng chí được tặng danh hiệu “Chiến sĩ thi đua cơ sở”, “Đảng viên đủ tư cách hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ”.

PHÚC LẬP. Nữ chủ làng dưới chân Chư Ngọc / Phúc Lập, Nguyễn Đức // Báo Nông nghiệp Việt Nam. - 2016. - Số 64. - Ngày 30/3. - Tr. 5

           Buôn Thức (xã Chư Ngọc, huyện Krông Pa, tỉnh Gia Lai) nằm nép mình dưới chân ngọn núi Chư Ngọc cao như muốn chạm mây trời. Từ hơn 50 năm nay, ngôi làng ấy luôn bình yên dưới sự “lãnh đạo” của một nữ “thủ lĩnh tinh thần”, đó là bà Dôn Lâm....

5 TUỔI ĐÃ LÀ CHỦ LÀNG

Ngôi nhà nhỏ đang tao tác tiếng đàn gà ngoài vườn. Cách đó không xa, đàn bò sau một ngày đi kiếm ăn đang nghễu nghện kéo về chuồng. Đường đến buôn Thức của nữ chủ làng Dôn Lâm. Bà Dôn Lâm năm nay đã ngoài 70 tuổi, nhưng nước da vẫn săn chắc và đỏ sậm, đặc trưng dễ thấy nhất của những người nhiều năm trải nắng mưa, leo núi, xuyên rừng. Dưới vầng trán cao cương nghị, đôi mắt nữ chủ làng còn tinh anh lắm.

“Mấy chú từ dưới xuôi lên, chắc mệt lắm rồi, vào nhà dùng nước”, nữ chủ làng chẳng tỏ vẻ ngạc nhiên khi thấy khách phương xa đến, mà đon đả mời.

Khi chúng tôi hỏi về chức danh chủ làng, bà Dôn Lâm cho biết: “Chức danh chủ làng bắt nguồn từ thời ông ngoại ta. Ông là người đầu tiên đặt chân đến vùng đất này khai hoang. Hồi đó còn hoang sơ lắm, rất ít dấu chân người, chỉ có chân thú thôi. Ban đầu chỉ vài nóc nhà, rồi cứ đông dần thành buôn làng trù phú dọc sông Ba. Nữ chủ làng Dôn Lâm Ông ngoại là người tài giỏi, lại hay giúp đỡ mọi người, mọi chuyện lớn nhỏ trong buôn đều một tay ngoại giải quyết. Vì thế, người ta tôn ông là chủ làng. Có lần Vua Lửa kinh lý về làng, người dân không chịu ra nghênh đón. Ông chỉ cần nói một câu, tất cả già trẻ lớn bé đều đổ ra đường đón vị vua có tài hô gió cầu mưa”, nữ chủ làng kể.

Tuy nhiên, chuyện còn hy hữu hơn xảy ra khi cô bé Dôn Lâm được người chủ làng truyền ngôi khi vừa mới lên 5 tuổi. Bà kể: “Suốt nhiều ngày mình thấy ông ngoại rì rầm bàn bạc với những người trong gia đình. Một hôm, ông họp dân làng và tuyên bố sẽ truyền ngôi chủ làng cho cháu gái Dôn Lâm trước sự ngỡ ngàng của tất cả mọi người. Chính bản thân ta cũng không hiểu tại sao ông ngoại lại quyết định như thế”.

Được “đào tạo” để trở thành chủ làng, không mất nhiều thời gian để Dôn Lâm khẳng định vai trò thủ lĩnh. Ông Nay Oi, một người già ở buôn Thức, hồi tưởng: “Xưa nay, những việc cúng tế thần linh đều do đàn ông đảm nhiệm, đàn bà không được can dự. Nhưng khi chủ làng là một phụ nữ, mọi việc phải thay đổi. Một góc buôn Thức Phụ nữ cúng Giàng (thần), cầu mưa thuận gió hòa, xua đuổi bệnh tật, là chuyện chưa có tiền lệ. Dôn Lâm không chỉ làm giỏi việc buôn việc làng, chẳng thua gì đàn ông, mà còn làm kinh tế giỏi nhất buôn nữa”.

Ông Nay Oi còn cho biết, nữ chủ làng có đàn bò cả trăm con, đã chia bớt cho con cháu.

Chỉ những hàng ché cổ xếp dọc nhà, bà Dôn Lâm bảo: “Những ché này có hàng trăm năm nay rồi, từ đời ông bà mình. Mình ủ rượu để dành đó, có đám cưới, đám ma, mừng nhà mới trong buôn mới đem dùng”.

Cô cháu gái Nay H’Viêng nói với chúng tôi, dù đã qua 70 mùa rẫy, nhưng bà vẫn tự tay đi lấy lá, rễ cây về làm men ủ rượu. Chiếc khăn quấn đầu, váy áo của bà đều là đồ tự tay bà dệt để mặc, nhất định không mặc đồ do người Kinh đem vào bán.

   NÓI MỘT LỜI, DÂN NGHE NGAY

                  Ông Ksor Plu, Chủ tịch UBND xã Chư Ngọc, kể: “Ngày xưa bà con ở buôn Sai, nằm bên bờ con sông Ba, bị sạt lở nghiêm trọng mỗi khi mưa lũ, nguy hiểm cho cuộc sống và sản xuất của bà con. Vì thế, chủ trương của huyện di dời 321 hộ ở hai buôn này ra khu tái định cư nằm trên quốc lộ 25, dưới chân ngọn Chư Ngọc để có điều kiện sống tốt hơn. Tuy nhiên, suốt 2 năm ròng rã chính quyền ra sức vận động bà con vẫn không theo. Ông Ksor Trắc, ở buôn Thức đang kể về nữ chủ làng Dôn Lâm Cuối cùng, chúng tôi phải nhờ đến chủ làng. Bà ấy chỉ nói một câu mà đỡ cho chính quyền gần 2 năm lặn lội xuống làng thuyết phục bà con ra nơi ở mới. Từ ngày chuyển đến sinh sống ở ngôi làng mới, tức buôn Thức bây giờ, cuộc sống của bà con đã được cải thiện nhiều lắm rồi”.

Chính chủ làng Dôn Lâm là người gắn bó, nặng lòng với buôn Sai, mảnh đất do cha ông tạo dựng hơn ai hết. Bà bảo, đó là vùng đất màu mỡ, là nơi cha ông đặt chân đến và sinh sống hàng trăm năm nay, bỏ đi lòng buồn lắm. Nhưng ở đó đường sá đi lại khó quá, trường học lại xa khiến lũ trẻ học hành bập bõm, cái điện cũng không có. Còn ra nơi ở mới thì ngay sát đường, đi đâu cũng dễ dàng, Nhà nước còn đầu tư điện nước đầy đủ…

Dù biết đó là một chủ trương đúng nhưng không dễ khiến bà rời bỏ nơi gắn bó với những điều thiêng liêng không thể cắt nghĩa từ vùng đất cội nguồn này. Sau nhiều đêm mất ngủ vì suy nghĩ, bà quyết định đi, vì tương lai của những đứa trẻ. Vì thế, bà tuyên bố với bà con sẽ chuyển đến nơi ở mới. Chỉ nghe có vậy, hơn 320 hộ dân trong buôn lặng lẽ chuyển nhà theo chủ làng.

Ông Ksor Trắc, ở buôn Thức, kể: “Chủ làng của chúng tôi đã đi thì chúng tôi không có lý do gì để ở lại. Chủ làng nói với bà con đi theo Đảng, Nhà nước, mà do chủ làng là người đi trước nên dân làng đi theo sau. Về đây thì dân làng có điện sáng, đường đi tốt lắm, nhiều hàng hóa bán tại nhà nên cuộc sống đỡ khổ hơn trước nhiều”. Ông Ksor Plu cũng cho biết, nữ chủ làng còn là người tiên phong chống lại hủ tục nối dây truyền đời. “Với người Jrai, luật tục nối dây là một trong những luật làng khổ cực nhất của người phụ nữ. Đó là nếu chẳng may chồng chết, người phụ nữ sẽ phải tiếp tục chắp nối cuộc hôn nhân với người đàn ông bên nhà chồng. Ngược lại, khi người vợ qua đời, người chồng muốn tái hôn buộc phải lấy một người con gái trong gia đình vợ có thể là em gái vợ còn rất nhỏ tuổi hay thậm chí là người chị vợ già hơn mình rất nhiều miễn là người đó chưa có chồng. Những người đó gọi là người nối dây. Nếu không còn người để nối dây thì người chồng phải về lại nhà mẹ đẻ với hai bàn tay trắng. Ngược lại, nếu người chồng mất mà gia đình chồng không muốn mất của cũng phải đưa người (anh trai hay em trai chưa có vợ của người chồng) sang nhà người vợ đã mất để thực hiện tục nối dây. Nếu ai không tuân theo thì chịu phạt rất nặng, thậm chí bị đuổi khỏi làng, rồi bị mọi người xa lánh, khinh bỉ… Noi theo gương bà, hiện nay, các phụ nữ trong làng cũng không theo luật tục này nữa”, ông Ksor Plu nói...

HUỲNH KIÊN. Nữ già làng độc nhất vô nhị ở Tây Nguyên / Huỳnh Kiên // Báo Tiền phong. - 2004. - Số Xuân Giáp Thân (13+14+15+16+17). - Tr. 9

Phụ nữ Tây Nguyên giữ vị trí then chốt trong gia đình nhưng đối với cộng đồng xã hội lại rất mờ nhạt. Bàn tính định đoạt việc làng là chuyện của đàn ông. Thế mà ở xã biên giới  Ia Mơr (Chưprông - Gia Lai) Kso H'Lâm được dân bầu làm già làng. Bà không chỉ có tiếng nói quyết định ở làng K'rông nơi bà sinh sống mà đồng bào JRai ở làng Nát, làng K'Lả, làng Khôi bên cạnh đều nghe theo ý kiến của già.

Nhìn nước da trắng, dáng dong dỏng cao và nét xinh tươi còn đọng lại, ai gặp Ksor H'Lâm cũng hình dung được thời son trẻ bà sắc sảo, xinh đẹp thế nào. Tuổi đã xế chiều Ksor H'Lâm vẫn không chịu lấy chồng, gần cả tuổi thanh xuân bà theo cách mạng, giờ hưu việc nhà nước bà về giúp đỡ dân làng.

            Chúng tôi ngồi thủ thỉ, gợi lại làng K'Rông thời xã xăm. Một đêm mùa khô năm 1962 Ksor H'Lâm trốn gia đình lên núi theo cách mạng.

            H'Lâm được phân công làm giao liên, khơi thông đường dây 559 đưa bộ đội miền Bắc vượt tuyến vào Nam. H'Lâm đã yêu một "Chiến sĩ giải phóng quân" người miền Bắc nhưng anh đã hy sinh trong trận đánh Plei Me trên tay cô. Từ đó H'Lâm lấy công việc làm vui, không nghĩ đến ai nữa.

            Ra Bắc học tập, về Tây Nguyên công tác, về hưu với cấp bậc thượng úy, trở lại với buôn làng ở một xã vùng sâu biên giới đời sống người dân đầy khó khăn lạc hậu, Ksor H'Lâm không phút nghỉ ngơi. Bà như con sóc giữa rừng, nơi nào cần là có mặt. Kpa Priu ở làng Nát đẻ khó, Rơ Chăm Prấp ở làng K'Lả chuyển bụng mấy ngày mà không sinh được, rồi Rơ Lan P'Rung làng K'Rông đã vỡ nước ối mà con không chịu ra ... các mụ vườn bó tay đều cần đến H'Lâm "mát tay" đỡ đẻ. Gia đình này chồng xay xỉn vợ nói không nghe, nhà nọ không biết học cách làm mới cứ trồng mãi những giống cũ ..., H'Lâm đều chỉ dạy tận tình, hướng dẫn chu đáo. Các gia đình như : Kriu, Rơ Mah Nói, Siu P'Luc làng K'Rông có chí làm ăn nhưng vẫn nghèo, già H'Lâm gọi đến cho mượn con bò về  nuôi năm sau đẻ bê, khi bê lớn thì trả bò mẹ lại cho H'Lâm, lấy bò con làm vốn nhờ đó thoát nghèo. Thằng Phéc và Phóc ở làng K'Lả còn sống đến nay đã 5 tuổi nhờ công lớn của già H'Lâm. Khi sinh chúng, thấy đẻ một lúc 2 con, theo luật tục Jrai là phải giết bớt 1 đứa. Nghe tin này H'Lâm đến vận động gia đình nuôi cả hai, khó khăn gì bà giúp ! Vài năm lại đây khu vực biên giới Ia Mơr bọn người xấu thường lừa phỉnh dân từ xa vượt biên trái phép, Bộ đội biên phòng cùng với H'Lâm vận động nhân dân phát hiện thấy người lạ kẻ gian thì báo ngay. Nghe lời già làng và bộ đội, Kriu (làng Nát) đi rẫy có 2 kẻ lạ mặt hỏi đường qua biên giới, Kriu dặn chúng đợi anh thăm dò đường, song anh chạy bộ 10 cây số về chốt biên phòng Ia Mơr dẫn bộ đội lên tóm gọn cả hai. Hai tên khác bị Kpă My ở K'Lả dùng xe chở thẳng về giao cho Bộ đội biên phòng. Giúp được dân có ý thức được như vậy có công lớn của già làng.

            Phó chủ tịch UBND xã Ia Mơr ông Kpa Định nói vui với chúng tôi : Ksor H'Lâm không chỉ là già làng mà còn là "già xã" bởi bà già làng của đến 4 làng, uy tín của bà lan rộng khắp xã. Các chiến sĩ đồn biên phòng Ia Mơr thì xem bà là chỗ dựa tin cậy. 

 XUÂN HOÀNG. Nữ giáo viên "giỏi việc nước, đảm việc nhà"/ Xuân Hoàng // Báo Biên phòng. - 2013. - Số 94. - Tr.8 

Với khuôn mặt trẻ trung xinh xắn, dáng đi nhanh nhẹn, hoạt bát, lòng đầy nhiệt huyết, tận tâm với sự nghiệp trồng người, tuy tuổi đời còn trẻ, tuổi nghề còn ít, nhưng cô giáo Tống Thị Thắm, giáo viên trường Tiểu học Kim Đồng, huyện Đức Cơ, Gia Lai luôn được phụ huynh, học sinh và đồng nghiệp nhắc đến bởi bề dày thành tích và luôn hết lòng vì học sinh thân yêu.

Sinh ra và lớn lên trên mảnh đất Yên Mô, Ninh Bình giàu truyền thống cách mạng, năm 1991, cô Thắm rời quê hương vào Gia Lai ở với gia đình cô chú ruột và tiếp tục theo học Trung học cơ sở, Trung học phổ thông tại thị trấn Chư Ty, huyện Đức Cơ. Sau khi tốt nghiệp ngành sư phạm, cô về nhận công tác tại trường Tiểu học thị trấn Chư Ty. Năm 2001, trường tách thành 2 trường là trường Tiểu học Võ Thị Sáu và trường Tiểu học Kim Đồng. Để thuận tiện cho công tác và chăm con nhỏ, cô được phân công về trường Tiểu học Kim Đồng.

Trường cô Thắm công tác đứng chân trên địa bàn xã biên giới Ia Kla, huyện Đức Cơ, cơ sở vật chất còn nhiều khó khăn, ý thức việc học của học sinh cũng như phụ huynh còn nhiều hạn chế, chất lượng giáo dục không cao. Là một giáo viên trẻ, nhưng cô Thắm hết sức tận tụy và chịu khó bồi dưỡng để nâng cao kiến thức sư phạm, cô luôn đau đáu cần phải làm gì để xây dựng trường ngày một đi lên và đạt chất lượng chuẩn trong ngành giáo dục của huyện. Cùng với tập thể giáo viên trong trường, cô không ngừng sáng tạo, đổi mới phương pháp giảng dạy, thường xuyên rèn luyện đạo đức cho học sinh theo 5 điều Bác Hồ dạy. Hằng ngày cô tiếp cận học sinh để tìm ra nguyên nhân vì sao học sinh học yếu, chưa ngoan để có giải pháp giáo dục. Mỗi năm, vào đầu năm học mới, cô đều dành nhiều thời gian để gặp gỡ, làm quen với các em học sinh để nắm bắt tâm tư của từng em, trực tiếp đến từng gia đình các em gặp khó khăn trong học tập cũng như trong cuộc sống để động viên, chia sẻ cùng các em vượt qua khó khăn để vươn lên trong học tập và đến lớp đều đặn. Chính từ sự gần gũi, biết động viên, chia sẻ, yêu thương học sinh nên hằng năm lớp học do cô Thắm làm chủ nhiệm luôn duy trì sĩ số học sinh đạt 100%, chất lượng giáo dục năm sau cao hơn năm trước.

 Năm 2007, cô Thắm được cấp ủy, chi bộ cử tham gia cuộc thi kể chuyện tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh do Huyện ủy Đức Cơ tổ chức. Tự tìm tòi, nghiên cứu, học tập với lòng đam mê sẵn có, cô đã vượt qua hơn 20 thí sinh để giành được giải Nhì tại hội thi. Cũng từ đó, cô vận dụng những gì học tập được qua hội thi vào việc dạy học của mình như: Hằng tuần vào tiết sinh hoạt lớp, cô thường kể những mẩu chuyện ngắn về tấm gương của Bác Hồ cho học sinh nghe. Từ những câu chuyện ấy, học sinh vô cùng thích thú và càng thêm kính yêu Bác Hồ, quyết tâm phấn đấu vươn lên trong học tập.

Với tuổi đời, tuổi nghề còn khá trẻ (SN 1978), nhưng cô đã có một chuỗi thành tích đáng nể: 12 năm liền là giáo viên dạy giỏi cấp huyện; giáo viên dạy giỏi cấp tỉnh (năm học 2012-2013); giáo viên dạy giỏi tiểu học cấp quốc gia (năm học 2012-2013). 12 năm là Chiến sỹ thi đua cấp cơ sở, 3 lần được UBND tỉnh, Tỉnh đoàn tặng Bằng khen, 12 lần được các cấp tặng Giấy khen... Cô còn là đảng viên nhiều năm liền hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ, được Đảng ủy cấp trên khen thưởng.

Công việc chuyên môn của cô Thắm là vậy, còn việc gia đình, qua tìm hiểu chúng tôi được biết, chồng cô là bộ đội, công tác ở Binh đoàn 15, đóng quân xa nhà hơn 20km. Mọi công việc gia đình một mình cô lo toan, cáng đáng. Vợ chồng Thắm có 2 con còn nhỏ, cháu trai đầu hiện học lớp 7, nhiều năm liền là học sinh giỏi và cháu gái 4 tuổi, học mẫu giáo. Tuy việc trường, việc nhà luôn bận rộn, nhưng cô luôn biết bố trí sắp xếp công việc khoa học không để ảnh hưởng đến công tác chuyên môn và tạo điều kiện cho chồng yên tâm tư tưởng, hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao.

Nhận xét về cô giáo Tống Thị Thắm, cô Lê Thị Kim Anh, Hiệu trưởng Trường Tiểu học Kim Đồng cho biết: "Cô Thắm không những là một giáo viên có năng lực, trách nhiệm, nhiệt tình trong công tác chuyên môn, hết lòng vì học sinh, mà còn là một trong những điển hình trong học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh, luôn được phụ huynh, các thế hệ học sinh, bạn bè, đồng nghiệp cũng như Đảng bộ, chính quyền địa phương nơi trường đứng chân tôn trọng, quý mến".

HUỲNH KIÊN. Nữ hộ sinh H'Nơn trước những cảnh đời bất hạnh / Huỳnh Kiên // Báo Tiền phong. - 2004. - Ngày 26 tháng 4. - Tr. 11

           H'Nơn sinh ra và lớn lên ở làng Brêl Dôr xã Glar (Đắc Đoa - Gia Lai) trong một gia đình khá đông anh em. Năm H'Nơn 7 tuổi quê hương Glar giải phóng, cô bé được cắp sách đến trường. Nhờ chính sách đãi ngộ của Đảng, Nhà nước đối với con em đồng bào dân tộc từ sách vở, giấy bút cho đến các khoản đóng góp khác mà con em gia đình nghèo như H'Nơn có điều kiện học lên cao. Ước mơ của cô bé góp công sức giúp đồng bào của mình nhất là chị em phụ nữ khỏi cảnh sinh nở ngoài rừng với bà mụ vườn đã toại nguyện khi cô tốt nghiệp Trung cấp Y tế chuyên ngành nữ hộ sinh trở về lại Trạm y tế xã Glar nhận công tác.

Năm 1996 khi đó H'Nơn 29 tuổi, trong một lần công tác ở xã Trang bên cạnh chị biết tin một sản phụ sinh bé trai được 3 tiếng đồng hồ thì mẹ chết. Theo phong tục của làng H'Lang đứa bé cũng phải đè chết rồi chôn theo mẹ. Đồng bào cho rằng đứa trẻ mới sinh chưa thổi hồn chưa thành người, vì thế không có mẹ cho sữa không thể nuôi được nó, chôn luôn theo mẹ là tốt hơn. Biết được tập tục này thương cháu bé quá, H'Nơn kiên trì thuyết phục họ hàng, xin ba cháu bé và già làng cho cô mang về nuôi. 2 vợ chồng đều công tác ở trạm y tế xã, đồng lương ít ỏi, nuôi 1 đứa con của nình đã khó, giờ phải chăm con mọn càng vất vả hơn. Anh chị đặt tên cho cháu bé là Thuim. Cậu bé thoát chết trong gang tất ngày nào giờ đang học lớp 2 trường làng.

Hôm chúng tôi đến, H'Nơn không có nhà còn Nây Blum chồng chị đang tiếp tục tu nghiệp ở Đại học Y Huế. Tiếp chúng tôi là cháu Mới, con nuôi của anh chị năm nay đã 18 tuổi. Năm 1997 H'Nơn thuyết phục chồng nhận thêm Mới lúc đó lên 10 tuổi và em trai là Kưum lên 5, con của vợ chồng một bệnh nhân phong mất sớm không nơi nương tựa đang cù bất cù bơ ở làng Klảl. Mới kể với chúng tôi trong nghẹn ngào nước mắt về hoàn cảnh của mình: Mẹ vừa sinh ra Kưum thì chết, ba thì bị cùi rơi mất hai bàn tay, thân hình lở lói, đau nhức không lao động được phải thường xuyên nằm viện. Chị em Mới ở bệnh viện cùng ba, sống bằng tấm lòng hảo tâm của những người ở Trung tâm Y tế huyện Đắc Đoa. Ba chết, 2 chị em tiếp tục sống ở Trung tâm Y tế thêm 1 năm nữa rồi được bác (anh của mẹ) đưa về nuôi, chưa đầy một năm thì bác mất. Họ hàng thân thích không còn ai, hai chị em bị nhiều người hắt hủi, vì sợ con người cùi sẽ lây bệnh. Cô bé 10 tuổi phải tự lao động nuôi mình nuôi em, ngày ngày đi nhặt phân bò bán kiếm một vài ngàn đồng mua gạo. Thương chị em Mới, biết rõ bệnh phong không di truyền nguy hiểm như đồng bào lầm tưởng. H'Nơn đã mang chị em Mới về nuôi. Mới ở nhà giúp mẹ trông em còn Kưum được vợ chồng anh chị cho ăn học như bao đứa trẻ khác. Đứa con nuôi thứ 4 của H'Nơn là Jưi ở làng Vết năm nay 12 tuổi cũng có hoàn cảnh như Kưum mất cả cha mẹ, họ hàng không còn ai, vợ chồng H'Nơn lại mang về nuôi.

Căn nhà chật hẹp và thấp lè tè của H'Nơn không chỉ là chỗ dựa của những cháu bé bất hạnh, mà còn là chốn nương thân của chị em bà Mel và Brêh tật nguyền ở làng Dơk Rơng. Hai chị em bà Mel năm nay đã gần 60 tuổi, cả hai đều không chồng con, vừa mù, vừa điếc. Lúc còn trẻ, khỏe họ còn tự lao động cho dân làng kiếm sống đến khi cao tuổi, ngã bệnh không biết trông cậy vào ai. H'Nơn thấy cảnh thương tâm đưa 2 bà về nhà nuôi. Nhà cửa dẫu chật hẹp nhưng tấm lòng chủ nhân rộng mở nên bao nhiêu cảnh đời bất hạnh cũng đủ sức dung chứa. Tôi không hiểu nổi chị H'Nơn đã san sẻ đồng lương nữ hộ sinh ở xã của mình ra thế nào mà căn nhà ọp ẹp ấy vẫn có nét tươm tất, có ti vi cho các cháu xem, có bếp điện đun nước, nuôi tất thảy 9 miệng ăn, lại chi phí cho chồng đi học đại học ở xa! Kỳ diệu thay tấm lòng nhân ái của con người!

Để đỡ phần khó khăn cho H'Nơn, vừa qua phòng Lao động - TBXH huyện đã vận động anh chị cho cháu Jưi về Trung tâm Bảo trợ xã hội Gia Lai nuôi ăn học, 2 cụ già tật nguyền ấy được Nhà nước và dân làng giúp công sức làm cho một ngôi nhà ở riêng tại làng Dơk Rơng quê họ.

Vừa lo công việc xã hội, vừa chăm mẹ nuôi, con nuôi H'Nơn dường như không còn thời gian cho mình. Trông chị gầy rộc bởi tất bật việc. Đã bước sang tuổi 37 song H'Nơn không sinh đứa con thứ 2. Phải chăng những sản phụ ở vùng sâu, những đứa trẻ không nơi nương tựa, người già cô đơn kia thường trực ngày đêm đang cần đến chị - tấm lòng từ mẫu của vợ chồng một cán bộ y tế vùng sâu!

THÚY TRINH. Nữ phó trưởng công an huyện và những điều chưa kể / Thúy Trinh // Sách Công an Gia Lai học tập, làm theo lời Bác. - Gia Lai, 2013. - Tr. 140-143

Ở  tuổi 37, Thiếu tá Ksor Quỳnh có được sự vững vàng, bản lĩnh trong công việc và một gia đình hạnh phúc. Một tấm lòng chân thành, nhân ái, những nỗ lực không ngừng trong các mặt công tác là những yếu tố đem lại cho chị sự thành công.

Năm 1998, sau khi tốt nghiệp trường Đại học Cảnh sát nhân dân, Thiếu úy Ksor Quỳnh được phân công về phòng Cảnh sát điều tra, Công an tỉnh. Thời gian đầu, khi xuống cơ sở, thấy điều tra viên là một phụ nữ trẻ, nhiều người tỏ ra nghi ngờ khả năng của chị. Không nản lòng, với sự xông xáo, gan dạ, dũng cảm, Ksor Quỳnh dần chứng tỏ bản lĩnh của một nữ Cảnh sát. Có lần, chị cùng đồng đội vào rừng để xác minh, khám nghiệm một tử thi được phát hiện chết chưa rõ nguyên nhân. Mất gần nửa ngày băng rừng, tổ công tác mới đến được vị trí và làm việc hàng giờ bên xác chết đang trong quá trình phân hủy. Xong nhiệm vụ cũng là lúc mặt trời đứng bóng. Thức ăn mang theo vỏn vẹn chỉ một nồi cơm trắng và muối, không có chén đũa, cũng không có lấy một giọt nước để rửa tay. Trong tình cảnh này, Quỳnh và mọi người phải tháo bỏ lớp găng tay rồi ăn tạm để lấy sức vượt rừng trở về.

Trong 13 năm liên tiếp gắn bó với công tác điều tra tội phạm về TTXH (chủ yếu là án sở hữu và các loại án khác), chị trực tiếp thụ lý hàng trăm vụ, trong đó có nhiều chuyên án lớn từng làm phố núi rung động như vụ Mai Quí Thọ cùng đồng bọn lừa đảo, chiếm đoạt tài sản với số tiền hàng trăm tỉ đồng; vụ công ty xuất nhập khẩu Gia Lai cố ý làm trái quy định quản lý kinh tế, gây hậu quả nghiêm trọng, v.v... Trong vụ Mai Quý Thọ, Ksor Quỳnh chính là một trong những người đến biên giới Tây Nam, để bắt giữ tên “siêu lừa” này và trực tiếp đấu tranh lấy lời khai của đối tượng. Trước một tên tội phạm ranh ma, xảo quyệt luôn tìm cách chối tội, nhiều đêm, xót xa cho những gia đình tan cửa nát nhà vì Thọ, chị trằn trọc nghĩ mình phải hỏi gì, và làm thế nào để đối tượng khai ra vấn đề. Một đồng đội của chị hóm hỉnh kể: “Có lần, tôi tận mắt chứng kiến Quỳnh lấy lời khai tên Thọ. Thấy hắn nói vòng vo, chị không nói gì, chỉ im lặng nhìn thẳng vào hắn. Vậy mà Thọ toát mồ hôi rồi lo... khai thật ”. Nhiều người cho rằng đôi mắt chính là một lợi thế rất đặc trưng của Ksor Quỳnh. Đôi mắt to, đẹp hút hồn của cô nữ sinh thanh lịch trường Đại học Cảnh sát nhân dân II khi xưa, trước những đối tượng có thể là những kẻ lừa đảo, những hung thủ máu lạnh, những tên sát nhân hiểm ác trở nên sắc sảo và có sức mạnh lạ thường.

            Đấu tranh với các loại tội phạm này là điều không đơn giản, nhất là đối với một nữ điều tra viên. Đối diện với Quỳnh, nhiều đối tượng có thái độ xem thường, ngoan cố, bất hợp tác. Một số lại tỏ ra tuyệt vọng, khóc lóc, thậm chí đòi tự tử để cán bộ... mủi lòng. Nếu không có bản lĩnh và nghiệp vụ sắc bén, nhiều người dễ sa vào “ma trận” mà đối tượng bày ra. Với chị, để thành công trong công tác điều tra, một thái độ mềm mỏng, ân cần cũng là điều quan trọng. Mềm mỏng, nhưng phải cương quyết. “Đối với tôi, điều cần nhất là phải thực sự tôn trọng họ và cho họ thấy mình được tôn trọng. Các đối tượng có thể phạm tội ác ở đâu, với ai, nhưng với tôi, họ trước hết là một con người”. Chị Quỳnh bộc bạch.

            Không chỉ hoàn thành suất sắc công tác chuyên môn, Ksor Quỳnh còn được biết đến với vai trò là một thủ lĩnh thanh niên cừ khôi. Một thời gian dài, chị giữ chức vụ Trưởng Ban công tác thanh niên (nay là Bí thư Đoàn Thanh niên Công an tỉnh). Với nhiệm vụ mới mẻ này, Quỳnh ra sức tiến hành các hoạt động hướng về cộng đồng như: vận động gây quỹ xây nhà tình nghĩa cho đoàn viên nghèo, xây Trung tâm hoạt động thanh niên cho các xã có hoàn cảnh khó khăn, quyên góp tặng quà cho đồng bào vùng sâu, vùng xa các dịp lễ, tết, v.v.. Nhiều năm liền đạt danh hiệu Chiến sỹ thi đua cơ sở, năm 2011, chị được bổ nhiệm làm Phó Trưởng Công an huyện Chư Sê. Một điều hạnh phúc của Quỳnh là có một người chồng luôn ủng hộ, sẻ chia và thông cảm với công việc của vợ. Chồng Quỳnh  cũng là một cán bộ Công an. Anh chị quen và yêu nhau từ thời đại học, con trai họ năm nay lên lớp 6... Cứng rắn, quyết đoán trong công việc, vậy mà người phụ nữ ấy nhiều lúc cũng chạnh lòng vì nhớ tổ ấm của mình, thương đứa con trai nhỏ thường xuyên phải xa mẹ. Nhưng rồi, chị cũng vượt qua, cố gắng hoàn thành tốt công việc để trở về thật vui vẻ, đầm ấm bên gia đình.

Đó là những điều có thể nhiều người chưa biết về thiếu tá Ksor Quỳnh- một phụ nữ đầy nhiệt huyết và tự tin, bước qua rào cản của định kiến giới tính bằng sự dịu dàng và mạnh mẽ để vươn lên tự khẳng định mình.

QUỐC NINH. Nữ tỉnh ủy viên đầu tiên của Đảng bộ Gia Lai / Quốc Ninh // Báo Gia Lai . - 2012. - Số 3426+3427. - Ngày 30/8. - Tr. 5

            Trong lịch sử của Đảng bộ Gia Lai cũng như lịch sử của phong trào phụ nữ tỉnh luôn gắn bó với tên tuổi của một nữ lão thành cách mạng-bà Trần Thị Nguyên (1916-2000). Người nữ chiến sĩ cách mạng này, cả cuộc đời cống hiến cho sự nghiệp giải phóng dân tộc, đồng thời là người kiến tạo, vận động, góp phần củng cố tổ chức Hội Phụ nữ Cứu quốc Gia Lai, nhưng thân thế của bà hầu như ít người biết đến.

            Bất chấp hiểm nguy

            Trong tập hồi ký “Quá khứ hào hùng” do chính bà Trần Thị Nguyên (tức Tú) soạn thảo có ghi: Tháng 6-1946, đồng chí Nguyễn Chí Thanh, khi ấy là Bí thư Xứ ủy Trung bộ đi kiểm tra tình hình ở Phú Yên, tại đây đồng chí đã trực tiếp gặp và giao nhiệm vụ cho bà Trần Thị Nguyên (là cán bộ Phụ vận của Xứ ủy Trung bộ, đang vận động thành lập Hội Phụ nữ Cứu quốc tại Phú Yên) lên Gia Lai, vận động, củng cố Hội Phụ nữ Cứu quốc ở 2 tỉnh Gia Lai và Kon Tum. Tình hình ở Gia Lai, Kon Tum năm 1946 là chiến trường ác liệt, Pháp đang lập tề ngụy, chia rẽ khối đoàn kết dân tộc. Xứ ủy có chủ trương phải củng cố lại lực lượng chính trị ở vùng này. Là người có kinh nghiệm vận động quần chúng, là Ủy viên  Phụ nữ Trung bộ, bà được Xứ ủy tin tưởng giao trọng trách đó. Đến Gia Lai tháng 8-1946, bà được bổ sung ngay vào Tỉnh ủy Tây Sơn (tức Đảng bộ Gia Lai). Trong cuốn lịch sử Đảng bộ tỉnh Gia Lai, đoạn nói về chiến sự kháng chiến chống Pháp năm 1946, đã ghi: Ngoài các ủy viên cũ như Phan Thêm, Phạm Thuần, Nguyễn Xuân, Ban Chấp hành tỉnh còn được bổ sung thêm một số Tỉnh ủy viên mới như: Phan Bá, Trần Thị Nguyên. Bà nhớ lại: “Được sự giới thiệu của Thường vụ Xứ ủy, tôi được bổ sung vào Tỉnh ủy lâm thời Tây Sơn do Phan Thêm (chồng tôi) là Bí thư”. Sau đó, Tỉnh ủy Gia Lai và cơ quan huyện An Khê chuyển về Vĩnh Thạnh (Bình Khê, Bình Định); tại đây, Tỉnh ủy mở Hội nghị cán bộ, kiểm điểm tình hình, đề ra chủ trương gấp rút xây dựng cơ sở, đoàn thể Việt Minh ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số Nam-Bắc An Khê, tạo bàn đạp để phát triển cơ sở chính trị vào vùng địch tạm chiếm và vận động quần chúng, chuẩn bị chiến trường cho các hoạt động quân sự.

            Theo sự phân công của Tỉnh ủy, các đồng chí Phan Thêm-Bí thư Tỉnh ủy, Phan Bá (thường trực tại cơ quan), Phạm Thuần, Nguyễn Xuân, Trần Thị Nguyên lên xóm Ké (Thượng Bình) trực tiếp chỉ đạo phong trào huyện An Khê.

            Tháng 7-1946, Xứ ủy Trung kỳ và Phân ban vận động quốc dân thiểu số Nam Trung bộ thành lập đội vũ trang công tác cùng với cán bộ của tỉnh Gia Lai mở đường từ Định Nhì, Đồng Hào-Tiên Thuận lên An Thạch, Cửu An, Cửu Đạo, Ka Nak, Thượng An. Một bộ phận khác lên Đất Bằng (Cheo Reo) xây dựng cơ sở kháng chiến. Các lực lượng này liên lạc với cán bộ cơ sở nắm tình hình địch, trấn áp bọn tề điệp, tạo niềm tin cho quần chúng. Bà Nguyên khi này với vai trò là Tỉnh ủy viên phụ trách công tác phụ vận đã cùng với các đồng chí trong Tỉnh ủy tích cực vận động quần chúng. Bà đã thành lập Ban Chấp hành Phụ nữ tỉnh trong Mặt trận Việt Minh Gia Lai. Bà viết trong hồi ký: “Tôi triệu tập một số chị em sơ tán (số phụ nữ ở Gia Lai-N.V) xuống Bình Định và tổ chức Ban Chấp hành (lâm thời) do tôi làm Hội trưởng”. Như vậy có thể nói, tổ chức Hội Phụ nữ Cứu quốc tỉnh đã được củng cố, thành lập lại. Phong trào quần chúng khi ấy lên rất cao, góp phần củng cố lại các tổ chức của ta ở vùng địch hậu. Lúc này chính bà đã đứng ra tổ chức Đội nữ tự vệ gồm 30 người với nhiệm vụ là cảnh giới, canh gác, dẫn đường cho cán bộ đi cơ sở, cho bộ đội chủ lực diệt đồn địch... Là Tỉnh ủy viên, bà Nguyên đã cùng các đồng chí Phạm Thuần, Nguyễn Xuân... tăng cường cho An Khê, đẩy mạnh công tác củng cố và phát triển cơ sở chính trị, góp phần xây dựng chiến khu xóm Ké ở làng Thượng Bình (Song An, An Khê), làm bàn đạp chỉ đạo phong trào kháng chiến của tỉnh.

Đầu năm 1947, khi địch tấn công vào chiến khu xóm Ké, bà đã mưu trí, dũng cảm sơ tán tài liệu của Tỉnh ủy khi bị tấn công. Nhờ vậy mà bà đã giữ tài liệu của cơ quan an toàn. Những năm 1947, 1948, bà thay mặt Tỉnh ủy Gia Lai trực tiếp liên hệ với tổ chức Đảng của tỉnh Bình Định nhằm phối hợp, giúp đỡ Gia Lai di dân, tản cư... Nhiệm vụ nào được giao bà cũng hoàn thành xuất sắc. Đến năm 1949, bà được Khu ủy Khu V điều về phụ trách công tác phụ vận của khu.

            Hiến dâng cả tuổi xuân cho cách mạng

            Bà Trần Thị Nguyên, sinh năm 1916 trong một gia đình nông dân nghèo tại xã Tam Hiệp, huyện Núi Thành, tỉnh Quảng Nam sớm giác ngộ cách mạng. Năm 17 tuổi bà xây dựng gia đình với ông Phan Thêm ở Quảng Nam. Bà và gia đình trở thành cơ sở của cách mạng. Năm 1935, bà chính thức tham gia Hội Đọc sách báo, Hội Cứu tế đỏ, Hội Tương tế... và vận động, cung tiến tiền của xây dựng quỹ cho tổ chức. Vì có nhiều hoạt động chống chính quyền thực dân phong kiến, năm 1939, bà Nguyên bị địch bắt. Chồng bà-Phan Thêm-đảng viên cũng bị bắt và đày đi Buôn Ma Thuột. Khi ấy, đứa con đầu lòng của họ mới 3 tháng tuổi.

            Năm 1940, bà được kết nạp vào Đảng; và từ đây bà gửi con lại cho ông bà nuôi, rồi dấn thân vào cuộc tranh đấu vì dân tộc. Tiếp đó, bà tham gia thành lập Hội Phụ nữ phản đế và được cử làm Trưởng ban Phụ nữ phản đế Tam Kỳ. Từ năm 1940-1945, bà Nguyên bị bắt đi, bắt lại nhiều lần và giam cầm ở nhà lao Hội An cho đến ngày Nhật đảo chính Pháp (3-1945). Nhớ lại những năm tháng bị tù đày, bà Nguyên viết: “Ở đây (nhà lao) tôi bị tra tấn đủ kiểu, kể cả quay điện vào âm hộ, treo lên xà nhà liền 5 ngày đêm, máu me đầy mình, chết đi sống lại nhiều lần, nhốt xà lim Bót Bò... nhưng tôi vẫn nhất quyết không khai”... Ra tù, bà lại tiếp tục hoạt động, tham gia giành chính quyền, xây dựng chính quyền ở Tam Kỳ, Hội An... Bà từng là Bí thư Hội Phụ nữ Cứu quốc tỉnh Quảng Nam, cán bộ biệt phái xây dựng phong trào phụ nữ ở Phú Yên, Gia Lai-Kon Tum trong chống Pháp rồi tham gia công tác giảm tô, cải cách ruộng đất ở Việt Bắc (1953). Năm 1955, bà được Trung ương giao nhiệm vụ trở về Nam, được đồng chí Võ Chí Công giao nhiệm vụ về tổ chức lực lượng bám trụ ở Quảng Ngãi, Quảng Nam. Năm 1957 bà trở ra Bắc học Trường Nguyễn Ái Quốc khóa I, rồi làm Bí thư Đảng ủy, Giám đốc Xí nghiệp 19-5, rồi Phó Cục trưởng Cục Công nghiệp; Phó Chủ nhiệm Ủy ban Thanh tra TP. Hà nội; Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Hội Phụ nữ Việt Nam.

            Lời kết

            Chuyện trò với Phan Như Dương-cháu nội của bà Nguyên, hiện sống tại Hà Nội, anh luôn tự hào khi nói về bà nội của mình. Bây giờ cả hai ông bà đã yên giấc ngàn thu, nhưng anh vẫn nhớ như in câu thơ của bà mình tâm đắc khi theo Đảng chống Pháp: “Nước mất nhà tan, gánh nợ chung/Có ta, ta phải ghé vai cùng/Liễu bồ đã đứng trong trời đất/Phải hiến thân mình cho núi sông”. Gia đình bà được Đảng, Nhà nước tặng phần thưởng cao quý: gia đình có công với nước, được khắc vào bia đá. Bà Nguyên được tặng Huân chương Độc lập hạng ba, 2 Huân chương Kháng chiến hạng nhất, Huy hiệu 50 năm tuổi Đảng...

TRẦN CÔNG. Nghiêm khắc mà khoan dung / Trần Công // Sách Công an Gia Lai học tập, làm theo lời Bác. - Gia Lai, 2013. - Tr. 169-171

Trại tạm giam - nơi chật chội của những bức tường, nơi người ta tưởng chừng công việc như đơn điệu, nhàm chán song nơi ấy đã đang và sẽ có những thế hệ cán bộ chiến sỹ Cảnh sát quản lý trại giam ngày đêm lặng thầm, hy sinh những nhu cầu, sở thích đời thường để hướng thiện, hoàn lương cho số can, phạm nhân. Chúng tôi muốn đề cập đến một trong số những con người đang làm công việc như vậy: Đại úy Quách Thị Hạnh, công tác tại Trại tạm giam T20, Công an tỉnh Gia Lai. Một con người bình dị, gần cả đời gắn bó với những công việc lặng thầm sau cánh cổng nhà giam.

Hôm nay - một ngày như mọi ngày Đại úy Quách Thị Hạnh đang làm cái công việc thường ngày, xoay vần và tưởng như đơn điệu: Mở khóa các buồng giam, kiểm danh, kiểm diện, thăm hỏi số can phạm có ai ốm đau...và, đóng khóa lại. 27 năm liên tục công tác tại Trại tạm giam T20, Công an tỉnh Gia Lai, hình như giọng của người nữ quản giáo hơi khàn đục bởi tuổi tác và thời gian những bước đi thật nhanh nhẹn, đôi mắt tinh anh và hiền từ.

Ở khu vực tạm giam, tạm giữ này, thường giao động có khoảng 20 đến 30 can phạm nữ. Họ vào trại giam với những hành vi, tội lỗi khác nhau. Có người một thời, bước chân trượt dài trong tội lỗi; có người chỉ một phút bốc đồng, nông nổi mà bàn tay vấy máu; có người vì hám lợi mà cả vợ chồng rơi vào lao lý...và, họ vào trại giam để được giáo dục, cải tạo, gột rửa quá khứ lỗi lầm; được cảm hóa để thấm thìa, quý trọng sức lao động; để nhận ra giá trị đích thực của cuộc đời mà họ cố ý hay vô tình đánh mất.

Can phạm Trần Thị Tư, 43 tuổi và chồng Phạm Văn Khôi, 44 tuổi, ở xã Kim Tân, huyện Ia Pa bị bắt giữ ngày 21.12.2011 về hành vi mua bán, tàng trữ trái phép chất ma túy. Họ vào tù, bỏ lại sau lưng 3 đứa con thơ, cháu nhỏ nhất 9 tuổi. Còn Lê Thị Huyền, 33 tuổi, ở Ia Grăng, Ia Grai, sau khi chồng đi cai nghiện được 10 ngày thì Huyền bị bắt về hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy. Hai đứa con thơ, đứa lớn học lớp 7 gửi cho bà ngoại tuổi đã xế chiều, đứa nhỏ 5 tuổi gửi cho bà nội ở Thái Nguyên. Vào trại, họ sống trong chuỗi ngày dằn vặt. Nước mắt không làm nguôi ngoai nỗi lo lắng cho gia đình và nhớ thương con. Nhiều lúc họ tỏ ra bất hợp tác, ương ngạnh, bất cần, có người tuyệt thực, bi quan đến mức đòi tự tử... Những lúc như vậy, đại úy Hạnh đã thường xuyên có mặt sẻ chia, động viên, giáo dục mở ra cho họ cơ hội, thắp lên niềm tin tốt đẹp về cuộc sống ngày mai.

Chúng ta hãy cùng nhau đọc lại một đoạn trong bức thư của một can phạm gửi cho Đại úy Hạnh: Tiếng giày bước thật nhanh thanh thoát, chúng tôi biết rằng cán bộ Hạnh của mình đến rồi. Cán bộ Hạnh nhanh nhẹn mở từng buồng giam cho chúng tôi, tiếng thăm hỏi thật ân cần: Chị khỏe không? Chị ăn cơm được không? Đã hết đau đầu chưa? Thôi, cố gắng lên, rồi sẽ qua hết... Cán bộ Hạnh gần như là một người cô, người mẹ, người chị tận tâm hết lòng... Mỗi ngày chúng tôi được sống trong sự quản lý, dạy bảo của cán bộ đã khiến chúng tôi nhận rõ thêm chung quanh mình còn rất nhiều người có tấm lòng sẵn sàng tha thứ và giúp đỡ chúng tôi vượt qua đoạn đường khó khăn của cuộc đời mình, gạn bỏ đi mặc cảm của thân phận tù tội. Sắc phục mọi ngày của Công an đối với chúng tôi- những người lầm lỡ thật khó dung hòa, vậy mà qua cán bộ quản giáo của mình, chúng tôi đã thấy thật gần gũi...”.

Nghiêm khắc nhưng khoan dung, lấy tình yêu thương để cảm hóa là ý thức thường trực ở người nữ quản giáo này. Vì vậy mà bao năm qua, nhiều can phạm nhân đã vươn lên “lột xác” thành người.

Chỉ còn khoảng vài năm nữa là chị về hưu. Cuộc sống gia đình còn nhiều khó khăn nhưng ngày mỗi ngày trong chị đang giàu lên những tình người. Chị có cô con gái lớn đã nối nghiệp mẹ. Cậu rể quý cũng là cán bộ quản giáo. Các con chị sẽ làm tiếp những công việc mà chị tâm niệm; sẽ viết tiếp những bài ca đậm tính nhân đạo, nhân văn sâu sắc nơi khoảng trời trại giam.

Ở Trại giam T20, Công an tỉnh Gia Lai có một nữ quản giáo tận tâm, trách nhiệm, đầy tình người và lặng thầm như thế.

ĐINH YẾN. Người có tấm lòng nhân hậu / Đinh Yến // Sách Giữa rừng hoa đẹp T.2. - Gia Lai : Hội Nhà báo, 2005. - Tr.51-57

Sinh ra trong một gia đình người Kinh ở xã Tân Sơn (TP. Pleiku), nhưng người Plei Vét (Tân Sơn) quý chị như con của làng. Hễ làng có việc gì đều gọi chị. Dân làng mến chị, thường gọi chị là chị Ba (tên thật của chị là Thái Thị Cần).

Người Jrai có hủ tục nếu sản phụ chết thì đứa trẻ phải chôn theo mẹ. Với tấm lòng nhân hậu, chị đã cứu được hai đứa trẻ tưởng như nằm trong tay tử thần.

Hôm đó - ngày 24-7-1991, như mọi sáng thức dậy, chị cùng các em chuẩn bị ra đồng thì có một người ở Plei Ten tất tưởi chạy đến tìm chị. Người phụ nữ này có họ hàng với một đôi vợ chồng ở Plei Vét, xã Chư Jô (Chư Pah) do thời gian lâu rồi chị không sống ở Tân Sơn nữa nên chị quên mất tên). Người ấy kể chuyện một người trở dạ sinh con, do thai nhi lại bị ngược, người mẹ gắng gượng đến hơi thở cuối cùng thì đứa trẻ cũng chào đời vào lúc 4 giờ sáng ngày hôm ấy. Đứa trẻ chưa kịp ngậm bầu vú thì người mẹ ấy đã về với A Tâu. Mẹ nó bị Yàng phạt bắt đi, con nó cũng trở thành con ma. Bóp nó chết để chôn cùng mẹ còn hơn để Yàng phạt liên lụy tới làng - dân làng nói với nhau như vậy.

Chị Cần và người phụ nữ ấy chạy thẳng về Plei Vét, lúc đó khoảng 8 giờ sáng. Tới nhà, thấy người mẹ nằm trên chiếc chiếu đắp tấm đồ, còn một chị đang ôm đứa bé ngồi cạnh mẹ, họ hàng đứng xung quanh rất đông. Nhìn cảnh tượng đó, chị không cầm được lòng, xen vào đám đông nói: - Xin dân làng đừng giết nó, nó không có tội, cho mình xin đứa trẻ được không? Con trâu, con bò sa xuống sình lầy con người còn cứu nó, nó đau còn tiêm thuốc, chăm sóc, huống chi con người. Nó đâu phải là người gây nên tội làm mẹ nó chết...

Chị nói mãi, hết năn nỉ, rồi lại gắt, cho tới trưa thì dân làng tin, đồng ý cho chị nuôi cháu. Cứu được đứa trẻ thoát khỏi tử thần, trong lòng chị vui mừng nhưng cũng rất lo: Mình chưa xây dựng gia đình, chưa nuôi con nhỏ, chắc chắn ba, mẹ không chấp nhận. Gửi cháu cho một người quen - chị về nhà thưa với ba, mẹ việc làm của mình. Cả nhà phản đối ý nghĩ điên rồ của chị, nhất là má. Má khuyên chị đem đứa trẻ đến gửi cô nhi để còn xây dựng gia đình. Hai ngày hôm sau chị đi tìm cô nhi để nhờ nuôi giúp, nhưng lúc bấy giờ Gia Lai, Kon Tum chưa có cô nhi viện, cho người khác không ai nhận. Chị nghĩ âu đấy cũng là số phận của mình và kiếp của cháu. Chị tự hứa quyết nuôi cháu nên người. Má chị kiên quyết: Con muốn làm như vậy thì đi khỏi gia đình.

Chị đành ôm đứa trẻ ra đi với hai bàn tay trắng, chưa biết đi về đâu. May ở Plei Ten, có một ngôi nhà bằng ván để không. Chị mượn ở tá túc nuôi cháu. Những ngày đầu không có gạo ăn, dân làng biết chuyện thương cảm giúp chị lon gạo, bó rau, mớ củi. Cuộc sống của chị và đứa trẻ cũng được qua ngày. Chị đặt tên cháu là Ksor Phước. Ksor là họ của cháu, Phước là cháu gặp được phước lớn, khi số phận cháu tưởng như nằm trong tay tử thần.

Tấm lòng của chị có lẽ trời cũng thương, nên cu Phước cứ ăn no xong là ngủ cả ngày. Cháu được một tháng cứng cáp đầy đặn, chị ra tiệm mua hai nghìn len vụn về đan dây cột tóc, bao tay trẻ em bán được 20.000 đồng. Từ 20.000 đồng chị mua len đan áo, mũ, khăn... Bên ánh đèn leo lét, chị đan suốt ngày, đêm để bán lấy tiền mua sữa, gạo nuôi con.

Tưởng chuyện chị cứu bé Phước chỉ là một nhưng không phải vậy. Khi bé Phước được 6 tháng tuổi, hôm ấy vào khoảng 8 giờ tối, mẹ con chị chuẩn bị đi ngủ thì nghe tiếng gọi: “Chị Ba giúp mình chuyện này với”. Chị mở cửa, thấy một người phụ nữ ôm bọc gì quấn trong tấm khăn kín mít. Chị ta để bọc xuống đất, rồi mở tấm khăn ra - một đứa bé đỏ hỏn! Chị sửng sốt hỏi người phụ nữ lạ mặt, chị ta trả lời gọn lỏn: “- Mẹ nó đẻ non, chết rồi. Tao biết mày nuôi được nên đem đến cho mày”.

Chị nghĩ thằng Phước còn nhỏ, sợ không nuôi nổi. Nhưng thôi cứ cứu cháu đã. Chị lấy củi đốt, sưởi ấm cho bé. Bé ấm lên nhưng mãi chẳng thấy khóc. Chị lo quá, đành ngồi suốt đêm bế cháu. Đến sáng thấy cháu ọ ẹ, chị cho cháu uống sữa. Cháu đẻ non nên sức khỏe yếu, uống sữa rất ít, lại bị sốt. Chị đưa cháu đi viện gặp trực tiếp bác sĩ Măng Đung - lúc bấy giờ đang là Trưởng Khoa sản Bệnh viện Đa khoa tỉnh, kể về hoàn cảnh và xin gửi nhờ bởi chị không thể chăm sóc một lúc hai cháu.

Nuôi Phước, chị bận không có điều kiện vào viện thăm cháu thường xuyên. Thế rồi, một tháng sau, gia đình đến xin lại cháu về nuôi. Chị ra bệnh viện thì hay cháu mới mất cách đó 4 hôm. Họ hàng, gia đình yêu cầu đòi xác cháu đem về chôn cùng mẹ. Chị gọi điện nhờ bác sĩ Măng Đung giúp đỡ (hôm đó vào mồng 2 Tết - năm 1992). Được biết hôm cháu mất còn có một đứa trẻ khác nữa. Bệnh viện mai táng cho hai cháu và chôn cùng một chỗ. Không còn cách nào khác là cùng phải cạy cả hai nắp quan tài lên để nhận xác.

Mang xác cháu về, chị giao lại cho gia đình. Khi liệm xong, gia đình định đem chôn cháu chung cùng mẹ nhưng chị không đồng ý. Cuối cùng dòng họ, dân làng phải chịu chôn cạnh quan tài mẹ.

Thằng Phước kiếp nó thật khổ - chị kể tiếp. Khi mình đem nó về nuôi trong con mắt dân làng vẫn cho nó là con ma. Rồi chưa đầy một tuổi, thì lại bị liệt hai chân. Mình đã đưa Phước đi suốt hai năm để chữa trị. Một năm ở Trung tâm chỉnh hình và phục hồi chức năng ở Quy Nhơn, thấy tay cháu có tiến triển tốt, nhưng chân vẫn thế. Mình phải tiếp tục đưa cháu về TP. Hồ Chí Minh. Lúc đầu chân cháu - một ngắn, một dài, sau chữa thấy hai chân gần bằng nhau, cháu Phước có thể đi lại được. Do điều kiện không thể tiếp tục chữa trị nữa, nên mình đem Phước về.

Năm học mới này, Phước lên lớp 8 học ở trường THCS xã Ia Nhin. Ngày cháu học cấp I, năm học nào cũng đạt học sinh giỏi. Lên lớp 5, một hôm đang trên đường đi học về nhà, bị tông xe, Phước ngã đập đầu xuống đường, bây giờ trí nhớ của Phước kém đi nhiều. Đang nói chuyện thì một bé gái chạy về nhà, chị Cần bảo: Rơ Châm Thảo Lan đấy! Ngày Lan được 3 tháng, mẹ Lan bị hậu sản chết, bố Lan nghe dân làng nói phải bóp nó chết chôn chung theo mẹ hoặc bỏ vào rừng làm mồi cho thú rừng. Nhưng dì của Lan thương đã bế cháu trốn đi. Từ làng H’ reng (gần Kon Tum), hai dì cháu đi bộ về Pleiku tìm người nhờ nuôi giúp. Được mọi người mách, hai dì cháu tìm tới nhà chị. Đứa bé tím tái, tưởng sắp phải rời xa trần thế. Trong nhà còn ít tiền, chị đem hết đi mua sữa về để cứu cháu. Từ đó Lan trở thành con gái của chị. Lan năm học mới này vào lớp 6. Lan học trung bình khá thôi, nhưng có giọng kể chuyện truyền cảm, cháu đã đạt giải nhất Hội thi kể chuyện năm học lớp 1 cụm huyện đấy.

Không chỉ bị gia đình xa lánh, người thân ruồng bỏ, ngay như cả chính quyền xã Chư Jô, Tân Sơn đều không tin. Có lẽ việc làm của chị lạ lắm nên không ai dám tin. Chị Cần sinh năm 1954, quê gốc ở Nghĩa Bình. Gia đình chị lên Gia Lai sinh sống từ năm 1954, chị ở vậy để nuôi các cháu. Và, có lẽ vì vậy chị đã dồn hết tình thương vào những đứa trẻ bị chối bỏ. Chị cho chúng tôi xem cuốn anbum đã cũ mèm toàn hình của bé Phước, cháu Lan từ ngày vừa sinh ra đến lúc chập chững bước đi cho tới bây giờ. Chị tâm sự: “Mình muốn các cháu biết lai lịch và tuổi thơ của chúng. Giờ sức khỏe của mình đã thấy yếu rồi, mắt mờ đi. Không biết còn đủ sức để nuôi các cháu đến ngày trưởng thành được không. Ước mơ của mình là muốn chữa cho thằng Phước cái chân để nó đi lại dễ dàng hơn. Mình thì lực bất tòng tâm, biết làm sao được bây giờ.

Năm 1999, chị quen một người bạn bán hàng rong tên là H’Dương, xã Ia Nhin. Nhờ chị H’Dương, mẹ con chị đã rời khỏi Plei Ten về đây sinh sống. H’Dương cho mượn cái bếp nhỏ, đủ kê cái giường trên nóc chỉ che bạt. Có những đêm trời mưa, ba mẹ con nằm trong nhà mà như ở giữa trời. Chị H’Dương thương mẹ con chị đã nhượng lại miếng đất của mình, đi nơi khác sinh sống. Rồi các em trong nhà hiểu ra việc làm của chị, xúm vào giúp chị xây căn nhà cấp 4 để ba mẹ con chị có chỗ chui ra, chui vào.

Thế bố mẹ, họ hàng cháu Phước, Lan có hay đến thăm các cháu không? - Tôi hỏi. Chị kể: Bố Phước bỏ đi từ ngày mẹ cháu mất, còn ông ngoại cháu đến thăm đâu được 2 lần. Cháu Lan thì may mắn hơn, biết được bố, các chị em trong nhà, nhưng gia đình các cháu khó khăn, nên chẳng giúp gì được cho cuộc sống của các cháu, vẫn một mình chị chống chọi với cuộc sống để nuôi hai cháu ăn học nên người, nguồn sống của chị là mua len về rồi dệt, sau đó may túi, áo thổ cẩm. Ai đi ngang biết chị vào mua giúp thì hôm đó mẹ con chị còn chút thực phẩm, còn không thì tháng đó chỉ đủ gạo nấu cháo thôi. Những năm học trước, cháu Phước được miễn học phí, Lan giảm một nửa học phí. Nhưng hiện giờ chị rất lo, vì mẹ con chị còn nợ tiền công ích của xã. Chẳng là chị phải đóng tiền công ích 190.000 đồng, do quá khó khăn mới chỉ đóng được 50.000 đồng, hiện chị còn nợ xã 140.000 đồng. Nếu vào đầu năm học mới, mẹ con chị không nộp đủ thì không biết Phước có được xã xác nhận cho miễn học phí và Lan giảm học phí không. Bởi theo quy định của xã, nếu ai không đóng góp đầy đủ tiền công ích đã quy định thì lên xã không được đóng dấu (!).

Trong cuộc sống bộn bề bây giờ, có ai ngờ vẫn có một tấm lòng như bước ra từ cổ tích…

PHAN MẠNH PHÀN. “Người con của làng mình đấy” / Phan Mạnh Phàn // Sách Giữa rừng hoa đẹp T.1. - Gia Lai: Hội Nhà văn, 2005. - Tr. 111-113

            Nhìn nụ cười nở trên gương mặt người phụ nữ ngoài ngũ tuần với dáng vẻ tất bật của chị, tôi thấy thấm thía điều chị nói đầy tự tin trong buổi gặp gỡ tại Văn phòng UBMT Tổ quốc Việt Nam huyện Ia Grai mà chị là Chủ tịch: “Làm cán bộ của dân phải sát dân, biết lo cho dân, ăn ở với dân, giúp dân vươn lên xóa đói giảm nghèo...”. Đó cũng là cái lo của huyện mà đã bao nhiêu năm nay rất nhiều chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước chăm lo đầu tư cho dân, đặc biệt là đồng bào vùng sâu, vùng xa, biên giới.

Chị Võ Thị Thúy Cải sinh ra và lớn lên trong một gia đình bần nông ở tỉnh Quảng Ngãi. Từ nhỏ đến năm 12 tuổi, chị đã chứng kiến biết bao chuyện đời ngang trái dưới thời giặc Mỹ chiếm đóng. Căm thù giặc, chị tạm biệt quê hương, gia đình ra đi hoạt động cách mạng, được đội công tác địch vận nhận vào làm cấp dưỡng cho đơn vị và sau đó chuyển lên hoạt động ở Tây Nguyên, về huyện 4 - một huyện trọng điểm nằm cách thị xã Pleiku không xa. Hồi bấy giờ ngoài 2 điểm Nghĩa Hòa và Đức Cơ ra có dân miền Bắc vào Nam năm 1954, còn lại là đồng bào dân tộc Jrai. Điều kiện hoạt động công tác của một cô gái người Kinh như chị thật là một điều quá sức tưởng tượng. Vậy mà chị Cải không nản lòng, chị hòa nhập ngay với nhân dân địa phương. Chị cùng ăn ở với bà con, cùng làm nương phát rẫy, tổ chức xây dựng các cơ sở Hội Phụ nữ xã, cùng học tiếng đồng bào địa phương. Những ngày rỗi chị dạy tiếng phổ thông, tập hát, tập múa cho thanh - thiếu niên, tuyên truyền các chủ trương chính sách của Đảng đến với nhân dân. Vận động nhân dân đóng góp tiền của để nuôi cán bộ, bộ đội cùng nhân dân bám làng sản xuất, chiến đấu. Chị họp dân hướng dẫn bà con làm cây lúa nước như miền xuôi, tuyên truyền vận động nhân dân định cư, lập vườn, trồng cây ăn quả, cải tạo vườn ruộng. Chị phổ biến những kinh nghiệm chữa bệnh bằng thuốc Nam, cách phòng chống các loại bệnh tật. Chị kể nhiều câu chuyện về Bok Hồ, về gương chiến đấu hy sinh của bộ đội cách mạng. Chị đi đến làng nào cũng được nhân dân quý mến, giúp đỡ che chở nuôi giấu, coi chị như người nhà. Ban đêm dân giã gạo rồi theo chị gùi gạo lên căn cứ cho bộ đội. Còn nhớ một lần vào giữa năm 1968, chị Cải trong bộ quần áo dân tộc mang gùi giả vờ đi tìm đàn bò lạc để qua được bt gác của giặc. Sau khi nắm chắc tình hình địch và vị trí đóng quân của chúng, đêm hôm sau chị dẫn Tiểu đoàn Quân Giải phóng đánh vào đồn Ia Châm và đồn Chư Nghé. Trận đánh bất ngờ làm cho binh lính giặc không kịp trở tay bị ta tiêu diệt và bắt sống, thu nhiều vũ khí, khí tài. Năm 1972, trong một trận đánh địch ở Ia Châm, chị vận động dân công đưa 20 ca thương binh từ mặt trận về căn cứ an toàn. Tiếp theo là những trận đánh ở các đồn Nghĩa Hòa, đồn Mơ Nông, Đức Cơ. Ban ngày chị là cô gái Jrai mang gùi lên nương lấy rau, lấy bầu bí, ban đêm chị cùng đồng đội vào ấp tuyên truyền gây cơ sở cách mạng, làm giao liên dẫn đường cho bộ đội tiến công đồn bốt giặc...

Hơn 34 năm công tác chị đã được Nhà nước tặng thưởng nhiều Huân - Huy chương và các phần thưởng khác. Chị là đại biểu HĐND trong suốt nhiều nhiệm kỳ từ sau ngày đất nước được giải phóng đến nay. Là Chủ tịch UBMT Tổ quốc Việt Nam huyện nên hàng ngày chị xuống các thôn làng để tuyên truyền vận động nhân dân khai hoang xây dựng đồng ruộng, đưa các tiến bộ khoa học vào sản xuất, trồng các loại cây có giá trị kinh tế cao, cải tạo vườn tạp; xây dựng làng văn hóa, gia đình văn hóa, khu dân cư văn hóa. Cùng với các Ban Mặt trận xã, tổ hòa giải thôn làng, hòa giải và dàn xếp nhiều vụ việc tranh chấp đất đai giữa các nông trường với dân làm cho dân thêm tin tưởng. Nơi nào có những vấn đề bức xúc là nơi đó có chị.

Gần 40 năm công tác xa quê, chị vừa được Nhà nước cho nghỉ hưu, nhưng với lòng nhiệt tình và say mê công việc, chị lại về với Công ty Cao su 74 - huyện Đức Cơ làm công tác dân vận. Hàng ngày biết bao nhiêu công việc, bao vấn đề bức xúc giữa công nhân với đồng bào địa phương đang cần chị tuyên truyền vận động. Chị lại có mặt; và dù ở đó có vấn đề nóng bỏng bức xúc đến đâu, khi chị tới là bà con nhận rõ vấn đề và đồng loạt nghe theo lời chị giải thích. “Mế Cải nói thế là mình thích lắm rồi. Nghe theo mế Cải bà con lại về làm cái nương cái ruộng và không còn gì để thắc mắc cán bộ nữa”. Đồng bào dân tộc thiểu số ở huyện Ia Grai đều quí chị và coi chị như là một thành viên của làng. Họ gọi chị bằng cái tên trìu mến “Người con gái của làng mình đấy!”.

HỮU CƯỜNG. Người đưa đò nơi công trình thủy điện YaLy / Hữu Cường // Báo Giáo dục & Thời đại. - 2013. - Số 300. - Ngày 16/12. - Tr. 24

20 năm trước, khi công trình thủy điện Yaly mới được khởi công xây dựng, một cô giáo miền Bắc đã tình nguyện đem cái chữ đến với đồng bào và con em công nhân trên công trường này. 20 năm - khoảng thời gian không quá dài nhưng cũng đủ để những lứa học sinh trưởng thành, luôn nhớ về trường cũ, nơi có một cô giáo tận tụy, âm thầm gieo chữ.

GIAN NAN NHỮNG NGÀY ĐẦU

Bây giờ, Trường THPT Yaly là một trong những trường có chất lượng hàng đầu của tỉnh Gia Lai, dù tuổi đời chưa quá 20. Nhưng để có được những thành công đó là sự cố gắng và đóng góp không nhỏ của tập thể giáo viên và học sinh nhà trường. Trong đó phải kể đến sự đóng góp bền bỉ của Nhà giáo ưu tú Trịnh Thị Trang, Hiệu trưởng nhà trường.

Chia sẻ về những ngày đầu mới thành lập trường, cô Trang kể rằng, hồi ấy, khi thủy điện Yaly mới đặt những viên gạch đầu tiên, con em cán bộ công nhân viên vào xây dựng nhà máy, và cả con em đồng bào các dân tộc thiểu số đói chữ lắm. Theo tiếng gọi của công trường, cô quyết định mang cái chữ đến với những đứa trẻ ấy dù lúc đó cô đang là một giáo viên giỏi cấp tỉnh, có cuộc sống ổn định tại tỉnh Nam Định.

Chỉ sau 3 tháng làm giáo viên, cô Trang đã được bổ nhiệm làm hiệu trưởng trường cấp 1-2 Yaly với những thành tích đặc biệt nổi bật trong khi chưa kinh qua chức “phó”. Thời điểm công trình mới khai sinh, Yaly mới chỉ có 1 trường duy nhất ghép cả tiểu học và trung học cơ sở, vật chất nghèo nàn, trường học là dãy nhà cấp 4 tạm bợ, dột nát, không đủ bàn ghế, không có tường rào, không có điện. Cùng với sự gia tăng dân số của công trường xây dựng thủy điện, học sinh tăng rất nhanh, năm sau nhiều hơn năm trước tới 15 lớp.

            Thấy điều kiện trường lớp thiếu phòng học, thiếu giáo viên, học sinh học trong điều kiện khó khăn, cô Trang đã liên hệ với Tổng công ty Sông Đà hỗ trợ mở rộng diện tích trường cũ, chọn đất và đầu tư kinh phí xây dựng trường mới (trường THCS Yaly), xây dựng nhà ở cho giáo viên. Cô làm đề án thành lập trường THCS Yaly, THPT Yaly... Những việc làm của cô ít nhiều đã khiến Yaly thay da đổi thịt, trong đó đáng kể nhất là ở lĩnh vực giáo dục. Ba ngôi trường mới khang trang, hiện đại bây giờ là trường Tiểu học, THCS và THPT Yaly đã làm sáng bừng gương mặt của thị trấn Yaly - Chư Păh - Gia Lai. Và bây giờ, trường THPT Yaly là một trong những đơn vị có tiếng trong tỉnh về số lượng học sinh giỏi các cấp.

TẤM LÒNG NGƯỜI GIÁO VIÊN NHÂN DÂN

Cô Trang hồi tưởng lại quãng thời gian vất vả khi vận động học sinh đồng bào nơi đây đi học. Ngày ấy cái chữ mới về đến đây, việc vỡ vạc được từng nét chữ cho các em đã khó, những giáo viên như cô Trang ngày đó còn phải đối diện với bao hủ tục lạc hậu. Số học sinh dân tộc của trường Yaly ngày càng tăng. Lo cho chất lượng cùng với duy trì sĩ số là vấn đề sống còn của nhà trường. Do đặc trưng của công trường xây dựng thủy điện, đội ngũ giáo viên lại luôn luôn biến động, số giáo viên chuyển đi nhiều hơn số giáo viên ở lại..., cô Trang đã cùng BGH tìm nhiều giải pháp để vận động học sinh tại trường nhằm duy trì sĩ số, góp phần giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội trên địa bàn, từng bước nâng cao chất lượng dạy học ở mức cao nhất có thể so với điều kiện thực tế của nhà trường.

Chính cô đã vận động giáo viên, PHHS đóng góp hỗ trợ các em học sinh nghèo, nhất là học sinh dân tộc. Các em này đến trường không phải đóng góp gì, còn nhận thêm tiền hỗ trợ hàng tháng của nhà trường từ nguồn vận động trên. Tiêu biểu là trường hợp Rơ Chăm MRuých (dân tộc Jrai, Làng Mun, xã Ialy, huyện Chư Păh, tỉnh Gia Lai) đã nhiều lần muốn bỏ học để đi làm lấy tiền nuôi mẹ vì hoàn cảnh gia đình bất hạnh khi cha mất sớm, mẹ ốm đau luôn, MRuých là lao động chính trong gia đình. Được sự động viên, giúp đỡ của cô MRuých đã không những không bỏ học mà còn học xong đại học, và hiện nay là cán bộ của Ban Dân vận Huyện ủy Chư Păh, tỉnh Gia Lai.

Đặc biệt, vấn đề quan trọng là đội ngũ giáo viên khi ấy. Cô hiệu trưởng đích thân đi đến các trường Đại học Sư phạm và Sở GD&ĐT để tìm nguồn giáo viên cho nhà trường. Kết quả, nhiều giáo viên tốt nghiệp Đại học Sư phạm Hà Nội, Đại học Sư phạm Thái Nguyên đã đến Yaly công tác. Năm 1996, cô đã vận động được 23 giáo viên từ Hòa Bình vào công tác tại Yaly. Lúc ấy, việc di chuyển một lúc 23 hộ gia đình giáo viên từ miền núi phía Bắc vào Tây Nguyên đâu phải chuyện dễ dàng! Để họ yên tâm công tác và lập nghiệp, cô đã thuyết phục nhờ Tổng công ty Sông Đà xây nhà ở, hỗ trợ thêm tiền lương, tiền phép cho giáo viên, liên hệ với chính quyền địa phương giúp đỡ, đưa số giáo viên này vào biên chế chính thức của ngành GD. Để nâng cao chất lượng giáo viên và học sinh của trường, cô Trang đã liên hệ các chuyên gia đầu ngành của giáo dục Gia Lai như thầy Trịnh Đào Chiến (hiện đang là Hiệu trưởng trường Cao đẳng Sư phạm Gia Lai), hay cô Nhan Thị Hằng Nga (nay là Phó Giám đốc sở GD&ĐT Gia Lai) về giảng dạy các chuyên đề để giáo viên và học sinh cùng học hỏi. Với cách làm tâm huyết ấy, ngay từ những ngày đầu mới thành lập, trường THPT Yaly đã có học sinh giỏi đạt giải Quốc gia. Nhiều người trong số những giáo viên đó nay đã là những gương mặt chủ chốt trong ngành giáo dục khắp các địa phương.

Hơn 20 năm đã trôi qua, không biết bao lớp học sinh của trường đã trưởng thành, đi xa, nhưng tên tuổi của những học sinh ấy vẫn được lưu trong sổ vàng truyền thống của nhà trường. Mái trường này vẫn giữ những kỷ niệm tuổi thơ ngày ấy để mỗi khi nghĩ về trường, những cựu học sinh lại như thấy lại tuổi học trò của mình, lại nhớ đến cô hiệu trưởng xứng danh là người giáo viên nhân dân một thuở cho đến giờ.

 

THU HUẾ. Người nữ cán bộ mặt trận hết lòng vì dân / Thu Huế // Sách Người tốt việc tốt làm theo gương Bác T.3. - Gia Lai: Ban tuyên giáo Tỉnh ủy, 2013. - Tr. 159-163

            “Năng động, nhiệt tình, luôn nêu cao tinh thần trách nhiệm, sống chan hòa, gần gũi, đoàn kết với đồng nghiệp; đảm đang, chu toàn việc nhà, đặc biệt gương mẫu trong việc học tập và làm theo gương Bác...” là những lời chúng tôi nhận được khi gặp gỡ, trao đổi với cán bộ, đảng viên ủy ban Mặt trận thị xã An Khê cũng như bà con tổ 6, phường An Phú (thị xã An Khê) dành cho chị. Chuyện trò cùng chị, chúng tôi lại càng quý trọng hơn người phụ nữ hồn hậu, có đôi mắt biết cười và rất biết quan tâm đến người khác này. Chị là Nguyễn Thị Hồng Minh - Chủ tịch Ủy ban MTTQ thị xã An Khê.

            GẮN ĐỜI MÌNH VỚI MẢNH ĐẤT AN KHÊ

            Rủ rỉ cùng chúng tôi chuyện cuộc đời mình, chị Minh vẫn luôn giữ một vẻ mặt ôn hòa với nụ cười thân thiện. Vẻ mặt ấy trở nên tươi tắn hơn khi nhắc đến chuyện 4 đứa con nay đã trưởng thành, đứa nào cũng học đại học, 2 đứa lớn đã có bằng thạc sĩ, đều đã có việc làm ổn định tại TP. Hồ Chí Minh và Quy Nhơn (Bình Định); con út đang là sinh viên Trường Đại học Giao thông Vận tải TP. Hồ Chí Minh. “Nhìn các con trưởng thành, tôi lại thấy những ngày vất vả, buồn thương của 10 năm trước rồi cũng đang dần qua đi - giọng chị thoắt rưng rưng - Hồi đó, khi anh ấy đột ngột qua đời, nhìn đàn con thơ dại, nhiều khi tôi tưởng mình không thể gồng mình vượt qua những khoảng trống đáng sợ, bởi, dù có mạnh mẽ đến mấy, mình cũng vẫn là phận nữ nhi”.

            Bất ngờ nghe chị nhắc đến chuyện chồng con, chuyện quê hương, bản quán, tôi có cảm giác như người phụ nữ mà mình vừa mới kịp làm quen đây đã trở nên rất đỗi thân thiết trong một niềm cảm mến đến bất ngờ. Chị quê ở Phú Thọ, cùng gia đình vào định cư ở An Khê từ những năm 76, 77 (thế kỷ trước). Đất bén duyên người, sau 4 năm học đại học Lâm nghiệp Tây Nguyên, thêm 5 năm công tác tại Trường Trung học Lâm nghiệp Tây Nguyên; từ năm 1988 đến nay, chị gắn bó với mảnh đất An Khê, từng là Giám đốc Trung tâm Giáo dục thường xuyên huyện, Phó Chủ tịch HĐND rồi Phó Chủ tịch UBND thị xã; từ năm 2010 đến nay là Chủ tịch Ủy ban MTTQ Việt Nam thị xã An Khê. Là người đầu tàu trong công tác tập hợp đại đoàn kết dân tộc, chăm lo cho cuộc sống của nhân dân trên địa bàn, chị luôn gần dân, sát dân, biết lắng nghe tâm tư nguyện vọng của nhân dân để có ý kiến đề xuất với các cấp ủy Đảng, chính quyền địa phương những giải pháp thực hiện phù hợp với lòng dân. Chị luôn trăn trở tìm ra những giải pháp tích cực nhất nhằm giúp đỡ cho người nghèo và những gia đình gặp khó khăn trong cuộc sống, đổi mới nội dung và phương thức vận động để khơi dậy lòng nhân ái, tình yêu thương con người trong các tổ chức, cá nhân, doanh nghiệp trong và ngoài địa bàn chăm lo công tác an sinh xã hội góp phần vào công tác xóa đói giảm nghèo ở địa phương. Từ những nỗ lực của chị, cùng với sự phấn đấu của cán bộ, đảng viên trong Ủy ban, những năm qua, Ủy ban MTTQ thị xã An Khê luôn là lá cờ đầu trong công tác mặt trận, được Trung ương MTTQ Việt Nam tặng bằng khen năm 2010-2011; hoạt động của UBMTTQ Việt Nam thị xã đã đạt được những kết quả đáng mừng, như: tổ chức tốt hội nghị tổng kết 15 năm cuộc vận động “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa ở khu dân cư” và 10 năm cuộc vận động “Ngày vì người nghèo”, được dự hội nghị điển hình toàn quốc (năm 2010), tổ chức thành công Hội thao Đại đoàn kết cấp thị xã lần thứ nhất và thứ hai thăm 2010 và 2012); tham gia Hội thao Đại đoàn kết cấp tỉnh lần thứ ba, kết quả đạt giải nhì toàn đoàn (năm 2010).

            HẾT LÒNG CHĂM LO CHO CUỘC SỐNG CỦA NGƯỜI DÂN

            Sau chuyện gia đình và chuyện công việc, chị cười: Để có được kết quả trong công việc, bản thân tôi luôn phấn đấu, rèn luyện, học tập và làm theo gương Bác, coi đó là việc làm thường xuyên, hàng ngày. Trong công việc, luôn gương mẫu thực hiện tốt vai trò của người đứng đầu cơ quan, phấn đấu hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ. Tuy nhiên mọi việc tôi làm, nếu không có sự giúp đỡ của các đồng chí lãnh đạo địa phương, anh em đồng nghiệp, bà con tổ dân phố và nhiều bạn bè, thì chắc chắn kết quả không đạt như mong muốn.

            Trong việc chăm lo cho các hộ nghèo, công tác xóa đói giảm nghèo, an sinh xã hội, Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam thị xã An Khê luôn nỗ lực cố gắng để tìm ra những giải pháp hiệu quả nhất. Tuy nhiên, chỉ có Mặt trận triển khai thôi thì không đủ. Nhờ có sự góp sức cộng đồng trách nhiệm của các ban ngành, đoàn thể và lòng hảo tâm của các cá nhân và doanh nghiệp đứng chân trên địa bàn thị xã đã góp phần làm tốt công tác an sinh xã hội, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân, giảm tỷ lệ hộ nghèo trên địa bàn thị xã xuống còn 2,95%.

            Từ năm 2010 đến nay, Ủy ban Mặt trận Tổ quốc thị xã An Khê đã phối hợp tổ chức nhiều chương trình giúp đỡ người nghèo, gia đình chính sách như “Uống nước nhớ nguồn”, “Tấm lòng nhân ái”, “Tết cho người nghèo”. Qua các phong trào đã vận động cán bộ, công chức và nhân dân trên địa bàn, các doanh nghiệp đóng góp, hỗ trợ cây trồng, giống, vật nuôi, vốn sản xuất, xây dựng nhà Đại đoàn kết... cho các hộ nghèo, gia đình chính sách có hoàn cảnh khó khăn. Ngoài ra, các doanh nghiệp trên địa bàn còn hỗ trợ trực tiếp cho con em các hộ nghèo học bổng và xe đạp giúp các em có điều kiện học tập.

            Năm 2010, với việc phát động gây quỹ “Vì người nghèo”, đã được đông đảo các tầng lớp nhân dân hưởng ứng. Qua việc đổi mới hình thức vận động gây quỹ, số tiền quỹ đã tăng hàng năm, từ 200 triệu đồng đầu năm 2010, đến 2012 đã lên tới trên 1,1 tỷ đồng. Với phong trào gây quỹ “Vì người nghèo” đã giúp cho các hộ gia đình nghèo, gia đình chính sách khó khăn có điều kiện phát triển kinh tế, chăn nuôi, vươn lên thoát nghèo, ổn định cuộc sống. Những kết quả đạt được đó, có sự đóng góp không nhỏ của chị Chủ tịch Ủy ban Mặt trận Tổ quốc thị xã.

            Trao đổi với chúng tôi, ông Nguyễn Văn Thắng - Phó Bí thư Thị ủy, Chủ tịch UBND thị xã An Khê đã dành cho chị Minh những lời chân thành và đầy trách nhiệm: Đồng chí Nguyễn Thị Hồng Minh là một cán bộ mẫu mực, có tinh thần trách nhiệm cao, hết lòng vì công việc. Với vai trò là Chủ tịch Mặt trận thị xã, đồng chí Minh đã luôn tìm ra những hình thức phù hợp, những hoạt động hữu ích nhằm tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân, góp phần chăm lo cuộc sống cho nhân dân; thực hiện tốt quy chế dân chủ; đặc biệt trong công tác tiếp xúc cử tri, đối thoại hàng tuần với công dân đã luôn lắng nghe ý kiến, tâm tư, nguyện vọng chính đáng của dân và có những đề xuất hướng giải quyết kịp thời, hiệu quả; đồng thời đã phối hợp tốt với lãnh đạo Hội đồng nhân dân, UBND, các ban ngành, đoàn thể thị xã hoàn thành thắng lợi Nghị quyết Đảng bộ thị xã đề ra.

HẢI BĂNG. Người phụ nữ Bahnar kiên cường / Hải Băng, Minh Kiều // Báo công an Thành phố Hồ Chí Minh. - 2011. - Số 458. - Ngày 8/4. - Tr.13

N

goài 70 tuổi, người đảng viên ưu tú đó vẫn miệt mài làm việc trên nương rẫy để nuôi các con dù chúng không phải do mình sinh ra. Ở bà ngời lên đức hy sinh cao cả của một người bà, người mẹ, người chiến sĩ cộng sản kiên cường. Bà là Đinh Thi Gơi, SN 1940, ở  làng Brọch, xã An Trung, huyện Kông Chro, tỉnh Gia Lai.

MỘT THỜI HOA LỬA

Đến xã An Trung tìm nhà bà Gơi, chúng tôi được một cán bộ kiểm lâm nhiệt tình dẫn đường. Đang lom khom làm cỏ trên rẫy, bà Gơi đón chúng tôi bằng ánh nhìn thân thiện và nụ cười hiền từ, trông bà còn khỏe và nhanh nhẹn khi làm việc.

Là một người phụ nữ đi qua thời chiến với gần 50 năm tuổi Đảng, bà Gơi hồi tưởng lại những tháng năm lửa đạn bằng giọng kể buồn buồn xen lẫn tự hào. Khoảng năm 1954, giặc tràn đến Kông Chro đốt phá nhà cửa. Người Bahnar trong vùng phải sống rất gian khó, thiếu đói dưới những tán cây rừng. Năm đó, bà Đinh Thị Gơi vẫn còn là một cô bé người Bahnar nhỏ nhắn, mới 14 tuổi. Bà Gơi nhớ lại: “Giặc nó đến đốt phá, làm hại dân làng, mình ghét lắm. Mình xin đi theo cách mạng, nhưng còn nhỏ tuổi nên mình được làm liên lạc”. Đến năm 1960, cô bé Bahnar nhờ được tôi rèn trong gian khó nên nhanh chóng trưởng thành là du kích giỏi tại địa phương.

Với sự thông minh và tính gan dạ, cô du kích Đinh Thị Gơi chính thức được đứng vào hàng ngũ của Đảng ngày 15-3-1962. Bà Gơi cho biết, với bà được vào Đảng là được đi theo cách mạng, theo Cụ Hồ để đánh thắng thằng giặc Mỹ.

Trong hai năm 1963 - 1964, mẹ và cha ruột lần lượt qua đời để lại cho bà ba người em nheo nhóc. Từ đó, Gơi vừa lo nuôi em vừa đi đánh Mỹ. Bà được giao nhiệm vụ chỉ huy du kích, lực lượng thanh niên xung phong đi phá ấp chiến lược, bom mìn của địch để mở đường cho bộ đội ta tiến quân. Tết Mậu Thân 1968, giặc Mỹ tiến hành càn quét dữ dội trên đường 19 (Quốc lộ 19 từ cảng Quy Nhơn đi các tỉnh Tây Nguyên). Chỉ trong một đêm, bà phải chứng kiến cảnh hơn 10 đồng đội, dân bản của mình ngã xuống vì bom, đạn. Bà xúc động nói: “Đêm đó, máu của đồng đội và dân bản thấm ướt cả áo mình. Những người còn sống đều đau lòng. Từ đó, mình càng căm thù giặc. Mình quyết tâm chiến đấu giỏi, một lòng đi theo cách mạng vì mình mong ngày hòa bình lắm”.

Hiện nay, Huân chương kháng chiến chống Mỹ hạng nhất, Huân chương độc lập hạng ba được bà Gơi treo trang trọng trong ngôi nhà sàn của mình như một sự nhắc nhở cái thời hào hùng đã qua, sự ghi ơn của Tổ quốc đối với một người phụ nữ Bahnar kiên cường như bà.

CÁN BỘ MẪU MỰC

Năm 1976, bà Gơi bắt đầu học bổ túc văn hóa. Mỗi lần đi công tác, bà lại cố gắng học thêm tiếng Kinh. Bây giờ tiếng Kinh, tiếng Bahnar bà đều nói rất thành thạo. Năm 1979, bà được cử đi học trung cấp chính trị tại Quảng Nam - Đà Nẵng. Có nhiều lúc đang học bài mà đói đến rát bụng, nhưng không vì thế mà bà từ bỏ. Bà Gơi luôn tâm niệm rằng, dù đói, dù khó khăn đến mấy cũng phải học. Giặc Mỹ còn không sợ, nên mình càng không thể đầu hàng giặc đói giặc dốt được.

Thời gian từ năm 1979 - 1989, dân làng Biên, làng Brọch, xã An Trung lâm vào cảnh đói. Bà Gơi bộc bạch: “Hồi đó, mình đi học còn có miếng ăn nhà nước cho nên không đói đâu. Nhưng mỗi khi nắm phần cơm trong tay, nghĩ đến con cháu, dân bản ở nhà đang đói thì thương đứt ruột. Càng nghĩ mình càng quyết tâm học giỏi để mang cái kiến thức mới về mà giúp dân bản thoát nghèo”.

Bà Gơi đã từng là Bí thư Huyện đoàn huyện Bảy (tức huyện Kông Chro) ngày nay, vừa đi học văn hóa vừa chỉ đạo công tác tại địa phương. Năm 1980, bà về làm Chủ tịch Hội Liên hiệp phụ nữ huyện An Khê (huyện Kông Chro ngày nay được tách ra từ huyện An Khê cũ). Từ năm 1989, bà được phân về làm Bí thư xã An Trung. Đến năm 1994 thì bà nghỉ hưu. Trong suốt quá trình công tác, bà đã có nhiều đóng góp cho đời sống kinh tế, văn hóa của người dân trong xã, huyện. Ông Nguyễn Văn Ký, Chủ tịch UBND xã An Trung chia sẻ: “Cô Gơi là một người đáng kính trong làng Brọch, xã An Trung và cả huyện Kông Chro. Mặc dù bây giờ cô đã nghỉ hưu nhưng khi có việc làng, việc xã, bà con đều mời cô đến tham dự ý kiến. Hơn thế nữa, đối với huyện Kông Chro nói chung và xã An Trung nói riêng, cô là một trong những người Bahnar đầu tiên biết áp dụng khoa học kỹ thuật vào trong sản xuất kinh doanh giúp cho rất nhiều hộ thoát nghèo”.

Năm 1983, bà Gơi vận động dân làng trồng mía. Cả huyện không ai dám tin cây mía có thể phát triển ở vùng đất có khí hậu khắc nghiệt này. Thế nên, lúc đầu dân bản e dè không dám làm. Bà Gơi cho biết: “Vì dân bản ai cũng vào rừng đào củ để sống nên ngày càng đói. Mình nhất định phải nghiên cứu trồng cho được cây mía này để sản xuất lâu dài. Không ai chịu làm thì mình tình nguyện làm trước”. Cây mía bà Gơi trồng năm đó được mùa, có công ty đến thu mua, thế là phong trào trồng mía lan rộng đến 11 làng trong xã, rồi lan ra khắp huyện Kông Chro.

Hiện nay, nếu ai một lần tìm đến làng Brọch, đứng bên bờ một nhánh sông Ba của làng để nhìn về bờ bên kia sẽ thấy có một ngôi làng Bahnar với những căn nhà sàn cũ kỹ, cái nghèo, cái khó hiện lên rất rõ. Đó là làng Biên. Làng Biên nằm tách biệt với bên ngoài bởi không có một cây cầu bắc ngang hai bờ của nhánh sông Ba chảy qua đây. Năm 1983, bà Gơi vận động dân làng khuân đá làm cầu ngầm. Cây cầu bắc ngang nhánh sông Ba này mang lại niềm vui cho người làng Biên. Thế nhưng, qua nhiều năm, cầu bị cuốn trôi. Đến nay, việc đi lại giữa hai làng trở nên khó khăn. Mùa khô, phải lội qua sông lởm chởm đá. Mùa mưa, nước sông dâng cao, người dân qua lại bằng đò nhưng rất nguy hiểm. Hôm gặp chúng tôi, bà Gơi dặn dò: “Muốn qua làng Biên thì phải chịu cực nghe. Lội sông đau chân lắm. Mình ước chi có cây cầu chắc chắn bắc qua sông để việc đi lại của bà con hai làng thuận tiện”.

Có năm, dân làng bị bệnh lác, ghẻ lở nhiều. Người trên huyện cũng sợ, dân xã khác cũng sợ không dám đến. Năm ấy, bà Gơi kêu gọi dân bản: “Ai có heo bán heo, ai có bò bán bò, phải lấy tiền để mua thuốc tây mà chữa bệnh”. Bệnh lác từ đấy cũng hết dần trong làng.

Bà còn tích cực vận động bà con làm ăn, định canh định cư. Bà là người phụ nữ Bahnar làm chủ rất nhiều mô hình mới cho sự phát triển kinh tế - xã hội của xã, ổn định đời sống của bà con dân bản.

Bà có đến gần 30 Huân chương, Bằng khen, giấy khen do các cấp tặng thưởng như: Giấy khen có thành tích xuất sắc trong phong trào sản xuất kinh doanh giỏi, Giấy khen có thành tích xuất sắc trong công tác Mặt trận Tổ Quốc, Giấy khen đã có nhiều thành tích trong phong trào thi đua “Tuổi cao chí càng cao nêu gương sáng vì sự nghiệp xây dựng Tổ quốc”.

BAO LA TÌNH MẸ

Một điều đặc biệt nữa ở người phụ nữ Bahnar này là bà đã một mình chăm sóc, nuôi dạy hơn 10 đứa trẻ mồ côi thành người. Bây giờ, tuy ở cái tuổi cần được nghỉ ngơi nhưng bà vẫn miệt mài làm rẫy để kiếm cái ăn, cái chữ cho các con.

Thời chiến, vừa nuôi em, vừa đi đánh giặc, bà không có thời gian nghĩ đến chuyện riêng tư. Hòa bình lặp lại, bà hăng hái tham gia công tác thanh niên, phụ nữ, công tác Đảng nên chuyện chồng con cũng xa dần. Thế nhưng, còn một lý do quan trọng nữa là bà không đành lòng bỏ rơi những đứa cháu là con của anh, em bà đã hy sinh hoặc mất trong kháng chiến. Sau này, gặp những đứa trẻ bơ vơ, không có cái ăn, cái mặc, bà đưa chúng về nhà chăm sóc như con, cháu ruột thịt. Bà tâm sự: “Nhà mình tuy không giàu nhưng các con mình trưởng thành đều được dựng vợ, gả chồng, có cuộc sống ổn định. Bây giờ, hạnh phúc của mình là những ngày có con, cháu tập trung về nhà quây quần bên bếp lửa. Các con không do mình sinh ra nhưng đều ngoan và chăm chỉ. Mình rất mừng”.

Nhìn cô bé Đinh Thị Hiệp, SN 1992 đang say ngủ, bà Gơi xúc động cho biết, năm 1996, Hiệp và anh trai là Đình Hà, SN 1989  tìm đến nhà bà trong tình cảnh đói, rách rất đáng thương. Khi ấy, bà hỏi gì hai đứa trẻ cũng im lặng. Thế nhưng, khi bà hỏi có muốn ở lại nhà bà không thì hai anh em lại lẳng lặng gật đầu. Mới đó mà gần 15 năm đã trôi qua. Hiện nay, người anh Đinh Hà đã có gia đình ổn định còn bé Hiệp đang theo học nghề may. Ngoài giờ đi học chữ, các con bà còn được dạy làm rẫy, dệt thổ cẩm để có cái nghề khi trưởng thành.

Khi chúng tôi hỏi thăm về bà Gơi, người dân làng Brọch đều tỏ thái độ cảm phục, tin tưởng người phụ nữ đặc biệt này. Mới đây, bà Gơi vinh dự nhận giải thưởng Phụ nữ Việt Nam 2010 do Hội Liên hiệp phụ nữ Việt Nam trao tặng. Đó là phần thưởng xứng đáng cho những nỗ lực không mệt mỏi của bà vì quê hương, đất nước và bản làng người Bahnar.

THU HOÀI. Người phụ nữ giỏi việc hội, đảm việc nhà / Thu Hoài // Sách Người tốt việc tốt làm theo gương Bác T.3. - Gia Lai: Ban tuyên giáo Tỉnh ủy, 2013. - Tr. 91-95        

Việc “học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh” là việc làm thường xuyên, được các cấp, các ngành, các tổ chức đoàn thể trong xã hội tổ chức thực hiện. Từ đó đã xuất hiện nhiều tấm gương điển hình trong học tập và làm theo gương Bác, từ những việc làm nhỏ nhất, nhưng mang lại lợi ích cho cộng đồng xã hội. Tiêu biểu có chị Ngay, chi hội trưởng Chi hội phụ nữ làng Trek- xã Kdang - huyện Đăk Đoa.

Theo lời giới thiệu của Hội phụ nữ xã Kdang, huyện Đắk Đoa, chúng tôi về làng Trek vào dịp làng đón nhận bằng công nhận Làng văn hóa 3 năm (2010 - 2012). Khác hơn những lần đón nhận danh hiệu mà chúng tôi được tham dự trước đây, là chương trình có lồng ghép nội dung tuyên truyền của Chi hội phụ nữ ngay sau phần nghi lễ.

Trước sự chăm chú của đông đảo bà con dân làng, tuyên truyền viên là một phụ nữ còn trẻ, dáng vẻ nhỏ nhắn; nhanh nhẹn song khá tự tin với khả năng diễn thuyết lôi cuốn, cách nói gãy gọn, mạch lạc khi giới thiệu về các phong trào: “phụ nữ 5 không - 3 sạch”, thực hiện kế hoạch hóa gia đình, chăm sóc sức khỏe cho bản thân, bảo đảm vệ sinh môi trường. Người phụ nữ ấy là chị Ngay - Chi hội trưởng phụ nữ làng Trek, xã Kdang, huyện Đăk Đoa.

Tuy mới 28 tuổi, nhưng đã có kinh nghiệm hơn 7 năm làm chi hội trưởng phụ nữ. Và theo lời nhận xét của dân làng, Ngay là người luôn tận tụy, trách nhiệm với công việc được giao, tích cực phối hợp với Ban nhân dân và các tổ chức đoàn thể trong làng tuyên truyền vận động nhân dân chấp hành tốt chủ trương, đường lối của Đảng, pháp luật của Nhà nước, hương ước, quy ước thôn làng, đoàn kết giúp nhau lao động sản xuất và không tin, không nghe lời kẻ xấu xúi giục theo các “tà đạo” làm những điều sai trái, ảnh hưởng đến tình hình an ninh trật tự tại địa phương.

Làng Trek có trên 90% đồng bào dân tộc thiểu số, trong đó số người theo đạo Công giáo và đạo Tin lành chiếm 70%, bản thân chị Ngay cùng gia đình cũng là những giáo dân theo đạo Công giáo. Với suy nghĩ: đạo với đời là một, người có đạo thì càng phải sống tốt đời, đẹp đạo, phải biết đoàn kết, yêu thương giúp đỡ lẫn nhau, cùng nhau chung tay góp sức để xây dựng thôn làng ngày càng giàu đẹp. Học tập và làm theo tấm gương của Bác, chị đã vận động chị em phụ nữ và bà con dân làng thực hành tiết kiệm, như: tiết kiệm gạo trong mỗi bữa ăn, tiết kiệm tiền đi chợ hàng ngày để xây dựng “hũ gạo tiết kiệm”, “ống tiền tiết kiệm” để hỗ trợ cho những gia đình khi gặp khó khăn hoạn nạn. Từ phong trào xây dựng “hũ gạo tiết kiệm”, “ống tiền tiết kiệm”, chị em phụ nữ đã góp được 72 kg gạo, gần 3.000.000 đồng hỗ trợ cho gia đình chị Hnhãi và chị Yăm là 2 phụ nữ nghèo của làng đang gặp khó khăn. Hưởng ứng phong trào xây dựng nông thôn mới, chị đã phối hợp với Ban nhân dân thôn vận động nhân dân và các hộ có trang trại sản xuất trên địa bàn đóng góp được trên 200 triệu đồng, hàng trăm ngày công để làm đường giao thông nông thôn theo chương trình Nhà nước và nhân dân cùng làm.

Với tác phong gần gũi, sâu sát và kiên trì trong công tác tuyên truyền vận động, chị đã cùng tập thể Chi hội phụ nữ vận động nhân dân trong làng từng bước thay đổi nếp nghĩ, cách làm để từng bước vươn lên thoát nghèo bền vững. Từ những việc làm cụ thể, như chuyển đổi cây trồng vật nuôi không có giá trị kinh tế sang những cây trồng vật nuôi khác có hiệu quả cao hơn; hay giữ gìn vệ sinh công cộng, dọn dẹp đường làng ngõ xóm xanh, sạch, cũng như cách thức ăn ở vệ sinh, đảm bảo sức khỏe, kế hoạch hóa gia đình, không sinh con thứ 3 để xây dựng gia đình ấm no, hạnh phúc... đến việc vận động hình thành 2 nhóm sống “tốt đời, đẹp đạo”, vận động 60/60 hộ trong làng đăng ký chấp hành tốt pháp luật của Nhà nước, 57/57 hội viên phụ nữ đăng ký xây dựng gia đình hạnh phúc. Mối đoàn kết gắn bó và đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân trong làng từng bước được nâng lên. Làng Trek hiện nay chỉ còn 15 hộ nghèo, giảm 25 hộ so với năm 2010; an ninh trật tự luôn được giữ vững. Riêng hội phụ nữ làng Trek năm nào cũng được xếp loại xuất sắc.

Nói về công việc đã làm, chị Ngay tâm sự: “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức của Bác Hồ, mình đã cố gắng phấn đấu để công tác tốt và tích cực vận động chị em cũng như bà con dân làng thực hiện tốt chủ trương, đường lối của Đảng và Nhà nước, thực hiện tốt lời dạy của Bác là phải biết tiết kiệm, biết yêu thương giúp đỡ lẫn nhau” .

Không chỉ tích cực, chủ động trong công tác Hội, hết lòng vì công việc của làng, chị còn có một gia đình riêng rất êm ấm hạnh phúc. Với suy nghĩ, mình là cán bộ phụ nữ thì phải gương mẫu làm trước thì mọi người mới nghe và làm theo những gì mình tuyên truyền, vận động. Vì vậy, gia đình chị chỉ sinh 2 con và chăm lo cho các cháu học hành đầy đủ. Vợ chồng chị có hơn 1 ha cà phê, 1 ha cao su, 2 sào lúa nước 2 vụ, nhờ biết áp dụng khoa học kỹ thuật vào chăm sóc mà cà phê, cao su và lúa của gia đình chị phát triển tốt. Hiện tại, 1 ha cao su chưa cho thu hoạch, nhưng từ hơn 1 ha cà phê và 2 sào lúa, hàng năm gia đình chị cũng có nguồn thu nhập gần 100 triệu đồng. Biết cách tiết kiệm trong chi tiêu, vợ chồng chị đã xây dựng được nhà cửa khang trang và mua sắm đầy đủ tiện nghi sinh hoạt trong gia đình và máy móc phục vụ cho sản xuất.

Nhận xét về chị Ngay, chị Lương Thị Năm, Chủ tịch Hội phụ nữ xã Kdang cho biết: “Ngay là một cán bộ hội rất năng nổ, nhiệt tình, nhất là trong việc học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh. Trong phong trào đóng góp xây dựng “hũ gạo tiết kiệm”, “ống tiền tiết kiệm” để hỗ trợ hội viên nghèo, gặp khó khăn hoạn nạn, chi hội phụ nữ làng Trek là chi hội dẫn đầu trong toàn xã, trong đó có sự đóng góp rất lớn của chị Ngay và bản thân chị cũng là một tấm gương lao động sản xuất giỏi của làng, của xã” .

            Những gì chị Ngay làm được đã góp phần tích cực trong các phong trào thi đua lao động sản xuất, phát triển kinh tế xây dựng tình đoàn kết gắn bó và tinh thần tương thân tương ái giúp đỡ lẫn nhau của bà con trong làng, góp phần thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội của làng. Trong công cuộc xây dựng nông thôn mới hiện nay, ở tất cả các thôn làng, nhất là vùng dân tộc thiểu số, rất cần có những tấm gương tiêu biểu như chị Ngay - chi hội trưởng Chi hội phụ nữ  làng Trek, xã Kdang, huyện Đăk Đoa.

ĐỨC PHƯƠNG. Những tấm lòng từ mẫu / Đức Phương // Sách Giữa rừng hoa đẹp T.3. - Gia Lai: Hội Nhà báo, 2006. - Tr. 19-22

Căn phòng cấp 4 nhỏ lợp ngói rêu phong có thâm niên dễ đến 30 mươi năm tuổi đã từng là phòng trực bỏ hoang của Trạm y tế xã Ia Blang (Chư Sê) là tổ ấm của ba mẹ con y sĩ đa khoa Lê Thị Lý gần 16 năm nay kể từ ngày chị mang hai con trai nhỏ rời quê hương Thạch Hà (Hà Tĩnh) vào đây làm Trạm trưởng Y tế xã. Bữa cơm trưa ăn vội của chị Lý hôm ấy đã phải dừng lại giữa chừng vì có người lấp ló ngoài cửa hỏi xin thuốc. Chừng một lát sau quay lại thu dọn bữa cơm ăn dở, chị giải thích: “Chuyện thường ngày ấy mà. Mình là Trạm trưởng Trạm Y tế xã lại có gia đình ở ngay tại đây nên phải trực giúp cho anh em vào những giờ nhạy cảm này. Làm miết rồi quen. Cũng mừng là người dân ở đây khi đau ốm đã biết tìm đến cơ sở y tế khám, chứ không ở nhà nhờ thầy mo, thầy cúng làm phép như nhiều năm trước nữa...”.

Nằm cách trung tâm huyện Chư Sê chừng 5 cây số về phía tây nam, xã Ia Blang có 15 thôn, làng với 8.659 nhân khẩu (có 6 làng đồng bào Jrai: 2.191 người và 1 làng đồng bào Bahnar: 258 người), là vùng trồng tiêu khá trù phú nhất tỉnh. Trạm Y tế xã Ia Blang là một trong số ít cơ sở y tế được xây dựng từ khá sớm của huyện (được đầu tư xây dựng từ năm 1978 từ nguồn kinh phí của chương trình kinh tế mới). Trạm có 4 cán bộ (1 bác sĩ, 1 y sĩ và 2 nữ hộ sinh), 15 nhân viên y tế thôn làng đã được đào tạo ngắn hạn đáp ứng nhu cầu khám chữa bệnh, là địa chỉ tin cậy cho người dân trong xã mỗi khi đau ốm. Mỗi năm khám và điều trị bệnh cho gần 7.000 lượt người. Đặc biệt, từ năm 1995, Trạm được nâng cấp, có đủ phòng sản, hậu sản, phòng điều trị, phòng trực và bổ sung nhiều trang - thiết bị y tế cần thiết như: Bàn đẻ, nồi - tủ hấp sấy dụng cụ, máy hút đờm, cụm kính xét nghiệm... cung cấp cơ số thuốc đầy đủ. Trạm đã đáp ứng về cơ bản các nhu cầu khám sơ cấp cứu ban đầu và điều trị nội trú hầu hết các bệnh thông thường cho nhân dân.

Nhớ lại năm 1990, lúc chị Lý mới vào đây nhận công tác, nhiệm vụ chăm sóc y tế còn bộn bề khó khăn. Một mình chị nuôi hai con nhỏ, lại phải đảm đương tất tật công việc chuyên môn của Trạm từ khám chữa bệnh đến hộ lý. Ngày đó, ở địa phương chị quản lý, tình hình dịch bệnh sốt rét, dịch tả còn hoành hành, số người mắc bệnh và chết do dịch bệnh còn nhiều. Trong khi đó, ý thức của người dân địa phương về phòng - chống dịch bệnh còn mơ hồ lắm. Phụ nữ cứ tự nhiên sinh con tại nhà, ngoài rẫy; mỗi khi có người bị đau ốm làng mời thầy mo, thầy cúng về đập heo làm phép chứ không mang đến Trạm Y tế... Chị Lý phải chạy đôn chạy đáo hết lên TTYT huyện, lên UBND xã lại xuống làng để xin ý kiến chỉ đạo và vận động thuyết phục người dân áp dụng các biện pháp phòng - chống bệnh tật. Việc đầu tiên, chị tham mưu cho UBND xã kiện toàn lại Ban chăm sóc sức khỏe ban đầu để thống nhất sự chỉ đạo, điều hành. Đồng thời, lên kế hoạch công tác, phân công lịch trực tại Trạm hợp lý và duy trì chế độ giao ban y tế thôn vào ngày 18 hàng tháng, qua đó xốc lại hoạt động của mạng lưới nhân viên y tế của 15 thôn, làng. Thực hiện khám - chữa bệnh nội trú tại Trạm có hồ sơ bệnh án đầy đủ; xây dựng vườn thuốc nam rộng 400 m2 có đủ 60 loại cây thuốc. Chị nói: “Làm cán bộ y tế cơ sở nhất thiết phải biết nói tiếng nói của dân, nghĩ theo cách nghĩ của người dân, thì dân họ mới tin và làm theo mình được”.

Hết giờ trực ở Trạm, chị Lý lại vào làng. Suốt 15 năm công tác ở Trạm y tế xã đã hình thành nơi chị thói quen đó. Lúc thì vận động người dân các kiến thức phòng chống bệnh tật, ăn sạch, ở sạch, ngủ phải mắc màn, kế hoạch hóa gia đình; lúc bày cách trồng và chăm sóc cà phê, tiêu. Thậm chí nhiều khi vợ chồng nhà người ta xảy ra xích mích, cãi vã cũng chạy đến nhờ chị hòa giải. Nhờ sống nhiệt tình với đồng bào nên chị tạo dựng được niềm tin và uy tín cao với người dân các làng. Trong các đợt chiến dịch phòng - chống sốt rét, tiêm chủng mở rộng hay chăm sóc sức khỏe sinh sản... hễ chị đứng ra vận động là người dân các làng tham gia đông đủ. Chị vận động dân làng thực hiện mỗi gia đình có 4 công trình vệ sinh (giếng nước, nhà tắm, hố rác, nhà cầu), và xây dựng được quỹ vốn vay làm hố xí quay vòng từ làng này qua làng khác không thu lãi nhiều năm với số tiền là 150.000 đồng/hố. Từ đầu năm 2005, chị phối hợp với BHXH huyện triển khai BHYT tại xã, để người dân được chăm sóc y tế tốt hơn. Đến nay, 238 người dân trong xã có thẻ BHYT tự nguyện. Nhiều gia đình như ông Nguyễn Thôi ở thôn 3 mua BHYT tự nguyện cho cả 7 người trong nhà. Đặc biệt với trách nhiệm là cán bộ chuyên trách dân số - gia đình - trẻ em xã, chị đã “lôi kéo” được những người đứng đầu chính quyền tham gia vào công tác này. Thật hiếm có xã nào trong tỉnh lại có cả “ba ông lớn” là Bí thư Đảng ủy, Chủ tịch HĐND và Chủ tịch UBND xã tình nguyện tham gia đình sản. Toàn xã hiện có 21 trường hợp đình sản nam, trong đó có 6 người đồng bào dân tộc thiểu số. Xã có 2 câu lạc bộ “Những người thực hiện KHH gia đình”...

Nhờ sự tích cực của chị Lý và sự tham gia nhiệt tình của chính quyền địa phương nên công tác y tế ở xã những năm qua đạt kết quả cao; ý thức của người dân về phòng - chống bệnh tật được nâng cao; các chương trình chăm sóc sức khỏe cộng đồng được triển khai có hiệu quả. Trong 5 năm qua, xã đã không còn bệnh nhân bị sốt rét ác tính; các dịch bệnh nguy hiểm khác cũng bị khống chế, đẩy lùi. Gần 100% trẻ trong độ tuổi được tiêm chủng đủ liều; phụ nữ trong độ tuổi được tiêm phòng uốn ván, các bà mẹ mang thai được khám chăm sóc định kỳ và sinh con tại Trạm Y tế. Tỷ suất sinh của xã thấp gần nhất huyện (đạt 1,75%)... Xã đang xây dựng chuẩn quốc gia về y tế.

Bữa cơm chiều muộn của gia đình chị Lý hôm nay vui hơn mọi ngày. Hai con trai của chị, một cháu làm ở TTYT huyện và một đang học trung cấp dược ở Pleiku dẫu không báo trước cũng hẹn nhau về để chúc mừng chị, người thầy thuốc lớn trong nhà đã mười năm liền là chiến sĩ thi đua cấp cơ sở và vừa được Thủ tướng Chính phủ tặng bằng khen. Anh Chủ tịch UBND xã Đặng Ngọc Anh - trên đường đi họp làng cũng ghé thăm và báo tin vui: Xã chuẩn bị tổ chức tọa đàm Ngày Thầy thuốc Việt Nam 27-2 và trích tiền chi thường xuyên biếu mỗi cán bộ y tế một trăm nghìn đồng “ăn Tết”. Chị Lý cười cảm ơn: “Năm nào cũng thế, chính quyền vẫn nhớ và quan tâm đến đội ngũ cán bộ y tế, dù chỉ là chút quà nhỏ...”.

BÍCH VÂN. Rô H’MRé người phụ nữ giỏi việc nhà và xã hội / Bích Vân // Sách Giữa rừng hoa đẹp T.2. - Gia Lai: Hội nhà báo, 2005. - Tr. 138-139

          Đến thôn Bôn Sôma Hang B, xã Ia Pens (Ayun Pa), tôi được nghe mọi người khen ngợi chị Rô H’Mré - một phụ nữ năng động, tốt bụng và giỏi giang. Ngoài việc tham gia lao động sản xuất đảm bảo cuộc sống gia đình, chị còn là Thư ký Hội Phụ nữ thôn.

Thôn Bôn Sôma Hang B có 82 hộ, thì có 60 hộ là đồng bào dân tộc Jrai, chị là một trong số ít phụ nữ của thôn được học hết lớp 10, viết và nói tiếng phổ thông thông thạo. Năm 1985, học xong lớp 10 mơ ước của chị là muốn học lên nữa, nhưng vì điều kiện khó khăn, nhà ở cách xa trường 10 km, không có phương tiện đi lại, gia đình phải chạy ăn từng bữa... chị đành phải nghỉ học.

Bằng kiến thức có được, cộng với nhận thức tích lũy được trong cuộc sống, chị nhạy bén nắm bắt các tiến bộ khoa học kỹ thuật. Năm 2001, khi có công trình thủy lợi Ayun Hạ, chị là người đi đầu trong phong trào chuyển đổi từ cây lúa rẫy sang cây lúa nước, mạnh dạn tham gia các lớp tập huấn kỹ thuật nông nghiệp của xã, của huyện, chị biết cách chọn giống, ngâm, ủ giống và sạ cấy, đồng thời biết cách chăm sóc bón phân đúng quy trình, kỹ thuật và canh tác 2 vụ/năm, năng suất lúa mỗi vụ luôn đạt 10 tạ/sào - hàng năm thu hoạch từ 9 - 9,5 tấn lúa. Ngoài lúa chị còn vay 5 triệu đồng từ chương trình xóa đói giảm nghèo đầu tư vào chăn nuôi bò, heo. Hàng năm, sau khi trừ các chi phí, gia đình chị thu lợi từ 25 - 30 triệu đồng. Nhờ đó mà chị làm được nhà ở, mua sắm tiện nghi phục vụ sinh hoạt và nuôi các con ăn học đầy đủ. Không chỉ sản xuất giỏi, chị còn giúp bà con trong thôn viết đơn, thư và kiêm cả thư ký Phụ nữ thôn - trong các cuộc họp chị là người ghi biên bản và giúp phụ nữ thôn làm báo cáo hàng tháng, hàng quý bằng cả hai thứ tiếng phổ thông và Jrai. Để giữ gìn an ninh chính trị trong thôn, chị cùng cán bộ thường xuyên khuyên nhủ vận động mọi người không nên nghe theo lời xúi giục của kẻ xấu an tâm làm ăn, lao động sản xuất để xây dựng cuộc sống ấm no. Nhờ đó, thôn Bôn Sôma Hang B luôn được xã Ia Peng biểu dương là thôn bảo đảm an ninh chính trị tốt nhất của xã.

Góp một ít công sức vào xây dựng đời sống mới trong khu dân cư, chị Rô H’Mré thật xứng đáng với sự yêu quý của bà con trong thôn, là gương sáng cho mọi người học tập.

HÀ CÔNG TRƯỜNG. Sắc hoa đã hẹn mùa trái ngọt ngào / Hà Công Trường // Sách Người tốt việc tốt làm theo gương Bác T.3. - Gia Lai: Ban tuyên giáo Tỉnh ủy, 2013. - Tr. 66-71

            Chúng tôi đến nhà Nguyễn Thị Thu Hoài vào một sáng cuối tháng ba đầy nắng khi hai vợ chồng cô vừa đi chợ về. Đặt làn thức ăn xuống bếp cô pha nước mời chúng tôi rồi thong thả nói: “Tổ chức và nhân dân tin tưởng giao nhiệm vụ thì mình làm thôi chứ có làm được gì lớn lao đâu”. Dáng thong dong, khuôn mặt hiền, nói năng nhỏ nhẹ và lôi cuốn, cô nhấp ngụm trà rồi nhìn ra khoảng sân vàng nắng như thả hồn về ký ức, về những tháng năm tóc hãy còn xanh

Ngày ấy, Nguyễn Thị Thu Hoài, sinh 1949, quê Thái Bình là giáo viên Trường cấp 2 Quốc Tuấn - Kiến Xương đang say mê đem con chữ đến cho những em nhỏ ở vùng quê nghèo khi đất nước vừa hòa bình được một nửa. Nhưng rồi khí thế hừng hực tất cả cho miền Nam đánh giặc đã lôi cuốn cô gái Thu Hoài lúc nào không hay. Nhìn những đoàn quân Nam tiến, cô luôn mơ ước được hòa mình vào, được khoác lên mình chiếc áo xanh màu lá, nỗi khát khao ấy theo cô vào cả những giấc mơ trong căn phòng nội trú. Nhân đợt có đơn vị về trường tuyển quân cho chiến dịch tổng tiến công, cô âm thầm làm đơn và được tuyển chọn. Cầm quyết định trong tay, Nguyễn Thị Thu Hoài vừa mừng lại vừa lo, mừng vì ước mơ đã thành hiện thực, lo vì không biết nhà trường và nhất là gia đình có đồng ý hay không, về nhà với bao nỗi niềm, đúng như cô nghĩ, nhà trường ủng hộ quyết định của cô nhưng gia đình ngăn cản quyết liệt. Sinh ra trong gia đình bốn người con đều là gái, cô hiểu nỗi lòng của mẹ cha nhưng ước mơ được cống hiến sức trẻ cho đất nước đã cuốn hút cô gái trẻ. Thu Hoài năn nỉ gia đình và còn nhịn ăn gây sức ép để được đi, cô bảo: “Nhà mình toàn con gái mà con lại là đảng viên (cô vào Đảng năm 1967) xin cha mẹ cho con được đi để góp chút sức nhỏ của mình vào cuộc chiến, vào thắng lợi của đất nước”. Biết không ngăn được đứa con bướng bỉnh của mình, cha mẹ gạt nước mắt tiễn cô theo đoàn quân Nam tiến.

Tháng 12 năm 1974 cô giáo Nguyễn Thị Thu Hoài khoác lên mình áo xanh sắc lính của đơn vị C3 K3 E72 F772 đóng quân ở Đăk Tô, Tân Cảnh với chức vụ B trưởng, đồng thời là Chi ủy viên, Bí thư chi đoàn. Sau 30 tháng 4 năm 1975, biết cô trước đây là giáo viên nên đơn vị điều Thu Hoài về làm việc ở Ban chính trị thuộc bộ phận tuyên huấn của Trung đoàn. Tại đây cô có nhiệm vụ trực tiếp giảng dạy cho lớp C300 (300 tù binh từ hạ sĩ quan trở xuống) về tư tưởng chính trị, tuyên truyền đường lối chính sách của Đảng đối với tù binh. Nguyễn Thị Thu Hoài tâm sự: “Nhiều năm đảm nhận nhiệm vụ ở đơn vị, dù gặp không ít khó khăn, đối tượng phức tạp nhưng được sự hỗ trợ đắc lực của cấp trên cũng như sự yêu mến, tin tưởng của nhân dân nên tôi luôn cố gắng để hoàn thành nhiệm vụ góp một phần công sức vào thắng lợi chung của đất nước”. Những lần lên lớp dạy chính trị tư tưởng và đường lối của Đảng, Nhà nước cho các học viên, cô luôn say mê, học hỏi những kinh nghiệm của người đi trước để làm sao cho bài giảng vừa dễ hiểu vừa nhớ được lâu. Trong hai năm từ 1975 đến 1976, Nguyễn Thị Thu Hoài luôn là chiến sĩ gương mẫu hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ, được đơn vị và cấp trên khen ngợi, được đồng chí và học viên yêu mến.

Cuối năm 1976, cô chuyển sang công tác ở Phòng Tổ chức của Ty Giáo dục Gia Lai - Kon Tum và được cử đi học ngành Giáo dục chính trị trong 4 năm (1977 đến 1981) tại Trường Nguyễn Ái Quốc IX - Thủ Đức - T.p Hồ Chí Minh. Năm 1982, cô được phân công về Trường cấp 3 Pleiku làm giáo viên kiêm phó hiệu trưởng nhà trường. Cô cười bảo: “Là giáo viên dạy Toán - Lý vậy mà chưa lúc nào được dạy đúng chuyên môn mà toàn dạy chính trị và làm công tác quản lý”. Năm 1983, cô xây dựng gia đình với anh Nguyễn Văn Thành, cũng là bộ đội chuyển ngành về làm ở Sở Văn hóa Thông tin. Cô sinh 2 lần được 3 người con. Từ đây công việc gia đình, công việc xã hội khiến cô luôn bận rộn, dẫu vậy cô luôn cố gắng thu xếp để hoàn thành mọi công việc được giao. “Việc nước” hay “việc nhà” cô đều nỗ lực hết mình, đôi khi phải làm đến tận khuya mới hết việc nhưng rất vui khi nhận được sự ủng hộ, động viên của chồng.

Năm 1994, cô nghỉ hưu về sinh sống và sinh hoạt Đảng tại chi bộ tổ dân phố 17 phường Hội Thương. Cô lần lượt được bầu làm Chi hội trưởng Hội phụ nữ, rồi đến chủ tịch Hội liên hiệp phụ nữ phường, bí thư tăng cường chi bộ tổ dân phố 16, rồi bí thư chi bộ tổ dân phố 17. Đây là tổ nghèo nhất của phường với 137 hộ dân, 700 nhân khẩu, nhân dân đa phần là buôn bán nhỏ và làm nông, trình độ dân trí thấp, hệ thống đường giao thông chủ yếu đường đất nhỏ hẹp, chưa có hệ thống điện nơi các ngõ hẻm. Để khắc phục tình trạng trên, cô đã bàn với chi ủy chi bộ vận động bà con trong khu phố mắc điện. Để làm được điều đó, cô đã cùng với các đồng chí trong chi ủy và các chi hội trưởng không quản nắng mưa hàng ngày đến từng hộ dân để tuyên truyền vận động thuyết phục và đi đầu trong việc mắc điện lưới để làm gương. Kết quả, 100% hộ gia đình tổ dân phố 17 đã nhất trí đóng góp để mắc điện trong tất cả các đường hẻm. Cô xúc động cho biết: “Ngày đóng điện bà con hớn hở vui mừng, đứng ngắm ánh điện sáng cả đêm, còn cô rơi nước mắt vì mừng vui”.

Tiếp bước thành công đưa điện lưới về ngõ hẻm thắp sáng các ngả đường khu dân cư, năm 2011, cô cùng chi ủy chi bộ họp bàn với nhân dân làm bê tông hóa đường giao thông trong khu vực dân cư. Và một lần nữa cô đã cùng với chi ủy đi “mòn dép” đến từng nhà tuyên truyền vận động, thuyết phục các hộ dân. Có những hộ không hợp tác, đôi lúc chửi bới rồi nghi ngờ này nọ, có kẻ độc miệng còn bảo: “Cô được ăn chia bao nhiêu mà nhiệt tình thế?”, rằng: “Tấc đất, tấc vàng chắc cô được kha khá nhỉ?”... Không chỉ vậy, đôi khi đam mê theo công việc cô bê trễ nhiệm vụ làm mẹ, làm vợ khiến cho gia đình nhiều khi “cơm chẳng lành, canh chẳng ngọt” rồi mang tiếng “ăn cơm nhà vác tù và hàng tổng”. Và, đã có lúc cô viết đơn xin nghỉ, nhưng khi cầm lá đơn trên tay cô tự thấy mình có lỗi khi “chưa lâm trận đã đầu hàng”, mới gặp khó khăn đã lùi bước. Với suy nghĩ ấy cô lại tiếp tục lao vào công việc và thường xuyên tâm sự để chồng, con hiểu và thông cảm cho công việc của mình. “Mưa dầm thấm lâu”, chồng, các con đã hiểu và thông cảm chia sẻ cho cô những nhọc nhằn trong công việc. Chồng cô tình nguyện làm công việc nhà, dạy dỗ các con để cô yên tâm làm việc. Nhiều bà con trong khu phố dần dần cũng đã nhận ra được lợi ích từ việc làm đường và sự vô tư, tận tình trong công việc chung của cô nên tán thành và tình nguyện đi vận động những hộ khác. Đến cuối năm 2011, toàn bộ đường giao thông trong khu dân phố được bê tông hóa theo phương thức đường rộng trên 3m sẽ được thành phố và nhân dân cùng làm, dưới 3m UBND phường sẽ hỗ trợ một phần kinh phí và nhân dân đóng góp tiền, công sức làm là chính. Tổ dân phố đã làm được 325m đường, đóng góp 38.000.000 đồng và 167 ngày công.

Có được điện, đường nhưng vấn đề trật tự an toàn xã hội ở khu dân cư luôn khiến cô và chi bộ ăn ngủ không yên. Trong tổ có 3 đối tượng nghiện ma túy và có 2 địa điểm con nghiện nơi khác thường đến tụ tập tiêm chích. Bản thân cô, nhiều lần đi vận động về đã bị các đối tượng đe dọa, trấn lột. Trước tình hình trên, cô tham mưu cho chi bộ ra nhiều nghị quyết để phối hợp với công an thành phố, công an phường, tổ bảo vệ dân phố tuần tra kiểm soát đồng thời gọi đối tượng lên răn đe giáo dục. Cô cùng với người dân ở gần hai khu vực nói trên tiến hành phát quang và mắc điện chiếu sáng khiến cho đối tượng không có nơi hoạt động. Cô đã trực tiếp đến từng gia đình có người nghiện khuyến khích, vận động, kể cả hỗ trợ tiền đưa các đối tượng đi cai nghiện. Cô luôn tâm niệm: “Họ cũng như con, cháu mình khi lầm lỗi cần gần gũi để họ hòa nhập cuộc sống”. Không quản ngại nắng mưa, bằng tấm lòng của người cô, người mẹ, cô đã cảm hóa được nhiều thanh niên hư hỏng quay về làm lại cuộc đời. Nhờ những cống hiến thầm lặng của cô, tình hình an ninh trật tự ở khu dân cư dần dần ổn định, điểm tụ tập bị xóa bỏ.

Đặc biệt, công tác xóa đói giảm nghèo ở tổ dân phố luôn được cô và chi bộ quan tâm chỉ đạo. Cô đã vận động Chi hội Phụ nữ, chi hội Cựu chiến binh thành lập các tổ nhóm tiết kiệm, cho hội viên vay không lấy lãi; tuyên truyền vận động triển khai thực hiện tốt phong trào “tương thân tương ái”, “lá lành đùm lá rách”, thực hành tiết kiệm. Nhờ đó số hộ nghèo của tổ giảm nhanh qua các năm, từ 11 hộ nghèo năm 2010 đến cuối năm 2012 chỉ còn 1 hộ.

Tham gia nhiệt tình công tác xã hội nhiều lúc bận rộn, không có thời gian chăm chút cho riêng mình nhưng cô luôn cố gắng “cơm dẻo, canh ngọt”, “đối nội, đối ngoại” chu đáo, nuôi dạy con cái ngoan ngoãn, thành đạt. Các con cô đều học giỏi, có công ăn việc làm ổn định. Cô chia sẻ: “Hạnh phúc gia đình là sự sẻ chia, thông cảm chứ không phải sống cho riêng mình”. Nói về người bạn đời của mình, chồng cô hóm hỉnh: “Nhà tôi khi đã làm việc gì là y như rằng bà ấy quên hết con cái, cháu chắt, đôi khi bà ấy còn quên cả tôi luôn ấy chứ”. Cô nhìn chồng mỉm cười, ngoài kia nắng trải vàng mơ mải.

Chia tay vợ chồng cô giáo Thu Hoài, chúng tôi về khi trên vai nắng vàng xõa bóng, những tia nắng mơ màng ấm áp tan trong giọng nói nhẹ nhàng của cô: “Làm được cái gì có ích cho xã hội thì tôi làm thôi”. Sau vườn hương bưởi ngan ngát, dìu dịu len vào tâm hồn chúng tôi - hương thơm của đất trời chuyển mùa, của hoa đang hẹn mùa trái ngọt.

 
Các tin khác
NHẬN XÉT BẠN ĐỌC
(Chưa có ý kiến nào được viết)
Đăng nhập
Tên truy cập:
Mật khẩu:
Thành tích khen thưởng
Sách mới Bổ sung
Chọn trang
1. Hãy là chính mình! / 2022 Chi tiết
2. Hãy ôm con nào! / 2022 Chi tiết
3. Hãy bắt tớ nếu có thể! / 2022 Chi tiết
4. Người mẹ tuyệt vời nhất / 2022 Chi tiết
5. Hãy làm con cười! / 2022 Chi tiết
Tài liệu số hoá mới
Chọn trang
1. Lời thề giữ rừng / Quế Mai .-  Chi tiết
2. Lễ hội hoa dã quỳ 2022: Dải lụa vàng óng ả phủ khắp núi lửa Chư Đăng Ya / Phù Sa .-  Chi tiết
3. Kon Ka Kinh: Vững vàng tới tương lai / Minh Phương .-  Chi tiết
4. Gò Đá - Rộc Tưng di sản văn hóa cổ xưa của nhân loại / Huỳnh Bá Tính .-  Chi tiết
5. Hoạt động bảo tồn, phát huy giá trị văn hóa dân tộc thiểu số giai đoạn 2011-2020 / Hoàng Thùy Dương .-  Chi tiết
Tài liệu của Thư viện
1. Sách lẻ: 77956 
2. Bài trích: 16749 
3. Sách tập: 9325 
4. Sách bộ: 2297 
5. Ấn phẩm định kỳ: 1176 
6. Đĩa CD-ROM: 832 
SÁCH HUYỆN
Tặng sách cho Việt Kiều ở Lào & CPC
Cơ quan chủ quản: SỞ VĂN HÓA, THỂ THAO VÀ DU LỊCH GIA LAI
Bản quyền: THƯ VIỆN TỈNH GIA LAI
30 - Phạm Văn Đồng - TP. Pleiku - Tỉnh Gia Lai. Điện thoại: (059).6250708.
 Website: http://www.thuvientinhgialai.vn ; E-mail:  thuvientinh_gli@vnn.vn ; gialaitv@yahoo.com
Chịu trách nhiệm chính: Bà Nguyễn Thị Thủy - Giám đốc Thư viện tỉnh Gia Lai

Giấy phép do Sở TT&TT Gia Lai cấp số: 05/GPTTĐT-STTTT, ngày 13 tháng 6 năm 2014.